Nghiệp Và Thấy Biết Sai Lầm

0
30

NGHIỆP VÀ THẤY BIẾT SAI LẦM
Thích Đạt Ma Phổ Giác

LỜI GIỚI THIỆU CỦA HT. THÍCH NHẬT QUANG

 Phật dạy chúng sanh trong sanh
tử
vô minh từ vô thủy kiếp đến nay, gốc từ vô minh, do vô minh nên thấy biết và
tạo nghiệp sai lầm. Biểu hiện của thấy biết sai lầm thì rất nhiều, trong đó sự
thiếu sáng suốt và lòng tự mãn là biểu hiện nổi bật nhất. Đây cũng là căn bệnh
trầm kha của đa phần những con người bảo thủ, sôi nổi, nhưng lại nhìn chưa xa,
trông chưa rộng. Từ đó, cuộc sống của họ khung lại trong cái vị kỷ nhỏ hẹp, phiêu
bồng trôi giạt theo từng bước vong thân.

 Người xưa thường hay nhắc nhở
chúng ta khi đối duyên tiếp cảnh đừng để tâm dính mắc. Trí tuệ chân thành thay!
Chỗ này, mọi sự phô diễn đều trở thành vô vị, thô thiển. Ở đây, chiêu thuật của
nhà Thiền chỉ là “tâm cảnh như như”, vào được thì sống, không vào được thì chết.
Tuy nhiên cũng phải mất mấy mươi năm tương chao mới có thể thốt ra được lời “à,
thì ra là vậy” trước muôn ngàn ngỗn ngang của cuộc tồn sinh nhiễu nhương này.

 Thầy Phổ Giác trong quá trình
đi hoang theo dòng đời, bao lần ngã xuống rồi lại đứng lên, từng bước mãnh tỉnh,
cũng chỉ để mong có một ngày thốt lên được hai chữ “thì ra”. Hy vọng những khám
phá
này của thầy, tuy không mới với các bậc thức giả đi trước, nhưng luôn là
nguồn động viên và chia sẻ với bạn lứa anh em. Tôi xin chúc mừng và ghi lại đôi
dòng.

Kính ghi
Thường Chiếu, ngày 11 tháng 6 năm 2008
HT. Thích Nhật Quang
(Trụ trì tổ đình Thiền viện Thường Chiếu, viện trưởng
Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức, trưởng ban quản trị Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Việt
Nam
)


LỜI GIỚI THIỆU CỦA TT. THÍCH NHẬT TỪ

 “Thấy biết sai lầm” là tuyển tập
các bài giảng của ĐĐ. Thích Đạt Ma Phổ Giác trong những chuyến đi sinh hoạt tại
các chùa vùng sâu, vùng xa, như một nhịp cầu chia sẻ đối với những người hữu
duyên
. Tập sách nhỏ này chỉ gồm 2 chương:

 + Chương 1: Tác giả giới thiệu
nghiệp và sự sống để chia sẻ các kinh nghiệm, nhận diện mặt mũi của các hành
vi
, từ đó dấn thân trên con đường chuyển hóa. Tu là chuyển nghiệp. Chuyển nghiệp
là quá trình nỗ lực làm cho phàm tính trong con người trở thành Thánh tính của
bậc hiền. Chiếc chìa khóa vạn năng của việc này không gì khác hơn là sự quyết
tâm
đổi đời, làm mới lại chính mình với những chất liệu của bình yên, hạnh
phúc
, thịnh vượng và phát triển. Mấu chốt của việc này nằm ở chỗ khởi phát lòng
tự tin chính mình, quyết tâm nỗ lực làm mới để chuyển hóa những thói quen làm tổn
hại
cho người vật mà sống đời an vui, hạnh phúc.

 + Chương 2: Tác giả giới thiệu một
cách bao quát về tiến trình sự thấy biết sai lầm và quá trình nhận diện về thấy
biết sai lầm như là gốc rễ của mọi trở ngại cuộc đời.

 Khi tâm thức chúng ta bị nghiệp
chi phối, con người thường có thói quen ứng xử với bản năng, làm cho khối tri
thức
trong ta bị phủ mờ. Từ đó, tình trạng biết mà cố phạm trở thành nỗi ám ảnh
lương tri.

 Triết lý nhà Phật với những
phương pháp an tâm như một nghệ thuật thiết lập chánh niệm tỉnh giác của Thiền,
niệm Phật nhất tâm của Tịnh độ, tam nghiệp tương ưng của Mật tông, trì tụng
kinh
Vô lượng bộ, sám hối cúng dường để chuyển nghiệp v.v…, có khả năng giúp
cho đương sự rủ bỏ mọi phiền muộn, khổ đau.

 Thấy biết sai lầm là đã sửa được
sai lầm một nửa, phần còn lại liên hệ đến phương pháp tu tập để chuyển hóa. Tác
giả
đã khẳng định rằng, nhờ nương vào nhân duyên lành của Phật pháp, người sai
lầm
sẽ biết cách làm chủ bản thân để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

 Tác phẩm với ý tưởng bình dị, câu
chữ mộc mạc, nhưng lại có sức truyền cảm đến người đọc, vì nó phát xuất từ những
trải nghiệm thực tế của tác giả.

 Chúng tôi trân trọng giới thiệu
và kính mời quý đọc giả hãy tự mình trải nghiệm những dòng trải nghiệm này.

Trân trọng kính ghi
Tỳ Kheo Thích Nhật Từ

ĐÔI LỜI TÂM SỰ

 Dòng đời nghiệt ngã luôn cuốn
trôi và nhấn chìm tất cả, dù đó là nhân nghĩa của một con người. Trong cuộc mưu
sinh nhiều gian nan, chướng ngại đã làm ngã quỵ không biết bao con người tài
hoa
, “khôn cũng chết, dại cũng chết”, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi, và chỉ có
người biết mới tồn tại được. Tôi được phúc duyên lớn, nhờ người mẹ đã giúp tôi
làm lại cuộc đời, làm mới lại chính mình với một tình thương bao la và cao cả.

 Con người, gia đình, xã hội, muôn
loài và sự vật luôn có cùng nhịp sống tương quan mật thiết lẫn nhau, ai dù có
tài giỏi đến đâu cũng không thể tách riêng sự cộng sinh này mà bảo tồn được mạng
sống cho riêng mình.

 Đường đời nhiều nỗi chông gai
hiểm trở. Tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn ngon, mặc ấm đã làm cho nhiều người
yếu đuối, bạc nhược, lười biếng, không tin chính mình mà bị gục ngã trước những
cơn giông tố của cuộc đời.

 Chính bản thân chúng tôi là người
đã từng vấp ngã, và sau nhiều lần cố đứng lên nhưng không thể nào tự đứng một
cách vững vàng cho được, cứ chông chênh, chồng chành, nghiêng ngã mãi. Sau đó,
chúng tôi may mắn gặp được Phật pháp, đời tôi mới thật sự chuyển hóa được những
khổ đau, mê lầm chấp trước tưởng chừng như không cách nào thoát khỏi.

 Phật pháp chính là chiếc thuyền
cứu vớt những người đang còn đắm chìm trong những dòng sông tội lỗi. Cái hay của
Phật pháp là giúp chúng ta tạo nên niềm tin nơi chính mình. Từ đó, chúng ta
thể tự mình đứng lên một cách vững chắc mỗi khi vấp ngã. Người trí thì không cần
nương tựa vào ai, mà tự mình phán xét tìm ra lẽ thật cuộc đời; còn người mê lầm,
chưa đủ sáng suốt, chưa có niềm tin thì phải nương vào thầy lành, bạn tốt,
tránh xa kẻ xấu ác thì mới có thể làm lại cuộc đời, làm mới lại chính mình.

 Chúng tôi không phải là người hay
ho
tài giỏi gì, nhưng nhờ có chút phước duyên lành đã gieo tạo từ bao kiếp trước
còn sót lại, nên nay tôi mới gặp được thầy lành, bạn tốt, dù trong đời này tôi
đã từng gieo nhiều tội lỗi trong suốt thời gian dài mấy chục năm trước lúc đi
tu. Vì vậy, nhà Phật đặt nặng vấn đề gieo trồng hạt giống. Khi ta gieo trồng được
hạt giống thiện lành rồi thì dù trải qua trăm kiếp, ngàn đời, nó vẫn không bao
giờ bị mai mộtbiến hoại, quả tốt sẽ trổ khi
hội đủ nhân duyên, nẩy mầm và phát triển.

 Mỗi người chúng ta sinh ra trong đời
này đều có túc duyên khác nhau. Ai cũng có nghiệp chung, nghiệp riêng, tùy theo
khả năng tạo nghiệp của mình. Cho nên, chúng ta thấy cũng đồng là cha mẹ sinh
ra nhưng không ai giống ai, có người thông minh, có người đần độn, có người
lành mạnh, có người khuyết tật, kẻ giàu sang, người nghèo hèn v.v… Tất cả đều
nguyên nhân sâu xa của nó.

 Trong cuộc sống này, ít có người
được hoàn hảo về mọi mặt, tốt xấu, hơn thua, được mất, thường lẫn lộn với nhau,
rồi tùy theo nhận thức của mỗi người mà tạo ra lời nói, hành động để dẫn đến kết
quả trong hiện tại. “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”, bởi trí tuệ Bồ Tát thấy
được sự tai hại của việc hưởng thụ ngũ dục quá đáng dẫn đến cố chấp, dính mắc,
tạo ra oan gia trái chủ, hiềm hận, thù địch, triệt tiêu, hủy diệt lẫn nhau, làm
khổ mình, khổ người.

 Vì vậyBồ Tát biết cách ngăn ngừa từ nhân,
còn phàm phu tục tử chúng ta do vô minh che lấp không thấy được điều ấy, nên
không biết ngăn ngừa, đến khi quả xấu trổ ra thì khổ lụy, buồn đau, than trời
trách đất, đổ thừa cho số phận mình không tốt, hận đời đen bạc phủ phàng v.v… ,
rồi không tin vào nhân quả, phước báo, sẵn sàng làm điều xằng bậy, vô tình tạo
thêm nhiều tội lỗi. Đến khi tan nhà nát cửa, vợ chồng ly tán, khổ đau tột cùng,
muốn làm lại cuộc đời nhưng không có cơ hội tốt nữa.

 Bản thân chúng tôi cũng đã từng
thấy biết sai lầm như thế, chỉ biết hưởng thụ dục lạc giác quan, nên đã sẵn
sàng làm tất cả những điều xấu ác để thỏa mãn những dục vọng thấp hèn. Do quan
niệm
sai lầm “chết là hết”, không có đời sau, không có tội phước, nên một thời
tôi hành động một cách tán tận lương tâm, không chỉ đối với người ngoài, mà ngay cả với những người thân
như cha mẹ, vợ con, anh chị em ruột thịt trong gia đình.

 May thay, tôi có được một người mẹ
giàu lòng nhân ái, tuy tôi là người con bất hiếu đã từng gây khổ đau cho bà, thế
mà khi tôi gặp điều bất hạnh, khổ đau thì bà liền có mặt để an ủi, vỗ về, giúp
đỡ. Bà không khác nào Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân trong đời. Nơi nào bất hạnh
thì nơi đó có Bồ Tát Quán Thế Âm đến cứu khổ.

 Nhớ lại những năm tháng khi mới xuất gia, tu học
tại Thiền viện Thường Chiếu, mẹ tôi đã không quản ngại khó khăn, xa xôi cách trở,
tháng nào bà cũng đến thăm tôi, chủ đích của bà là động viên, nhắc nhở tôi tu
hành
, bà sợ tôi không chịu tu, không nhất quyết với cuộc hành trình quay về đất
Phật. Đầu năm Nhâm Thìn, bà đã ra đi theo quy luật già-bệnh-chết, để lại cho
tôi chút ngậm ngùi thương xót. Nhớ lại,

 Mẹ tôi khi tuổi đã già
 Vẫn còn bán cháo để nuôi gia
đình
 Nhờ mẹ tôi biết đường tu
 Nếu không có mẹ tôi giờ ra
sao?
 Cũng nhờ ân đức mẹ hiền
 Tôi vào cửa Phật tu hành đến nay.
 Chỉ vì chấp trước sai lầm
 Nên tôi phải chịu khổ đau nửa
đời
 May nhờ có được mẹ hiền
 Mà tôi nay đã khác xưa rất nhiều.

 Tôi thầm cảm ơn tất cả những gì
đang hiện hữu trên cuộc đời này, từ con người cho đến muôn loài, muôn vật đã
cho tôi cơ hội làm mới lại cuộc đời,
làm mới lại chính mình. Cho nên, chúng tôi mạnh dạn, can đảm phát nguyện tu hành cho đến khi nào thành Phật mới
thôi, để đền đáp công ơn của mẹ. Đó là những lời nguyện khó thực hiện, nhưng
tôi quyết không để nó trở thành những lời nguyện suông vô ích. Tôi nghĩ rằng, nếu
chúng ta không phát những lời nguyện chân chánh và mãnh liệt như thế thì người
tu hành cũng khó có thể thực hiện được những ước mơ, hoài bão lớn lao của mình.

 Cũng vậy, tác phẩm “Nghiệp &
Thấy Biết Sai Lầm” lần này ra đời, có chỉnh sửa và bổ sung đầy đủ, hoàn chỉnh
nhiều hơn trước, nhằm để tự răn nhắc chính mình nhiều hơn và để an ủi, sẻ chia với
những ai còn đang chìm đắm trong biển khổ sông mê, giúp họ đủ niềm tin để vươn
lên vượt qua số phận tối tăm. Cuộc đời này không có gì là cố định, ta có thể
thay đổi, làm mới lại chính mình, nếu ta có đầy đủ ý chí, nghị lựcquyết tâm, dù cho ta đã lỡ
tạo tội ác tày trời.

 Nếu ta nói, cái gì cũng cố định
trước sau như một không thể đổi thay thì chúng ta có tu cũng chẳng có kết quả gì. Nhiều người vì không hiểu rõ chỗ này, nên đành
chấp nhận cuộc đời như “bèo dạt mây trôi”, hay cho rằng có một đấng quyền năng
ban phước, giáng hoạ, nên chấp nhận một cuộc đời đen tối, thân phận hẳm hiu với
vô vàn mặc cảm tội lỗi trong quá khứ.

 Người xưa cũng có quan niệm cho
rằng, con người sinh ra là đã có sự an bài bởi một vận mệnh, số mệnh, định mệnh,
số phận… Tất cả đều cùng một ý nghĩadiễn tả sự định sẵn từ trước cho đời sống
của mỗi con người, không thể nào thay đổi được. Cái quan niệm đó không sai đối
với những người thiếu trí tuệ, chấp nhận lệ thuộc vào các đấng quyền năng như
thượng đế, thần linh…, cam chịu thân phận hẳm hiu, đau khổ mà không chịu phấn đấu,
cố gắng vươn lên để làm lại cuộc đời. Bởi họ nghĩ rằng, số trời đã định
không
thể nào thay đổi được.

 Trên thực tế có đúng như vậy
không? Tại sao có người được sanh ra trong một gia đình giàu có, đầy đủ tiện
nghi
, được ăn học đàng hoàng, đến nơi, đến chốn, có địa vị cao trong xã hội. Rồi
họ cứ nghĩ rằng, số tôi đã như vậy, nên họ mặc tình gây tạo tội lỗi, không biết
nhân quả là gì. Đến khi phước hết họa đến, may mắn không còn nữa, “họa vô đơn
chí” nên vướng vào vòng tù tội; lúc đó, dù có ăn năn, hối hận cũng chẳng cứu kịp,
mọi thứ đã có từ trước đến nay cũng từ từ đội nón ra đi. Nếu ta không biết tu
thì đau khổ càng thêm chất chồng, tăng thêm oán giận, thù hằn không có ngày thôi dứt.

 Vậy làm người trong trời đất, nếu
ai cũng tin theo số mệnh đã định sẵn, tất dễ sinh tâm ỷ lại, chẳng cần phấn đấu
vươn lên làm mới lại chính mình, dẫn đến việc người nghèo thì ngày càng nghèo
thêm, người giàu ngồi không hưởng thụ không biết làm lành, lánh dữ, mặc tình
gieo tạo tội lỗi, sanh tâm tiêu cực, không làm lợi ích hay giúp đỡ sẻ chia cho
một ai, mà còn tìm cách bòn rút, gạt gẫm, bóc lột của thiên hạ.

 Trong cuộc hành trình trở về đất
Phật, không phải ai cũng có khả năng để đi hết đoạn đường nhiều hầm hố, chông
gai
. Những ai không có ý chí cao, không có đủ niềm tin về nhân quả, không có lòng dũng cảm thì cũng giống như
người vượt sông “tấn thối lưỡng nan”, bước tới thì sợ nước cuốn trôi, đứng lại
thì sợ bị nước nhấn chìm.

 Phật dạy: “Không bước tới, không
đứng lại, ta sẽ vượt qua tất cả”.

 Không thể nhờ trời Phật
 Hay thần linh thượng đế
 Nếu tự mình vấp ngã
 Thì chính mình đứng lên
 Khi mê thì Phật độ
 Khi ngộ thì tự độ
 Đó là lý nhiệm mầu
 Của tất cả chư Phật.

 Đôi lời tâm sự chân thành xin
gửi đến chư huynh đệ pháp lữ gần xa, một chút trải nghiệm bản thân, mong được kết
nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống, để tất cả chúng ta luôn luôn vững bước trong
cuộc hành trình trở về đất Phật với lòng tôn kính vô biên.

Kính ghi
Phong Trần Cuồng Nhân

NGHIỆP VÀ SỰ SỐNG  

 Nói
đến nghiệp là nói đến sự sống của ta hằng ngày, được huân tập bằng thân- miệng-ý,
lâu ngày trở thành thói quen, nên nghiệp có nghiệp lành, nghiệp dữ, nghiệp tốt, nghiệp xấu hoặc định nghiệp hay bất định nghiệp, chứ không một chiều như
nhiều người chúng ta thường lầm tưởng.

 Nghiệp thiện lành là hành động tốt đẹp đem lại an vui, hạnh phúc cho tất
cả chúng sinh. Nghiệp xấu ác là hành động dữ làm cho chúng sinh đau khổ. Định
nghiệp
là hành động tốt xấu, hay lành dữ có chủ mưu bằng ý thức, có sự tính
toán cân nhắc rõ ràng tạo thành nghiệp quyết định. Bất định nghiệpthái độ
hành động tốt hay xấu, không có chủ tâm, ý thức tính toán nên thành nghiệp vô
tình
.

 Cho
nên, Phật dạy tùy theo bệnh của chúng sinh mà cho thuốc phù hợp với căn cơ trình độ của mọi người.
Chúng ta thích làm người hiền lành, Phật chỉ dạy giữ năm điều đạo đức, ai thích
làm chư thiên, Phật dạy tu thập thiện và các tầng bậc thiền định. Ai thích giác ngộ giải thoát,
Phật chỉ dạy pháp tứ đế, nhân duyên, ai thích thành Phật, Phật dạy chuyên tu
hạnh Bồ tát, tùy theo khả năng tu cao hay thấp mà giải thoát cũng có nhiều từng
bậc khác nhau. Đại lược, chúng ta có thể chia làm hai bậc là: Từng phần giải
thoát
toàn phần giải thoát.

 Từng
phần giải thoát là bậc thứ nhứt, tu mà còn trong luân hồi sinh tử, như chúng ta
mong muốn được trở lại làm người hiền lành, đạo đức, hoặc chư thiên các cõi
trời
, nhưng biết chọn lựa nghiệp lành để đi trong đường tốt, hưởng phước báo an
vui, hạnh phúc. Như có người biết chọn nghiệp thiện lành tốt đẹp, nhưng lại
cũng có người không biết chọn nên tạo lắm nghiệp xấu ác, vì vậy mà chịu nhiều
phiền muộn, khổ đau. Những loại chúng sinhngu si, mê muội nên đi trong các
đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, A Tu La đều không biết chọn nghiệp lành, nên
đi vào con đường xấu ác, chịu quả báo sa đọa, khổ đau.

 Thế
nên, chúng ta phải biết khi còn ở trong sáu đường luân hồi, sau khi bỏ thân
này, ta muốn cho đời sống của thân sau được an lạc, hạnh phúc thì ta phải biết chọn
lựa nghiệp thiện lành, tốt đẹp để làm và tránh không làm ba nghiệp ác, đó là
gốc của sự tu hành cho người cư sĩ tại gia.

 Thân không giết hại, trộm cướp, tà dâm, miệng không nói dối, nói lời
mắng chửi độc ác, nói lời đòn xóc hai đầu, nói lời mê hoặc để dụ dỗ, ý bớt tham
lam
, sân giận và si mê.

 Phật dạy cách giữ tâm trong sạch như một tấm vải nhơ bẩn, nhiễm bụi. Nếu
ta đem tấm vải ấy nhuộm lại thì vải ấy sẽ được màu nhuộm không tốt đẹp, sạch
sẽ. Ngược lại, như tấm vải mới trong sạch, đem nhuộm xanh, đỏ, vàng, trắng thì
tấm vải ấy sẽ được màu nhuộm tốt đẹp, sạch sẽ. Ai muốn được hiện tạimai sau
sinh cõi an lành phải như tấm vải sạch được nhuộm, và tâm chúng ta phải giữ
được như vậy.

 Nghiệp
nguyên nhân, là động lực thúc đẩy, dẫn chúng ta đi trong luân hồi sinh tử,
nên rất quan trọng đối với người tu chúng ta. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp nghĩa là
hành động được lặp đi lặp lại nhiều lần qua thân, miệng, ý lâu ngày trở thành
thói quen. Thói quen đó có sức mạnh chi phối và sai sử lại chúng ta, cho nên
gọi là nghiệp.

 Theo
tuệ giác của Thế Tôn, tâm ý ta giống như tấm vải sạch hoặc dơ, nên trong việc
tu tập càng quan trọng hơn là biết giữ tâm trong sạch, nhà Thiền gọi là chăn
con khỉ ý thức, kinh Pháp Cú dạy ý làm chủ các pháp, ý dẫn đầu, ý làm chủ tạo
nghiệp hoặc tốt hay xấu.

 Chính ta là thợ nhuộm làm chủ cuộc đời mình, ta muốn trong sạch hay nhơ
bẩn là do ta, ta muốn hạnh phúc hay khổ đau đều do ta chọn lựa và quyết định,
chỗ này không ai thế vào được. Ai muốn tâm mình như tấm vải trắng thì phải biết
gìn giữ ý nghĩ của mình không bị hoen ố, dính đầy phiền não tham sân si.

 Tấm
vải ban đầu vốn trong sạch, vì ta không biết nên để nó nhuốm bụi trần dơ bẩn,
nhưng ta có quyết tâm để tẩy sạch tấm vải đó không? Chính sự kiên trì, bền bỉ
chuyển hóa tâm ô uế của ta theo sự hướng thiện và tu tập, khiến tâm lâu ngày
trở nên thanh tịnhtrong sạch.

 Như
thầy cô giáo dạy học, dạy từ tháng này qua năm nọ được gọi là nghề giáo, và
những người làm cùng nghề thì gọi là bạn đồng nghiệp. Nghiệp là việc làm hằng
ngày
của chính mình, ta làm chủ tạo tác lâu ngày thành thói quen, rồi cũng
chính ta gánh chịu lấy hậu quả do nó đưa tới.

 Khi
tâm ta thanh tịnh, lặng lẽ, sáng trong giống như tấm vải sạch, ta tùy ý chọn
màu để nhuộm theo ý muốn của mình. Ta tu tập là nhằm mục đích thay đổi, chuyển
hóa
, tẩy xóa và gội rửa thân tâm phiền não, tham lam, sân giận, si mê thành
lượng
an lạc, hạnh phúctrí tuệ từ bi.

 Chúng
ta
từ thuở sơ sinh cho đến khi khôn lớn trưởng thành, đâu có ai mắc bệnh ghiền
cà phê, ghiền rượu, hay thuốc lá gì đâu, vậy mà từ khi ta biết ăn, biết học,
cho tới khi già cả, đều do ta huân tập lâu ngày trở thành thói quen, nên người
thì ghiền cờ bạc, người thì rượu chè be bét, người thì ghiền thuốc, kẻ thì
ghiền game bạo động, người thì đam mê sắc đẹp, kẻ thì ghiền xì ke ma túy

 Vậy,
nghiệp là cái chúng ta tự tạo lấy từ thân-miệng-ý, chính chúng ta làm chủ tạo
thành thói quen đó, nên khi thói quen đã thuần thục rồi thì nó sẽ quay trở lại
chi phối, dẫn dắt, sai sử chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta hay thường xuyên mỗi
chiều đi chùa, tụng kinh, sám hối lâu ngày trở thành thói quen, lỡ hôm nào tới
giờ tụng kinh mà mắc bận công việc khác không đi được, ta cảm thấy như thiếu
một cái gì, làm cho ta cảm thấy ray rứt, khó chịu trong lòng, giống như có một
sức mạnh thôi thúc bắt ta phải đi chùa tụng kinh.

 Như chúng tôi tháng nào cũng đi từ thiện để
giúp đỡ, sẻ chia cho những người bất hạnh tại trung tâm bảo trợ xã hội Chánh
Phú Hòa – tỉnh Bình Dương, thấy mọi người vui vẻ, hạnh phúc, chúng tôi cũng vui
theo, cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng. Và chúng tôi đã làm việc này trong nhiều năm
qua với chút lòng thành, bằng tất cả tấm lòng “một miếng khi đói, bằng một gói
khi no”. 

 Nhiều
chú thiếu niên thấy người lớn cầm thuốc hút, nhả khói phì phà trông có vẻ oai
phong lắm, nên bắt chước hút theo, thành thói quen rồi cuối cùng ghiền thuốc.
Lúc ta mới tập hút thì mình làm chủ, muốn hút thì hút, không thích hút thì
thôi, nhưng sau khi hút nhiều lần, lâu ngày trở thành thói quen, khi thiếu
thuốc thì thấy khó chịu, ngáp, buồn, phải đi tìm mua về hút cho bằng được.

 Nhớ tới vấn đề này những năm 76 đến thập niên
80, chúng tôi khi ghiền thuốc quá mà không có hút, đành phải nửa đêm đốt đèn đi
kiếm dế nhũi hút cho đỡ cơn ghiền. Dế nhũi là thuốc còn dư lại lúc gần hết điếu
thuốc, nó đâu còn mùi vị, có những lúc ghiền quá, chúng tôi phải uống luôn cả nước thuốc lào.

 Giờ thì có điều kiện đi tu và buông xả những
thứ đó, ngồi ngẫm lại thấy mình ngày xưa ngu si, mê muội quá chừng. Đây chỉ là
thói quen đơn giản nhất của các đấng mày râu, còn nhiều thói quen khác hao tiền
tốn của và tệ hại vô cùng, chúng tôi không tiện việc kể ra đây, tùy mọi người
có cảm nhận riêng mà biết cách để vượt qua chúng, không thì chúng ta chấp nhận
bị nó trói buộc trong vòng mờ mịt, tối tăm, để rồi suốt cuộc đời sống trong đau
khổ
, lầm mê không có ngày thôi dứt.

 Nếu
ta tập thói quen làm việc thiện lành tốt đẹp, Phật ví như người lăn trái banh
lên núi, nếu lơ là một chút thì nó lăn xuống trở lại. Còn chúng ta tập thói
quen
làm việc xấu ác thì ta dễ dàng bị nó dẫn đi làm việc bất thiện, như người
để trái banh lăn từ trên núi xuống.

 Thói quen làm việc thiện rất khó gìn giữ lâu dài, nhưng thói quen làm
xấu ác rất dễ làm, vì đó là bản chất của con người huân tập từ vô thủy kiếp đến
nay
.

 Có nhiều
người cứ mỗi chiều đi quán uống rượu, nên lâu ngày trở thành thói quen mà bị
ghiền, tới cữ phải đi uống rượu, không đi thì cảm thấy bức rức, khó chịu, ngáp
dài, ngáp dắn, như có một ma lực thôi thúc, sai khiến đi tìm bạn rượu để uống
rượu, nếu không thì lờ mờ như kẻ mất hồn.

 Người
đi chùa sám hối tụng kinh lâu ngày tập thành thói quen tốt, gọi đó là nghiệp
thiện, giúp ta ngăn ngừa tội lỗi, hiểu lời Phật dạy để tu tập, nhằm chuyển hóa
những lỗi lầm mà sống an vui, hạnh phúc. Người hay đi quán uống rượu để tập
thành thói quen, đó là nghiệp ác, nên đưa tới nghèo khổ, thiếu thốn, khó khăn,
bệnh hoạn và say sưa, cho nên không bao giờ thông minh, sáng suốt, làm việc có
ích để giúp đỡ mọi người.

 Vậy,
nghiệp phát xuất từ đâu? Từ thân-miệng-ý của chúng ta. Ý suy nghĩ, miệng nói
năng, thân hành động tốt hay xấu là tùy theo thói quen của mọi người. Ý suy
nghĩ
điều thiện lành tốt đẹp là nghiệp thiện của ý, ý suy nghĩ điều xấu xa, tội
lỗi
nghiệp ác của ý. Ta hay nói lời yêu thương, an ủi, giúp đỡ, sẻ chia là
nghiệp thiện của miệng. Ngược lại, miệng nói lời hung dữ làm khổ người là
nghiệp ác của miệng. Nếu thân biết hành động lợi ích giúp người, cứu vật, đó là
nghiệp thiện của thân. Ngược lại, thân làm điều ác thì tổn hại, ảnh hưởng cho
người và vật, đó là nghiệp ác của thân.

 Như
vậy, chính ta là chủ nhân ông của bao điều họa phúc. Nếu ta muốn đời sau được
tái sinh chỗ tốt đẹp để sống đời an vui, hạnh phúc, thì ta phải biết gieo trồng
phước đức, biết tạo nghiệp thiện lành thuần thục. Ngược lại, nếu ta gieo tạo
nghiệp ác, làm tổn hại người vật thì sẽ bị luân hồi đến chỗ xấu, đọa ba đường
dữ
: địa ngục, quỷ đói, súc sinh, thọ thân thể xấu xí, chịu nhiều bất hạnh, đau
khổ
.

 Do đó, ta phải biết khôn ngoan, sáng suốt chọn
lựa nghiệp thiện lành, tốt đẹp để làm lợi ích cho chính mình, gia đình, người
thân và phục vụ tốt cho xã hội. Bổn phận và trách nhiệm làm con đối với cha mẹ
phải biết thương yêu, kính trọng, hiếu thảo, chăm sóc, lo lắng chu đáo việc ăn,
uống, ngủ, nghỉ đàng hoàng. Mỗi khi cha mẹ có bệnh, ta phải lo thuốc thang đầy
đủ, đừng để cha mẹ cô đơn, buồn tủi lúc tuổi già là mang tội bất hiếu. 

 Nếu
chúng ta cho rằng, đi chùa để sám hối tụng kinh, niệm Phật, ngồi Thiền mới là
tu, nếu ta chỉ tu như vậy là quá ít, vì một tháng ta chỉ đến chùa một hai ngày,
còn hai mấy ngày kia ta thả trôi theo dòng đời hay sao? Ta phải biết áp dụng tu
trong mọi hoàn cảnh, tu ở nhà hay nơi ta làm việc và bất cứ nơi đâu, tu như vậy
mới lần hồi dứt sạch phiền não.

 Ngày xưa, có một ông quan nổi tiếngliêm
chính
, trong sạch, nghe đồn Thiền Sư Ô Sào là một vị cao tăng đắc đạo nên mới
tìm đến thưa hỏi đạo lý. Khi tới nơi, ông ta thấy chỗ tu của Thiền Sư Ô Sào ở
tuốt trên cháng ba của một cây cổ thụ. Chỗ ngài ở giống như ổ quạ, nên người
đời thường gọi Ngài là Thiền Sư Ô Sào, tức Thiền sư ổ quạ. Thấy chỗ ở của Thiền
nguy hiểm quá, ông ta mới la lên. Khi nghe vậy, Thiền sư bảo, “chính chỗ ở của quan mới thật là nguy hiểm”.

 Thiền sư tuy ngồi trên cây cao thấy dường như nguy hiểm, nhưng ngài đang
chuyển hóa từng tâm niệm tham, sân, si của mình trở thành vô lượng trí tuệ, từ
bi
, nên cuộc sống lúc nào cũng an ổn, nhẹ nhàng.

 Còn làm quan đứng trước bàn dân thiên hạ, trên phải phục tùng đức vua,
dưới thì phải có trách nhiệm lo cho dân chúng, nếu sơ sẫy một chút thì bị vua
truất phế, nếu không giúp ích gì được cho mọi người thì bị dân tình trách móc,
than oán, kêu ca. Làm quan thì bị trên đe, dưới búa, nên khó lòng làm tốt đẹp
cả hai bên, được lòng vua thì mất lòng dân chứ hiếm khi nào được cả hai, vì
lòng tham lam của con người như giếng sâu không đáy. Cho nên, Thiền sư mới nói
chỗ của quan đang làm việc mới thật là nguy hiểm. Nghe xong, Bạch Cư Dị chợt
tỉnh
, nên đê đầu tạ lễ sám hối, rồi ông đứng dưới đất nhìn lên hỏi:

 “Kính bạch Hòa thượng, nghe danh Ngài đã
lâu
, hôm nay mới được gặp mặt, xin Hòa thượng từ bi thương xót chỉ dạy cho tôi
phương pháp tu hành ngắn gọn, dễ hiểu để tôi có thể y theo đó mà hành trì.

 Thiền
Ô Sào ở trên nói xuống:

 “Không
làm các việc ác

 Hay làm các việc lành

 Giữ tâm ý trong sạch

 Đó là lời Phật dạy”.

 Bạch
Cư Dị
nghe qua, liền cười và nói:

 “Hòa Thượng dạy tôi bài kệ ấy để làm gì, vì
con nít tám tuổi cũng thuộc”.

 Thiền
Ô Sào nói:

 “Phải,
ông nói không sai, con nít tám tuổi cũng thuộc, nhưng mà ông già tám mươi tuổi
làm suốt đời cũng chưa xong”.

 Chúng
ta
tu là cốt để chuyển ba nghiệp ác của thân, miệng, ý trở thành ba nghiệp
thiện lành, tốt đẹp.

 Bài kệ trên ai vừa nghe qua tưởng là dễ nhớ và
rất dễ thực hành, nhưng trên thực tế, khi đi vào kinh nghiệm tu hành thì không
đơn giản và dễ dàng như vậy, vì chúng ta tình thức mênh mang, chủng tử tập khí
sâu dày.

 Từ
vô thủy kiếp, chúng ta đã huân tập không biết bao nhiêu là thói quen tốt xấu
lẫn lộn, vừa bỏ được thói xấu này để phát huy điều tốt nọ, thì lại có dư tập
khí
xấu khác đang ngủ ngầm trong ta, và vì thế ta cứ sai lầm mãi có khi đi suốt
cuộc đời cũng chưa xong, tâm ta vẫn còn lăng xăng, lộn xộn, bất an hoài, hết
theo cái này lại bám cái kia, nào là tiền tài, sắc đẹp, lợi danh, nhà cao cửa
rộng, ăn sung mặc ấm, ngủ nhiều, nghĩ chuyện này chưa hết lại đến chuyện kia,
cứ thế mà không có phút giây nào dứt suy tính nghĩ bàn.

 Cho
nên, người biết tu là luôn khôn ngoan, sáng suốt, quay nhìn lại chính mình, dù
bất cứ trong hoàn cảnh nào, rỗi rảnh hay bận rộn, giàu sang hay nghèo hèn, nếu
ta biết cách vẫn cũng có thể tu được. Trước tiên, ta phải quyết chí dừng nghiệp
xấu ác, rồi ta tùy theo hoàn cảnh mà ra công giúp đỡ người nghèo khổ, người
không có tiền thì giúp bằng tấm lòng, an ủi sẻ chia, kẻ giàu có thì giúp người
bằng tiền của, vật chất. Tu chính là nền tảng vững chắc để ta xây dựng cuộc đời
hiện tại được vui tươi, đẹp đẽ hơn, và tạo cơ hội cho đời sau càng được vuông
tròn, tốt đẹp, hoàn chỉnh về mọi mặt.

 Muốn
vậy, ta phải biết tu từ tâm ý của mình và trọn đời cố gắng tránh tất cả các điều
ác, hay làm tất cả các việc lành. Đạo Phật được coi là đạo cứu khổ ban vui, là
chỉ cho mọi người con đường hướng thiện để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành
an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

 Điều quan trọng hơn hết là khi ta hiểu được
Phật pháp, biết rõ con đường đưa tới an lạc dài lâu thì ta phải cố gắng bền bỉ
duy trì, thực hiện cho đến khi nào được mới thôi. Còn nếu chúng ta biết rõ con
đường
thiện lành đưa tới an lạc, hạnh phúc mà ta chẳng chịu tu, cứ một bề cầu
khẩn
, van xin thì biết đến khi nào mới hết phiền não, khổ đau.

 Người khôn ngoan, sáng suốt sẽ chọn cho mình con đường lành để sống đời
an vui, hạnh phúc trong hiện tạimai sau. Đó là then chốt của việc tu hành
ngay từ ý nghĩ của mình, rồi phát ra lời nói và dẫn đến hành động mà chúng ta
cần phải biết rõ ràng để tu hành cho được lợi lạc ngay trong giờ phút hiện tại.
Khi thấy ai nghèo khó ta biết khởi nghĩ lòng thương kính, quý trọng bậc hiền đức, tìm
cách
giúp đỡ người khốn khổ, bất hạnh qua cơn thiếu thốn, khó khăn.

 Về
ý nghiệp có phần vi tế hơn, với người khéo tu sẽ nhìn thấy rõ ràng từng vọng
niệm
của mình, nó như thế nào ta biết rõ như thế đó, thì vọng niệm tự tan, đây là
cách tu của người đã nhận ra chân tâm trong sạchsáng suốt. Như khi đang
ngồi chơi hay đi, hoặc làm việc, khởi nghĩ buồn, ghét, giận người, biết đó là ý
xấu, làm tổn hại tâm ta nên liền dừng lại, không cho nó chạy theo.

 Đó là ta biết chuyển nghiệp ý ác thành nghiệp
ý thiện, giúp người, cứu vật. Khi đi đường, gặp người già yếu đi đứng khó khăn,
ta đến an ủi, động viên, chia sẻ, nhường lối đi, nhường chỗ ngồi, đưa qua
đưòng, bưng xách nặng dùm người. Đó là ta biết tu thân, miệng thiện, tu trong
công ăn việc làm, tu ngoài đường, tu ngoài chợ và tu trong mọi hoàn cảnh.

 Còn
nghiệp lành cũng vậy, giả sử chúng ta đi đường gặp người bệnh tật đang nằm rên
rỉ bên đường, chúng ta khởi lòng thương đem họ vô lề đường rồi kêu xe chở tới
bệnh viện để chữa trị. Tuy nhiên, Phật dạy nghiệp là cái không thật, vì nó
không cố định có thể thay đổi được.

 Như vậy, ý nghĩ tuy không hình dáng, tướng mạo cụ thể. Nhưng khi
theo nó thì ta tạo nghiệp lành, thân-miệng-ý nói, làm lợi ích cho người. Cái
gốc tạo nghiệp ác hay nghiệp lành bản chất của nó tuy không có thật, nhưng khi
ta theo nó thì sẽ tạo thành nghiệp lành hay nghiệp dữ. Nhưng khi tạo nghiệp thì
mắt thấy, tai nghe, thân cảm thọ, chủng tử nghiệp đã chứa vào tàng thức rồi,
khi hội đủ nhân duyên thì sẽ cho ra kết quả.

 Qua
câu chuyện trên, ta biết ông quan này là một nhà thơ, nên có học lóm đôi chút Thiền
ngữ. Ông ta cứ ngỡ rằng Thiền sư là phải dùng ngôn ngữ sống để khai thị, nào
ngờ chỉ là bài kệ thông thường, nên ông ta khinh khỉnh nói rằng, “hòa thượng dạy con bài kệ con nít tám tuổi
cũng thuộc”.

 Ông
quan này mới học hiểu đôi chút liền tự hào hãnh diện, cho rằng Thiền sư thứ thiệt
thì phải nói Thiền ngữ để chỉ dạy. Thiền sư biết ông quan này tình thức mênh
mông
, chủng tử tập khí sâu dày, nên chỉ cho ông bài kệ tóm lược lời Phật dạy, “không làm việc ác, lại làm việc lành, giữ
tâm ý trong sạch
”, thì ngay nơi đó là Niết Bàn, vô sanh.

 Nhưng muốn làm được như bài kệ trên thì cả một
đời
người cũng chưa chắc đã
xong. Như chúng tôi là người đã từng tu học ở trong Thiền viện nhiều năm, không
phải bận bịu, lo lắng việc đời mà việc tu còn trầy da, tróc vẩy, huống gì người
thế gian bận bịu, với bộn bề công việc. Còn ông quan này, trên bị đe dưới bị búa,
làm sai một chút liền bị vua truất phế, được lòng dân mà trúng ông vua mê muội
thì cũng tiêu đời nhà ma luôn.

 Thiền ngữ thường dùng để đối chất các vị đã có quá trình công phu miên
mật, đang kề cận bên bờ giải thoát, nên Thiền sư dùng để phá chấp và kiểm
nghiệm sự tu hành của người kia coi có phải là thứ thiệt hay không? Nếu là thứ
thiệt thì gươm bén kề cổ cũng chẳng sao, vì thân này đã không thật huống hồ là
cái đầu, đó là lời của tổ Sư tử nói khi bị vua hành quyết.

 Còn
chúng ta là những phàm phu tục tử còn bận rộn chuyện gia đình, xã hội nên phải
thứ lớp tu hành. Trước tiên, ta phải làm được một người bình thường, kế đến là
người hiền, rồi đến người Thánh, và sau đó mới khởi tâm nguyện hành Bồ
tát đạo
cho đến khi thành Phật viên mãn mới thôi. Trong chúng ta hiện giờ có ai
không còn khởi nghĩ, nói năng và hành động hết việc ác chưa? Nội cáí ý nghĩ ác
chúng ta còn chưa buông xả hết, thì thử hỏi làm sao làm việc lành trọn
vẹn
cho được. Chúng ta hãy nên chính chắn suy nghĩ cho kỹ, tùy theo khả năng,
hoàn cảnhcố gắng ứng dụng tu hành cho được lợi lạc trong hiện tạimai
sau
.

 Tóm
lại
, những gì có hại người trong
hiện tạimai sau là việc ác như sát sinh, hại vật, gian tham, trộm cướp,
lường gạt bằng nhiều hình thức, dan díu ngoại tình, phá hoại hạnh phúc gia đình
người và làm ảnh hưởng gia đình mình, nói dối hại người, uống rượu say sưa, dùng
các chất độc hại đưa vào cơ thể như xì ke, ma túy…

 Ngược lại, không giết hại mà còn hay giúp người. cứu vật, phóng sinh, biết
bố thí cúng dường cha mẹ, người tu hành chân chính, lại hay giúp đỡ, san sẻ với
người bần cùng, cô độc, nâng đỡ kẻ bất hạnh, sống thủy chung một vợ một chồng
và luôn nói lời chân thật, luôn nghiên cứu học hỏi, thương yêu bình đẳng với
tất cả mọi người bằng trái tim hiểu biết với tấm lòng vô ngã, vị tha.

NGHIỆP CHUNG VÀ RIÊNG

 Nghiệp là thói quen được lặp đi, lặp lại nhiều lần tạo thành sức
mạnh
chi phối tất cả mọi sinh hoạt trong đời sống con người từ khi mở mắt chào
đời
, cho đến khi ra đi vào những đời kế tiếp. Nếu chúng ta tu mà không hiểu rõ
về nghiệp thì khó mà ứng dụng tu hành đúng cách để đạt tới chỗ giác ngộ, giải
thoát
hoàn toàn.

 Chữ nghiệp trong nhà Phật không có nghĩa là
một chiều ác không, mà là lẫn lộn tốt và xấu. Kỳ thật, nghiệp cũng có lành, dữ,
tốt xấu, hay nghiệp chung và nghiệp riêng. Nghiệp riêng thì gọi là biệt nghiệp
nghiệp chung thì gọi là đồng nghiệp.

 Một
chú tiểu rất thích tụng kinhsám hối mỗi ngày. Sáng hôm đó, sau khi tụng
kinh
xong, vì quá buồn ngủ nên chú không đem cất quyển kinh mà bỏ ngay dưới nền.

 Chú
chuột cống cha chạy qua, thấy quyển kinh liền thích thú nói, “sung sướng quá, vậy
là có đồ lót chỗ cho má bầy trẻ rồi”, miệng nói, chân liền tha quyển kinh vào
nhà kho của ông bà chủ. Mẹ bầy chuột liền hí ha, hí hửng chuẩn bị lót chỗ cho
mấy sếp nhỏ nhà mình, bỗng dưng nghe tiếng kêu “meo, meo” của chú mèo hàng xóm, đàn chuột sợ quá đành bỏ chạy mất
tiêu mà bỏ lại quyển kinh.

 Mèo
ta thấy quyển kinh khoái quá liền leo lên khoanh tròn, đánh một giấc say sưa
ngon lành. Sau khi ngủ xong, mèo vươn vai ra chiều sảng khoái, rồi nói, “không ngờ có chiếc chiếu này êm quá”.
Nói xong, mèo ta cười ha hả ra chiều thoải mái lắm, và nó tiếp tục chuẩn bị đi
kiếm thức ăn bữa sáng.

 Con
chó lu lu đang ở ngoài sân, nghe tiếng chít chít của đàn chuột liền chạy vào
trong nhà, thấy quyển kinh đang nằm sờ sờ, chó ta liền nghĩ thầm, “mình đem cái này cho chó phóc nhà ta chơi
trò cút bắt thì vui biết mấy”.

 Chó
nhà ta chơi xong, chúng chán nên bỏ luôn quyển kinh nằm lăn lóc giữa đường, cu
Tí đi học về thấy thế mừng quá reo lên “a,
mình có giấy làm diều bay và xếp ghe chơi rồi”.
Thế là quyển kinh được dán
thành diều bay lượn trên trời cao, và những chiếc ghe cũng được ra đời, trôi
bồng bềnh trong ao nước.

 Tới
đây, quyển kinh đã được chia năm, xẻ bảy, phần còn lại chúng được lũ mối xé nhỏ
ra, tha về ổ để làm thức ăn.

 Câu
chuyện
ngụ ngôn trên đã cho ta một bài học lý thú của cuộc đời để nói lên việc
chúng sinh ai cũng có nghiệp riêng của mình, nên cái thấy của mỗi người không
ai giống ai. Chỉ có một quyển sách thôi mà chú tiểu gọi là kinh tụng hằng ngày,
lũ chuột cho đó là đồ lót chỗ ngủ, chú mèo thì khoái chí vì có chiếc chiếu để
nằm, các chú chó dùng làm món đồ chơi cút bắt, cu Tí làm diều bay, ghe chạy, và
lũ mối cho đó là thức ăn.

 Như trong kinh Phật dạy, con người lấy nước để
dùng xài các nhu cầu cần thiếtphục vụ trong đời sống hằng ngày. Nhưng ngược
lại, loài quỷ đói thì thấy nước là máu, người trời thì thấy nước là ánh hào quang
lấp lánh. Cũng đồng thời cái thấy, nhưng
do nghiệp riêng của mọi chúng sinh khác nhau, nên có sự thấy biết không giống
mà sinh ra cãi vã, tranh chấp, bất đồng quan điểm

 Cũng vậy, ai trong chúng ta khi sinh ra đời,
mỗi người đều mang theo nghiệp riêng của mình mà cùng sống chung với nhiều
người khác. Cho nên, ta cứ một bề chấp giữ và làm theo nghiệp riêng của mình mà
không thừa nhận nghiệp riêng của người khác, do đó mới có sự cãi vả, tranh chấp,
dẫn đến chửi mắng, đánh đập, rồi giết hại lẫn nhau.

 Thời Phật còn tại thế, có một vị trưởng lão do siêng năng tinh cần nên
tu chứng quả giác ngộ, tự tại giải thoát. Ngược lại, suốt cả cuộc đời, từ khi
còn bé cho đến khi đi tu, thầy chưa được một ngày nào sống no đủ vì nghiệp xấu
quá khứ chiêu cảm.

 Tại
một làng nọ sống ven biển bỗng dưng gặp tai biến, đa số đều nhờ vào việc đánh
cá để nuôi sống gia đình, người thân. Không biết nguyên nhân vì sao, tự nhiên
gần cả tháng việc đánh bắt không có kết quả làm cả làng thiếu trước, hụt sau.

 Các
vị trưởng lão đã nhiều năm trong nghề mới cùng nhau họp lại, tìm lý do vì sao
có chuyện lạ thường như vậy từ trước đến nay. Làng chỉ có khoảng trăm hộ gia
đình
nên được chia ra làm hai toán rõ ràng. Trớ trêu thay, một bên đánh bắt
thật nhiều cá, còn một bên thì không, chỉ bắt được le ngoe vài ba con.

 Bằng kinh nghiệm nghề nghiệp lâu năm, cuối
cùng
, các bô lão cũng phát giác ra nguyên nhân chính do có một thiếu phụ đang
mang thai là điềm xấu cho chung cả làng. Bà ta ở đâu thì nơi đó thiếu thốn, khó
khăn, đói kém. Không gì khác hơn, dân làng họp lại đề xuất đuổi thiếu phụ ấy ra
khỏi làng, nhờ vậy dân chúng sống ấm cúng, no đủ hơn trở lại.

 Thiếu phụ ấy ra đi, ngậm ngùi, cay đắng mang trong mình cái bào thai oan
nghiệt, đi ăn xin vất vả, khổ sở vô cùng mà chưa có ngày nào đủ ăn, nên thân
thể
tiều tụy, ốm o, gầy mòn. Rồi đến ngày khai hoa nở nhị, một chú bé ra đời,
còm cỏi còm côi, càng làm cho sự thiếu thốn, đói khát nhiều hơn nữa. Cứ như thế
từ ngày này qua tháng nọ, chú bé bây giờ đã tròm trèm ba bốn tuổi.

 Một
hôm, hai mẹ con đi vào một gia đình rất giàu có để xin ăn. Người mẹ nghĩ rằng, “mình
phải trốn đi, hy vọng nhà này giữ con mình lại để nuôi, chắc có lẽ con mình sau
này sẽ được giàu có và mình sẽ được nhờ”. Bà ta chuồn mất, bỏ lại chú bé một
mình
lạc loài, bơ vơ. Tưởng được gia đình nhà giàu này nuôi, nào ngờ chú bé bị
hất hủi, đuổi đi.

 Chú bé bây giờ đời sống càng khốn khổ hơn, đi xin thì không ai cho, nên
lại phải lụm thức ăn thừa nơi các đống rác mà sống qua ngày. Cậu ta ốm yếu, đen
thui như khúc gỗ cháy gần hết, ráng lây lất sống qua ngày tháng. Lúc này, chú
bé khoảng chín mười tuổi, nhưng vì thiếu dinh dưỡng nên chừng trên mười ký lô.

 
Lợi Phất
trên đường đi du hóa, thấy chú bé nằm bên vệ đường, thương tình Thầy đến
thăm hỏi mới biết được nguyên nhân, động lòng từ bi thương xót, ngài giảng nhân
quả
nghiệp báo cho chú bé nghe, và dùng thần lực cho cậu ta biết được quá khứ,
dĩ dãng của mình. Từ đó, cậu bé phát tín tâm xin xuất gia tu học.

 Chú
bé còm cỏi ngày nào bây giờ đã khôn lớn, là một vị tỳ kheo trưởng thành và rất
chững chạc, lúc nào cũng siêng năng tinh tấn tu hành nên cuối cùng chứng quả A La
Hán
; nhưng suốt cuộc đời tu hành, thầy chưa có được một ngày nào no đủ.

 
phụ
Xá Lợi Phất biết chú đệ tử của mình sắp mãn duyên, nên thương tình khất
thực
một bát cơm đầy để chú ta được dùng bữa cuối; nhưng lạ đời thay, cơm ăn
vừa xong đều ói ra hết và sau đó an nhiên, tự tại ra đi.

 Câu
chuyện
trên là một bài pháp sống, đáng để cho ta học hỏi. Vì sao có những
chuyện lạ đời không thể nào tin nhưng lại có thật, vì nhân quả rất công bằng
bình đẳng. Ta gieo gì thì ta gặt đó, ta làm tốt thì được hưởng phước, ta làm ác thì chịu quả xấu.
Người Phật tử chân chính phải biết khôn ngoan, sáng suốt chọn lựa nghiệp lành để sống đời an
vui, hạnh phúc.

 Nói
về nghiệp chung, khi trưởng lão còn nằm trong bụng mẹ đã làm ảnh hưởng cả làng
phải chịu thiếu thốn, đói khát gần một tháng. Khi lớn lên, được xuất gia tu học, tuy cùng khất thực chung
nhưng bát quý thầy lúc nào cũng được đầy đủ, riêng thầy không bao giờ được như
vậy và lúc nào cũng thiếu thốn. Thậm chí đến bữa cơm cuối cùng, ăn vừa khỏi
miệng lại bị ói ra hết. Chúng ta thấy, nhân quả rất công bằngsòng phẳng,
làm lành thì được hưởng phước, làm ác chịu quả khổ đau. 

 Các
vị tỳ kheo mới thắc mắc hỏi Phật vì sao lại có chuyện xảy ra như vậy. Phật bảo,
trong một kiếp qúa khứ, vị tỳ kheo này do tâm ganh tị, tật đố với một bạn đồng
tu
, nên tuyên truyền nói xấu bạn mình khi thấy người khác cúng dường và còn xúi
bảo nhiều người phê phán, chỉ trích, không cúng dường. Do nhân nói xấu như thế
nên hiện đời từ khi còn nhỏ cho đến khi xuất gia tu hành, thầy chưa có một ngày
nào được ăn uống no đủ.

 Cả làng
đánh cá đó, do đồng tình ủng
hộ
theo thầy mà bị quả báo thiếu thốn gần cả tháng trời. Đó là nghiệp chung của
làng đánh cá bị quả báo, còn nghiệp riêng của thầy do siêng năng tinh tấn tu
hành
nên đã chứng quả. Chúng ta thấy rất rõ ràng nhân quả rất công bằng, phỉ
báng
, ngăn cản người cúng dường và xúi người làm theo nên bị quả báo thiếu thốn,
đói khát. Bù lại, do siêng năng tinh tấn tu hành như cứu lửa cháy đầu nên chứng
quả
giác ngộ, giải thoát.

 Như
trong một gia đình, ông chồng thì huân tập cái nghiệp của người nam, biết gánh
vác
bao hàm các công việc, bà vợ thì huân tập cái nghiệp của người nữ nên liễu
yếu đào tơ, làm việc nội trợ trong nhà và nuôi dạy con cái. Hai cái nghiệp nam
nữ
tuy có vài điểm tương đồng, nhưng cũng có rất nhiều điểm khác biệt nhau.

 Vì
ai cũng cho rằng cái lý của mình là đúng, đàn ông thì quan niệm chồng chúa vợ
tôi theo thói gia trưởng, bắt buộc vợ phải nghe theo mình, nếu làm sai ý thì
mắng nhiếc, đánh đập. Do đó, có nhiều gia đình vợ chồng gây cãi, đánh đập nhau
hoài cũng vì chấp lý của mình là đúng, vợ ỷ mình phái đẹp nên được nước làm
tới, ai cũng cho cái lý của mình là đúng mà không biết nhường nhịn nhau để
sống.

 Cái
đúng của người chồng là do thói quen huân tập cái nghiệp của người nam, nghĩ
rằng mình được ăn trên ngồi trước và có quyền thê thiếp đầy nhà. Cái đúng của
người vợ là theo thói quen huân tập cái nghiệp của người nữ. Cho nên, chúng ta
phải biết thông cảmtha thứ, thương yêu, nhường nhịn nhau để đem lại sự
thuận thảo, vui vẻ trong gia đình.

 Khi chúng ta biết mỗi người có nghiệp riêng
thì càng cảm thông, tha thứ cho nhau nhiều hơn, mỗi người chịu nhịn một chút để
cuộc sống được vui vẻ, hài hòa. Ta có thể hòa hợp cùng nhau làm việc, nhưng
không thể đồng được, chính vì sự hiểu biết, nhận thức của mỗi người khác nhau.

 Xưa
có một gia đình, người vợ thì sống tương đối tốt, biết lo tròn bổn phận, trách
nhiệm
đối với cha mẹ hai bên, biết lo làm ăn, nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái đúng
mức; ngược lại, người chồng thì bê tha, rượu chè, cờ bạc, chẳng chịu lo làm ăn
mà tối ngày cà rê dê ngỗng.

 Mỗi
lần ông thua cờ bạc về là tìm cách khảo tiền bà vợ, nếu bà ta không có tiền để
ứng cho thì ông chồng chửi mắng, đánh đập thậm tệ như người hầu kẻ ở. Bà con
láng giềng thân thuộc ai thấy cũng đau lòng xót ruột, thắc mắc tại sao bà không
ly dị phức đi cho rồi mà cứ để ông hành hạ khổ sở như vậy? Nhưng khi hỏi bà thì
bà nói không thể ly dị được, vì bỏ ông thì ai nuôi ông bây giờ.

 Lại
nhiều gia đình có những đứa con ngỗ nghịch, bất hiếu, ăn không ngồi rồi, phá hoại
gia sản gần như kiệt quệ. Vậy mà gia đình vẫn thương, không thể từ bỏ được, vì
cha mẹ có cái nghiệp riêng với con. Cũng đồng là con, nhưng có đứa thương ít,
đứa thương nhiều là có lý do, đứa nào cha mẹ mắt nợ nhiều thì thương nhiều.
Chúng ta thấy rõ ràng cái nghiệp riêng của mỗi người không ai giống ai, nên có
người hạnh phúc, kẻ khổ đau, mình là kẻ ngoài cuộc không có nghiệp đó thì không
thể nào chấp nhận được.

 Khi
chúng ta đã có nghiệp nợ nần với nhau rồi, dù bị chửi mắng, đánh đập vô cớ, đối
xử tàn tệ nhưng ta vẫn chấp nhận chung sống, không thể rời xa nhau được. Cũng
vậy, ai cũng có nghiệp riêng của mình thì chúng ta dễ dàng thông cảmtha thứ
cho nhau, nên sống có thái độ hết sức hài hòa để cùng nhau chan hòa tình thương
yêu bằng tình người trong cuộc sống.

 Do
đó, Phật dạy trong tất cả mọi sinh hoạt đều phải biết tu mới có thể chuyển được
ba nghiệp xấu ác thành ba nghiệp thiện lành, tốt đẹp. Ba nghiệp đã thuần thục
rồi, ngay nơi cuộc sống trong hiện tại, bản thân mình không phiền muộn, khổ đau,
lúc nào cũng nhẹ nhàng, vui vẻ, an lạc, hạnh phúc.

 Trong
gia đình, mọi người biết kính trên nhường dưới, không thắc mắc, rày rà và sống
đầm ấm, vui vẻ, thuận thảo trên tinh thần thương yêu chân thành, biết cảm thông
tha thứ cho nhau. Ngoài xã hội, mọi người gặp nhau tay bắt mặt mừng mà sống
bình an, hạnh phúc, cùng an ủi, san sẻ, nâng đỡ cho nhau.

 Tu
như thế mới thật là có lợi lạc cho mình và người. Chúng ta đừng vì muốn được đi
chùa
để tu cho riêng mình mà phế bỏ hết cả việc nhà, làm cho người thân, gia
đình
thắc mắc, phàn nàn, hết gây cãi với người này lại mắng chửi với con cái,
làm cho gia đình bất an, xào xáo, mất tín tâm đối với Tam bảo.

 Nếu
ta đi chùa sám hối, tụng kinh, niệm Phật Bồ Tát nhiều như thế, nhưng đối với
người ngoài xã hội thì không nhịn một lời, nhường một bước, trong gia đình thì
tranh hơn, tranh thua, không biết kính trên nhượng dưới, ta đi chùa như vậy vô
tình hủy báng Phật pháp thì đâu được lợi lạc gì cho mình và người thân.

 Ở trong nhà, đối với gia đình người thân ta
cũng phải giữ thân-miệng-ý luôn trong sạch, nếu làm cha mẹ phải biết uốn nắn,
dạy dỗ con cái cho đúng mức, không nên thương đứa này nhiều, đứa kia ít. Mỗi
khi con cái có lỗi lầm gì, ta phải tận tình chỉ dạy, hướng dẫn phù hợp với đạo
làm người, đó là ta biết cách tu theo lời Phật dạy. Nếu ỷ quyền cha mẹ, khi
thấy con không làm vừa ý mình, miệng la hét, chửi rủa, tay đánh đập, đó là
người không biết tu.

 Vậy,
tất cả quả tốt hay xấu mà chúng ta đang chịu thọ nhận hiện nay, là gốc từ cái
nhân chúng ta đã gây ra thuở trước, chứ không phải bỗng dưng khi không mà có. Khi
ta đã biết rõ ràng như thế, nếu ta biết chuẩn bị bằng nghiệp lành thì sẽ được
đến cõi lành và được sống an vui, hạnh phúc; nếu ta chuẩn bị bằng nghiệp ác thì
sẽ đi vào ba đường dữ, địa ngục, quỷ đói, súc sinh, và chịu họa khổ đau không
có ngày thôi dứt.

 Đa
số
người không tin sâu nhân quả thì họ cứ nghĩ sau khi thân này chết đi, hành
động cũng không còn, nên mọi thứ đều trả về cát bụi, do vậy mà họ mặc tình gây
tạo tội lỗi, đến khi phước hết, họa đến, chịu khổ vô lượng; lúc đó, dù có than
trời, trách đất cũng uổng công vô ích.

 Phật dạy, nghiệp theo ta như bóng với hình, dù trăm kiếp nghìn đời nhưng vẫn không bao giờ
mất. Đời quá khứ, rồi kế tiếp, đời hiện tại, và mãi mãi về sau có sự liên hệ
chằng chịt với nhau mà cho ra kết quả tốt hay xấu. Vậy, ta phải biết khôn ngoan,
sáng suốt chọn nghiệp lành để sống đời an vui, hạnh phúc.

 Như
có hai người khách qua sông, một người chuyên làm nghề thầy giáo dạy học cho
trẻ em, một người chuyên làm nghề kinh doanh mua bán. Khi đi đường, người mua
bán
đem theo thật nhiều tiền bạc, của cải để làm vốn kinh doanh. Ông thầy giáo
chỉ mang theo một cặp sách vở, tài liệu dạy học và chút ít tiền. Thuyền qua
giữa sông bất thần gặp sóng to gió lớn làm chìm.

 Khi thuyền chìm như thế, mạnh ai nấy lo lội
vào bờ để thoát thân, khi lên đến bờ thì tất cả của cải, tiền bạc của nhà mua
bán
không còn, cặp giấy tờ tiền lộ phí của ông thầy giáo cũng mất. Khi bị như
thế, cả hai đều trắng tay, nhưng kiến thức giáo dục của thầy giáo không mất,
kiến thức mua bán của nhà kinh doanh cũng không mất. Kiến thức là cái chuyên
môn học được từ trường lớp và biết áp dụng vào cuộc đời, đó là sự hiểu biết sở
trường
của con người. Cho nên, nói không mất tức là thói quen không mất, hay
còn gọi là nghề nghiệp.

 Như
vậy, trong cuộc sống của chúng ta, qua những cuộc biến đổi, mất mát, tang
thương, những cái có hình tướng ngoài mình thì không còn, nên khi thân này chết,
nghiệp thức vẫn còn vì không ngoài mình nên không mất. Tiền bạc, của cải thế gian,
chúng ta có thể làm ra nhiều, nhưng khi chết đi tất cả đều phải để lại, ta
không thể đem theo được một món nào, mà chỉ có mang theo nghiệp tốt xấu mà
thôi. Đó là một sự thật mà ít ai tin hiểu.

 Như
vậy, ta thấy chính nghiệp lành hay dữ mà mình đã tạo ra trong hiện tại sẽ dẫn
mình đi thọ nhận thân sau, tùy theo phước nghiệp của mình mà sống trong cảnh
giới
khổ đau hay hạnh phúc. Kể cả những người thân thương như cha mẹ, vợ con cũng
không giúp gì được cho mình khi ta ra đi. Lại có người hỏi rằng, “ “tại sao có nhiều người làm việc xấu ác mà họ vẫn sống thoải mái, vương
giả? Có người thì rất hiền lành, chuyên làm phước thiện giúp người, cứu vật mà
lại hay gặp nhiều tai ương, hoạn nạn. Như vậy là luật nhân quả có sự thiên vị
hay sao?
Lại có nhiều người không bao
giờ làm ác, khi vừa làm ác là chịu quả báo liền, hoặc vừa làm điều thiện thì họ
thọ quả báo an vui, hạnh phúc. Như vậy là sao?

 Phật dạy, “Nếu ai tạo nghiệp thiện
lành, tốt đẹp thì được phước an lạc, thảnh thơi; ai tạo nghiệp ác bị quả báo sa
đọa, khổ đau”,
thì Phật đồng ý.

 Về
thuyết nghiệp báo Phật dạy, “Cận tử
nghiệp là nghiệp gần chết và tích luỹ nghiệp là nghiệp chứa nhóm thuần thục
trong nhiều kiếp”.
Tại sao nói “làm
ác chịu quả báo ác, làm thiện được quả báo thiện”
, thì Phật đồng ý, mà nói
tạo nghiệp ác sau khi chết bị đọa địa ngục, làm lành sau khi chết về cõi Trời
thì Phật không chịu, vì cớ sao?

 Cận
tử nghiệp
là nghiệp mới tạo tác lúc gần sắp chết, tích lũy nghiệp là nghiệp
huân tập lâu dài, hai loại có sức mạnh chi phối nhau mà quyết định đưa người
chết đến cõi an lành hay cõi xấu dữ.

 Như có người tích lũy nghiệp lành thuần thục từ xưa đến nay, nhưng bất
thần họ si mê, dại dột, bị người kích động, xúi dục làm điều ác, trong lúc làm
điều ác như thế đáng lý phải đọa địa ngục, nhưng vì tích lũy nghiệp lành của họ
còn quá nhiều nên không thể nào bị đọa địa ngục liền.

 Nhưng có người làm nhiều điều ác như sát sinh hại vật, đáng lý phải đọa
địa ngục liền, nhưng khi gần chết họ biết hướng về điều lành, tâm họ luôn nghĩ
tưởng
đến điều thiện lành, tốt đẹp, nên không bị đọa địa ngục. Cho nên, ai nói
làm ác sau khi chết nhất định đọa địa ngục, làm thiện lên thiên đàng thì chưa
chắc hẳn như vậy. Vì khi sống họ có làm ác, nhưng đến khi lúc gần chết, cận tử
nghiệp
thiện của họ quá mạnh, có thể chuyển được nghiệp xấu mà sinh về cõi an
lành
.

 Còn
có người tuy làm nhiều điều thiện ích khi còn sống, nhưng khi gần chết họ bất
giác
nóng giận, hờn mát quá đáng, nên nói năng và suy nghĩ không đúng. Lúc đó,
cận tử nghiệp ác có thể đưa họ đến các đường xấu. Cho nên, người khôn ngoan
sáng suốt không phải chỉ tu khi gần sắp chết, hoặc có người nói chỉ tu ở giai
đoạn thân còn mạnh khỏe, mà ta phải thường xuyên gìn giữ thân-miệng-ý lành của
mình như đưa đám ma mẹ vậy. Ta phải tu từ khi ta còn trẻ trung, mạnh khỏe, cho
đến
khi già bệnh, ta phải ráng gìn giữ trước sau như một về ý thiện thì mới bảo
đảm
đi con đường thiện lành.

 Khi xưa, có Ma ha Nam, con của Cam Lộ Phạm Vương, em con nhà chú bác với đức Phật. Ma ha Nam tu theo
hạnh làm người giữ năm giới, thọ bát quan trai, tu thập thiện. Một hôm mới hỏi
Phật rằng:

 “Kính bạch đức Thế Tôn, bình thường con tu
giữ năm giới, thọ bát quan trai, tu thập thiện, giả sử con chết bất đắc kỳ tử
bởi một tai nạn bất ngờ xảy ra, sau khi chết con sẽ đi về đâu?”

 Phật
không trả lời mà đưa ra một ví dụ:

 “Có một cây, thân và cành cây nghiêng về một
bên. Vậy khi cưa, thân cây sẽ ngã về bên nào?”

 Ma ha Nam đáp:

 “Thì dĩ nhiên là cây sẽ ngã về phía mà nó
đang nghiêng”.

 Phật dạy tiếp:

 “Cũng vậy, bình thường ông hay làm điều
thiện lành, khi chết bất đắc kỳ tử, tuy có bị khủng hoảng đôi chút, nhưng nhờ
nghiệp thiện tích lũy quá nhiều sẽ hướng ông đến chỗ an lành, không có gì mà
ông phải lo sợ”.

 Vậy,
chủ yếu của việc tu hành là ta phải biết tạo nghiệp lành thường xuyên, đều đặn
trong khi còn mạnh khỏe, mà đến lúc gần chết vẫn giữ tâm niệm lành thì mới bảo
đảm
đi đến cõi lành. Còn nếu bình thường tạo nghiệp lành, đến khi gần chết khởi
nghĩ ác đủ thứ thì chưa chắc bảo đảm đi đến cõi an lành.

 Và
bình thường, nếu ta lỡ làm việc xấu ác, đến khi gần chết ta khởi tâm niệm lành
mà hướng tâm về đó quá mạnh thì cũng có thể chuyển được phần nào nghiệp dữ, vì
nghiệp không cố định.

 Trong cuộc sống của chúng ta, mỗi người có một
công việc và nghề nghiệp khác nhau. Nhưng công việc này luôn hỗ trợ cho việc
kia để không ngừng phát triển và xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp. Tuy nhiên,
có những nghề nghiệp làm tổn hại cho nhau, như sát sinh hại vật mà ít ai để ý,
vì họ quan niệm rằng vật dưỡng nhơn, có nghĩa là trời sinh ra để cung cấp cho
loài người. Chính sự giết hại để nuôi sống bản thân là nhân dẫn đến thù hằn,
ghét bỏ, nên chiến tranh, binh đao không có ngày thôi dứt.

 Người
nghiệp chung mới sinh ra ở chung một nước, nói cùng một ngôn ngữ, sống cùng
một phong tục, tập quán, tín ngưỡng. Hoặc khi ta gá nghĩa vợ chồng, chấp nhận
sống chung trong một gia đình, mà kẻ thì ý này, người thì ý kia, chẳng ai thông
cảm
cho ai, nên dễ dẫn đến bất hòa, giận hờn nhau hoài là tại sao? Nếu ta không
duyên nghiệp với nhau tại sao lại gặp nhau, ăn chung mâm, nằm chung chiếu,
ngủ chung giường với nhau làm chi để mà cùng chịu khổ vui có nhau?

 Và
ai cũng có nghiệp riêng nên tướng đi, giọng nói, khuôn mặt, tánh tình, tài
năng
, nhận thức, hiểu biết, trí tuệ sai khác, không ai giống ai. Vì vậy, nghiệp
tuy không có hình tướng rõ ràng, nhưng nó có sức mạnh chi phối cả đời sống
chúng ta. Nếu ta huân tập sâu nghiệp nào thì nghiệp đó có lực hấp dẫn, sai sử,
cuốn hút chúng ta đến môi trường của nghiệp đó.

 Chúng ta nên biết, khi gặp nhau là đã có
nghiệp chung với nhau rồi, tức là đã có cộng nghiệp nên cùng ăn ở chung đụng
với nhau. Tuy ở chung với nhau, mà mỗi người cũng có cái nghiệp riêng nên không
ai giống ai. Nếu có giống nhau thì gọi là đồng nghiệp hay nghiệp chung, vì đồng
nghiệp
nên mới cùng nhau sinh chung một gia đình và ở cùng một đất nước.

 Và
chúng ta ai cũng có nghiệp riêng của mình, nên có người thì nhà cao cửa
rộng, giàu sang, nhiều tiền bạc của cải, sống an vui, hạnh phúc; ngược lại, có
người bần cùng, khốn khổ, thiếu thốn, khó khăn. Hoặc bạn bè cùng học chung một
lớp mà có người học giỏi, có người học dở. Cho nên, trong cái chung đó vẫn có
cái riêng, mà dù là đồng nghiệp hay biệt nghiệp gì cũng tùy theo phước lực của
mọi người mà có sai khác.

 Cũng giống như những người bị nhặm mắt, cùng thấy chung quanh ngọn đèn
đang cháy có một cái vòng xanh hay đỏ, còn những người khác thì không thấy như
vậy.

 Nhưng nếu ta có cùng nghiệp xấu như hút thuốc,
uống rượu, cờ bạc thì ta sẽ giao du với những người này nên gọi là đồng nghiệp
xấu. Có nhiều cậu thiếu niên thấy người lớn hút thuốc, nhả khói phì phà có vẻ
oai phong, lẫm liệt, nên bắt chước tập theo, hút được một thời gian thì bị
ghiền, kể từ đó phải chịu tốn tiền hút thuốc và chịu hậu quả bệnh hoạn về sau.

 Khi bắt đầu ghiền rồi, hôm nào không có tiền
mua thuốc thì ngáp dài, ngáp ngắn, chảy nước dãi thèm thuồng, chịu không nổi,
tới người này, đến người kia năn nỉ mượn tiền mua thuốc hút cho bằng được, thật
là khó khăn, khổ sở vô cùng. Lúc hút thuốc, cảm thấy tâm hồn lâng lâng quyện
theo mây khói thì vui vẻ thích thú lắm, đến khi cơn ghiền hành hạ, không có
tiền mua thuốc, thèm khát, bứt ngặt, vật vã, khó chịu, chừng đó mới biết khốn
khổ vô cùng.

 Lại
có những chú bé khoảng mười lăm, mười bảy tuổi ở những vùng thôn quê, thấy cha
chú
uống rượu, nói chuyện xưa nay, chuyện Đông Tây Nam Bắc ra vẻ người hiểu
biết
, sành đời, nên thích thú, bắt chước tập uống theo. Khi mới uống thì cảm
thấy
cay nóng, khó chịu, mặt mày nhăn nhó, nhưng khi tập quen một thời gian
rồi, không có nó cảm thấy khó chịu nên phải tìm bạn rượu để uống và đi tới
ghiền.

 Khi đã ghiền rồi thì mỗi ngày phải có rượu mới
yên, nếu lỡ bữa nào không uống rượu thì tay chân run rẩy, bực bội, khó chịu,
con người cảm thấy lờ đờ, mệt mỏi; cho nên tìm cách gầy sòng, rủ rê anh em đông
đảo, cụng ly này đến ly nọ theo tua, nếu thích nhau thì đá ngang đá dọc, kết
quả cuối cùng là say túy lúy, nói năng lựa nhựa, đi ngã bờ này, té bụi kia, làm
trò cười cho thiên hạ.

 Khi
về đến nhà thì mắng chửi, đánh đập vợ con, ói mửa đầy nhà hôi hám, khó chịu,
gọi là “cho chó ăn chè”, khiến cho cha mẹ, vợ con buồn chán, khổ đau; từ đó làm
cho gia đình xào xáo, gây cãi, chửi mắng, đánh đập, làm mất hạnh phúc gia đình;
rồi cuối cùngbệnh hoạn, ung thư, chai gan, đau bao tử, viêm gan siêu vi B,
vô cùng khốn khổ. Từ cái nhân ban đầu thật là nhỏ, rồi cuối cùng đưa đến hậu
quả
tiền mất tật mang, để rồi chịu thọ quả vô cùng đau khổ, đến khi hối hận thì
không còn kịp nữa. Hiện tại gieo nhân si mê thì sau này gặt quả ngu si, đần
độn
.

 Chúng tôi cứ ba tháng đến trung tâm tâm thần
Tân Định, huyện Tân Uyên để chia sẻ cho người bệnh tâm thần. Hiện nay, ở đây có
gần 1200 người bệnh như thế, do nhân đưa vào cơ thể các chất độc hại như rượu,
xì ke, ma túy. Ai có đến đây rồi sẽ thức tỉnh ngay mà cố gắng sống không bê tha
trác táng, gieo nhân si mê, sa đọa.

 Vậy ai đã lỡ tập tành những thói hư, tật xấu
rồi, tuy biết đó là khổ nhưng ta không đủ can đảm để bỏ chúng, cuối cùng phải
chịu si mê, mờ mịt, tối tăm. Nếu ta biết giác ngộ như các vị Bồ Tát, thấy
ràng
nhân hút thuốc, uống rượu say sưa là dẫn đến cái quả nghiện ngập, bịnh
hoạn, nghèo khổ, gia đình sống không hạnh phúc vì có những người thân trong gia
đình
như vậy. Biết thế, ta nhất quyết một lòng không hút thuốc, uống rượu, dùng
các chất kích thích độc hại như xì ke, ma túy; dù bạn bè, người thân cố tình
mời mọc, ta cũng khôn ngoan, dứt khoát tìm cách chối từ, bởi nó là nhân dẫn đến
quả khổ đau, bất hạnh. Ai biết sống như vậy là người có ý thức hiểu biết, nên
tránh được nhân si mê, sa đọa, do đó không bị khổ.

 Nếu sống mà ta không biết nhân nào đưa tới quả
khổ, nhân nào dẫn đến quả vui, ta cứ mặc tình tạo tác để rồi khi quả xấu đến
thì kêu trời trách đất, than thân trách phận, đổ thừa tại-bị-thì-là; đó là người
mê muội không biết tránh nhân, chỉ biết sợ quả, nên cuối cùng chịu nhiều bất
hạnh
, khổ đau không có ngày thôi dứt.

 Vậy
chúng ta hiện tại đang sống ở trên cõi đời này, nên xét lại coi mình là người
giác ngộ hay kẻ si mê? Uống rượu say sưa mất bình tĩnh dễ nói càn, làm bậy mà
làm khổ cho mình và người. Ai cũng muốn mình là người giác, không bị khổ đau,
bứt ngặt thì nên tập hạnh của Bồ Tát là biết tránh nhân xấu, chớ không chờ quả
xấu đến rồi cầu xin trời Phật giúp cho là không thể được.

 Cuộc sống ở thế gian có nhiều trường hợp mới thoạt nhìn thấy dường như
rất tốt, nhưng khi nhìn kỹ lại thì thấy chẳng tốt chút nào. Bởi vì sao, như
người biết hút thuốc gặp người chưa biết hút thì mời ép, nài nỉ, xúi bảo hút,
đến khi ghiền thuốc rồi, không có tiền mua, đi xin người khác thì thấy mắc cỡ.
Cho nên, có nhiều người phạm tội trộm cướp, lường gạt vì một chút thèm khát của
mình.

 Hoặc người chưa biết uống rượu được người biết
uống rượu mời mọc ép uống, mời mà không uống thì bạn bè, người thân buồn, đến
khi ghiền rồi thì phải tìm cách rũ rê đặng cho có bạn đồng nghiệp. Ai có nhiều
bạn thuốc, bạn rượu thì hao tiền tốn của một cách vô lý, đến khi bệnh hoạn thì
gia đình, người thân, vợ con phải gánh chịu hậu quả

 Cho
nên, người cùng có nghiệp thì cùng cảm nhận hiện tượng giống như nhau, nên
người ta thường hay gọi là có tần số giống nhau. Có nhiều người thắc mắc tại
sao anh chị em cùng cha mẹ sinh ra trong một gia đình nhưng không ai giống ai,
vì mỗi người có một sở thích riêng.

 Còn đồng nghiệp trong thời hiện tại, chúng ta
thấy rất thực tếcụ thể. Người chuyên cần học hành, nghiên cứu, thích phát
minh kỹ thuật khoa học, vật chất để phục vụ nhân loại thì tới lui, thân cận với
người nghiên cứu, học hànhham thích đóng góp, phục vụ. Người thích đi chùa
sám hối tụng kinh niệm Phật và làm các công đức khác thì kết bạn với người đi
chùa
tụng kinh niệm Phật.

 Người thích bàn chuyện trên trời, dưới đất thì
tụm năm tụm bẩy ngồi tán dóc. Người ưa cờ bạc, rượu chè say sưa thì giao du với
người cờ bạc, rượu chè. Như vậy, người này thích người kia là họ có chung
nghiệp, hay nói đúng hơn là thói quen huân tập nên mới hợp nhau.

 Chúng ta đã thấy rõ ràng trong cuộc sống này, mọi người ai cũng có
nghiệp chung, nên mới trở thành chồng vợ, cha con, anh em, bạn bè. Nhưng mỗi
người có nghiệp riêng, cho nên tính tình, sở thích, hoạt động cũng khác nhau.
Nếu ta tu còn trong vòng luân hồi sinh tử, hưởng phước báo cõi trời người, thì
phải biết tránh xa nghiệp xấu ác, luôn vun trồng, bồi đắp nghiệp lành để tạo
nghiệp riêng hoàn thiện và sanh về cõi thiện lành, tốt đẹp cùng có đồng nghiệp
thiện.

 Để tiến thêm một bước nữa, ta tu dừng nghiệp
thiện ác, vì biết nghiệp là không thật, do ý sinh ra, mà ý cũng không thật có,
nó có là do niệm phân biệt, nên ta không theo là dừng nghiệp ý. Nghe nói lời
lớn tiếng khó nghe, ta cảm thấy bực bội, khó chịu, muốn đánh mắng chửi người,
liền nhìn lại xem cái bực tức đó có hình tướng ra sao và phát xuất từ đâu? Khi
tìm lại không thấy hình tướng của bực tức, mà nguồn gốc khởi bực tức cũng không
còn nữa.

 Thấy
của người lòng tham vừa móng khởi muốn lén lấy, liền nhìn lại coi tướng trạng
của tham lam như thế nào, phát xuất từ đâu? Khi nhìn kỹ lại thì không thấy hình
dáng
của tham lam, và nơi chốn phát xuất ra tham lam cũng không có nữa. Như tổ
Huệ Khả nói, con tìm tâm không thể được. Ngũ tổ nói ta đã an tâm cho ngươi rồi,
cho nên “thường biết rõ ràng, nói không thể đến”.

 Như
vậy, nghiệp phát xuất từ tâm ý, rồi nói năng và dẫn đến hành động hoặc tốt hoặc
xấu, mà ý là gốc phát ra nghiệp đã không thật, thì nghiệp miệng, nghiệp thân
cũng từ ý mà phát ra nên nó cũng không thật? Sở dĩ chúng ta thấy nghiệp có thật
là vì ta si mê chấp ngã mà ra, nên mới có thiên hình vạn trạng như thế.

TU CÓ CHUYỂN ĐƯỢC NGHIỆP HAY KHÔNG?

 Nhiều
người nói số phận đã an bài không thể thay đổi được, nhưng trong Phật pháp cho
rằng, nghiệp không cố định, có thể thay đổi được. Bởi vì sao, nghiệp được huân
tập
từ thân-miệng-ý lâu ngày trở thành thói quen, rồi thói quen đó có sức mình
chi phối, sai sử ta.

 Cũng như gió, tuy không thấy hình tướng cụ thể
của gió đâu hết, nhưng khi lá cây rung rinh thì ta biết, trời đang nóng nực, khi
nghe mát ta biết có gió, nếu sức gió mạnh có thể trở thành phong ba, bão táp
cuốn phăng tất cả mọi sự vật. Nghiệp lực cũng lại như thế.

 Tuy
nhiên
, nghiệp phát xuất từ thân-miệng-ý, khi chưa biết tu ta hút thuốc, uống
rượu, cờ bạc, chơi bời lêu lỏng. Nhưng khi biết tu rồi, ta ý thức lại, thấy
những hành động đó làm cho ta hao tiền, tốn của, mất thời gian vô ích, và cuối
cùng
có hại cho sức khỏe, làm ảnh hưởng đến gia đình, người thân và xã hội.

 Chính ta ý thức được điều đó là tai hại, nên
ta quyết định buông bỏ, không bám theo những thứ đó nữa thì coi như ta chuyển
được nghiệp xấu, hút thuốc, rượu chè, cờ bạc và nhiều thứ xấu khác nữa.

 Bản
thân
chúng tôi là một bằng chứng thiết thực, khi xưa si mê, ngu dại nên lao đầu
vào cờ bạc, rượu chè, hút xách, đàn điếm, vì quan niệm chết là hết nên mặc tình
gây tạo tội lỗi. Tôi nhờ có người mẹ hiền tế độ và gặp được Phật pháp, đã giúp
cho tôi làm mới lại cuộc đời bằng sự tu học và dấn thân đóng góp, phục vụ tùy
theo
khả năng của mình.

 Thiền Viện Thường Chiếu hiện nay, Tăng ni tu học trên một ngàn người
dưới sự trực tiếp chỉ dạy của Hòa Thượng thượng Nhật hạ Quang- viện trưởng Thiền
Viện
Trúc Lâm Trí Đức, trụ trì Tổ đình Thiền Viện Thường Chiếu, và là trưởng
ban quản trị Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam.

 Tôi
bây giờ là một Thiền sinh đang tu học và lao động, được sự chỉ dạy tận tình của
sư phụ từng bước đã giúp tôi chuyển hóa dần những thói hư, tật xấu, nhờ vậy mà
tôi mới được tồn tại cho đến ngày hôm nay. Cho nên, ai nói rằng nghiệp là cố
định thì không đúng, chúng tôi xin xác quyết điều này qua sự trải nghiệm và tu
tập
của bản thân.

 Từ
lâu, chúng ta thường nghe nói, gieo nghiệp nào thì phải chịu kết quả nấy, tức
là ai gieo nhân gì thì phải thọ quả báo y như vậy, có đúng không? Đây là điều
mà tất cả chúng ta phải tìm hiểu cho rõ ràng, tường tận, vì nhiều người mới tu
còn hoang mang chỗ này, không biết tu có chuyển được nghiệp hay không? Bản thân
chúng tôi xin thề rằng, nếu tu mà không chuyển được nghiệp xấu, tôi sẽ bị đọa
địa ngục suốt đời, suốt kiếp thay thế cho tất cả chúng sinh.

 Nhưng nếu trước đã nói gieo nghiệp nào sẽ phải
chịu quả nấy, thì chúng ta tu đâu có lợi ích gì? Tu là cốt chuyển ba nghiệp
tham-sân-si thành vô lượng trí tuệtừ bi, nếu ta tạo nghiệp nào thì phải thọ
nhận quả nấy, thì tu làm sao cho bớt khổ và hết khổ được? Nếu ai cũng nghĩ theo
nghĩa nông cạn, đơn giản, mà không có sự thể nghiệm là gây nghiệp nào thọ quả
nấy, thì ta sẽ thối Bồ đề tâm mà bỏ tu.

 Lý nhân quả nghiệp báo của đạo Phật không cố
định là tác nhân nào thọ quả nấy, mà cũng không phải khi đã gây nhân mà không
thọ quả, nó rất phức tạp và đa dạng, tùy theo khả năng tu tập của mình mà
nghiệp có thể thay đổi nhiều hay ít.

 Trong kinh A Hàm, Phật dạy, “Người
gây tạo nhân xấu ác làm hại người vật, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới,
tu tâm thì quả sẽ được đổi thay nhiều hay ít tùy theo khả năng. Nếu ai đã lỡ
tạo nghiệp xấu ác rồi mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm thì sẽ gây nhân
nào mà chịu thọ quả báo đúng như vậy. Đó là nhân nào quả nấy như trồng dưa được
dưa, trồng đậu được đậu, và khi ta gây nhân mà biết thay đổi, chuyển nghiệp,
thì quả cũng sẽ chuyển theo tùy theo khả năng của ta”.

 Phật đưa ra một ví dụ rất cụ thể, “nếu
ta bỏ một nắm muối vào trong ly nước lạnh, thì nước ấy mặn không uống được; nếu
ta bỏ cũng nắm muối đó vào trong bình nước lớn có dung tích chứa vài ba trăm
lít, thì nước trong bình ấy sẽ uống được, nhưng vị nước hơi măn mẳn; và nếu nắm
muối được bỏ vào trong một ao nước có sức chứa nước quá nhiều, thì nước không
còn mặn, mà
ta có thể dùng xài bình thường”.

 Nghiệp xấu ác Phật dụ cho vị mặn của nắm muối, được hòa tan trong ly
nước thì kết quả muối và nước ngang nhau, nên nước bị mặn, không dùng xài bình
thường
được. Nếu vị mặn của nắm muối được hòa tan trong bình nước lớn thì quả
mặn của muối bị loãng ra, nước có thể tạm giải khát được nhưng còn măn mẳn.
Nhưng nếu vị mặn của muối được hòa tan trong ao nước lớn thì vị mặn của muối
không đủ sức phân hóa nước, nên nước ấy có thể dùng xài bình thường.

 Cũng
vậy, trong cuộc sống của chúng ta, với dòng đời nghiệt ngã ai mà không biết tu
thân
, tu giới, tu tâm, thì khi tạo nhân xấu ác sẽ trả quả xấu ác nguyên vẹn,
Phật dụ như nắm muối bị hòa tan trong ly nước, không giải khát được vì quá mặn.

 Nhưng nếu chúng ta biết tu thân, tu giới, thì Phật dụ như nắm muối được
tan trong bình nước lớn, tuy vị nước có hơi măn mẳn nhưng cũng tạm dùng được
không đến nỗi phải bỏ đi.

 Còn
ai biết tu thân, tu giới, tu tâm, Phật dụ như nắm muối bị hòa tan trong ao nước
lớn, tuy có nắm muối mặn, nhưng vì nước trong ao quá nhiều, nên muối không đủ
sức
chi phối, ta có thể dùng nước xài bình thường.

 Chính vì vậy, nếu ai biết tu thân, tu giới, tu tâm, thì nghiệp nhân được
chuyển hoàn toàn, sẽ không thọ quả báo đúng như khi mới gây nhân ban đầu. Cho
nên, nếu ta lỡ gây nhân xấu ác mà không biết tu thì coi như không chuyển được
nghiệp cũ. Chính vì vậy, ta gây nhân nào, thọ quả ấy không sai chạy. Nếu ai lỡ
lầm
gây nhân xấu ác mà biết tu thân, tu giới là có thể chuyển nghiệp và sẽ chịu
quả báo nhẹ hơn lúc ban đầu. Còn nếu ta gây nhân xấu ác mà biết tu thân, tu
giới, tu tâm thì gần như chuyển hoàn toàn được nghiệp xấu, và bản thân tôi là
một bằng chứng thiết thực. Cho nên, chúng ta tu là chuyển nỗi khổ, niềm đau
thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

 Thế
giới
chúng ta đang sống tương tàn tương sát lẫn nhau theo nguyên lý duyên khởi,
lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, người giết người, người giết vật và ngược lại. Cho
nên, khó có ai từ nhỏ đến già là người hoàn toàn trong sáng, thiện lành, ngoài
trừ các vị đại Bồ Tát và chư Phật. Chính vì vậy, ai đã từng sống trong cuộc đời,
không ít thì nhiều cũng sẽ làm đau khổ cho nhau, gây oán giận, thù hằn không có
ngày thôi dứt.

 Nếu hiện tại, chúng ta tu mà vẫn phải trả quả
xấu hoàn toàn như cũ, thì quý thầy cô và Phật tử tu có được lợi ích gì? Thế cho
nên
, chúng ta phải biết, tu là chuyển nghiệp, tức thay đổi nhân xấu thành quả
tốt, nhưng tuỳ theo khả năng mỗi người tu nhiều hay ít mà cho ra kết quả khác nhau trong hiện tại.

 Như
vậy, chúng ta đã thấy, tuy cùng tạo nhân ác, nhưng tùy theo khả năng tu tập của
mọi người có cao thấp khác nhau mà chịu quả sai khác, không ai giống ai. Nếu
chúng ta biết tu thì quả liền chuyển, không cố định như người chấp nhận số phận
đã an bài, nên càng ngày sống trong đau khổ, lầm mê.

 Khi chúng ta biết rõ ai có tu thân, tu giới,
tu tâm thì sẽ chuyển được những nghiệp quả xấu trước kia, tuy nói chuyển mà
không phải hết hoàn toàn. Thân ta có thể bị đau nhức, nhưng tâm ta vẫn trong
sáng
, thanh tịnh, nên thường biết rõ ràng, thân đau mà không khởi lên niệm than
van, oán trách. Có nghĩa là nắm muối vẫn hòa tan trong ao nước lớn, nhưng vì
nước trong ao quá nhiều, nên chúng ta nếm thử không thấy mặn.

 Như
vậy, tất cả mọi người chúng ta hiểu rõnhân quả nghiệp báo thì phải biết
tránh nhân xấu mà cố gắng gieo tạo nhân tốt. Nếu ta biết tránh nhân xấu mà vẫn
tạo nhân tốt thì quả xấu làm gì đến để chi phối và sai sử chúng ta được? Người biết
tránh nghiệp xấu ác, biết tạo nghiệp thiện lành, tốt đẹp là người tốt trong
hiện tạimai sau.

 Ai
biết tránh nghiệp xấu ác thì không phải lo lắng hay băn khoăn về chuyện phải
quấy
, tốt xấu, đúng sai, thương ghét, không lo lắng, sợ hãi về hậu vận rủi may,
ta chỉ cứ một bề trải lòng thương yêu chân thành đến với tất cả chúng sinh
dấn thân đóng góp, làm lợi ích cho mọi người, lòng không so đo hay toan tính,
hơn thua.

 Chúng ta thường hay có những cái bất công
mà không tự thấy, ta không chịu yêu thương, giúp đỡ, sẻ chia đến với tất cả
mọi người, mà ta cứ mong mình luôn được an vui, hạnh phúc là điều không thể có
được.

 Cũng vậy, con người ai cũng muốn đời mình hoàn toàn được an vui, hạnh
phúc
, không muốn khổ đau chi phối, vậy mà khi tạo nghiệp thì không chọn thuần
nghiệp lành mà cứ để lẫn lộn những điều xấu ác vào thì thử hỏi làm sao được quả
an lạc, hạnh phúc hoàn toàn?

 Chẳng hạn như các đấng mày râu muốn cho thân thể cường tráng khỏe mạnh,
tinh thần thông minh, sáng suốt mà lại hút thuốc, uống rượu say sưa, gây cái
nhân bịnh hoạn về sau thì thử hỏi làm sao được khỏe mạnh, sáng suốt.

 Ai
muốn cho thân thể khỏe mạnh, tâm sáng trong, nhẹ nhàng thì phải sống có điều
độ
, có chừng mực, biết cách dung hòa, ăn uống, làm việc, vui chơi, giải trí,
biết sắp xếp thời gian nghỉ ngơi, tịnh dưỡng đễ giữ thân tâm trong sạch, lành
mạnh
, sáng suốt.

 Còn
các cô thiếu nữ đại diện cho phái đẹp, ai cũng muốn trẻ đẹp, tươi vui, vậy mà lúc nào cũng nhăn
nhó, quạu quọ, buồn giận hoài, cứ hay bà tám rồi sinh tâm ganh ghét, tật đố,
tham chấp đủ thứ thì thử hỏi làm sao vui tươi, trẻ trung, yêu đời cho được.

 Phái
nữ muốn trẻ trung, đẹp đẽ, duyên dáng thì phải sống vui vẻ, lành mạnh, nhờ vui
vẻ
, hồn nhiên nên mới tươi tắn, mà đã vui thì ít ganh ghét, hờn giận, nhờ vậy
giảm bớt phiền muộn, khổ đau. Vậy nếu có ai lỡ làm phiền một chút thì nên
hoan hỷ bỏ qua, đó là ta biết tạo nhân vui vẻ, trẻ trung, yêu đời mà làm tròn
bổn phận trong gia đình, và phục vụ tốt cho xã hội.

 Bằng ngược lại, ta cứ buồn thương, giận ghét, hết phiền muộn người này
lại ghét bỏ người kia, mà oán ghét, giận hờn thì lòng ta đâu có an ổn, nhẹ
nhàng. Cho nên, ta ăn không ngon, ngủ không yên, đó là cái nhân dẫn đến thân
bệnh hoạn, tiều tụy, hốc hác, và tâm hồn bị dằn vặt bởi bám víu vào những cái
được mất, hơn thua, giận hờn nên sống trong đau khổ, lầm mê.

 Nếu
ta biết rõ ràng, gieo nhân xấu sẽ đưa tới quả xấu thì chúng ta tìm cách tránh
xa không nên làm, đừng muốn một đàng mà lại làm một nẻo. Vậy, ta muốn được an
vui, hạnh phúc thì ngay bây giờ, mình phải biết buông xả những tập nghiệp gây
đau khổ cho người, vật.

 Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy tin sâu nhân
quả
nghiệp báo, giúp chúng ta nhìn đúng lẽ thật mà biết cách sống an lành, trở
thành
người gan dạ, mạnh mẽ, không nhát nhúa, yếu đuối, mình làm gì phải chấp
nhận
chịu chứ không đổ thừa cho ai.

 Ví
dụ, có ai đó vì không điều phục được cơn nóng giận, hờn mát nên lỡ tay đánh
mắng chửi người. Khi đánh chửi xong, biết mình tạo nhân ác nên thấy ăn năn, hối
lỗi
, vì mình biết chắc chắn rằng quả báo xấu sẽ đến với mình trong nay mai. Nên
khi bị người uy hiếp, đánh đập lại, ta phải gan dạ chịu đựng chớ không nên đối
kháng
lại, làm cho nhân quả oán giận, thù hằn không có ngày thôi dứt.

 Ngược lại, khi ta đánh mắng chửi người thì hăng hái làm như vẻ ta đây,
đến khi bị người uy hiếp trở lại thì kêu trời, trách đất đủ thứ hết. Đó là
người yếu đuối, không thấy được nhân xấu mà mình đã tạo ra trước đây. Nhân quả
chỉ dừng hẳn khi hai bên biết thông cảmtha thứ cho nhau. Vậy muốn được quả
an vui, hạnh phúc, thì ta phải gan dạ bỏ những thói quen xấu xa, tội lỗi
luôn tạo nhân thiện lành, tốt đẹp. Hai bên cùng tạo nhân thiện lành thì cái quả
xấu ác sẽ dần dần yếu đi cho đến khi hết hẳn.

 Khi
hiểu được lý nhân quả nghiệp báo, đối với những sự việc không như ý xảy ra, chúng
ta
sẽ không oán trách trời đất hay người mà chỉ tự trách mình. Do ta trước kia
si mê, dại dột, không tránh nhân xấu ác, làm tổn hại cho người nên bây giờ chịu
quả xấu. Ta sẵn sàng đón nhận quả xấu một cách sáng suốt, biết bình tĩnh nhận
định
đúng sai để tìm cách vươn lên và vượt qua số phận tối tăm.

 Chúng ta thường thấy trong một gia đình hai ba anh, chị, em sống chung
với nhau. Khi có một người trong gia đình lỡ làm bể một cái ly hay cái dĩa, vì
sợ bị cha mẹ rầy nên ém nhẹm phi tang, không dám nhận trách nhiệm về mình. Đến
khi ba hay má hỏi, không ai nhận là mình làm bể, thái độ như thế là nhát nhúa,
hèn nhát, không có tinh thần trách nhiệm, lỡ làm thì gan dạ thú nhận lỗi của
mình để người khác không bị hàm oan, không bị vạ lây bởi cái xấu dở của mình.

 Lý
nhân quả nghiệp báo giúp cho con ngườitinh thần trách nhiệm, sáng suốt,
biết lựa chọn nhân tốt để làm và tránh xa nhân xấu ác. Nếu ta lỡ tạo nhân xấu
rồi thì sẵn sàng can đảm chấp nhận quả xấu một cách gan dạ, không sợ sệt, không
đổ thừa hay lẩn trốn. Vì không tin sâu lý nhân quả nghiệp báo nên ta mới có
thái độ tránh né, chối cãi, phủ nhận sự thật rồi làm xằng bậy. Cuối cùng, ta đi
vào
con đường xấu ác một cách dễ dàng.

 Thế
cho nên
, người Phật tử tu hành chân chánh đầu tiên là phải tin sâu Tam bảo, kế
đến tin sâu nhân quả, và cuối cùng tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa
phúc. Khi hiểu và biết rõ như thế rồi thì ta phải biết khôn ngoan, sáng suốt
chọn lựa, biết nhân nào tốt đẹp nên làm, biết nhân nào xấu ác nên tránh, đó là
chúng ta đang từng bước tiến bộ trên con đường giác ngộ, giải thoát.

 Hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta, tuy công việc làm ăn có bộn bề,
bận rộn, ta phải giao tế đối tác với nhiều người, nhưng nếu chúng ta biết tránh
nhân xấu ác, chọn nhân thiện lành, thì từ suy nghĩ cho đến lời nóiviệc làm
lúc nào cũng lương thiện, vừa giúp ta hoàn thiện chính mình, vừa làm hài lòng,
vui vẻ mọi người, đó là chúng ta đang tiến bộ trên đường đi đến Phật quả.

 Chúng taPhật tử, phải biết tu trong mọi hoàn cảnh, tỉnh giác tu từng
tâm niệm của mình. Khi có niệm xấu khởi lên hại người vật, ta liền buông, không
chạy theo nó và cứ như thế mà buông xả hoài cho đến khi tâm ta sáng suốt, thanh
tịnh
, nhưng thường biết rõ ràng chớ không phải chờ đến chùa sám hối, tụng kinh,
lạy Phật mới tu, ngoài giờ đó ra nếu có ai đụng chạm đến là ăn thua đủ, tu như
vậy là sai lời Phật dạy. Phật đâu khuyên ta tu với Phật mà dạy ta tu với gia
đình
, người thân, bà con, chòm xóm, bạn bè và người ngoài xã hội. Thế cho nên,
tu hoài mà không hết khổ là lỗi tại chỗ đó.

 Vì
ta tu mà chỉ biết tu với Phật, không chịu tu với chúng sinh, cũng không chịu tu
với chính mình nữa. Phật đâu có cần chúng ta tu với Ngài, vậy mà ta cứ một bề
tu với Phật, Bồ Tát mà thôi, còn ra ngoài xã hội đối với mọi người thì ta không
chịu tu, không chịu nhường nhịn, hễ có chuyện một chút là quyết ăn thua đủ. Đối
với Phật, dù ta có khen hay chê, Ngài cũng không vui, không buồn, không mừng,
không giận, Ngài cũng không bao giờ nói một lời nào, mà Ngài chỉ khuyên ta tu
với tất cả mọi người.

 Bởi
ta đang sống với thấy biết sai lầm nên ai cũng dễ sinh hờn ghét, buồn giận. Do đó, chúng ta phải tu với họ, biết nhường
nhịn, tìm cách an ủi, chỉ dẫn, thì mình bớt khổ mà người cũng bớt khổ. Ta biết
tu với nhau là tự mình đem lại an vui, hạnh phúc cho nhau, đem lại sự bình an
thương yêu nhau bằng trái tim hiểu biết.

 Phật
dạy, chúng ta tu là tu với tất cả chúng sinh, tu với con người chớ đâu có bảo
ta tu với Ngài. Vậy mà đa số quý Phật tử chỉ biết tu với Phật mà thôi, đến chùa
thì lạy Phật, Bồ Tát lia lịa, thậm chí có người vuốt bụi Phật trét vào mình,
cho đó là linh thiêng, Phật sẽ gia hộ cho.

 Nếu ta đợi đến chùa mới tu, đợi sám hối, tụng kinh mới tu, đợi ăn chay
mới tu, tu như thế thì quá ít. Một tháng ta đến chùa mấy ngày, chỗ này chúng ta
nên xét lại. Chúng ta tu là phải thường xuyên quay lại chính mình, nhìn thấy
từng ý nghĩ, rồi phát xuất ra lời nói bằng hành động cụ thể, nếu tốt thì ta duy
trì
, gìn giữ, phát huy thêm, nếu xấu thì ta phải dừng lại, đó mới là thật biết
tu.

 Thậm chí, có nhiều Phật tử nói hôm nay là ngày tôi đang tu vì tôi ăn
chay
. Nếu ta đợi đến ăn chay mới tu, một
tháng ăn chay có bốn ngày hoặc sáu ngày nên ta chỉ tu có mấy ngày đó, còn lại
hai mươi mấy ngày kia ta cứ tự do làm việc xấu ác, làm tổn hại cho người, vật?
Vậy những ngày ăn mặn là không tu sao? Quý Phật tử hãy nên chính chắn suy nghĩ
lại chỗ này kẻo hiểu lầm lời Phật dạy.

 Chúng ta tu ngay
từ thân-miệng-ý của chính mình, tu như vậy mới đúng theo lời Phật dạy, vậy mà
đa số quý Phật tử thích cầu khẩn, van xin nhiều hơn là thường xuyên áp dụng tu
tập
trong mọi hoàn cảnh.

THẤY BIẾT SAI LẦM 

 Đã làm người trong trời đất, ít
nhiều ai cũng từng nóng giận. Nóng giận là thói quen xấu làm mọi người đau khổ.
Có một chú Sa-di nọ, tính tình nóng nảy, cộc cằn, tuy đã xuất gia hơn mười năm,
nhưng vẫn chứng nào tật nấy, lúc nào chú cũng thô lỗ với mọi người. Một hôm,
phụ
trao cho chú một túi đinh và căn dặn kỹ càng rằng, “khi nào con nổi nóng hoặc nặng lời với ai, con lấy một cây đinh đóng
vào hàng rào gỗ phía sau chùa, rồi con tự suy gẫm lại việc làm của mình, coi đó
là hành động xấu hay tốt”.

 Ngày đầu tiên, chú Sa-di đã đóng
mười tám cây đinh vào hàng rào. Những ngày kế tiếp, chú cố gắng tìm lại nguyên
nhân
, vì sao mình nóng giận thì số đinh đóng lên hàng rào ít hơn. Dần dần, chú
nhận ra rằng, nếu mình bình tĩnh để đối đầugiải quyết vấn đề, xem ra dễ
dàng hơn là nóng nảy, để rồi phải đóng những cây đinh vào hàng rào.

 Qua một thời gian dài áp dụng lời
Phật dạy
, tự soi sáng lại chính mình, kết hợp với tu tậphành trì pháp môn
đóng đinh; Giờ đây, chú Sa-di đã trở thành một thầy Tỳ-kheo chững chạc, không
còn nóng nảycộc cằn, thô lỗ như xưa nữa.

 Với tâm từ bi rộng lớn của sư phụ,
sau khi tán thán, khen ngợi đệ tử của mình, thầy đưa ra một đề nghị mới, “cứ một ngày trôi qua, nếu con không làm ai
buồn phiền, con hãy nhổ bỏ một cây đinh trên hàng rào.”
Chẳng bao lâu, thầy
Tỳ-kheo ấy đã nhổ bỏ hết những cây đinh trên hàng rào. Thấy vậy, sư phụ bèn dắt
thầy ra nơi hàng rào và nói tiếp, “con đã
làm rất tốt con ạ! Tuy nhiên, con thấy hàng rào bây giờ không còn trơn sạch nhưtrước mà bị những dấu đinh loang lổ, làm nó không được nguyên vẹn và đẹp đẽ như
xưa. Những gì con đã thốt ra trong lúc nóng nảy, giận dữ làm cho người đau đớn,
khổ sở, tạo ra những vết thương lòng. Từ đó, có thể nảy sinh hận thù, ân oán,
vay trả lẫn nhau, khó lòng xoá đi được, giống như những vết đinh trên hàng rào
này”.

 Nhân quả, nghiệp báo sẽ không chừa
một ai khi hội đủ nhân duyênđiều kiện, cho dù lúc ấy ta có nói lời xin lỗi
bao nhiêu hay sám hối lỗi lầm cũng không thể làm cho vết thương lành lặn hoàn
toàn
được. Bởi những vết thương lòng rất khó chữa lành, dù cho người thân
thương như cha me, vợ con, anh em ruột thịt cũng khó mà hàn gắn. Vết thương chỉ
có thể lành hẳn khi ta có tình yêu thương chân thật, biết cảm thôngtha thứ
cho nhau bằng trái tim yêu thương, hiểu biết với tấm lòng vô ngã vị tha.

 Vì ai cũng có nghiệp riêng của
mình, nên đạo Phật đã dạy ta không trốn chạy mà cần phải đối diện với cuộc đời
từ những hiểu biết, nhận định đúng đắn về sự thật của con người và mọi sự vật,
hiện tượng trên thế gian này. Đức Phật dạy, có hai hạng người ta cần phải biết:

 + Thứ nhất là hạng người như bèo
dạt mây trôi, cuộc đời như thế nào chẳng cần tìm hiểu, suy xét, cứ sống cho qua
ngày tháng theo phong tục, tập quán xã hội. Cũng như con dơi khi nó nghĩ nó là
loài chim vì nó bay bằng hai cánh, khi nó nói nó là loài có vú vì nó có thể bò
bằng chân. Đây là thái độ sống như bèo dạt mây trôi, chẳng cần tìm tòi, suy
nghĩ
, định hướng để tìm ra lẽ thật cuộc đời, đành chấp nhận trôi lăn theo dòng
sinh tử, ai làm sao mình làm vậy, chẳng cần tìm hiểu đúng sai. Hạng người như
thế chiếm đại đa số trên thế gian này. Từ nhận thức như vậy nên con người đã
phó mặc đời mình cho đấng thần linh, thượng đếchấp nhận số phận đã an bày.
Họ đành cam chịu cuộc sống như lục bình trôi theo con nước lớn ròng, muốn trôi
đi đâu cũng được.

 Nếu ta chịu khó tìm tòi, suy nghĩ, nghiệm xét một cách chín chắn thì trong mỗi con người chúng
ta
, ai cũng có khả năng quán
chiếu
soi sáng lại chính mình, nhận định và phát minh tư duy sáng tạo, làm được
những việc không thể nghĩ bàn, làm gì có ai đủ khả năng sắp đặt hay định đoạt
cho ta? Nếu có thì chỉ là tiến trình diễn biến của nhân quả, may rủi, được mất,
nên hư, thành bại… Tất cả mọi việc tốt xấu trong cuộc đời này đều do ta hành động
bằng thân-miệng-ý mà cho ra kết quả.

 Vậy nghiệp là do cái gì tạo thành
mà nó gần như chuyện đã định sẵn vậy? Ba năm sau ta sẽ bị gì? Mười năm nữa ta sẽ
được gì? Dường như những gì xảy ra trong cuộc đời đều được sắp đặt trước. Tuy nhiên,
đi vào phân tích tỉ mỉ, ta sẽ thấy vấn đề không đơn giản như mọi người thường lầm
tưởng. Nghiệp lực dường như cũng đã được quy định trong tiến trình diễn biến của
một đời người có thể làm việc thiện hay việc ác bất cứ lúc nào, dù cho muốn làm
khác cũng khó bề mà cưỡng cầu.

 Ở đây, chúng ta nên tìm hiểu cho
chính chắn hơn, chính tư tưởng của ta khởi lên rồi phát xuất ra lời nói và dẫn
đến hành động mà tạo ra nhân cách tốt hay xấu trong hiện tại. Người hay nuôi dưỡng
tâm thánh thiện, luôn giúp đỡ, sẻ chia, an ủi, nâng đỡ mọi người, chắc chắn đời
sau
người này sẽ có nhân cách phi thường, không ai có thể so sánh kịp.

 Do sự biến thiên thay đổi tư tưởng
của con người, nên có lúc ta thích làm việc thiện, đôi khi ta thích làm việc
ác, hành động làm thiện ác không nhất định, có khi ta đối xử tốt với người này,
nhưng lại thô bạo, xấu xa với người khác. Do đó, ta khó lý giải được đầy đủ về
sự diễn biến hiện tại của một con người.

 + Thứ hai là hạng người luôn hiếm
hoi và ít có trong cuộc đời, như những nhà khoa học, bác học, giáo dục, đạo đức,
tâm linh…. Họ luôn tìm tòi, phát minh, sáng tạo, tu tập để vượt qua nghịch cảnh
cuộc đời. Họ không chấp nhận số phận mình do một ai định đoạt, họ quyết tâm tìm
ra
đáp án bằng sự học hỏi, nghiên cứu, tu tập bằng sự dấn thân đóng góp để phục
vụ
đời sống con người ngày càng được tốt đẹp về mọi mặt.

 Tóm lại, hạng người thứ nhất là
đa số, họ hay sống thả trôi theo dòng đời, không cần muốn suy nghĩ hay tìm tòi,
suy xét gì cả, chỉ muốn sống hưởng thụ cho qua ngày tháng, ai làm sao họ làm vậy
chẳng biết phân biệt đúng sai. Họ luôn chạy theo sắc đẹp, tiền tài, danh vọng,
ngủ nghỉ, tham lam, ích kỷ, ganh ghét, tật đố, sân giận, si mê mà không chịu tự
hỏi lại mình, “ta từ đâu đến và sau khi chết đi về đâu?” Họ cam đành chấp nhận
cuộc sống trong hiện tại như bèo dạt mây trôi, ai làm sao ta làm vậy. Ngoài
hội
loài người còn có các loài thú, loài có chân, loài có cánh, loài trên cạn
và loài dưới nước v.v… Có câu chuyện ngụ ngôn như sau:

 Trong các loài thú hoang dã
núi rừng, sư tử được cho là loài chúa tể sơn lâm, với loài có cánh thì phượng hoàng
được phong là vua. Một hôm, đến ngày sinh nhật của sư tử, tất cả mọi loài đều
phải có mặt đầy đủ để chúc mừng sinh nhật chúa sơn lâm. Riêng hôm ấy, loài dơi
không có mặt. Sau khi điểm danh, sư tử nổi trận lôi đình ngay tại chỗ, liền ra
lệnh cho gọi loài dơi về ngay gấp để trị tội. Trước mặt chúa tể sơn lâm, lũ dơi
run lẩy bẩy, sợ đến tím cả người. Sư tử hỏi,

“tại sao hôm nay là ngày sinh
nhật của ta mà lũ dơi nhà ngươi dám cả gan vắng mặt, các ngươi dám khinh thường
ta nghĩa là sao? Lũ dơi các ngươi xứng đáng nhận lãnh tội chết vì tội dám khinh
thường ta là chúa tể sơn lâm?”

 Lũ dơi nghe sư tử phán vậy, cả bầy
run lên lập cập nói không nên lời, “kính
xin chúa tể sơn lâm, Ngài nên mở lượng hãi hà, tha chết cho lũ dơi chúng con, bởi
họ nhà dơi chúng con không phải là loài thú có chân, mà chúng con là loài có
cánh, có vú nên thuộc quyền quản lý và cai trị của chúa phượng hoàng. Ngài bắt
tội như thế là oan cho chúng con lắm Ngài ơi, xin Ngài hãy suy xét lại cho kỹ
càng”.

 Trước những lời lẽ lý luận sắc bén
của dòng họ nhà dơi, sư tử ta không thể nào bắt tội dơi được. Sư tử đành ngậm
ngùi
cay đắngtuyên bố tha tội chết cho dòng họ nhà dơi, nhưng trong lòng tức
giận vô cùng.

 Mấy tháng sau, đến kỳ sinh nhật của
chúa phượng hoàng. Khi điểm danh các loài đến dự, loài dơi lần này cũng vắng mặt.
Chúa phượng hoàng nổi trận lôi đình, quát nạt đủ thứ, cho rằng loài dơi quá khi
dể ta, bởi vì lần trước, nhân ngày sinh nhật của chúa sơn lâm, tất cả họ nhà
dơi đều vắng mặt, bị chúa sơn lâm quở trách, dơi nói rằng chúng nó thuộc loài
chim, nên không bị bắt tội. Bây giờ đến ngày sinh nhật của ta, lũ dơi vẫn coi
thường
ta nên mới không đến. Phượng hoàng liền chiếu chỉ tìm gấp loài dơi về để
trị tội.

 Lần này, trước mặt chúa phượng
hoàng, dơi không còn run sợ như lần trước mà an nhiên, bình thản thưa rằng, “sở dĩ hôm nay họ nhà dơi không đến dự sinh
nhật Ngài là vì chúng tôi không phải là loài chim, mà chúng tôi thuộc loài thú,
thuộc quyền quản lý của chúa sơn lâm, bởi chúng tôi có vú và đi bằng chân. Ngài
không thể bắt tội chúng tôi”.

 Nghe dơi trình bày, phượng hoàng
trong lòng tức giận, nhưng suy xét lại, dơi nói như vậy quả không sai, nên chúa
phượng hoàng cũng không bắt tội loài dơi kia nữa.

 Câu chuyện ngụ ngôn dân gian Việt
Nam
trên cho ta một bài học lý thú về cuộc đời. Không có gì là cố định cả, thiện
là thiện suốt kiếp, ác là ác suốt đời, không thay đổi được. Loài dơi nói như thế
là muốn vượt ra khỏi hai chủng loài: loài chim và loài thú.

 Nếu nói theo thực thể cố định
như có một cái gì quy định sẵn? Không thể được. Ta cần phải vượt qua rào cản và
giới hạn của nó do sự định đoạt hay sắp đặt nào đó theo cách nhìn của một định
tính
, cố định, bất di bất dịch, như các nhà tôn giáo cổ xưa quan niệm là do đấng
Phạm thiên, hay theo quan niệm của Bà-La-Môn giáo cho rằng có linh hồn bất tử,
ai như thế nào thì phải chịu như thế đó, người chết sanh người, trời chết sanh
trời, thú vật chết sanh thú vật. Trời sinh ra vạn vật để phục vụ cho con người
và đấng tối cao. Đây là nói theo cách nhìn cố định của thời xa xưa.

 Ý thứ nhất của câu chuyện ngụ
ngôn dân gian Việt Nam cho ta cách nhìn thông thoáng hơn, vượt lên trên cả hai
chủng loại. Ý thứ hai lại cho ta cách thức lý luận thụ động, ai thế nào ta như
thế ấy, chẳng cần tìm hiểu làm gì, chấp nhận sống cuộc đời “bèo dạt mây trôi”
tuỳ theo con nước lớn, ròng. Xưa như thế nào, bây giờ ta phải như thế ấy, không
cần tìm hiểu đúng sai để cố gắng vươn lên, làm mới lại chính mình.

 Nếu ta sống theo lối chấp nhận số
phận đã an bài là ta vô trách nhiệm đối với những hành vi tạo tác trong hiện tại
của mình, hễ khi có xảy ra việc xấu làm cho ta bất hạnh, khổ đau thì ta lại đổ
thừa là do số mệnh của ta như thế, và chấp nhận sống trong đau khổ, lầm mê.

 Đạo Phật không thừa nhận như thế,
chúng ta không thể đổ thừa cho số phận và chấp nhận cuộc sống “bèo dạt mây
trôi” như vậy, mà chúng ta phải ý thức rằng, trong tiềm ẩn con người của ta đều
có khả năng làm được tất cả các việc hoặc tốt hoặc xấu. Tốt hay xấu, thành công
hay thất bại đều do ta tạo lấy, không ai có quyền chen vô chỗ này. Có người thuở
nhỏ hàn vi nghèo khó, lớn lên do siêng năng làm việc đúng phương pháp, biết tận
dụng thời cơ, biết đáp ứng nhu cầu cần thiết của xã hội, nên họ trở nên giàu
. Ở thế gian này, chúng ta đã từng thấy như vậy. “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
là như thế. Tùy theo ý chíquyết tâm của mỗi người mà hoàn cảnh, cuộc sống
có thể thay đổi.

 Đã làm người trong trời đất, ít
ai trong chúng ta được may mắn hoàn toàn chưa một lần bị vấp ngã hay thất bại.
Điều quan trọng là khi vấp ngã, ta phải biết cách đứng lên, ví như ta bị vấp
ngã
từ đất, vậy cũng từ đất ta đứng dậy. Sông nước có thể làm cho ta ngột ngạt,
sặc sụa, dính mắc hoặc thấm ướt, nhưng cũng nhờ nước mà ta được tung tăng bơi lội
hoặc du thuyền rong chơi trên sông biển. Những ai trong cuộc đời chưa trải qua
những đêm giá buốt như Thiền sư Hoàng Bá nói, “đâu dễ ngửi mùi hương hoa mai”.

 Sau mỗi lần thất bại hay vấp
ngã
, dường như ta cảm thấy mình mạnh mẽ, dũng khínghị lực hơn. Sau nhiều lần
thất bại có thể chôn vùi những con người yếu đuối, nhu nhược, hèn nhát, kém cỏi;
ngược lại, đối với người có ý chí, có nghị lực thì “thất bại là mẹ thành công”.
Từ những vấp ngã, những thất bại trong cuộc đời giúp con ngườiý chí cao
hơn, có ý thức, lập trường kiên định hơn. Đó chính là hòn sỏi, viên gạch làm
nên đoạn đường ta đi, nhằm thử thách những con người tài đức.

 Cất bước trên đường đời hay trên
đường đạo cũng vậy, mỗi người hãy tự trang bị cho mình một hành trang, sẵn sàng
đón nhận tất cả tốt hay xấu để vượt qua cạm bẫy của cuộc đời. Đối với các bậc
hiền thánh, muốn làm Phật thì phải đối diện với các thứ ma mị. Những gì người đời
gọi là bất hạnh, với họ chỉ là thử thách. Khó khăn, thử thách là điều mà con
người
ai cũng có thể gặp phải, nhưng người có ý chí và tin sâu nhân quả sẽ vượt
qua
một cách dễ dàng hơn.

 Người không có niềm tin ở chính
mình sẽ bị gục ngã trước, để rồi chấp nhận cuộc sống hẩm hiu, mặc cho dòng đời
cuốn trôi, mặc cho oan nghiệt cướp đi lòng tự chủ quý giá của mình. Đã làm người
ai mà không một lần thất bại, nhưng có thất bại mới có thành công.

 Chúng tôi rất mong muốn mọi người
hãy tự suy nghĩ cho rõ ràng, thấu đáo mà quyết định làm việc đúng đắn để khỏi
phải ân hận về sau. Một phút giây mê lầm, một ngàn năm đau khổ. Vì kiến chấp,
thói quen nên biết mà cố phạm, dù biết là tội lỗi, xấu xa, đê tiện, nhưng không
cưỡng lại được thói quen, do lòng tham con người, nên đành chịu chấp nhận khổ
đau mà thôi.

NGHIỆP THỨC CHE ĐẬY

 Để minh họa cho hạng người phó mặc
cuộc đời cho số phận, buông xuôi cuộc sống theo dòng đời. Ta hãy cùng nhau quán
xét và chiêm nghiệm câu chuyện sau đây:

 Có một Phật tử đến hỏi đạo vị Thiền
,

 Bạch thầy, con chó có Phật tánh không?”

 Thiền sư đáp,

 Không.

 Vị cư sĩ này là người có học Phật
pháp
nên biết rất rõ ràng, từ chư Phật cho đến tất cả chúng sinh đều có thể
tánh
bình đẳng như nhau, ai cũng có tánh biết sáng suốt. Tại sao vị Thiền sư này trả lời là không có. Như vậy là trái với
lời Phật dạy hay sao?

 Vị Thiền
nói tiếp,

 Vì bị nghiệp thức che đậy.

 Hôm sau
một người khác hỏi,

 Kính bạch Hòa Thượng, con chó có Phật tánh
không?

 Thiền sư trả lời:

 Có.

 Nghe vậy, vị cư sĩ này tá hỏa tam
tinh.

 Nếu có, tại sao nó chui vô đãy da lông lá
lù xù?

 Vì biết mà cố phạm.

 Cũng cùng một câu hỏi mà Thiền sư
trả lời lúc thì có, lúc thì không. Thế thì câu nào đúng, câu nào sai? Tại sao vị
Thiền sư lại trả lời cho hai người với hai ý trái ngược nhau như vậy? Nếu là
người có học Phật, quý vị sẽ thấu rõ chỗ này!

 Đó là cách trả lời tùy bệnh cho
thuốc. Chúng sinh có nhiều bệnh thì Phật pháp có nhiều thuốc. Người trước hỏi
con chó có Phật tánh không, ngài trả lời không. Vị ấy lại hỏi tất cả chúng sinh
đều có Phật tánh, tại sao con chó lại không? Ngài trả lời, “vì bị nghiệp thức che đậy”.

 Chúng ta đã từng học qua kinh Phật,
đều biết rằng ai cũng có Phật tánh. Tại sao đức Phật nói tất cả chúng sanh đều
Phật tánh, mà ở đây Thiền sư lại nói không. Vậy có trái với lời Phật dạy
không? Để tìm hiểu cặn kẽ chỗ này, chúng tôi xin giải thích cho quý Phật tử được
rõ.

 Như đêm Rằm, trăng sáng bị mây
che khuất. Có người hỏi, đêm nay có trăng không? Dĩ nhiên là có, nhưng vì do
mây mù che khuất, không thấy được trăng, nên nói không, chứ không phải là không
mặt trăng.

 Phật tánh ví như mặt trăng, nghiệp
thức
ví như mây mù che khuất. Chúng ta bị nghiệp thức lăng xăng che mờ nên Phật
tánh không
hiển lộ ra được.

 Vậy nghiệp thức là gì mà che mờ
được tánh sáng suốt của mỗi chúng sanh? Thức là cái suy tư, nghĩ tưởng, phân biệt
tốt xấu, phải quấy, được mất, hơn thua… hết nghĩ cái này đến nghĩ cái khác. Bởi
vậy, có khi ta hiền như nai, có lúc lại dữ như cọp, nó chuyển qua, đổi lại lúc
thế này, khi thế khác, không bao giờ dừng nghỉ.

 Còn nghiệp là gì? Là năng lực,
là hành động từ thân, khẩu, ý được lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói
quen
, rồi thói quen đó có năng lực sai sử lại chúng ta.

 Thí dụ nghiệp uống rượu, lúc đầu
khi mới uống ta còn làm chủ được bản thân, muốn uống thì uống, không uống thì
thôi, không sao cả. Nếu ta uống rượu lâu ngày, trở thành thói quen, không có
chén rượu, ta cảm thấy chân tay bủn rủn không làm gì được, run rẩy, mệt mỏi, rã
rượi tâm thần. Người can đảmý chí dũng mãnh, biết được tai hại của rượu,
nên cố gắng từ bỏ một cách dễ dàng. Còn người bạc nhược, yếu đuối thì đành chấp
nhận
cho nó khống chế, cam chịu sống trong si mê, nghiện ngập, suốt đời bần
cùng, khốn khổ. Chính cái thói quen huân tập lâu ngày, trong nhà Phật gọi là
“nghiệp thức.”

 Thói quen thì đa dạng, đa năng,
như ta quen suy nghĩ hơn thua thì bất cứ làm việc gì ta cũng so đo, tính toán,
tính hơn, tính thua… Do đó, việc làm của chúng ta bị giới hạn, thậm chí khi vào
hội chúng trong chùa nghe giảng pháp, chỉ cái chỗ ngồi mà có người cứ loay hoay
xem chỗ này hơn, chỗ kia kém v.v…

 Bởi do cái tánh so bì, thiệt
hơn đã trở thành thói quen của mình rồi. Đã là thói quen thì khó có thể bỏ được.
Do đó, Phật tử chúng ta phải ý thức được điều này, đừng để nó trở thành cái quả
xấu rồi than trời, trách đất, đổ thừa tại thế này, tại thế kia.

 Đức Phật đã chỉ cho chúng ta biết,
mọi người đều có Phật tánh, nhưng vì ta cứ mãi mê chạy theo trần cảnh, nên
không tin, không thấy. Vì sao? Vì bị nghiệp thức che đậy, bởi do ta hết suy
nghĩ
cái này, lại tính toán cái kia, từ sáng đến chiều không lúc nào dừng nghỉ,
thậm chí đến lúc lên giường ngủ mà vẫn còn tính toán.

 Đó là thói quen thâm căn cố đế của đại đa số con người. Tạp
niệm lúc nào cũng dấy khởi liên tục không dừng, giống như những đêm mưa, mây
đen liên tục kéo đến che khuất mặt trăng. Cho nên, mặt trăng lúc nào cũng có,
mà ta không nhìn thấy nó được. Muốn thấy mặt trăng thì mây phải tan, muốn thấy
Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Các Tổ thường nói, “chẳng sợ niệm khởi, chỉ
sợ giác chậm”. Niệm ví như mây đen. Khi niệm dấy lên, ta nhìn lại xem nó ở đâu?
Ta không muốn có nữa thì chúng tự tan. Rõ ràng là chúng không thật. Tuy nó
không thật, nhưng nếu ta không biết dừng thì nó lớn mạnh thêm, và có thể tạo
nghiệp tày trời trong khoảnh khắc.

 Thí dụ, khi nhìn thấy một cô gái
đẹp, trong tâm liền khởi lên ý nghĩ muốn sỡ hữu cô gái ấy. Nếu ngay lúc ấy, ta
biết suy xét phải quấy mà dừng ngay ý nghĩ thì mọi chuyện sẽ êm xuôi, tốt đẹp,
nhưng nếu đam mê chạy theo, tìm cách chiếm đoạt, từ đó sanh ra chuyện bám víu,
suy nghĩ bậy bạ có thể dẫn đến chuyện xấu xa, đê tiện. Vì sao? Bởi vì giác quá
chậm hoặc không chịu giác. Nếu khi niệm mới vừa chớm nở, ta liền nhìn lại xem
hình tướng nó ra sao thì đâu có chuyện gì xảy ra. Do đó, các Tổ nói “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm” là
như vậy.

PHƯƠNG PHÁP AN TÂM

 Thuật của các Tổ là khuyên chúng
ta
hãy nhìn lại từng niệm khởi của mình, không cho chúng phát sinh từ niệm đầu
tiên thì sẽ không có chuyện gì xảy ra làm hư hại cuộc đời. Như ngài Thần Quang
trước khi gặp Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma, dù ngồi Thiền cả ngày mà tâm niệm vẫn cứ lăng
xăng
, loạn động. Một hôm gặp Tổ, Ngài thưa rằng,

 Tâm con không an, xin thầy chỉ dạy.

 Tổ bảo,

 Đem tâm ra ta an cho.

 Theo thói thường, ta thấy tâm của
mình là thật, tôi suy nghĩ, tôi tính toán, tôi như thế này, tôi như thế kia… Ở
đây, Tổ không nói cái gì cao siêu mà chỉ bảo rằng, “đem tâm ra ta an cho”. Ngài
không biết làm sao đem cái tâm ra trình cho Tổ, bởi tâm thì lúc ẩn, lúc hiện,
nên khi nhìn lại không thấy tâm ở đâu, do đó Ngài thưa với Tổ,

 Con tìm tâm không thể được.

 Tổ bảo:

 Ta đã an tâm cho ngươi rồi.

 Như vậy, an tâm là ở chỗ nào? Chỗ
này quý vị phải nhìn kỹ lại mới thấy rõ ý sâu xa của nó.

 Đây là diệu thuật của các Tổ,
“pháp an tâm” của các Tổ rất bình thường, bình thường đến nỗi ta không thể ngờ
được. Khi sân khởi lên, ta biết tâm có sân, biết một cách rõ ràng, không nhầm lẫn,
đó là “pháp an tâm.” An tâm mà không có chỗ an, hay là “tâm bình thường”, tức
là đạo vậy. Vậy “tâm bình thường” là sao? Là thường biết rõ ràng, nói không thể
đến.

 Lúc còn đi hành cước tìm đạo, Thiền
Triệu Châu đến tham vấn ngài Nam Tuyền:

 Thế nào là đạo?

 Tâm bình thường là đạo.

 Lại có thể nhằm tiến đến chăng?

 Nghĩ nhằm tiến đến là trái.

 Nếu không nghĩ thì làm sao biết là đạo?

 Đạo chẳng thuộc biết hay chẳng biết, biết
là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như
không
thênh thang, rỗng rang, đâu thể gắng nói phải quấy.

 Ngay câu nói này, Thiền sư Triệu
Châu
ngộ đạo, nhận ra bản tâm thanh tịnh, sáng suốt của mình ngay nơi thân này.

 Theo Thiền sử Trung Hoa, Thiền sư
Triệu Châu pháp hiệu là Tùng Thẩm, vì ở thành Triệu Châu lại được người đời tôn
trọng
, quý kính nên họ không gọi tên thật mà lấy tên địa danh ấy đặt cho Ngài.
Ngài sống thọ 120 tuổi, ngộ đạo lúc 18 tuổi, đi hành cước khắp nơi, đến 80 tuổi
mới lập Thiền viện dạy chúng. Ngài là người nổi tiếng và xuất cách trong thời bấy
giờ, độ vô số người không thể tính kể.

 Đạo là tên gọi khác của Niết bàn
chân như, là cái biết chân thật luôn hiện hữu nơi mỗi người chúng ta. Nếu ta vừa
khởi nghĩ tìm kiếm đạo, tức không thể nào thấy được đạo. Vì tìm kiếmtrái với
lẽ thường, trái với đạo lý, còn nếu có ý nghĩ mà biết thì cái biết này là vọng
giác, dù là nghĩ những điều thánh thiện hay Phật tổ.

 Một triết gia nói như sau, “tôi suy nghĩ nên tôi hiện hữu”. Nếu vậy thì
khi nghĩ tốt là tôi, còn khi nghĩ xấu là ai? Trong một ngày với cả trăm ngàn
cái suy nghĩ. Vậy cái suy nghĩ nào là tôi? Cái suy nghĩ nào không phải là tôi?
Như vậy điều phải là tôi, còn điều quấy là ai? Đã là tôi thì phải có chủ thể cố
định trước sau như một, không biến đổi theo thời gian năm tháng, còn cái suy
nghĩ
khi tốt, khi xấu, lúc thiện, lúc ác thì sao? Vậy cái hay suy nghĩ có phải
là tôi chăng? Chắc chắn không phải vậy, nhưng đa số người đời cho là như thế”.

 Từ đó, sinh ra kiến chấp rồi tham
lam
giành lấy, chiếm đoạt về cho riêng mình. Tham được thì thêm tham, tham
không được thì sanh ra thù hận, oán ghét, tìm cách trả thù, trả đũa. Thế gian
luôn luôn tàn sát, giết hại lẫn nhau cũng chỉ vì chấp ngã mà dẫn đến chiếm hữu,
cũng do chấp ngã nên con người thường cho mình là trọng tâm của vũ trụ, thấy
mình là quan trọng hơn thiên hạ, nên từ đó sanh tâm cống cao ngã mạn, coi ai chẳng
ra gì.

 Do đó, Thiền sư nói, “nếu suy nghĩ thì không đến với đạo được, vì
tâm chẳng khác chi người đời”
. Còn ta để tâm mờ mịt, không biết gì thì thuộc
về vô ký, giống như vật vô tri, vô giác vậy, không còn biết gì nữa. Thế là cũng
không thấy được đạo. Còn khi thấy đây phải, kia quấy thì không còn bình thường,
tức là cách xa với đạo. Bởi do ta thường hay chấp cái giả là thật, nên không nhận
ra
cái chân, dù nó lúc nào cũng hiện hữu không bao giờ thiếu vắng. Vì cái thật
thì trước sau như một, không hề thay đổi, còn những gì luôn biến chuyển sinh diệt
thì dĩ nhiênkhông thật.

 Khi thấy chỉ là thấy, khi nghe chỉ
là nghe, thấy tức là biết, khi vui biết vui, khi buồn biết buồn, ta phải biết
rõ ràng như vậy. Một hôm, tổ Huệ Khả sau thời gian nhận pháp an tâm, rồi đến
trình Tổ sư:

 Con đã dứt hết các duyên.

 Coi chừng rơi vào không.

 Không rơi được.

 Làm sao con biết?

 Con rõ ràng thường biết, nói không thể đến.

 Đây là chỗ truyền của chư Phật,
xin chớ có hoài nghi. Khi mắt thấy sự vật, xanh biết xanh, đỏ biết đỏ, sự vật
như thế nào biết rõ như thế đó, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, cảnh vật
xưa nay chẳng cột trói mọi người hay làm đau khổ cho ai cả. Bởi vì con người vọng
động sinh ra thức tình mà muốn chiếm đoạt, giết hại lẫn nhau, nên tự chuốc lấy
quả khổ đau, bất hạnh.

 Từ chỗ chấp cái hiểu biết, suy tư,
nghĩ tưởng là mình trong hiện tại, đó là cái nhân thúc đẩy con người dẫn đến thọ
sinh trong đời sau, nên gọi là nghiệp nhân. Rồi từ nghiệp nhân đó, khi hội đủ
nhân duyên, nơi nào thích ứng liền chiêu cảm đến, tạo ra đời sống mới qua hình
dạng khác.

BIẾT MÀ CỐ PHẠM

 Con người ra đời là do niệm ái dục,
luyến mến nhau chiêu cảm, tạo ra một thứ ánh sáng, người bình thường không thể
nhìn thấy được. Khi người cha đang giao hợp với người mẹ, tinh trùng của người
cha (dương) và hòa hợp với noãn bào của người mẹ ( âm) phát ra một thứ ánh
sáng, nhà Phật gọi đó là lửa dục. Âm dương hiệp nhau, cộng với chu kì người mẹ
thọ thai, hợp cùng sức mạnh của nghiệp ái đang chờ đầu thai, thúc đẩy thần thức
đến cảm thọ để tái sanh.

 Nếu duyên sinh ra người nam thì
thần thức ấy sẽ thích thú với người mẹ; ngược lại, duyên sanh ra người nữ thì thần thức
sẽ cảm thọ với người cha, tạo nên một kiếp sống mới với thiên hình vạn trạng.

 Từ đó, chủng tử nghiệp nhân ngủ
ngầm do chấp nhận tâm suy tư nghĩ tưởng là thật, tạo ra sự máy động liên tục,
phát triển cho đến tuổi trưởng thành, dẫn đến sự yêu thương, hẹn hò, rồi đi đến
hôn nhân, tiếp tục phát triển thêm nghiệp tình ái, tạo ra các thứ tình: tình
cha con, mẹ con, tình chồng vợ, tình bằng hữu, tình gia tộc, tình xã hội và đủ
các thứ tình cảm trong đời sống, nhà Phật gọi là “thất tình lục dục”, để rồi tạo
ra không biết bao sợi tơ cột trói con người trong vòng lẩn quẩn của các thứ
tình, nên gọi là “nghiệp tình ái”. Nó giống như con tằm nhả tơ quấn quanh thân
mình, làm kén để bảo tồn sự sống, nhưng khi được kín đáo, trọn vẹn rồi lại bị
người ta cho vào lò nước sôi để chịu chết; do đó, tạo thành thói quen, muôn đời
muôn kiếp hễ sanh ra giống hữu tình thì đều bị “nghiệp tình ái” ham muốn thôi
thúc
.

 Có người không đủ duyên kết thành
chồng vợ chính thức, họ tự tìm kiếm “tình một đêm”, tạo ra oan gia không có chồng
mà có thai. Một câu chuyện có thật được đăng trên báo phụ nữ: Người con gái khoảng
hai mươi bốn tuổi đang làm việc tại một khách sạn nọ, bỗng thấy một chàng thanh
niên ăn mặc lịch sự, bảnh trai bước vào. Vừa nhìn thấy lần đầu tiên, trái tim
cô gái nọ đã bị rung động trước sự hấp dẫn của chàng trai kia. Tiếng sét ái
tình
làm cho cô gái mất hết hồn vía. Thế rồi nhịp đập con tim thôi thúc, cô ta
tìm cách làm quen với chàng trai nọ. Nhưng làm quen bằng cách nào đây? Cuối
cùng
, cô ta cũng tìm ra phương pháp hấp dẫn nhất để thu hút chàng thanh niên,
cô ta giả vờ té, ngã người vào chàng trai ấy để hai người có dịp gặp gỡ. Và
cũng trong đêm đó, hai người đã tạo ra “tình một đêm”, và nàng đã có mang dù chỉ
một lần với người ấy. Sau này, cô ta đến tư vấn hôn nhânhạnh phúc gia đình.
Cô nói, “tôi không thích có chồng, tôi chỉ thích có con”. Cái gì đã thôi thúc
cô hành động như thế? Phải chăng là nghiệp tình ái, hay tiếng sét ái tình thúc
đẩy?

 Vì thế mà đức Phật nói, “nếu trên đời này có cái thứ hai giống như
nghiệp tình ái, thì thế gian này không ai tu được, may mà chỉ có một thứ mà đã
làm điêu đứng loài người”
. Đó là câu chuyện về người nữ.

 Còn người nam thì sao? Đến tuổi
trưởng thành thì tâm sinh lý bắt đầu phát triển, cộng với sự tưởng tượng của
khoái lạc qua phim ảnh, sách báo đã thôi thúc những người này tìm chỗ giải quyết
dù chưa có vợ. Có người không đủ phương tiện tài chánh, nên đã tự mình tạo ra
khoái lạc. Có người vì quá đam mê ái tình sâu đậm, nên đã dẫn đến tình trạng hiếp
dâm, cưỡng dâm, làm mất đi nhân tính của con người. Nhiều người vì vướng mắc
vào nghiệp tình ái nên phải chịu khổ đau. Trong lòng quá thương nhớ nên trong
tâm họ lúc nào cũng nghĩ đến người tình. Do đó, họ luôn đau khổ, có khi giống
như một cái xác không hồn:

 Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

 Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ
ai.

 Họ thơ thẩn, thẫn thờ, sống không
ra sống, chết chẳng ra chết. Đó gọi là một thứ tình, tình yêu đơn phương. Không
có gì đau khổ bằng khi tình yêu đơn phương phát sinh trong lòng ta. Điều này
cho thấy, đây là thói quen do ta huân tập nhiều đời, nhiều kiếp, cho nên không
ai chỉ dạy mà ta vẫn biết.

 Người đời
thường nói, sắc đẹp không phải là biển lớn, nhưng nó có thể nhấn chìm biết bao
người tài hoa, do đó mà nhiều người nói rằng, thà chịu khổ, hơn chịu lỗ, thà sống
có lứa đôi, tuy bị trói buộc mọi thứ, nhưng người ta vẫn chấp nhận. Vì nghiệp
tình áisức mạnh hấp dẫn, lôi cuốn, là nguyên nhân trói buộc biết bao con
người
. Vậy mà ai cũng ưa thích, đến khi bị khổ đau thì than thân, trách phận.
Truyện Kiều phản ảnh tình trạng đó qua hai câu thơ:

 Đã mang lấy nghiệp vào thân

 Cũng đừng trách lẫn trời gần
trời xa.

 Đã gây nhân thì phải gặt quả, ta
làm ta chịu, chứ đổ thừa cho ai. Người đời không bao giờ lo tránh cái nhân ác,
đến khi gặp quả xấu thì đổ thừa tại, bị, thì, là …

 Lại mang lấy một chữ tình

 Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.

 Vì vậy, người thế gian khi hai
trong một người, hoặc vợ hoặc chồng mất đi, họ liền tìm kiếm người khác thế vào
chỗ trống đó để tâm tình. Sống một mình độc thân, tự do, tự tại không chịu, phải
tìm kiếm người để tâm sự tình tứ, giống như “ cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng mấy thở nào ra”.

 Trở lại câu chuyện con chó có Phật
tánh
không? Không! Vì sao? Vì bị nghiệp thức che đậy. Có mà cũng như không, vì
ta mải mê chạy theo sắc đẹp, tiền tài, danh vọng, ăn no, ngủ kỹ… nên đành cam
chịu
khổ đau. Đó là trường hợp thứ nhất. Còn trường hợp thứ hai thì sao? Con
chó có Phật tánh hay không? Có! Nếu có, tại sao nó chui vô đãy da lông lá lù
xù? “Vì biết mà cố phạm”. Chúng ta
nghe thật là lạ lùng.

 Ai cũng tỏ ra là mình thông minh,
mình sáng suốt, tôi làm cái này, tôi làm cái kia, nếu người có ý thức một chút,
biết làm thế nào là phải, thế nào là trái. Tuy hiểu biết như vậy, nhưng mấy ai
bỏ được thói quen xấu của mình. Do vậy mà Thiền sư nói “vì biết mà cố phạm”. Muốn vượt qua hai trạng thái không trong câu chuyện trên, ta phải biết áp dụng lời Phật dạy để
chuyển hóa dần dần những si mê sai lầm của con người bằng cách:

1. Thường xuyên đọc tụng kinh
điển
Phật giáo.

2. Tin lời đức Phật nói ra có
tác dụng chuyển hóa khổ đau cho con người, sự ra đời của đạo Phậtcon người.

3. Sám hối làm lại cuộc đời.

4. Tập làm phước, bố thí cúng
dường
, giúp đỡ ,chia sẻ hay nâng đỡ.

5. Ứng dụng các pháp tu niệm
Phật
, quán tưởng, ngồi Thiền, quán hơi thở, quán duyên sanh…

ĐỌC KINHLỢI ÍCH GÌ?

 Tại sao ta phải đọc tụng kinh điển?
Có nhiều người thường xuyên đi chùa, tụng kinh đều đặn, họ cho rằng tụng kinh để
được thông minh. Như vậy có đúng không?

 Trước hết, ta cần tìm hiểu kinh
là gì? Kinh là sách ghi lại những lời Phật dạy về giáo dụcđạo đức, là
phương cách tu tập để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc, nhằm
giúp cho con người vượt qua cạm bẫy của cuộc đời. Tụng kinh là đọc lại và chiêm
nghiệm
những lời Phật dạy để hiểu đúng chính xác điều tốt, điều xấu, hướng về
những việc lợi ích cho con ngườithực hành. Ta nên áp dụng những điều Phật dạy
vào trong đời sống hằng ngày, nhằm đem lại an vui, lợi lạc cho mình và cho tất
cả mọi người trong xã hội.

 Tụng kinh là cơ hội tốt nhất để
ta học hỏi, tư duy, quán chiếu, soi xét lại chính mình. Nhờ tư duy, quán chiếu
mà thấy được rõ ràng chỗ si mê chấp ngã. Do ta thấy bản ngã là trên hết, không
thấy được lẽ thật, nên hành động, nói năng không đúng chánh pháp, gây đau khổ
cho người.

 Nếu ta thường xuyên áp dụng lời
Phật dạy
thì dần dần trở nên sáng suốt, thấy rõ ràng các việc đúng, sai trong
cuộc đời, thấu rõ mọi hiện tượng, sự vật đều do nhân duyên hòa hợp mà thành.
Cái này có thì cái kia có, cái kia không thì cái này không.

 Khi hiểu được như vậy, ta sẽ bớt si mê, tham lam
quá đáng, không còn bi quan yếm thế, chán đời, luôn sống với tinh thần đùm bọc,
yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết, biết cảm thôngtha thứ
với tinh thần vô ngã, vị tha.

 Tóm lại, mục đích của việc đọc tụng
kinh Phật không phải để trả bài, tính điểm với Phật, mà mục đích là để nâng cao
trình độ nhận thức, thấy biết rõ ràng, chính xác cái nào là thật, cái nào là giả,
cái nào là tốt, cái nào là xấu, để rồi ta sẽ biết tìm cách ứng dụng vào trong đời
sống hàng ngày mà sống an lạc, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại.

 Tụng kinh là để thường xuyên trau
dồi ba nghiệp thân-miệng-ý hằng thanh tịnh, sáng suốt để được an lạc, hạnh phúc
ngay tại đây và bây giờ. Tụng kinh để được thấm nhuần lời Phật dạy, là phương
pháp
hành trìlợi ích thiết thực, giúp cho người đọc tụng thấu hiểu rõ ràng
thực tướng của vạn vật, để mỗi ngày chúng ta gội rửa thân tâm thêm trong sạch từ
thân-miệng-ý.

 Tụng kinh không phải để cầu khẩn,
van xin đức Phật giúp cho mình được tai qua nạn khỏi, gia đình mạnh khỏe, làm
ăn được nhiều tiền của. Tụng kinh không phải là sự mua bán, trao đổi để được dồi
dào
, hạnh phúc.

 Tụng kinh là cơ hội để ta trau dồi
ba nghiệp thân-miệng-ý hằng thanh tịnh, sáng suốt, nhằm chuyển hóa nỗi khổ, niềm
đau thành an lạc, hạnh phúc. Có một câu chuyện nhờ tụng kinh mà thoát khổ:

 Tại làng nọ, có một người chết đã gần bảy
ngày rồi, nhưng nơi ngực vẫn còn ấm, xác không có dấu hiệu huỷ hoại, thối rửa,
nên người nhà không tẩn liệm. Đến một đêm, người đó bỗng nhiên sống lại và kể
cho người nhà nghe rằng, …

 Lúc đang nằm ngủ thấy thần thức thoát ra khỏi
thân, bay đến một dinh thự thật nguy nga, đồ sộ. Trong sân vườn của dinh thự
rất nhiều người với đủ mọi hình dạng. Khi vừa đến nơi, có hai người liền xông tới
kéo tay tôi dắt vào dinh phủ, gặp một người tướng mạo uy nghi, to lớn ngồi giữa
bệ rồng. Hai người hầu cận liền bắt tôi quỳ xuống để diện kiến vua Rồng, vua hỏi,

 Nhà ngươi ở nhân gian làm nghề gì? Có làm
điều gì phước thiện không?

 Tôi liền trả lời,

 Mỗi khi chùa làng có giảng kinh pháp, tôi
luôn tạo điều kiện hỗ trợ và bố thí vật thực để giúp đỡ mọi người.

 Vua rồng hỏi tiếp,

 Ngoài việc đó ra, hàng ngày ngươi còn làm
việc gì nữa không?

 Dạ bẩm ngài, con tụng kinh hai quyển mỗi
ngày.

 Vậy ngươi tụng kinh cho ta nghe thử xem.

 Tôi liền tụng vanh vách bản kinh Pháp
Hoa
, vua Rồng chăm chú nghe tôi tụng một lúc, rồi phán rằng,

 Nhờ phước đức tụng kinhbố thí vật thực,
thay vì ngươi phải chịu quả báo chết khổ, nay ta cho ngươi được trở về dương thế
để tiếp tục sống mà giúp người, cứu vật.

 Lúc đó, tôi liền niệm câu Nam Mô Đại Từ Đại
Bi
Quán Thế Âm Bồ tát, nên thần thức trở lại về nhà. Thấy họ hàng thân thuộc
đang khóc lóc và chuẩn bị lo tẩn liệm, thần thức của tôi liền nhập vào thân
xác, nên sống lại kể cho mọi người nghe.
Từ đó, họ hàng thân thuộc cùng gia đình tôi luôn tín tâm Tam Bảo, hay
làm những điều phước thiện, và hàng ngày trì tụng kinh và niệm Bồ Tát Quán Thế
Âm
.

 Câu chuyện trên đã cho ta một
bài học quý giá và lợi ích của đọc tụng lời Phật dạy qua kinh điển Phật giáo. Kinh
Pháp Hoa
nói cho đủ là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Pháp ở đây tức là lời dạy của đức
Phật
, chữ Diệu là sâu kín, nhiệm mầu, vi diệu, không thể nào dùng bút mực diễn
tả
cho hết ý nghĩa của nó. Liên hoa tức là hoa sen, những lời Phật nói giống
như hoa sen mọc lên từ bùn mà không bị bùn lầy làm ô uế.

 Thực tế cốt chuyện đã cho ta thấy,
khi người sống được với tâm chân thật của chính mình thì được tự do, tự tại,
tùy duyên giáo hóa, cứu độ chúng sanh, không còn bị ngăn ngại. Đó là người đã sống
được với kinh Pháp Hoa, còn ta là người phàm, mắt thịt, chưa thông suốt được đạo
làm người, cho nên cần phải đọc những lời dạy của chư Phật để mỗi ngày sống
làm sao cho có ý nghĩagiá trị vì lợi ích của mọi người.

 Chỉ đọc tụng kinh suông cũng đã lợi
ích
, huống hồ là áp dụng vào trong đời sống hằng ngày thì khổ đau sẽ không có mặt,
hạnh phúc sẽ đến với mọi người. Tụng kinh để ba nghiệp thân-khẩu-ý hằng thanh tịnh,
luôn phát triển hạnh lành vì lợi ích tha nhân, lợi ích cho số đông, đó là bản
hoài
của chư Phật.

 Muốn được như vậy, khi tụng kinh, quí Phật tử phải chí thành, chí kính,
tập trung cao độ hướng về nội dung, khắc cốt ghi tâm lời dạy của chư Phật, ứng
dụng
trong mọi hoàn cảnh sống của cuộc đời để nhổ sạch gốc rễ si mê, sân hận,
tham lam, ích kỷ, bỏn xẻn.

 Tụng kinh như thế cũng là một pháp
môn
hành trì tối hậu, tùy bệnh cho thuốc, thuốc hay thì bệnh lành, tùy theo khả
năng của mỗi người mà ta chọn lựa phương pháp thích hợp để chuyển hóa khổ đau
thành an lạc.

 Tụng kinh có nhiều lợi ích thiết
thực
như thế, nên đức Phật đã tu bằng kinh nghiệm xương máu của chính mình, rồi
truyền đạt lại cho ta. Cho nên, người con Phật phải kiên trì tụng kinh, niệm lời
Phật dạy
.

TIN PHẬT LÀ NGƯỜI GIÁC NGỘ

 Ta phải tin lời Phật dạy nói ra
không hư dối, bởi sự ra đời của đạo Phật là vì con người, ngài chỉ cho mọi người
rằng ai cũng có khả năng thành Phật như nhau, chỉ vì ta chẳng chịu thừa nhận
thôi, “Ta là Phật đã thành, các người là
Phật sẽ thành.”
Do đó, người xưa đã nói như sau,

Đêm đêm ôm Phật ngủ

Ngày ngày cùng Phật dậy

Ngồi đứng hằng theo nhau

Nói nín cùng chung

Mảy may chẳng tạm rời

Như hình cùng với bóng

Muốn biết nơi Phật đi

Chỉ chỗ nói năng ấy.

 Bài kệ trên cho ta thấy, ai ai
cũng có tánh Phật, nhưng vì mãi mê chạy theo trần cảnh, vọng động, phân biệt
theo thức tình, nên ta đành chôn vùi ông Phật của chính mình.

 Nếu khôngvậy thì ai thấy, ai
nghe, khéo thấy, khéo nhận thì một đời hết khổ đau. Vậy thành Phật là thành cái
gì? Phải thành Phật là thành cái thân năm bảy chục kí này phải không? Ta phải
nhớ rằng, thành Phật là thành cái tâm thanh tịnh sáng suốt, thấy biết đúng như
thật
, sự vật thế nào thấy biết đúng như thế đó, thật biết thật, giả biết giả, vẫn
sống, sinh hoạt như mọi người, nhưng không dính mắc đam mê, tức là hằng biết,
thật biết, khi đau thì biết đau, khi đói thì biết đói, khi nóng thì biết nóng,
khi lạnh thì biết lạnh, khi đau ở chỗ chân thì ta biết chân đau, đau là thân tứ
đại
này đau, chớ tâm biết đâu có đau.

 Bởi vì ta hay quen cho rằng, cái
tâm suy tư, nghĩ tưởng là mình mà bỏ quên cái tâm thường biết hiện hữu. Do đó,
khi Thiền sư Đức Sơn bệnh, có vị tăng đến thăm hỏi,

 Hòa Thượng bệnh, có cái chẳng bệnh chăng?

 Có.

 Tăng hỏi tiếp,

 Thế nào là cái chẳng bệnh?

 Ngài đáp,

 Ui da! Ui da!

 Nghe Ngài trả lời như thế, ta dễ
hiểu
lầm, vì mọi người ai cũng đều biết đau vậy. Ngài trả lời như vậy có gì đặc
biệt
đâu, cũng giống như bao người thế gian thôi. Ở đây, ta phải tìm hiểu cho
chín chắn để thấy khi thân bệnh, cái hay biết đó đâu có bệnh, nên khi hỏi Ngài
trả lời có, vì có nên nói “Ui da!”.

 Là Phật tử, nếu thường xuyên biết
như thế, đâu có quên mình theo vật để chịu khổ đau. Ví như cái biết nghe ở căn
tai, nếu có người hỏi, “anh đang làm gì
đó?
Tôi đang nghe”. Tức là, ta đang
sống với tánh nghe của mình. Khi nghe âm thanh ta cho là có nghe, khi âm thanh
mất đi thì cho rằng không nghe. Khi có tiếng thì nghe có tiếng, khi không tiếng
thì nghe không tiếng. Cái hay nghe có mất bao giờ đâu, nên lúc không có âm
thanh
cho rằng không nghe. Ai biết không nghe? Vì thế mà biết chỉ có một.

 Nương nơi mắt gọi là biết thấy,
nương nơi tai gọi là biết nghe, nương nơi mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế.
Đó là cái biết chân thật, sáng suốt, nương nơi sáu căn của mỗi người chúng ta. Ai
sống được như vậy, biết được như vậy thì làm gì còn khổ tâm.

 Bởi cái bệnh muôn đời của ta cho
cái thấy chạy theo trần cảnh phân biệt, tốt xấu vọng động, cái hay suy nghĩ của
mình là đúng. Vì cho rằng mình đúng nên một bề chấp cái thấy của mình, không chấp
nhận cái thấy của người khác, ví như năm cô gái ra chợ mua vải về may đồ, nhưng
mỗi cô chọn một màu khác nhau, bởi cô cho màu đỏ là đẹp, cô khác cho màu xanh
là đẹp.

 Vì vậy, tùy theo sự phân biệt của
mỗi người, làm cho cái thấy đẹp nó khác nhau, bởi ai cũng nghĩ mình là đúng, nên
cho rằng người khác sai. Nếu không thông cảm cho nhau, dẫn đến đấu tranh, đấu
khẩu, tạo thành ý thức hệ oán giận, thù hằn, tìm cách trả thù nhau.

 Nếu chuyện nhỏ thì chỉ rắc rối giữa cá nhân với
cá nhân, chuyện lớn hơn thì gia đình với gia đình, lớn hơn nữa là quốc gia này
với quốc gia khác. Từ đó, ngòi đấu tranh bùng nổ, khổ đau từ từ lan rộng, tạo
ra mâu thuẫn cuộc đời, chống đối lẫn nhau. Cũng chỉ vì chấp chặt cho là mình
đúng nên mới dẫn đến chiến tranh, binh đao tàn sát, giết hại lẫn nhau là như vậy.

LỢI ÍCH SÁM HỐI

 Ai trong chúng ta không một lần vấp
ngã
dù ít hay nhiều, nhưng quan trọng hơn hết là khi vấp ngã ta có chịu đứng
lên hay không.

 Người xưa nói: người không gặp hoạn
nạn
không biết quay đầu. Ai cũng có hiểu biết, có tâm lành, nhưng vì mãi ngu si,
mê muội chạy theo phong tục, tập quán của thế gian, ai làm sao tôi làm vậy, ai
làm bậy tôi làm theo. Do đó, đại đa số chúng ta bị vấp ngã, thất bại rồi cam chịu khổ đau mà than phân trách phận. Cho đến khi nhân duyên đã chín mùi chúng ta mới suy nghĩ lại và tỉnh ngộ ra, mới biết Phật Pháp là rất cần thiết cho mọi người, nhằm giúp
cho ta chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

 Đạo Phật không dạy chúng ta trốn
tránh
cuộc đời, mà dạy ta dũng cảm đối diện với cuộc đời, dùng nhận thứctừ
bi
, trí tuệ để chuyển hóa chính mình, vượt qua khổ đau của cuộc đời nhằm xây dựng
nếp sống gia đình an vui, hạnh phúc, góp phần xây dựng cho xã hộithế giới
hòa bình, an lạc.

 Sám hối để làm mới lại chính mình. Sám là sám lỗi trước, nguyện
không tái phạm lỗi lầm. Hối là ngăn ngừa lỗi lầm sau khi phát sinh. Sám hối
đúng nghĩa là phải có tâm hổ thẹn và cầu tiến. Người biết hổ thẹn sẽ không dám
để cho tội lỗi phát sinh hoài do sự thành tâm sám hối, thì tội lỗi dần dần được
tiêu trừ.

 Sám hốitinh thần cầu tiến,
làm mới lại cuộc đời với tinh thần cầu tiến, biết hổ thẹnmong mỏi làm mới lại
chính mình. Nhờ sám hối mà ta không tái phạm lỗi lầm. Sám hối với lòng chí
thành
tha thiết sẽ giúp ta từ từ sạch hết tội lỗi.

 Sám hốiăn năn, hối cải những
tội lỗi đã làm, không phạm lỗi cũ, không tạo lỗi mới. Có sám hối là có tiêu mòn
tội lỗi. Người đời thường khi có tội lỗi thì tìm cách che giấu, ém nhẹm hoặc ngậm
máu phun người, đổ lỗi cho người khác. Do đó tạo thêm oán giận, thù hằn, ngang trái
với nhau thường dẫn đến việc ân đền oán trả là vậy.

 Người Phật tử chân chính là biết sám hối để làm lại cuộc
đời
, làm mới lại chính mình. Tu có nghĩa là biết sửa, là thay đổi những thói hư,
tật xấu của mình, nhờ sám hối mà tâm ta ngày càng trong sạch. Khi có tội lỗi mà dám sám hối, hứa chừa bỏ, là một
hành vi can đảm và biết cầu tiến. Sám hối còn giúp cho cái tâm cống cao, ngã mạn
hoặc tự ti, mặc cảm dần dần được thuyên giảm.

 Người không biết sám hối quả thật
là người hèn nhát, không xứng danh là một con người huống chi là Phật tử, họ chấp
nhận
đi ngược lại quỹ đạo làm người, chấp nhận con đường đen tối của chính
mình. Sám hốiphương pháp sách tiến mạnh mẽ nhất. Nhờ sám hối mà người phàm
phu
dần dần tiến lên được bậc hiền Thánh. Người biết sám hối dù có tạo tội lỗi
bao nhiêu, họ sẽ là người tốt trong hiện tạimai sau.

LỢI ÍCH CÚNG DƯỜNG

 Trước tiên, đức Phật dạy ta lấy hạnh
bố thí làm đầu, bố thí cúng dường cha mẹ hay người tu hành chân chính, hoặc
giúp đỡ, sẻ chia với người nghèo khổ, thiếu thốn, khó khăn. Người xuất gia thì
bố thí pháp, người tại gia thì bố thí của cải, vật chất, hai hệ thống này nương
tựa tương quan chằng chịt lẫn nhau không thể thiếu, không thể tách rời nhau được.

 Khi đức Phật còn tại thế, có một
đệ tử tên là A-Na-Luật, do quyết tử tu hành nên bị mù lòa đôi mắt. Một hôm, y của
ngài bị rách, vì bị mù nên Ngài không thể xỏ kim được, Ngài mới lên tiếng “có ai xỏ kim giùm tôi?”. Ngay lúc đó, đức
Phật
liền đi đến xỏ kim hộ cho Ngài.

 Câu chuyện trên cho ta thấy một
bài học đạo lý làm người sáng ngời tinh thần từ bi rộng lớn, đức Phậtđấng
giác ngộ
hoàn toàn, là bậc đáng tôn kính ở đời mà vẫn không từ chối việc làm
phúc nhỏ nhoi. Ở đây, ta thấy người đã giác ngộ, giải thoát rồi sẽ không từ chối
một việc làm lành nào khi hội đủ nhân duyên, chứng tỏ rằng đạo Phật lúc nào
cũng đem đến an vui, hạnh phúc cho tất cả muôn loài vật. Như Lai Thế Tôn là bậc
tôn quý như vậy mà vẫn không từ nan bất cứ một việc lành nào.

 Học gương đức Phật khi xưa để
ngày nay ta cố gắng bắt chước làm theo hạnh của Ngài. Là người Phật tử, ta phải
ý thức được rằng, không phải chờ đến khi có nhiều tiền của mới bố thí, cúng dường,
giúp đỡ, chia sẻ. Người có của thì giúp đỡ vật chất, người không có của thì
giúp đỡ bằng công sức hoặc tấm lòng của mình, tùy hỷ khi thấy người chia sẻ,
tán thán công đức cúng dường.

 Phật dạy, “người
cúng dường và người phát tâm tùy hỷ, công đức bằng nhau. Người cúng dường thì
được phước báo không nghèo khổ, người tùy hỷ thì được phước báu không ganh tị tật
đố, bởi vì nhân ganh tị tật đố dẫn đến oán giận, thù hằn, tạo ra oan gia trái
chủ, trộm cướp, lường gạt, giết hại lẫn nhau”.

 Người nghèo khổ làm sao bố thí
cúng dường, chia sẻ? Chỗ này phải rứt ruột ra mà thôi, người nghèo thì giúp đỡ,
chia sẻ bằng tấm lòng, bằng hành động. Khi ra đường, thấy một người già đi đứng
khó khăn đang chờ qua đường, hoặc thấy người bị tai nạn không ai chăm sóc, ta
tìm cách đưa người đó tới trung tâm y tế nơi gần nhất, hoặc là ta thắt lưng, buộc
bụng, hy sinh bớt phần ăn của mình khi có người đến xin, ta chia sẻ phần ăn của
mình với tấm lòng thành kính, giúp đỡ người kia tạm qua cơn đói khát.

 Cúng dường hay giúp đỡ với tâm
chí
thành, chí kính không tính toán, nghĩ suy, thấy người khổ thì mình giúp.
Cúng dường hay bố thí như vậy, ai cũng có thể làm được, không phải chờ có nhiều
tiền của rồi mới biết bố thí. Ai muốn làm được như vậy, trước tiên phải tin sâu
nhân quả, tin lời Phật dạy có khả năng chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ,
chuyển khổ đau thành hạnh phúc.

 Như cô bé ăn mày kia, không biết gieo tạo nghiệp nhân gì mà từ khi còn tấm
bé, không có cha mẹ, bà con thân thuộc giúp đỡ. Cô phải kiếm sống bằng cách ăn
xin mỗi ngày, ngủ đầu đường, xó chợ, nay chỗ này, mai chỗ kia, cuộc sống thật
khốn khổ, bữa đói, bữa no. Cô thường buồn phiền, than thân trách phận tại sao đời
cô lại bất hạnh đến thế.

 Một hôm, tại chùa nọ có mở trai
đàn
bố thí giúp đỡ người nghèo. Được tin, lòng cô phấn khởi tự an ủi mình, cô muốn
đóng góp một cái gì đó, nhưng kiểm tra lại thì không có cái gì để đóng góp, cô
bèn phát nguyện nếu trong ngày ấy xin được bao nhiêu cô sẽ đem đến cúng dường hết
nơi trai đàn ấy.

 Hòa thượng trụ trì biết trước sự
việc sắp xảy ra, nên trước khi đi ra khỏi chùa, Ngài dặn đại chúng rằng, “hôm nay, có một vị đại thí chủ đến cúng dường,
các con phải chuẩn bị chiên trống để đón rước vị ấy”.
Mọi người trong chùa
ai cũng đinh ninh rằng chắc hôm nay có đức vua hay một vị quan lớn nào đó đến
cúng dường, nên Ngài mới sắp xếp như vậy.

 Do lời nguyện lớn lao như thế,
ngày hôm đó cô bé xin được hai tiền xu, thay vì dùng số tiền này để nuôi sống
qua ngày, cô một mực chí thành theo lời nguyện, liền hoan hỷ đến chùa cúng dường
với tấm lòng biết ơn vô hạn; nhưng với hai tiền xu, làm sao mua được gì để cúng
dường
, chỉ còn cách duy nhất là mua muối rồi đem gởi cho người làm bếp thì mới
có thể ai cũng có phần cúng dường của mình. Hôm đó, cả chùa đang hân hoan chuẩn
bị chào đón vị đại thí chủ đến, nhưng cả ngày chỉ thấy có cô bé ăn mày đến cúng
dường
muối mà thôi.

 Thời gian thắm thoắt trôi qua, cô
ăn mày vẫn với thân phận thấp hèn chẳng có gì thay đổi. Cô vẫn rày đây mai
đó, tiếp tục cuộc hành trình lang thang kiếp ăn mày chẳng biết bao giờ chấm dứt.
Nhưng sông có khúc, người có lúc, không có cái gì là cố định mãi. Nghèo là do không
biết bố thí cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ khi gặp người hoạn nạn hoặc gặp người
đáng kính.

 Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định,
cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt
mây trôi. Đạo lý nhà Phật nói rằng, mỗi con người ta có thể thay đổi hoàn cảnh
tùy theo khả năng, ý chí quyết tâm vươn lên mạnh mẽ của mỗi người.

 Có người thuở nhỏ nghèo khổ, khi trưởng thành lại biết làm việc
phước thiện
, siêng năng, chăm chỉ, cần cù làm việc có phương pháp, biết tiết kiệm
nên trở thành người giàu có.

 Là Phật tử, ta nên tìm hiểu cho
chín chắn lời Phật dạy để áp dụng trong đời sống hàng ngày. Mỗi ngày học Phật,
mỗi ngày tu tập sẽ giúp cho ta thay đổi cách nhìn cuộc sống, vì không cố định
nên ta mới tu hành được, mới làm lại cuộc đời mà vươn lên, vượt qua số phận tối
tăm
. Bởi lẽ cái gì cũng có nguyên nhân sâu xa của nó, không có cái gì bỗng dưng
khi không mà thành.

 Đức Phật dạy, “cái này có, cái kia có, cái này không, cái
kia không, cái này sinh, cái kia sinh, cái này diệt, cái kia diệt.”
Nhờ học
Phật, ta biết rõ ràng sự biến thiên thay đổi từ con người cho đến sự vật. Từ đó,
ta có cách nhìn thông thoáng hơn, bớt cố chấp, bớt dính mắc trong cuộc đời
cùng nhau sống thương yêu hơn
bằng trái tim hiểu biết.

 Trở lại câu chuyện cô bé ăn mày. Một
hôm nọ, có một vị quan trên đường đi tìm hiểu sự sống của người dân, vô tình thấy
được cô bé đang quấn chiếu ngủ bên vệ đường, động lòng thương cảm, vị quan gọi
cô bé lại, ân cần, hỏi han mới biết được sự việc là như thế, ông liền nhận cô
ta về làm con nuôi, cho ăn học đàng hoàng.

 Thời gian tiếp tục trôi qua, cô
bé đã lớn khôn, trở thành một cô gái kiều diễm, có vóc dáng, hình thức hài hòa.
Lúc này, nhà vua đang kén chọn vợ cho hoàng tử để chuẩn bị kế thừa ngôi vị. Cô
là người may mắn được chọn vào cung, và được thái tử chọn làm thê tử. Thế là cô
nghiễm nhiên trở thành một bậc mẫu nghi thiên hạ. Lúc này, cuộc đời cô đã thay
đổi hoàn toàn. Cô nhớ lại thuở hàn vi nghèo khó, với tấm lòng quý kính Tam bảo,
cô sắm soạn đầy đủ tứ sự cúng dường như y phục, tọa cụ, thuốc men, thức ăn uống
và nhiều tiền bạc, rồi dùng nhiều cỗ xe chở về chùa.

 Lần này, nhà chùa đón tiếp cô
không được nồng hậu và ưu ái như lần trước. Thấy vậy, cô mới thắc mắc nhờ giải thích. Hòa thượng trụ trì trả lời
như sau, “bởi trước kia cô cúng dường với tấm lòng quý kính tôn trọng, dám nhịn
một ngày ăn của mình để cúng dường Tam Bảo, như vậy không khác gì đã hy sinh
thân mạng của mình để cúng dường. Vì vậy, phước báu rất lớn không thể nghĩ bàn.
Ngày nay, tuy cô cúng dường đầy đủ vật thực cho Tam bảo, nhưng những của cải, vật
chất
này không phải của cô mà là của thiên hạ bá tánh, tuy vẫn được phước nhưng
không bằng người cúng dường dù ít nhưng với tất cả tấm lòng thành kính, tôn trọng.

 Nói đến bố thí cúng dường hay
giúp đỡ, sẻ chia, nhiều người cứ nghĩ phải có tiền bạc, của cải nhiều mới bố
thí
được, nhưng thực tế bố thí có nhiều cách, không cần phải có nhiều tiền, thậm
chí người nghèo đến nỗi không có chút gì vẫn thực hành bố thí được. Có người
cho rằng, bố thí là ban phát những gì có lợi cho người khác. Bố thí không nhất
thiết
là cho tiền tài, vật chất. Bố thí là rộng thí, là ban cho không hạn cuộc
người hay vật, thân hay thù, hễ thấy chúng sanh nào cần nhu cầu là ta có thể
giúp đỡ, sẻ chia.

 Chúng ta có thể bố thí cho người
thân thì dễ, còn bố thí cho người mình từng oán giận thì rất khó. Giúp đỡ cho
người mình yêu thích thì dễ, vì nó thỏa mãn lòng yêu mến của mình, còn giúp đỡ
cho người mà mình không thích mới chính là hạnh bố thí vì tinh người trong cuộc
sống.

ÁP DỤNG LÝ NHÂN DUYÊN

 Nhờ áp dụng lời Phật dạy, ta có thể
chuyển nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc, chuyển ba nghiệp xấu ác thành
hiền thiện, đạo đức. Trong kinh Phật nói, “thấy
được lý nhân duyên là thấy chánh pháp hay thấy đạo”
. Thấy được như vậy là
người có trí tuệ, là người có chánh kiến, nên làm việc gì cũng vì lợi ích chúng
sanh
là trên hết.

 Sự thật, muôn loài, muôn vật trên
thế gian này đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, không có một vật nào chỉ do một
nhân mà hình thành. Tất cả đều phải trải qua tiến trình diễn biến của nhân quả.
Cho nên, “cái này có, cái kia có, cái này
không, cái kia không”.
Không có cái gì chỉ do một nhân mà thành được, nếu
có ai nói một nhân mà thành, thì người ấy chưa hiểu thấu lý nhân duyên quả.

 Chúng ta thử suy gẫm về cái nhà
coi, cái nhà không tự là cái nhà, mà phải có nhiều vật dụng, gỗ, đinh, sắt, gạch,
cát, xi măng, người thợ mộc, thợ hồ và nhiều phương tiện khác hợp lại mới tạm gọi
là cái nhà.

 Con người cũng vậy, thân này do bốn
chất đất, nước, gió, lửa hợp lại mới hình thành. Vì ta không thấy, không biết
đúng đắn nên nhận định sai lầm, rồi chấp trước vào đó mà sinh ra đủ thứ phiền
não
, nên chấp nhận sống trong biển khổ, sông mê.

 Chính vì vậy, tất cả mọi hiện tượng,
sự vật trên thế gian này đều do nhân duyên hòa hợp lại mà thành, không có cái
gì do một nhân mà có thể hình thành. Ai “ngộ” được lý nhân duyên thì sự tu hành
sẽ không còn khó khăn gì nữa.

 Nhờ biết rõ thân này do nhân
duyên
hòa hợp mà thành, từ thân người, thân thú, hay mọi cảnh vật cũng đều như
vậy. Cho nên, trong kinh Kim Cương nói,
Phàm cái gì có tướng đều hư vọng, giả có, có mà không thật thể nên gọi là giả
có”.

 Nhờ hiểu được lý nhân duyên, con
người
dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai
cũng là người thân, người thương của mình, nên không sanh tâm ganh tỵ, tật đố,
điều đó sẽ giúp cho cuộc sống của ta được bình yên, hạnh phúc từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.

 Nhờ hiểu được và thông suốt
nhân duyên
, ta sẽ nỗ lực vươn lên làm mới cuộc đời và tự tin chính mình có đầy
đủ khả năng vượt qua mọi bất hạnh, khổ đau. Nó giống như một lu nước, muốn nước
bốc hơi, ta phải đun lên, tạo độ nóng thì nước sẽ bốc hơi. Không có cái gì là
do ngẫu nhiên hay tự nhiên mà hình thành được.

 Nếu muốn nước đông lại thành đá
thì ta tạo duyên lạnh, muốn nước trở lại trạng thái bình thường thì ta tạo
duyên ấm. Nước không cố định một thể mà nó được thay đổi tuỳ theo sự tác động của
“duyên”. Nhờ hiểu và ứng dụng lý nhân duyên vào trong đời sống hằng ngày, mỗi
người chúng ta sẽ thấy rõ ràng mối tương quan chằng chịt nhân quả. Sự sống này
muốn tồn tại và phát triển rất cần sự nương nhờ lẫn nhau. Hiểu được như vậy, ta
mới có bổn phận và trách nhiệm đùm bọc, thương yêu, giúp đỡ và chia sẻ với nhau
bằng tất cả tấm lòng. Nếu ai đó chỉ dùng quyền lực để áp đặt, thì sẽ tạo ra mâu
thuẫn
đối kháng, gây ra ân oán, hận thù, rốt cuộc làm đau khổ cho nhau.

 Nhờ hiểu và ứng dụng lý nhân
duyên
vào trong đời sống hằng ngày, ta sẽ thấy rõ ràng sự sống trên đời này là
vô thường, luôn chuyển biến, đổi thay không ngừng nghỉ. Vì vô thường cho nên
ngã
, tuy vô ngã nhưng có tinh thần chuyển biến liên tục.

 Cái suy nghĩ của con người cũng vậy,
tuy không có chủ thể cố định, nhưng có tâm thức liên tục trôi chảy không dừng.
vậy
, khi ta nghĩ tốt, lúc ta nghĩ xấu, trong một ngày có không biết bao nhiêu
suy nghĩ, suy nghĩ liên tục không dừng, không mất. Do đó, lý vô ngã của nhà Phật
chỉ cho ta thấy sự nhận chịu liên tục chứ không phải vô ngã là không ngơ, không
biết gì.

 Và cũng nhờ sự chuyển biến liên tục này mà ta
mới tu tập được, nếu cái ngã là một chủ thể thường hằng bất biến, không thay đổi
được, thì dù ta có tu tập làm mới cuộc đời, làm mới lại chính mình, cũng không
lợi ích gì.

 Tóm lại, hiểu và ứng dụng lý nhân
duyên
của nhà Phật, ta sẽ bớt tham lam, ích kỷ, nhỏ nhoi, ti tiện, oán giận, hờn
dỗi, bớt si mê chấp ngã, mọi người sẽ thấy đúng lẽ thật qua lý nhân duyên, do
đó chúng ta sẽ sống yêu thương hơn.

 Khi hiểu được lý nhân duyên, ta
sẽ có bổn phận, trách nhiệm đóng góp, sẻ chia và nâng đỡ tha nhân, góp phần làm
giảm bớt khổ đau cho nhân loại, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, để mình
và người được sống an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.