Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt

0
34
KINH NGHIỆP BÁO SAI BIỆT
Người dịch: Thích Tuệ Thông
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội

blank


Lời tựa

 

Nhân mùa An cư 2005 chúng tôi có duyên được đọc
bộ Càn Long Đại Tạng Kinh, quyển 58, phần Phật nói kinh Nghiệp Báo Sai Biệt.
Chúng tôi nhận thấy kinh này nói rõ nhân quả nghiệp báo sai biệt rất gần gũi
với đời sống chúng ta: Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải
chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi. Vì thế, chúng tôi
phát tâm chuyển sang Việt ngữ ngõ hầu giúp cho mọi người tin sâu nhân quả. Từ
đó có thể giúp cho con người biết được điều ác cần phải tránh xa, và siêng năng
tu tập các thiện nghiệp.

Những ai hữu
duyên
đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm
gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ
thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết. Vì nhìn vào hiện
tại
ta có thể rõ biết được quá khứ và cũng chính hành vi hiện tại ta có thể
khẳng định được tương lai. Khổ vui của đời sống chính mình là do mình quyết
định
, và mình là chủ nhân ông quyết định cho số phận của chính mình.

Trong khi
dịch thuật dù có nhiều cố gắng nhưng không sao tránh khỏi những thiếu sót sai
lầm
, chúng tôi ngưỡng mong chư vị thiện tri thức từ bi chỉ giáo để cho lần tái
bản sau được tốt hơn. Nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả chúng sinh
tin sâu nhân quả trọn thành Phật đạo.

Thiền Viện
Sùng Phúc, mùa Thu 2006

Kính
ghi

PHẬT NÓI KINH
NGHIỆP BÁO
SAI BIỆT


Hán dịch: Cù Đàm
Pháp Trí
quận Dương Xuyên – đời Tuỳ
Việt dịch: Thích
Tuệ Thông

Tôi nghe như
vầy
, một thuở nọ Phật ở rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Phật bảo trưởng
giả
Lực Đề Tà Tử Thủ Ca rằng:

– Ta sẽ vì ông
nói pháp môn thiện ác nghiệp báo sai biệt. Ông phải lắng nghe, khéo ghi nhớ và
suy nghĩ.

Bấy giờ Thủ Ca
đáp:

– Thưa vâng Thế
Tôn
, con nguyện muốn nghe.

Phật bảo Thủ
Ca:

Tất cả chúng
sinh
liên quan với nghiệp, nương tựa nơi nghiệp, theo nghiệp tự chuyển. Do
nhân duyên ấy có phân ra: thượng, trung, hạ, sai khác chẳng đồng:

Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo mạng sống ngắn ngủi;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được quả báo mạng sống trường thọ;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo nhiều bệnh tật;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được quả báo ít bệnh tất;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo thân xấu xí;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được quả báo thân đẹp đẽ;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo uy thế yếu;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được quả báo uy thế mạnh;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo dòng họ hạ tiện;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được quả báo dòng họ cao thượng;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh của cải ít;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh của cải nhiều;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo trí tàn kiến (thấy biết sai lệnh không đúng nhân
quả
);
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được báo trí chân chính;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo địa ngục;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo súc sinh;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo ngạ quỷ;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được quả báo A-tu-la;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được quả báo loài người;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được quả báo trời Sắc giới;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được quả báo Trời vô sắc giới;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo không cố định;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo sinh chỗ biên địa (vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới
…);
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được quả báo sinh nơi thành phố, thủ đô;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo phải chịu đủ tuổi thọ ở địa ngục;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo phân nửa tuổi thọ ở địa ngục;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh bị quả báo tạm vào liền ra;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh làm mà chẳng tập;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh tập mà chẳng làm;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh cũng tập cũng làm;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh chẳng làm chẳng tập;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh trước vui sau khổ;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh trước khổ sau khổ;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh trước vui sau vui;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh trước khổ sau vui;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh nghèo mà thích bố thí;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh giàu mà xan tham (tham lam, bỏn xẻn, ích
kỷ
…); hoặc có nghiệp khiến chúng sinh
được thân vui mà tâm chẳng vui;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được tâm vui mà thân chẳng vui;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh được thâm tâm đều vui;
Hoặc có nghiệp khiến
chúng sinh thân tâm đều chẳng vui;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh tuổi thọ tuy hết mà nghiệp chẳng hết;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh nghiệp tuy hết mà tuổi thọ chẳng hết;
Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh nghiệp và tuổi thọ đều hết;

Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh nghiệp và tuổi thọ cả hai đều chẳng hết mà đoạn trừ tất cả
phiền não;

Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh đoạ vào đường ác mà thân hình đẹp lạ, mày mắt đoan trang, màu
da tươi sáng được mọi người thích nhìn;

Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh nơi đường ác mà thân hình xấu xí, da dẻ thô nhám, người chẳng
thích nhìn;

Hoặc có nghiệp
khiến chúng sinh sinh vào đường ác mà thân miệng hôi thối, các căn khiếm khuyết
(mắt, tai mũi, lưỡi… không được trọn vẹn);

Hoặc có chúng
sinh
tập hạnh thế gian mười bất thiện nghiệp bị ác báo bên ngoài;

Hoặc có chúng
sinh
tập hạnh thế gian mười điều thiện nghiệp được quả báo thù thắng bên
ngoài.

Ví nhưchúng
sinh
lễ Phật, tháp miến được mười thứ công đức:

Cúng thí lọng
báu được mười thứ công đức,
Cúng thí chuông
linh được mười thứ công đức,
Cúng thí y phục
được mười thứ công đức,
Cúng thí bát đũa
được mười thứ công đức,
Cúng thí thức ăn
nước uống được mười thứ công đức,
Cúng thí giầy dép
được mười thứ công đức,
Cúng thí hương hoa
được mười thứ công đức,
Cúng thí đèn sáng
được mười thứ công đức,

Cúng thí cung
kính
chắp tay được mười thứ công đức. Đó là lược nói tên pháp môn các nghiệp
sai khác.

Phật bảo Thủ Ca
có mười thứ nghiệp khiến chúng sinh bị quả báo cuộc sống ngắn ngủi. Thế nào là
mười?

Một là tự làm
việc sát sinh, hai là khuyên người khác sát sinh, ba là khen ngợi việc giết
hại, bốn là thấy giết hại sinh tâm vui theo, năm là đối với người mà mình oán
ghét muốn họ bị tiêu diệt, sáu là thấy người mình oán ghét tiêu diệt rồi sinh
tâm vui mừng, bảy là phá hoại bào thai, tám là dạy người tự huỷ hoại (tự huỷ
hoại thân mình), chín là xây dựngsát sinh, mười là tự làm vũ khí chiến
tranh và dạy người tàn hại lẫn nhau. Do mười nghiệp này bị quả báo mạng sống
ngắn ngủi.

Lại có mười
nghiệp hay khiến chúng sinh được mạng sống lâu dài. Thế nào là mười?

Một là tự mình
chẳng sát sinh, hai là khuyên người chẳng sát sinh, ba là khen ngợi việc chẳng
sát sinh, bốn là thấy người khác không sát sinh tâm sinh vui mừng, năm là thấy
người bị giết tạo phương tiện giúp thoát khỏi, sáu là thấy người sợ chết an ủi
tâm họ, bảo là thấy người sợ sệt giúp họ được bình an, tám là thấy các khổ hoạn
nạn
khởi tâm thương xót, chín là thấy các hoạn nạn cấp bách liền khởi tâm đại
từ bi
, mười là thường bố thí cho chúng sinh các thức ăn nước uống. Do mười
nghiệp trên được quả báo sống lâu dài.

Lại nữa, có
mười nghiệp khiến chúng sinh quả báo nhiều bệnh tật. Những gì là mười?

Một là vui
thích
đánh đập tất cả chúng sinh, hai là khuyên người khác hoặc bảo họ đánh
đập, ba là khen ngợi việc đánh đập, bốn là thấy người đánh đập tâm sinh vui
mừng
, năm là não loạn cha mẹ khiến tâm sinh lo buồn, sáu là não loạn Hiền
Thánh
, bảy là thấy người bệnh hoan tâm đau khổ thì mình rất vui mừng, tám là
thấy người bệnh hoạn tâm vui vẻ thì mình không vui, chín là dùng thuốc cho bệnh
nhân uống không hết bệnh (cho thuốc giả, không nhiệt tình), mười là do ăn đêm
chưa tiêu hết mà lại ăn thêm. Do mười nghiệp trên nên bị quả báo nhiều bệnh
tật.

Lại nữa, có
mười nghiệp khiến chúng sinh được quả báo ít bệnh tật. Thế nào là mười?

Một là chẳng
thích đánh đập tất cả chúng sinh, hai là khuyên người khác chẳng nên đánh đập,
ba là khen ngợi việc không dùng roi gậy, bốn là thấy người không đánh đập tâm
sinh vui mừng, năm là cung kính cúng dường cha mẹ của mình và những người bệnh
tật, sáu là thấy Hiền Thánh bệnh hoạn chăm sóc cúng dường, bảy là thấy người
bệnh hoạn tâm vui vẻ thì mình rất hoan hỷ, tám là thấy người bệnh khổ thì cho
thuốc hay và khuyên người giúp đỡ, chín là thấy người bệnh khổ khởi tâm thương
xót
giúp đỡ, mười là đối với các thức ăn nước uống tự biết tiết lộ. Do mười
nghiệp trên nên được quả báo ít bệnh tật.

Lại nữa, có
mười nghiệp khiến chúng sinh bị quả báo xấu xí. Những gì là mười?

Một là thích
khởi sân hận, hai là thích nuôi dưỡng lòng sân hận, ba là cuồng mê với người,
bốn là não loạn chúng sinh, năm là đối với cha mẹ không có tâm ái kính, sáu là đối
với các bậc Hiền Thánh tâm không cung kính, bảy là chiếm đoạt của cải sinh sống
và ruộng vườn của Hiền Thánh, tám là đối với những nơi tháp miến thờ Phật đoạn diệt
đèn sáng, chín là thấy người xấu xí khinh khi chê bai, mười là học theo các
việc ác.

Lại nữa, có
mười nghiệp khiến chúng sinh được quả báo thân đoan chính. Những gì là
mười?

Một là không
sân hận, hai là bố thí quần áo, ba là yêu kính ông bà cha mẹ, bốn là tôn trọng
bậc Hiền Thánh đạo đức, năm là thường tô của hộp trang sức tháp thờ Phật
chùa chiền, sáu là quét dọn sạch sẽ nhà cửa tăng đường, bảy là san bằng đất
trong Tăng già lam, tám là quét rửa tháp Phật, chín là thấy người xấu xí chẳng
sinh lòng khinh chê mà lại khởi tâm cung kính, mười là thấy người sắc đẹp liền
biết nguyên nhân quá khứ đã gieo trồng phước đức nên hôm nay kết quả sắc đẹp.
Do mười nghiệp ấy nên được quả báo sắc đẹp.

Lại nữa, có
mười nghiệp khiến chúng sinh bị quả báo uy thế yếu. Những gì là mười?

Một là sinh
khởi
tâm tật đó, hai là thấy người khác được lợi thì mình sinh tâm phiền não,
ba là thấy người kia bất lợi thì mình sinh tâm hoan hỷ, bốn là thấy người khác
được danh dự tốt thì ganh ghét, năm là nếu thấy nước khác mất danh dự thì tâm
sinh rất vui vẻ, sáu là thối thất tâm Bồ đề và phá huỷ hình tượng Phật, bảy là
đối với cha mẹ cua mình và Hiền Thành không có tâm hầu hạ cung kính, tám la chỉ
khuyên người tu tập nghiệp uy thế yếu, chín là làm chướng sự nghiệp của bậc tu
hành
có đạo cao đức trọng, mười là thấy người uy thế yếu sinh tâm khinh chê. Do
mười nghiệp trên khiến chúng sinh bị quả báo ít uy thế.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh được uy thế mạng. Những gì là mười? Một là đối
với chúng sinh tâm không tật đó, hai là thấy người khác được lợi tâm sinh vui mừng,
ba là thấy người khác mất lợi tâm khởi thương xót, bốn là thấy người khác được
khen tốt tâm sinh vui mừng, năm là thấy người mất tiếng khen tốt thì khuyên nhủ
chớ ôm lòng buồn phiền, sáu là phát tâm Bồ đề tạo hình tượng Phật, bảy là
đối với cha mẹ mình và Hiền Thánh cung kính phụng thờ, tám là khuyên người xả
bỏ nghiệp uy thế yếu, chín là khuyên người tu hành hạnh đại uy đức, mười là
thấy người không uy đức chẳng sinh lòng khinh chê. Do mười nghiệp trên được quả
báo
uy thế lớn.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh bị quả báo dòng họ thấp hèn. Những gì là
mười?

Một là chẳng
biết kính cha, hai là chẳng biết kính mẹ, ba là chẳng biết kính Sa môn, bốn là
chẳng biết kính bà la môn, năm là đối với các bậc thầy bạn lớn tuổi chẳng quý kính,
sáu là đối với các bậc sư trưởng chẳng phụng thờ cúng dường, bảy là thấy các
bậc lớn tuổi chẳng đón tiếp mời ngồi, tám là đối với những lời dạy bảo của cha
mẹ
chẳng vâng theo, chín là đối với những lời dạy của các bậc Hiền Thanh cũng
chẳng thọ giáo, mười là khinh miệt dòng họ thấp hèn. Do mười nghiệp trên bị quả
báo
sinh trong dòng họ thấp hèn.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh được quả báo dòng họ cao thượng. Những gì là
mười?

Một là khéo
biết kính cha, hai là khéo biết kính mẹ, ba là khéo biết kính Sa môn, bốn là
khéo biết kính Bà la môn, năm là cung kính và giúp đỡ các bậc tôn trưởng, sáu
la phụng thờ Sư trưởng, bảy là gặp các bậc tôn trưởng tiếp đón mới ngồi, tám là
tôn kính vâng theo những lời dạy bảo của cha mẹ, chín là đối với những lời dạy
bảo
của Hiền Thánh tôn kính thọ giáo, mười là chẳng khinh bỉ dòng họ thấp hèn.
Do mười nghiệp ấy được quả báo dòng họ cao thượng.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh bị quả báo tài sản ít. Những gì là mười?

Một là tự làm
việc trộm cướp, hai là khuyên người khác trộm cướp, ba là khen ngợi việc trộm
cướp, bốn là thấy trộm cướp tâm sinh vui mừng, năm là đối với của cải của cha mẹ
lại cắt giảm, sáu là đối với tài sản của bậc Thánh thì chiếm đoạt, bảy là thấy
người khác được lợi tâm không hoan hỷ, tám là làm chướng ngại người khác được lợi,
chín là thấy người khác bố thí không sinh tâm tuỳ hỷ, mười là thấy đời đói
thiếu tâm không thương xót mà lại còn khởi tâm vui mừng. Do mười nghiệp trên bị
quả báo tài sản ít.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh được quả báo tài sản nhiều. Những gì là
mười?

Một là xa lìa
việc trộm cướp, hai là khuyên người khác không trộm cướp, ba là khen ngợi việc
chẳng trộm cướp, bốn là thấy người khác chẳng trộm cướp tâm sinh vui mừng, năm
là thường cúng dường những tài vật cần nuôi sống cha mẹ, sáu là đối với những
bậc Hiền Thánh tôn trưởng thường cung cấp cho những vật cần thiết, bảy là thấy người
được lợi tâm sinh vui mừng, tám là thấy người cầu lợi thì tạo phương tiện giúp
đỡ, chín là thấy người bố thí tâm sinh vui mừng, mười là thấy đời đói rét khởi tâm
thương xót. Do mười nghiệp trên nên khiến chúng sinh được quả báo tài sản
nhiều.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh bị quả báo trí tà kiến. Những gì là mười?

Một là chẳng có
tâm thưa hỏi các bậc Sa môn đại đức trí tuệ, hai là diễn giảng pháp ác, ba là
chẳng hay thọ trì tu tập chính pháp, bốn là khen ngợi pháp tà kiến, năm là đối
với Phật pháp lẫn tiếc chẳng nói cho người biết, sáu là thân cận người trí
kiến
, bảy là xa lìa bậc Thánh trí, tám là khen ngợi pháp hành tà kiến, chín là
xả bỏ chính kiến, mười là nếu thấy người ác ngu si khinh chê huỷ báng. Do mười
nghiệp trên nên khiến chúng sinh bị quả báo trì tà kiến.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh được quả báo trí chơn chính. Những gì là mười?

Một là khéo hay
thưa hỏi Sa Môn thông minh trí tuệ, hai là diễn thuyết thiện pháp, ba là nghe
rồi giữ gìntruyền bá rộng rãi, bốn là thấy pháp chơn chính thì khen ngợi,
năm là thích thuyết pháp chơn chính, sáu là gần gũi người trí tuệ, bảy là thâu
thập giữ gìn chính pháp, tám là tinh tấn tu tập nghe nhiều, chín là xa lìa
người ác tà kiến, mười là thấy người ác ngu si chẳng sinh tâm khinh chê. Do
mười nghiệp trên nên khiến chúng sinh được quả báo trí tuệ chơn chính.

Lại nữa, có
mười nghiệp khiến chúng sinh bị quả báo đoạ địa ngục. Những gì là mười?

Một là thân làm
việc cực ác, hai là miệng nói lời cực ác, ba là ý nghĩ điều cực ác, bốn là khởi
chấp đoạn kiến (không tin nhân quả, không có kiếp sau…), năm là khởi chấp thường
kiến
(không tin nhân quả, chúng sinh trước sau không thay đổi… chấp thường
hằng
) sáu là khởi cái thấy không có nguyên nhân, bảy là khởi cái thấy không có
người làm, tám là khởi cái thấy không thấy, chín là khởi kiến chấp một bên,
mười là chẳng biến báo ân. Do mười nghiệp trên bị quả báo đọa địa ngục.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh bị quả báo súc sinh. Những gì là mười?

Một là thân làm
điều ác bậc trung, hai là miệng nói điều ác bậc trung, ba là ý nghĩa nghiệp ác
bậc trung, bốn là từ phiền não tham lam khởi ác nghiệp, năm là từ phiền não sân
hận
khởi ác nghiệp, sáu là từ phiền não si mê khởi ác nghiệp, bảy là chửi mắng
chúng sinh, tám là não hại chúng sinh, chín là bố thí vật không thanh tịnh (dâm
nữ
, thuốc độc, vũ khí giết người…), mười là phạm giới tà dâm. Do mười nghiệp
trên khiến chúng sinh bị quả báo súc sinh.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh bị quả báo ngạ quỷ. Những gì là mười?

Một là thân làm
nghiệp ác nhẹ, hai là miệng nói nghiệp ác nhẹ, ba là ý nghĩa nghiệp ác nhẹ, bốn
là khởi nhiều lòng tham, năm là khởi tham việc ác, sáu là tật đố, bảy là
kiến
, tám là keo kiệt luyến tiếc tài sản ngay đó liền chết, chín là do bệnh khổ
đói khát mà chết, mười là bức não khô khát mà chết. Do mười nghiệp trên bị quả
báo
ngạ quỷ.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh bị quả báo A – tu – la. Những gì là mười?

Một là thân làm
nghiệp ác nhẹ, hai là miệng nói điều ác nhẹ, ba là ý nghĩ điều ác nhẹ, bốn là
kiêu mạn, năm là ngã mạn, sáu là tăng thượng mạn, bảy là đại ngã mạn (chấp có
cái ta và những vật sở hữu của ta mà sinh lòng kiêu mạn), tám là tà mạn (mình
không có đạo đức mà cho là mình có đạo đức), chín là mạn quá mạn (mình không
bằng người mà lại cho mình hơn người), mười là hồi hướng các việc lành để được
sinh về cõi A – tu – la. Do mười nghiệp trên nên khiến chúng sinh bị quả báo A
– tu – la.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh được quả báo làm người. Những gì là mười?

Một là chẳng
sát sinh, hai là chẳng trộm cướp, ba là chẳng tà dâm bốn là chẳng vọng ngữ, năm
là chẳng nói lời thêu dệt, sáu là chẳng nói lời đòn xóc hai đầu, bảy là chẳng nói
lời ác, tám là chẳng tham, chín là chẳng sân, mười là chẳng tà kiến, đối với
mười thiện nghiệp thiếu khuyết chẳng giữ được hoàn toàn tốt. Do mười nghiệp
trên nên khiến chúng sinh được quả báo sinh vào loài người.

Lại nữa, có
mười nghiệp khiến chúng sinh được quả báo trời Dục Giới, đó là đầy đủ những
điều thắng diệu để tu hành tăng tiến mười nghiệp thiện.

Lại nữa, có
mười nghiệp hay khiến chúng sinh được quả báo trời Sắc Giới, chỗ gọi là tu hành
còn rơi rớt mười nghiệp cùng các bậc thiền định tương ưng.

Lại có bốn
nghiệp hay khiến chúng sinh được quả báo trời Vô Sắc Giới:

Một là vượt qua
tất cả tưởng về sắc giới, diệt những cái có đối với tưởng v.v… vào định không
vô biên xứ. Hai là vượt qua tất cả không xứ định, thức xứ định. Ba là vượt qua
tất cả thức xứ định vào vô sở hữu xứ định. Bốn là vượt qua vô sở hữu xứ định
vào phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Do bốn nghiệp trên được quả báo Trời vô
sắc
giới.

Lại có nghiệp
hay khiến chúng sinh quyết định thọ quả báo.

Nếu người ở chỗ
Phật Pháp Tăng và người trì giới dùng tâm tăng thượng sâu dày (rất quý kính) mà
bố thí. Do nghiệp thiện này phát nguyện hồi hướng tức được vãng sinh vào cõi
lành. Đó gọi là quyết địnhquả báo.

Lại có nghiệp
hay khiến chúng sinh không quyết định có thọ quả báo.

Nếu nghiệp
chẳng phải là tâm dũng mãnh tăng thượng (chí thành chí thiết), làm rồi chẳng tu
tập
thêm, lại chẳng phát nguyện hồi hướng thọ sinh. Đó gọi là không nhất định
có được quả báo.

Lại có nghiệp
hay khiến chúng sinh bị quả báo sinh vào vùng biên địa hạ tiện (vùng biên giới,
vùng sâu, vùng xa).

Do nguyện như
thế nên sinh vào vùng biên địa hạ tiện, thọ quả báo hoặc tốt hoặc xấu.

Lại có nghiệp
hay khiến chúng sinh được quả báo sinh ở giữa thủ đô, thành phố.

Nếu người kia
lúc tạo nghiệp, nơi Phật Pháp Tăng thanh tịnh trì giới, bên cạnh người và đại
chúng
khởi tâm bố thí không luyến tiếc và siêng năng. Do thiện căn này, quyết
định
phát nguyện cầu sinh trung quốc (giữa đất nước) lại được gặp Phật và nghe
chính Pháp, được nơi quả báo thanh tịnh thượng diệu.

Lại có nghiệp
hay khiến chúng sinh phải chịu tuổi thọ đầy đủ ở địa ngục.

Ví nhưchúng
sinh
tạo nghiệp địa ngục rồi, không có tâm hổ thẹn mà chẳng lìa chán, không sợ
sệt, ngược lại sinh tâm hoan hỷ, chẳng sám hối mà tạo thêm ác nghiệp chồng chất
nhiều lớp, như Đề Bà Đạt Đa… Do nghiệp đó nên phải chịu đầy đủ tuổi thọ ở địa
ngục
.

Lại nữa, có
nghiệp khiến chúng sinh đọa vào địa ngục chỉ chịu phân nửa số tuổi thọ rồi chết
yểu
, chẳng sống đầy đủ tuổi thọ trong địa ngục.

Ví nhưchúng
sinh
tạo nghiệp địa ngục, tích luỹ thành rồi, sau đó sinh tâm sợ hổ thẹn, xa
lìa
, sám hối, từ bỏ, chẳng có tâm tạo thêm. Do nghiệp trên nên đọa nơi địa
ngục
, sau đó hối hận nên chỉ thọ phân nửa số tuổi nơi địa ngục rồi chết yểu,
chẳng sống hết tuổi thọ ở địa ngục như vua A Xà Thế giết cha rồi sau đó ăn năn
sám hối… bị tội tạm vào địa ngục liền được thoát ra.

Ngay đó Đức Thế
Tôn
nói kệ rằng:

“Nếu người
tạo trọng tội,

Làm xong rất ăn
năn
,

Sám hối chẳng
tái phạm,

Hay trừ căn bản
nghiệp”.

Lại có nghiệp
tập mà chẳng làm.

Ví nhưchúng
sinh
tự chẳng tạo nghiệp, do tâm ác nên khuyên người làm ác. Đó gọi là tập mà
chẳng làm.

Lại có nghiệp
cũng làm cũng tập.

Ví nhưchúng
sinh
tạo các nghiệp ác rồi tâm không sửa đổi mà lại luôn luôn tạo thêm mà còn
dụ dẫn người khác cùng tạo. Đó là cũng làm cũng huân tập.

Lại có nghiệp
chẳng làm chẳng tập.

Ví nhưchúng
sinh
tự chẳng tạo nghiệp cũng chẳng dạy người không ghi nhớ nghiệp v.v… Đó
gọi là chẳng làm chẳng tập.

Lại có nghiệp
ban đầu vui sau khổ.

Ví nhưchúng
sinh
được người khuyên hoan hỷ thực hành bố trí, tâm bố thí không keo kiệt,
nhưng sau lại hối hận. Do nhân duyên đó sinh ở loài người, trước tuy giàu vui,
sau lại nghèo khổ.

Lại có nghiệp
ban đầu khổ sau vui.

Ví nhưchúng
sinh
được người khuyên bảo cố gắng bố thí chút ít, bố thí rồi tâm hoan hỷ không
hối tiếc. Do nhân duyên đó, sinh ra ở nhân gian ban đầu nghèo khổ, sau lại giàu
vui. Đó gọi là ban đầu khổ sau vui.

Lại có nghiệp
ban đầu khổ sau khổ.

Ví nhưchúng
sinh
xa lìa thiện tri thức, không khuyên bảo người bố thí, cho đến chẳng hay
thực hành một chút bố thí. Do nhân duyên ấy, sinh ở nhân gian ban đầu thời
nghèo khổ, sau cũng nghèo khổ.

Lại có nghiệp
ban đầu vui sau vui.

Ví nhưchúng
sinh
gần thiện tri thức khuyên dạy thực hành bố thí liền sinh hoan hỷ, mãi tu
hạnh bố thí. Do nhân duyên đó, sinh ở nhân gian ban đầu giàu vui, sau cũng giàu
vui.

Lại có nghiệp
nghèo mà vui thích bố thí.

Ví nhưchúng
sinh
trước từng làm việc bố thí mà chẳng gặp phước điền (Phật, Pháp, Tăng), sau
đó lưu chuyển trong sinh tử, sinh vào loài người, do chẳng gặp phước điền nên
quả báo nhỏ hẹp, hoặc được hoặc mất, do xưa kia từng tập bố thí nên tuy ở nơi
nghèo cùng mà thích thực hành bố thí.

Lại có nghiệp
giàu mà tham lam, bỏn xẻn.

Ví nhưchúng
sinh
chưa từng bố thí, gặp thiện tri thức tạm thực hành một lần bố thí vào được
phước điền tốt, do phước điền thù thắng nên tài sản đầy đủ, trước chẳng từng
tập nên tuy giàu mà xan tham.

Lại có nghiệp
giàu mà hay bố thí.

Ví nhưchúng
sinh
gặp thiện tri thức, phần nhiều tu hạnh bố thí, lại gặp phước điền tốt. Do
nhân duyên đó, giàu to nhiều của cải mà thích thực hành bố thí.

Lại có nghiệp
nghèo mà tham lam, bỏn xẻn.

Ví nhưchúng
sinh
xa lìa tri thức, không khuyên dạy người mà chính mình cũng chẳng thực hành
bố thí
. Do nhân duyên đó, sinh nơi bần cùng mà lại tham lam, bỏn xẻn.

Lại có nghiệp
hay khiến chúng sinh được thân vui mà tâm chẳng vui, như phàm phu mà có phước.

Lại có nghiệp
hay khiến chúng sinh được tâm vui mà thân chẳng vui, như La Hán vô phước.

Lại có nghiệp
khiến chúng sinh được thân tâm đều vui, như La Hán đầy đủ phước báo.

Lại có nghiệp
khiến chúng sinh thân tâm đều chẳng vui như phàm phu vô phước.

Lại có nghiệp
khiến chúng sinh mạng sống hết mà nghiệp chẳng hết.

Ví nhưchúng
sinh
từ địa ngục chết rồi trở lại sinh vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, cho đến
Trời, người, A – tu – la… cũng lại như thế. Đó gọi là mạng sống hết mà nghiệp
chẳng hết.

Lại có nghiệp
khiến chúng sinh nghiệp hết mà mạng sống không hết.

Ví nhưchúng
sinh
vui hết thì thọ khổ, khổ hết thì thọ vui… Đó gọi là nghiệp hết mà mạng
sống không hết.

Lại có nghiệp
khiến chúng sinh nghiệp và mạng sống đều chẳng hết.

Ví nhưchúng
sinh
từ địa ngục chết rồi sinh vào loài súc sinh và đến ngạ quỷ, cho đến Trời
người, A – tu – la… Đó gọi là nghiệp và mạng đều chẳng hết.

Lại có nghiệp
hay khiến chúng sinh nghiệp và mạng sống đều hết.

Ví nhưchúng
sinh
hết các phiền não, nghĩa là các bậc Tu – đà – hoàn, Tư – đà – hàm, A – la
– hán v.v… Đó gọi là nghiệp và mạng sống đều hết.

Lại có nghiệp
hay khiến chúng sinh, tuy sinh vào đường ác mà hình dung đẹp lạ, mày mắt đoan
trang
, da dẻ tươi sáng, được mọi người thích nhìn.

Ví nhưchúng
sinh
do phiền não khởi dục phá giới (người đã thọ giới tu tập thanh tịnh nhưng
do nhân duyên không làm chủ được mà phạm giới). Do nhân duyên ấy, tuy sinh vào đường
ác mà thân thể tươi sáng, sắc lông đẹp mịn, da dẻ tươi thuận, được mọi người
thích nhìn.

Lại có nghiệp
khiến chúng sinh, sinh nơi đường ác mà hình dung xấu xí, da thân xù xì, người
chẳng thích nhìn.

Ví nhưchúng
sinh
từ phiền não si mê khởi phá giới (người thọ giớisi mê phạm giới). Do
nhân duyên ấy, sinh vào đường ác, hình dung xấu xí, người chẳng thích nhìn.

Lại có nghiệp
khiến chúng sinh, đọa vào đường ác, bị thân miệng hôi thối, các căn tàn khuyết.

Ví nhưchúng
sinh
, từ si phiền não khởi phá giới, do nhân duyên ấy, sinh vào đường ác, bị
thân miệng hôi thối.

Lại có mười
nghiệp hay khiến chúng sinh bị quả báo xấu bên ngoài. Những gì là mười?

Ví nhưchúng
sinh
nơi mười điều ác nghiệp, phần nhiều thực hành nên chiêu cảm đến các vật
dụng
bên ngoài thảy thẳng đầy đủ:

Một là người
kia hành sát sinh nên khiến quả báo bên ngoài như quả đất có vị mặn, cây thuốc
yếu ớt. Hai là do nghiệp trộm cắp nên chiêu cảm đến thời tiết xấu, như sương muối
mưa đá, sinh nhiều sâu bọ, châu chấu… khiến đời đói rét. Ba là do nghiệp
dâm
nên chiêu cảm đến vật bên ngoài sinh ra thảy đều hôi nhơ. Năm là nghiệp
lưỡng thiệt (đòn xóc hai đầu) chiêu cảm bề mặt quả đất cao thấp chẳng bằng, có
nhiều núi đồi, gò ụ, gốc cây, hầm hô. Sáu là nghiệp ác khẩu nên chiêu cảm quả
báo
bên ngoài như có nhiều ngói, đá, cát, sỏi thô xấu, ác vật chẳng thể tiếp
cận. Bảy là nói lời thêu dệt nên chiêu cảm sinh quả báo bên ngoài như có nhiều
cây cỏ dày đặc, cành nhỏ nhiều gai. Tám là do nghiệp tham nên chiêu cảm quả báo
bên ngoài khiến hạt giống lúa nhỏ lép. Chín là do nghiệp sân nên chiêu cảm quả
báo
bên ngoài khiến quả cây to sinh ra xấu nhám. Mười là do nghiệp tà kiến nên
chiêu cảm sinh quả báo bên ngoài là mầm chồi yếu ớt, thu hoạch quả ít tươi. Do
mười nghiệp trên nên bị quả báo ác bên ngoài.

Lại có mười
nghiệp được quả báo thù thắng bên ngoài, trái với mười điều ác ở trên sẽ biết.

Ví nhưchúng
sinh
cung kính, lễ bái tháp miếng thờ Phật, được mười thứ công đức. Những gì là
mười?

Một là người ấy
được sắc đẹp và giọng nói thanh tao; hai là những lời nói ra đều được mọi người
tin theo; ba là ở giữa đại chúng không sợ sệt; bốn là Trời người thế gian yêu
mến giúp đỡ; năm là đầy đủ uy thế; sáu là chúng sinh uy thế đều đến gần gũi để
giúp đỡ; bảy là thường được gần gũi chư Phật, Bồ Tát; tám là đầy đủ đại phước
báo
; chín là mạng chung sinh cõi Trời; mười là mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là lễ
bái
tháp miếu thờ chư Phật được mười thứ công đức.

Ví nhưchúng
sinh
cúng thí lọng báu được mười thứ công đức. Những gì là mười?

Một là người đó
ở đời giống như ô dù che chở cho chúng sinh; hai là thân tâm an ổn lìa các
nhiệt não; ba là tất cả thế gian kính trọng chẳng giám khinh khi. Bốn là có đại
uy thế; năm là thường được gần gũi chư Phật, Bồ Tất, bậc đại uy đức để làm
quyến thực; sáu là thường làm Chuyển Luân Thánh Vương; bảy là khuyên dạy người,
thường là gương mẫu dẫn đầu tu tập thiện nghiệp; tám là đầy đủ phước báo lớn;
chín là mạng chung sinh cõi Trời; mười là mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng
thí lọng che được mười thứ công đức.

Ví nhưchúng
sinh
cúng thí phướn lụa được mười thứ công đức. Những gì là mười?

Một là người đó
ở đời giống như ngôi báu quốc vương, rất nhiều bạn bè thân thuộc tri thức cung
kính
cúng dường; hai là giàu có tự tại đầy đủ của báu lớn; ba là danh thơm truyền
rộng khắp nơi; bốn là hình mạo đoan trang, tuổi thọ lâu dài; năm là dù ở đâu
cũng giữ vững hạnh bố thí; sáu là tên tuổi nổi tiếng; bảy là có đại uy đức; tám
là sinh vào dòng họ cao quy; chín là thân hoại mạng chung sinh lên cõi Trời.
Mười là mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là phụng cúng phan lụa được mười thứ công
đức
.

Ví nhưchúng
sinh
cúng thí chuông linh được mười thứ công đức. Những gì là mười?

Một là người đó
được âm thanh Phạm thiên; hai là có danh tiếng lớn; ba là tự biết túc mạng; bốn
là có nói ra điều gì mọi người đều tin theo; năm là thường có lọng báu để tự
trang nghiêm; sáu là có vòng ngọc báu để làm trang sức; bảy là dáng mặt đoan
nghiêm
, người thấy liền hoan hỷ; tám là đầy đủ đại phước báo; chín là mạng
chung
sinh cõi Trời; mười là mau chứng quả Niết Bàn. Đó gọi là cúng thí chuông
linh được mười thứ công đức.

Ví nhưchúng
sinh
phụng cúng y phục được mười thứ công đức. Những gì là mười?

Một là người ấy
mày mặt đoan trang; hai là da dẻ trơn láng; ba là bụi nhơ không dính; bốn là
sinh ra liền đầy đủ quần áo thượng diệu; năm là giường nệm quý tốt che chở thân
mình; sáu là đầy đủ y phục có lòng hổ thẹn; bảy là người thấy đều yêu kính; tám
là đầy đủ của báu lớn; chín là mạng hết được sinh cõi Trời; mười là mau chứng niết
Bàn
. Đó gọi là cúng thí quần áo được mười thứ công đức.

Ví nhưchúng
sinh
cúng thí chén bát được mười thứ công đức. Những gì là mười?

Một là người ấy
ở đời ví như những bậc rộng độ lượng; hai là được thiện pháp thấm nhuần; ba là
lìa tâm khát ái; bốn là nếu khát nhớ nước thì dòng suối tự vọt ra; năm là trọn
chẳng sinh vào đường ngạ quỷ; sáu là được đồ dùng cõi Trời vi diệu; bảy là xa
lìa
bạn ác; tám là đủ đại phước báo; chín là mạng chung sinh cõi Trời; mười là
mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng thí chén bát được mười thứ công đức.

Ví nhưchúng
sinh
cúng thí cơm ăn nước uống được mười thứ công đức. Những gì là mười?

Một là người ấy
được sống âu như cõi Trời; hai là được sắc đẹp; ba là được sức mạnh; bốn là tâm
an ổn và được vô ngại biện tài; năm là được không sợ sệt; sáu là không tâm lười
nhác, được mọi người kính ngưỡng. Bảy là mọi người yêu thương. Tám là đủ phước
báu lớn; chín là mạng chung sinh cõi Trời; mười là mau chứng Niết Bàn. Đó là
cúng thí cơm ăn nước uống được mười thứ công đức.

Ví nhưchúng
sinh
cúng thí giày dép được mười thứ công đức. Những gì là mười?

Một là đầy đủ
phương tiện đi lại tốt đẹp; hai là dưới chân bằng phẳng an ổn; ba là gót chân
mềm mại; bốn là bước xa nhẹ khoẻ; năm là thân không mệt mỏi; sáu là những chỗ
đi đến chẳng bị chông gai, ngói gạch làm tổn hại thân; bảy là được sức thần
thông
; tám là đủ các vật nhu yếu phẩm; chín là mạng chung sinh cõi trời; mười
là mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng thí giày dép được mười thứ công đức.

Ví nhưchúng
sinh
cúng thí hương hoa được mười thứ công đức. Những gì là mười?

Một là người ấy
ở đời sạch như hoa; hai là thân không hôi nhơ; ba là mùi thơm phước báo, mùi
thơm
giữ giới bay khắp mọi nơi; bốn là tuỳ theo những chỗ sinh ra, căn mũi
không hư hoại; năm là vượt hơn thế gian được mọi NXB quy ngưỡng; năm là vượt
hơn thế gian được mọi người quy ngưỡng; sáu là thân thường thơm sạch; bảy là
yêu thích thọ trì đọc tụng chính Pháp; tám là đầy đủ phước báo; chín là mạng
chung
sinh cõi trời; mười là mau chứng Niết Bàn. Đó gọi là cúng thí hương hoa
được mười thứ công đức.

Ví nhưchúng
sinh
cúng thí đèn sáng được mười thứ công đức. Những gì là mười?

Một là chiếu
sáng thế gian như đèn; hai là tuỳ chỗ sinh ra mắt thịt chẳng bị hư hoại; ba là
sống trong loài người được mắt cõi Trời; bốn là đối với các pháp thiện ác có
trí tuệ sáng suốt; năm là tuỳ theo chỗ ở diệt trừ bóng tối; sáu là được trí tuệ
sáng suốt
; bảy là lưu chuyển thế gian thường chẳng vào chỗ hắc ám; tám là đầy
đủ phước báo; chín là mạng chung sinh cõi Trời; mười là mau chứng Niết Bàn. Đó
gọi là cúng thí đèn sáng được mười thứ công đức.

Ví nhưchúng
sinh
cung kính chắp tay được mười thứ công đức. Những gì là mười?

Một là được
phước báo thù thắng; hai là sinh vào dòng họ cao quý; ba là được thân sắc tươi
đẹp; bốn là được giọng nói thắng diệu; năm là được lọng che thắng diệu; sáu là
được biện tài vô ngại; bảy là được lòng tin thắng diệu; tám là được giới thắng
diệu; chín là được nghe nhiều thắng diệu; mười là được trí tuệ thắng diệu. Đó
gọi là cung kính chắp tay được mười thứ công đức.

Thế Tôn nói
pháp này rồi, trưởng giả Thủ Ca ở chỗ Như Lai được lòng tin trong sạch. Bấy giờ
Thủ Ca đầu mặt lễ Phật nói lời thế này: “Con nay thỉnh Phật qua thành
Bà Đề
đến nhà trưởng giả Lực Đề là cha của con, nguyện khiến cho cha của con và
tất cả chúng sinh ngày đêm được an lạc”.

Bấy giờ Thế Tôn
vì lợi ích chúng sinh nên im lặng nhận lời thỉnh cầu. Thủ Ca nghe Phật nói rồi
tâm rất vui mừng đảnh lễ xong lui ra.