Ý Nghĩa Chữ Không Trong Trung Quán

0
35

Ý NGHĨA CHỮ KHÔNG TRONG TRUNG QUÁN
Pháp Sư Ấn Thuận
Thích Hạnh Bình dịch Việt

1.
Không

Không
là điểm cộng thông giữa các bộ phái, nhưng quan niệm của
các nhà Trung quán không giống với các học phái khác. Như
“Đại Trí Độ Luận” quyển thứ 12 giải thích chữ không
có 3 ý nghĩa:

1.
Phân phá không 2. Quán không 3. Thập bát không

“Phân
phá không”: Thiên Thai tông gọi là Chiết pháp không. Ví dụ
như chúng ta lấy sợi lông chia chẻ thành cực vi, rồi tiếp
tục
chia chẻ, cho đến khi nào không còn hình thể tướng
trạng, biểu hiện không tướng, cái cực vi nầy được gọi
là “lâng hư”. Đây là đứng trên phương diện vật chất trong
không gian mà nói, còn về mặt thời gian, đem thời gian phân
chiết thành từng sát na, là thời gian ngắn nhất, phân chia
cho đến khi nào không còn tướng trước sau, không còn thời
gian
tính, liền xuất hiện không tướng. Do vậy phương pháp
phân phá, là phân chiết sự tồn tại của thời giankhông
gian
trở thành không.

“Quán
không” là từ tác dụng của quán tâm. Như quán sợi lông là
màu xanh liền thành lông xanh, quán lông là màu vàng, thành
lông vàng v.v… Trong Thập biến xứ quán, ở đây chỉ thuyết
minh
cụ thể phương pháp Quán không. Vì dùng phương pháp quán
không
mà biết được ngoại cảnh là cái sở quán là không,
ở đây mượn nguời nữ làm ví dụ, để hình dung cụ thể
về cảnh tướng không này: nếu là kẻ thù khi nhìn thấy
cô ta thì sanh lòng oán hận, là người yêu thì sanh lòng luyến
ái
, là con cháu thì sanh lòng cung kính, là chim thú thì hoảng
sợ xa bay. Do đó sự oán thù thân yêu, tốt xấu, thô tế
đều do tâm năng quán không giống nhau mà biểu hiện, cảnh
vốn không có thật thể cho nên gọi là quán không.

“Thập
bát không”, kinh Bát Nhã chú trọng ở tự tánh không. Tự tánh
không
bản thể của tất cả pháp, đều là cái bất khả
đắc
, đương thể là không.

Đại
Trí Độ Luận
tuy đề cập 3 loại không quán, nhưng chưa phân
biệt
cái triệt để và cái không triệt để của nó. Dựa
vào
sự giải thích của Ngài Long Thọ, 3 loại không quán này,
đều có thể khiến người khác hiểu được ý nghĩa của
chữ không, tuy chỗ hiểu cạn sâu của mọi người không giống
nhau, nhưng nó không làm mất đi tính chất phương tiện, làm
rõ nghĩa chữ không, do đó Luận Trí Độ đề cập đến tam
không
.

Nếu
nghiên cứu một cách nghiêm túc về quan điểm Đại Tiểu
thừa
các bộ phái, Phân phá không là phương pháp thường
được các nhà luận sư A Tỳ Đạt Ma sử dụng. Như Hữu
bộ
dùng quán tuệ, phân tích các sắc thành lâng hư, vượt
qua
cái lâng hư này là không. Nhưng Hữu Bộ không thừa nhận
tất cả pháp là không, ngược lại cho các pháp có tự tánh.
Bởi vì, căn cứ trên sự phân tích mà biết được các pháp,
do giả hợp mà có, những cái giả có này, lấy nguyên tố
làm chỗ sở y, cực viđơn vị nhỏ nhất. Đối với tâm
pháp
cũng dùng phương pháp này, phân tích cho đến trong một
niệm
sát nathời gian ngắn nhất. Phương pháp phân tích
này, không thể dẫn đến kết luận, tất cả pháp là không,
ngược lại dẫn đến kết luận tất cả pháp là thật có
tự tánh. Như đem cực vi phân chiết cho đến tận cùng, có
thuyết cho rằng có hình tướng là có thể phân chiết, có
thuyết cho rằng, có hình tướng nhưng không thể phân chiết,
nhưng bất luận như thế nào, các thuyết đều chứa nhận
các pháp thật có tự tánhcực vi. Như cổ nhân nói rằng,
nhứt xích chi mộc, nhựt thủ kỳ bán, chung cổ bất tận.
Loại phân tích pháp không này vốn được Kinh A Hàm đề cập
“Tán không”; tuy ý nghĩa không triệt để, nhưng có thể lấy
đó làm điểm căn cứ, do đó Ngài Long Thọ đã vận dụng
nó.

Không
quán
, là Duy Thức tông v.v…sử dụng. Phương pháp này càng
được các nhà Kinh Bộ sử dụng một cách triệt để. Các
nhà Kinh Bộ cho rằng, 12 xứ là căn và cảnh chẳng thật có,
do đó thành lập cảnh sở quán không thật có. Về sau các
nhà Đại Thừa Duy Thức Học sử dụng phương pháp quán không
này một cách cực đoan, như cho rằng: “Quỷ, bàng sanh, nhơn,
thiên, mỗi loại tùy theo nghiệp duyên của mỗi loài mà ứng
hiện
có sai khác, những sai khác này do sự dị biệt của
tâm, nhưng khong có nghĩa chân thật”. Như cá cho nước là nhà,
Trời cho là lưu ly, quỷ cho là máu huyết, người cho là nước,
từ ví dụ này cho ta thấy rằng nhà, thủy tinh lưu ly v.v…
đều không thật có, tất cả đều do nghiệp báo không đồng
của mỗi người mà hiện thành. A Tỳ Đạt Ma Đại Thừ a
Kinh, các nhà Du già đều y nơi pháp này mà minh chứng ngoại
cảnh
không thật có, thành lập trí vô phân biệt, ly ngôn
thể chứng tự tánh. Để rõ ràng hơn về phương pháp này
xin tham khảo Nhiếp Đại Thừa Luận v.v…

Sự
không giống nhau phương pháp Không quán và Phân phá không là:
Phân phá không, nhơn phân chiết sự giả thậtthành lập
cái giả danh là không; Quán không, là đứng trên quan điểm
nhận thức luận, để thấy rõ cảnh sở quán là không thật
có. Cũng giống như thế, quán không không thể đạt đến
tất cả pháp rốt ráo là không, bởi vì, quán không hạn chế
ở chỗ là dùng tâm năng quán, để quán sát ngoại cảnh
bất khả đắc, bản thân của tâm năng quán, không thể dùng
phương pháp quán không này, để quán sát tâm năng quán cũng
là không, do đó sử dụng kết quả của quán không một cách
tất nhiên, muốn đạt đến tư tưởng “Hữu tâm vô tướng”.
Cảnh không tâm có, cô nhiên cũng có thể cho là vì muốn thấu
rõ Không nghĩa.

Như
trên đã tường thuật, mỗi loại ý nghĩa của chữ không,
không những cái gọi là Không không triệt để, mà còn đem
khái niệm Không biến thành rỗng không. Như các học giả
Phân phá không thừa nhận cực vi, tâm và tâm sở thật có
tự tánh, là những hiện tượng do cực vi hình thành, hay là
do năm uẩn tạo thành cái gọi là Ngã, do vậy, cho là tất
cả đều là pháp không thật có. Các học giả này không chú
ý tính duyên khởi của các pháp là giả có, ý cho rằng họ
không thừa nhận các pháp là duyên khởi. Do vậy, một mặt
họ không thể thấu triệt chữ không, càng thêm chấp trước;
mặt khác, pháp duyên khởi mà không nên phá hoại cũng là
không, thành ra chấp tổn giảm. Các nhà Duy thức học, đem
pháp duyên khởi đặt vào tâm và tâm sở pháp – là y tha khởi
tánh
, không thể thấu rõ tâm vô tự tánh; đối với sáu trần
– tánh duyên khởi của cảnh không có chú ý của tâm, do vậy
không thể phù hợp với nghĩa trung đạo. Nghĩa của chữ không
Bồ Tát Long Thọ phát huy là tự tánh không, không phải
chỉ mỗi một bộ phận nào đó là không, cũng không phải
bất không, lại càng không thể cảnh không mà tâm có.

Đại
Trí Độ Luận
(quyển 74) đề cập đến 3 loại không:

1.
Tam muội (tâm) không, 2. Sở duyên (cảnh) không, 3. Tự tánh
không
.

“Tam muội
không” cùng với Quán không trong tam không vừa trình bày ở
trên không giống nhau. Đây là quán không lúc tu tam muội, tâm
năng quán hiện ra không tướng. Như Thập biến xứ quán, lúc
quán màu xanh tất cả pháp đều xanh, quán màu vàng thì tất
cả pháp đều biến thành màu vàng, xanh và vàng là cảnh quán
của tâm quán. Thế thì, không là vì quán tưởng không quán
mà thành không. Trong kinh nói, tất cả pháp là không, nhưng
dựa vào quán tuệ của tâm năng quán mà quán là không, đối
với ngoại cảnh không khởi chấp trước, lìa hý luận, do
đó gọi là không, nhưng thật ra những pháp nầy không phải
là không. Điều này giống như nói: Không là do tâm tưởng
tượng mà thành, không phải thật tướng của các pháp là
không. Thế thì rơi vào chấp “bất không”, cũng không thừa
nhận
học thuyết các pháp là không.

“Sở
duyên không” là tương phản với học thuyết vừa nêu trên,
cảnh giới sở duyên vốn là không, tâm năng quán y cứ cảnh
sở duyên
này mà quán là không. Cái sở duyên là không, thì
tất nhiên tâm năng quán là bất không, quan điểm này giống
với quán không trong tam không vừa nêu. Chẳng qua, quán không
là cảnh tùy theo tâm quándời đổi, còn sở duyên không
cảnh sở duyên vốn không thật. Ngài Long Thọ bình luận:
“có người nói, Tam tam muội vô tướng vô tác tâm số pháp
gọi là không, không cho nên có thể quán các pháp là không.
Có ngươi nói rằng: Cảnh sở duyên bên ngoài là sắc … tất
cả các pháp này là không, do ngoại cảnh là không, cho nên
gọi là không tam muội. Phật nói: không lấy cái không tam
muội
cho là không , cũng không lấy cảnh sở duyên cho là không.
Rời xa hai kiến chấp này gọi là Trung đạo, do đó gọi các
pháp do nhân duyên hòa hợp mà sanh. là pháp hòa hợp, không
có pháp nhất định, cho nên gọi là không”.

Long
Thọ
minh chứng điểm này, là căn cứ kinh Bát Nhã nói: không
có pháp nhất định cho nên gọi là không, có nghĩa là tất
cả pháp do duyên hòa hợp mà thành, do duyên hòa hợp, tức
là không có tánh nhất định, không có tánh nhất định đồng
nghĩa không, chữ không này, chỉ cho khôngtự tánh, tức
không thuyết. Do đó rõ biết, chữ không của Trung quán
thuyết nhân qủa của pháp duyên khởi, từ duyên khởi
biết được các pháp không có tự tán, do không có tự tánh
mà biết được các pháp vốn không. Nếu thiên về Tam muội
không hoặc sở duyên không, là pháp chuyên y vào nhận thức
luận, không thể rời duyên khởi mà biết không, cũng không
thể đạt đến kết luận tất cả pháp là không.

Tự
không và tha không, là hai loại không quán không giống nhau.
Thí như quán đóa hoa là không, đối với tự không mà nói,
đương thể của hoa là không. Đối tha không, trong hoa không
có những yếu tố này, do đó nói là không, nhưng không có
nghĩa là bản thân của hoa là không. Như trong Luận Du Già
phẩm chơn thật nghĩa nói rằng: “Do bỉ cố không, bỉ thật
thị vô; ư thử nhi không, thỉ thật thị hữu, do thử đạo
, khả thuyết vi không”. Có nghĩa là, pháp này do vì hủy
diệt pháp kia, vì không có pháp kia, cho nên gọi là không,
nhưng đôi pháp này là có. Các nhà học giả Duy thức cho là
không, cho dù sự lý giải xảo diệu như thế nào cũng không
tránh khỏi phạm vi tha không. Tha không luận này, cũng không
phải là cái độc đặc sáng tạo của các nhà Duy thức, nguồn
gốc sáng tạo của nó là phát xuất từ bộ phái Tát Bà Đa.
Vị luận sư nổi tiếng Thế Hữu cho rằng: Không và vô ngã
không giống nhau, vô ngãcứu cánh liễu nghĩa, không, không
phải là cứu cánh liễu nghĩa. Như nói ngũ uẩnvô ngã,
triệt để, chính là vô ngã; nếu nói ngũ uẩn là không,
thì không triệt để. Do vì ngũ uẩnvô ngã, cho nên Phật
nói không nhưng đối với sắc, thọ v.v… không phải là không.
Như giải kinh nói: Chư hành không, cũng nói trong các hành không
ngã và ngã sở, do đó gọi là không, không phải là không
hành của các hành. Các nhà học giả Duy thức kế thừa
tưởng
này, do đó cho rằng: Do y tha khởi mà xa lìa tướng
biến kế sở chấp, cho nên gọi là không; nhưng tự tướng
của y tha khởi là có, không thể nói là không.

Nói
xa một tí, tư tưởng tha không sớm đã xuất hiện trong Trung
A Hàm kinh
, như Kinh Tiểu Không trong Trung A Hàm, chuyên thảo
luân về tha không. Tư tưởng này cùng với Phật Giáo tây
Bắc Ấn Độ có sự quan hệ mật thiết. Tha không trong Tiểu
Không
Kinh tức là bỏ những pháp nào, bảo tồn những pháp
nào, vốn là pháp thứ đệ của thiền định, gọi cái này
là không nhưng không thể gọi tất cả pháp không. Bài kinh
này lấy Lộc tử mẫu giảng đường làm ví dụ, như nói
Lộc tử mẫu giảng đường là không, ý nói trong giảng đường
này không có trâu, dê v.v… cho nên nói là không, chẳng phải
giảng đường là không, cũng chẳng phải trong giảng đường
không có các vị Tỳ kheo, lại không phải là nơi khác không
có trâu dê, cho nên gọi là không. Đây là không quán còn nông
cạn, kinh Lăng Già gọi đó là bỉ bỉ không. Loại không quán
này (Do bỉ cố không, bỉ thật thị vô; ư thử nhi không,
thử thật thị hữu), có rất nhiều loại, nhưng puhơng pháp
cơ bản vẫn không thay đổi. Do đó, nghĩa của chữ không
theo các nhà Duy thức học, lấy tha không luận của vùng Tây
Bắc Ấn làm căn bản, tuy có ảnh hưởng thuyết “nhứt thiết
pháp giai không” của đại thừa, nhưng vẫn không đồng nhất.


tưởng
“Tự không”, nguồn gốc của tư tưởng này cũng phát
xuất từ A Hàm. Như Tạp A Hàm Kinh nói: thường không… ngã
ngã sở
không, tánh tự nhĩ cố. Đây có nghĩa là: Đương
thể
của thường, ngã, ngã sở là không; không phải là ngoài
không riêng có cái gọi là thường, ngã, ngã sởbất không.
Thường, ngã, ngã sở v.v… là không, bởi vì thường, ngã,
ngã sở là như vậy. Lại như Thắng Nghĩa Kinh trong Tạp A
Hàm
nói rằng: không có ngã và ngã sở, chỉ có sự lưu chuyển
của nhơn quả nghiệp báo, nhưng không phải là trong thắng
nghĩa đế
có sự lưu chuyển nhơn quả nghiệp báo này, do
đó nói rằng: Thế tục cho rằng, do đây có cho nên kia có,
do đây sanh cho nên kia sanh, nghĩa là vô minh duyên hành… Sự
tương tục của nhơn quả duyên khởithế tục, trong thắng
nghĩa đế
vô ngã, ngã sở tức không. Cái có của thế
tục
, cùng cái không của thắng nghĩaxuất hiện từ kinh
này.

Tóm
lại
tự không là dựa vào đương thể của pháp mà hiểu
không, tha không là trong pháp này hủy bỏ pháp kia nhờ
vậy mà rõ được không. Do đó, Trung quán cho là thế tục
do giả danh mà có, thắng nghĩa rốt ráo không, các nhà tha
không luận thì không chấp nhận quan điểm này. Họ căn cứ
ý kiến của mình mà sửa đổi là: Tất cả pháp giai không
pháp không liễu nghĩa, quan điểm này cùng với các nhà
lập trường, tự tánh không thì không đồng nhất. Về
sau các học giả không luận duy thức, bèn bỏ đi thuyết biến
kế sở chấp
; không nhưng không thể nói duyên khởi là do
không biểu hiện, cũng không thể xác nhận các pháp là không,
do đó tự không và tha không căn bản không giống nhau. Thành
Duy thức luận
cho là nếu chấp duy thức là thật có, đây
cũng là pháp chấp, cho là duy thức cũng đề cập duyên khởi
tâm tâm sở pháp đều không, ắt hẳn điều này không sao
tránh khỏi sự thêm thắt.

Tôi
cho rằng tất cả pháp giai không của Trung quán, chủ yếu
tư tưởng này xuất phát từ nhơn quả duyên khởi, nhưng Duy
thức tông
thì xuất phát từ nhận thức. Những nhà Duy thức
học
cho rằng, dựa trên nhơn quả duyên khởi mà rõ không,
tư tưởng nầy cùng với tiểu thừa đều không triệt để,
đại thừa từ nhận thức mà nói như Nhiếp Đại thừa luận:
“Tự nhiên tự thể vô, tự tánh bất kiên trụ, như chấp
thủ
bất hữu, cố hứa vô tự tánh” Vô tự tánh không có
nghĩa là tự tánh hoàn toàn không có. Như pháp vị lai, sanh
vị lai, chắc chắn phải có nhơn duyên không thể tự nhiên
mà sanh, do vậy gọi đó là vô tự nhiên tánh. Quá khứ đã
diệt không thật thể đồng nghĩa trong bài tụng gọi là tự
nhiên
vô. Hiện tại sanh diệt không ngừng, đồng trong tụng
gọi là tự tánh bất kiên trụ. Đây đại khái là sự lưu
động của tam thế nhơn quả, là thuyết vô tự tánh. Trong
A Hàm kinh cũng có tư tưởng này, do đó nhiếp luận cho
tưởng
này là tiểu thừa. “Như chấp thủ bất hữu cố hứa
vô tự tánh”. Đây là đại khái đối với biến kế vô tự
tánh
mà nói, đối với tất cả pháp chấptự tướng,
công tướng, pháp tướng, ngã tướng v.v… đều dựa vào
danh mà sanh nghĩa, y vào nghĩa mà sanh danh, hiển lộ giả danh

Không
phải là có từ tự tánh, rời khỏi biến kế này không có
tự tướng, là thuyết không có tự tánh của Đại thừa,
đây là điểm các nhà học giả Duy thức không đồng quan
điểm
với Tiểu thừa. Nhưng nghiên cứu một cách nghiêm túc,
cái gọi là “chấp thủ tướng bất hữu” này, trong Kinh A Hàm
cũng đã có nihều nơi đề cập “Bất khả thủ bất khả
đắc”. “Như chấp thủ bất hữu”, các bậc Thinh văn cũng không
đạt đến, Tạp A Hàm nói: Ngài Ca Chiên Diên khi vào chơn
thật thiền định thắng nghĩa, đây có nghĩa là không lấy
nhứt thiết tướng mà nhập thiền định. Một bản dịch
khác nói rằng: “Chỉ là giả nhơn duyên hòa hợp ma có tất
cả mọi thứ danh tướng, quán tất cả tướng này là không
tịch
, không còn thấy hữu pháp và phi pháp”. Phẩm Chơn thật
nghĩa đã trích dẫn ở đây mà cho là giáo chứng của ly ngôn
pháp tánh, thế thì có thể nói Thinh Văn không có pháp này
sao? Do đây mà biết, trên nhận thức không chấp lấy không
của các tướng cũng là Tiểu thừa. Dựa vào pháp nhơn quả
duyên khởi mà rõ được vô tự tánh không, cùng với tam thuyết
của Nhiếp luận không giống nhau. Duyên sanh là không tự tánh,
tự tánhbất khả đắc tức là không; bởi vì vô tự
tánh
không, do đó chấp có tự tánhđiên đảo hý luận,
như thật chánh quán là không chấp trước các tướng. Khi
vào thắng nghĩa thiền định, không chấp tất cả tướng,
đương nhiên đây không phải tách rời nhân quả duyên khởi
thành lập.

Kinh
Bát Nhã nói: Nếu có một pháp nào khả đắc, chư Phật Bồ
Tát
lỗi lầm, nghĩa là tạp nhiễm không phải là pháp
thanh tịnh
, đây là điểm mà kinh A Hàm đã đề cập đến.
Dựa vào pháp duyên khởi nhân quảhiểu rõ tất cả pháp
đều không, là vô không môn; không chấp lấy tất cả tướng,
vô tướng môn. Không môn, vô tướng môn, vô tác môn, là
phương tiện không tổn hại không giống nhau, chính là nhứt
ngộ, nhứt thiết ngộ, tam giải thoát môn đồng duyên một
thật tướng. Trung quán lấy không môn vô khởi duyên tánh
làm nền tảng, chưa từng đề cập vô tướng môn. Nhưng Duy
thức
lại từ quán không để rõ “Bất như sở hữu thủ”,
không thể từ nhơn quả mà rõ không, đây là sự bất đồng
quan điểm giữa hai Tông. Vừa trình bày trên là minh chứng
duyên khởi vô tự tánh, mục đích làm rõ nghĩa chữ không.
Long Thọ đề cập đến điểm này rất nhiều, nhưng trên
căn bản không đồng quan điểm với các học phái khác. Do
đó, không nên có thái độ vọng văn sanh nghĩa, thấy từ
duyên khởi, tự tánh, không bèn vội vàng cho là giống nhau.

2.
Duyên khởi, tự tánh, không

Bây
giờ đem thuyết duyên khởi, tự tánh, không vừa thảo luận
trên, tiếp tục tổng hợp thảo luận: Duyên khởitự
tánh
tuyệt đối tương phản, duyên khởivô tự tánh,
tự tánh là phi duyên khởi. Chúng sanh, ngoại đạo thậm chí
cho đến một số học phái khác đều cho tự tánh là căn
nguyên, là khởi điểm. Đối với điểm này Phật Đà cùng
ngoại đạo không giống nhau, Phật cho là duyên khởi, luận
nhơn nói nhơn. Do đó dựa vào học thuyết của Trung quán
thể gọi trung quánDuyên khởi tông, các học phái khác
có thể gọi là Tự tánh không, cũng có nghĩa là không có
sự phân biệt giữa hai tông.

Nếu
lấy duyên khởi cùng không hợp lại mà nói, duyên khởi tức
là không, không cũng tức là duyên khởi, hai khái niệm này,
chẳng qua là hai quan điểm khác nhau của cùng một nội dung,
trong kinh gọi là “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”.
Duyên khởi và không là đồng nhất, vì duyên khởiduyên
khởi
của vô tự tánh, duyên khởi là cái để đạt đến
rốt ráo không; nếu có tự tánh, thì không những là bất
không
, cũng không thành duyên khởi. Ngoại đạo cho rằng, không
là không có, là không trơn, nay luận duyên khởi là không,
lầm tưởng cái gì cũng không có. Bởi vì họ cho rằng, duyên
khởi
có thể có tự tánh, duyên khởi cùng không không tương
thuận. Nhưng các nhà Trung quán cho rằng, vì tất cả pháp
rốt ráo không, do đó có pháp duyên khởi, không chướng ngại
sanh tử lưu chuyển. Trung quán nói không, không phải là không
có, chỉ là vô tự tánh mà thôi. Như ánh trăng trong lòng nước,
tuy tánh của trăng vốn không, nhưng ánh trăng chúng ta có thể
trông thấy. Do vậy không và duyên khởi tương thuận, nếu
như rời duyên khởi mà nói không, nói duyên khởibất
không
, đây gọ là ác không. Nói đến không và tự tánh, một
mặt tự tánh vốn là không. Nhưng không thể gọi không là
tự tánh, không là bản tánh của tất cả pháp, là chân tướng
rốt ráo của tất cả pháp, nhưng chẳng qua tự tánh bị điên
đảo
vọng chấp. Nhưng điểm rốt ráo của thuyết tự tánh,
không là chân thật, là cứu cánh, cũng có thể gọi không
tự tánh. Như kinh Bát Nhã nói: “Tự tánh của tất cả
pháp đều không thể được, tự tánh không thể được tức
tự tánh của tất cả pháp”. Đại khái thuyết cứu cánh
không cũng có thể gọi là thật tướng, thật tánh, chân thật.
Vì tánh của chư phápcứu cánh không, bây giờ trả về
bản lai của nó là không, không tăng, không giảm, nhưng không
phải là hư ngụy điên đảo, cho nên có thể gọi nó là chơn
là thật. Tổng kết như bản đồ dưới đây:

*
Tự tánhduyên khởi

Tương phản tương đoạt

Tự tánh phi duyên khởi, duyên khởi phi tự tánh.

* Duyên
khởi
không tịch

Tương phản tương thành

duyên khởi dẫn đến không tịch, vì không tịch cho nên
duyên khởi.

* Không
tịch
không tánh

Tương thuận tương phản

Tự tánhkhông tịch, không tịchtự tánh

* Tương
phản tương thành

Không có tự tánh cho nên gọi là không

Không tức là tự tánh.

Đài
Bắc ngày 15 tháng 8 năm 1999,


Trích
dịch
từ Trung Quán Kim Luận của Pháp sư Ấn Thuận,


Thích
Hạnh Bình

(Email:
[email protected]
)

k