Thọ Mạng Của Phật Pháp

0
42

THỌ MẠNG
CỦA PHẬT PHÁP

Thích Thông Huệ

 

Sau khi thành tựu đạo quả Bồ đề dưới cội cây
Tất-bát-la, Đức Thế Tôn chuyển pháp luân lần đầu tiên tại Vườn Lộc Uyển cho năm
anh em ông Kiều Trần Như với bài pháp Tứ Diệu Đế. Từ đó, Tam Bảo được hình
thành. Phật BảoĐức Phật, Pháp BảoTứ Diệu Đế, Tăng Bảo là năm anh em
Kiều Trần Như. Sau đó, Đức Phật đi hoằng hóa khắp nơi, người quy hướng về Ngài
xin xuất gia ngày càng đông, và dần dần tăng đoàn lớn mạnh. Trong suốt mười hai
năm đầu, đại chúng tỳ kheo hoàn toàn thanh tịnh, tất cả mọi sinh hoạt đều nằm
trong khuôn khổ của thiền địnhtỉnh giác, người đắc Thánh quả nhiều, chưa có
những điều phi pháp xảy ra. Nhưng càng về sau, tăng đoàn lớn mạnh, xen lẫn
trong đại chúng thanh tịnh có những người làm điều phi pháp, phá vỡ sự thanh
tịnh
hòa hợp, làm cản trở sự tu tập giải thoát. Chính vì thế, để ổn định
tăng đoàn, Đức Phật đã chế định ra giới luật theo nguyên tắc “tùy phạm tùy
chế
”, phạm tới đâu chế tới đó, tạo nên kỷ luật cho đời sống xuất gia. Những
điều giới mà Đức Phật chế ra trong suốt một đời được các vị đệ tử của Ngài gìn
giữ
, truyền thừakết tập lại thành một hệ thống gọi là Luật Tạng. Năm giới
của cư sĩ tại gia, mười giới của sa disa di ni, 250 giới của tỳ kheo, 348
giới của tỳ kheo ni… cũng được trích ra từ đó. 

Trong một
cơ quan xí nghiệp, tập thể hay tổ chức nào cũng đều có luật lệ, nội quy, quy
định
cho những thành viên trong đó thực hiện. Đây là một điều kiện tất yếu
không thể thiếu, nhằm ổn định trật tự, nề nếp của tổ chức đó và ngăn ngừa những
hành vi phạm pháp hay buông lung biếng nhác của các thành viên
. Đạo Phật cũng phải có
giới luật để người xuất gia lấy đó làm cương lĩnh tu tập, chuyển hóa bản thân,
phòng phi chỉ ác”. Như vậy, giới luật nhằm ổn định quy củ Thiền
môn
trong tăng đoàn, tạo nên sức mạnh về kỷ luật trong đời sống tâm linh của
người tu. Cho nên, giới luậtthọ mạng của Phật Pháp. “Tỳ ny tạng giả
Phật Pháp thọ mạng. Tỳ ny tạng trụ Phật Pháp diệc trụ, Tỳ ny tạng diệt Phật
Pháp
diệc diệt”. 

Một người xuất
gia
chân chính, đi theo bước đường hành đạo, truyền thừa mạng mạch Phật Pháp
thì không thể không giữ giới. Chúng ta có thể kém tài, nhưng đối với giới luật
mà mình đã lãnh thọ thì phải “tịnh như băng tuyết”. Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm
Địa
Quán, Phật dạy: “Vào biển Phật Pháp lấy đức tin làm căn bản, vượt
dòng sanh tử lấy giới luật làm thuyền bè. Nếu người xuất gia mà không giữ giới
cấm, lại tham đắm, vướng mắc những thú vui thế tục, hủy báng giới pháp của Chư
Phật, hạng tỷ kheo như thế không còn được gọi là người xuất gia nữa
”.
Chúng ta là những trưởng tử Như Lai, giữ gìn mạng mạch Phật Pháp để lưu truyền
nơi thế gian, lãnh trách nhiệmtác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”,
muốn cho chánh pháp trường tồn thì phải lấy giới làm Thầy. Ba đời chư Phật đều
nương vào giới luậttu tập cho đến khi thành tựu đạo quả. Khi Đức Thế Tôn
sắp nhập niết bàn, Ngài cũng đã dạy: “Này các tỳ kheo, sau khi ta diệt
độ
, các vị cần phải tôn trọng kính ngưỡng Ba-la-đề-mộc-xoa (giới luật), như kẻ
mù tối được sáng mắt, kẻ nghèo hèn được vàng ngoc. Phải biết giới luật là bậc
Thầy cao cả của các vị. Dù ta ở đời cũng không khác gì giới luật ấy

(Kinh Di Giáo). Như vậy, khi nào không còn người giữ giới nữa thì Phật Pháp
cũng từ đó mà hoại diệt, vì không còn người đủ tư cách, đức hạnh để tuyên dương
chánh pháp của Như Lai. Nên biết rằng, Đạo Phật chủ trương “hạnh giải tương
ưng”. Một người dù cho kiến thức Phật Pháp uyên bác, thông suốt đến đâu nhưng
đời sống lại buông lung phóng dật, không đầy đủ giới luật, oai nghi tế hạnh thì
đó cũng chỉ là lý thuyết suông, có nói hay đến mấy cũng không đủ sức thuyết
phục
, cảm hóa người khác bằng thân giáo của mình. Cho nên, muốn trở thành một
bậc pháp khí trong hàng Tăng Bảo, là bậc Chúng Trung Tôn thì trước tiên phải
giữ gìn oai nghi giới luật, làm mô phạm trong chốn già lam, gây niềm tin cho
những người mình muốn giáo hóa. Nhờ đó mà Phật Pháp được trường tồn, chúng sanh
lợi lạc. Như vậy, giới luật không chỉ là thọ mạng của Phật Pháp mà cũng là thọ
mạng
của người xuất gia

Nhờ có giới mà
chúng ta thúc liễm được thân tâm mình, không để ý nghĩ điều ác, miệng nói điều
ác, thân làm việc ác. Từ đó phát sinh các thiện phápthể hiện ra bên ngoài
bằng sự nghi biểu của thân. Trong tam vô lậu học, giới là nền tảng căn bản cho
định và tuệ. “Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ”. Ví như một ngọn đèn
dầu, nhờ có bóng đèn (giới) chụp lại bên ngoài mà ngọn đèn mới đứng yên, không
bị chao đảo trước gió (định), từ đó phát ra ánh sáng rõ ràng (huệ) chiếu soi
mọi vật xung quanh. Cũng thế, giới làm cho tâm chúng ta nhu nhuyến, an định,
bớt phan duyên theo trần cảnh bên ngoài để dễ bề hướng nội, tự soi rọi lại bản
tâm
bản tánh của chính mình; từ đó phát sinh trí tuệ, phá tan màn vô minh tăm
tối, đạt đến giác ngộ giải thoát. Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Giới là
cội gốc của Bồ đề, là cửa ngõ của niết bàn, là chiếc thuyền đưa chúng sanh qua
biển sanh tử, là chuỗi anh lạc để trang nghiêm thân
”. Như vậy, một hành
giả
muốn bước tiến trên con đường giải thoát thì không thể không giữ giới. Nhờ
sự chế ngự của giới làm tường rào vững chắc, chúng ta mới thật sự có được một
đời
sống thanh tịnh, tự doan lạc

Phân tích về
giới gồm hai phương diện: tự lợilợi tha. Xu hướng tự lợi (nhiếp luật nghi
giới
) là giữ gìn giới luật oai nghi để tự trang nghiêm thân. Xu hướng lợi tha
(nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới) là làm tất cả những thiện sự
để cứu giúp chúng sanh (thực hành tứ nhiếp pháp) và đem chánh pháp giáo hóa tất
cả chúng sanh. Như vậy, một hành giả muốn bước đi trên con đường tự lợilợi
tha
thì phải vừa tự mình giữ giới cho thanh tịnh, sau đó đem giáo pháp hoằng
hóa lợi sanh, đồng thời làm tất cả mọi thiện sự để cứu giúp muôn loài. Có như
vậy thì ngôn hành mới khế hợp. 

Theo tinh thần
đại thừa, giới gồm có giới tướng và giới tánh. Giới tướng là những điều giới do
Đức Phật chế ra, có quy định thành điều tướng rõ ràng nhằm ngăn chặn, phòng
ngừa
những hành vi ác. Vì vậy, giới tướng của hàng Thanh Văn chỉ có xu
hướng
tự lợi
chứ chưa thể lợi tha, nhập thế tích cực, vào đời độ sanh
được. Còn giới tánh (Đại thừa giới) chú trọng về nhiếp tâm, ngăn
chặn những ý niệm bất thiện vừa mới khởi lên, quán xét tâm ý một cách miên mật,
thấu triệt; từ đó mới có thể tùy duyên hóa đôï được. Vì vậy, Phật giáo đại thừa
chú trọng tâm giới hơn giới tướng, nhiếp phục tâm ý như chăn giữ
con trâu cho đến khi nào thật sự thuần thục, “con trâu trắng sờ sờ, đuổi hoài
không đi” mới có thể an tâm mà “thỏng tay vào chợ”. Nói cách khác, tư tưởng đại
thừa
truy nguyên nguồn gốc từ động cơ tâm ý mà diệt trừ chứ không phí sức mà lo
chặt bỏ ngọn ngành bên ngoài. Lục Tổ nói: “Đức Phật chế tất cả pháp để độ
tất cả tâm. Ta không tất cả tâm, cần chi tất cả pháp
” (Kinh Pháp Bảo
Đàn). Tâm không thì các pháp cũng không, tâm tịnh thì quốc đôï tịnh, tâm diệt
thì tội liền tiêu. Đây là giáo lý “vạn pháp duy tâm” rất uyên áovi
diệu

Kinh Pháp Cú 1
và 2 ghi rằng: 

Ý dẫn đầu
các pháp 

Ý làm chủ tạo
tác 

Nếu với ý nhiễm
ô
 

Nói năng hay
hành động 

Khổ não bước
theo sau 

Như xe chân vật
kéo”. 

“Ý dẫn đầu
các pháp 

Ý làm chủ tạo
tác 

Nếu với ý trong
sạch
 

Nói năng hay
hành động 

An lạc liền
theo sau 

Như bóng không
rời hình”. 

Đạo Phật chú
trọng đến động cơ luận hơn là kết quả luận. Nói theo cách thông thường là
“phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “phòng cháy hơn chữa cháy”. Vì vậy mới nói: “Bồ tát
sợ nhơn, chúng sanh sợ quả”. Luật pháp thế gian chỉ xử phạt khi xác định được
hành vi phạm tội của một người, nhưng đối với tinh thần của Đạo Phật, họ đã có
tội ngay khi những ý niệm bất thiện vừa khởi lên trong tâm. Sở dĩ chúng ta luân
hồi
trong ba cõi cũng chính do những ý niệm bất thiện này làm chủ, sai khiến
thân hành động ác, miệng nói lời thô ác. 

Tâm như họa
sĩ khéo 

Vẽ thế giới
muôn màu 

Đọa sa hay
thành Phật 

Cũng tâm ấy mà
ra”. 

Nếu chúng ta
luôn kiểm thúc được thân và tâm mình trong mọi thời khắc của đời sống thì sẽ
phát sinh năng lực để thanh tịnh hóa tâm thức. 

Chính vì chú
trọng đến động cơ tâm ý nên giới không chỉ là “chỉ trì tác phạm” (dừng là giữ,
làm là phạm) mà còn là “chỉ trì tác trì” (dừng là giữ, làm cũng là giữ). Ví dụ,
giới luật quy định không được nói dối, nhưng nếu vì phương tiện quyền xảo, thể
hiện
lòng từ bi để cứu người thì được. Vì vậy mà có khai, giá, trì, phạm. Giới
luật
Đức Phật chế ra mục đích không phải chỉ để chấp chặt trong khuôn khổ phép
tắc mà chủ yếu là điều phục tâm, nên có thể thực hiện theo tinh thần “tùy duyên
nhi bất biến, bất biến nhi tùy duyên”. Nhưng cũng có người lại tự cho mình chứng
ngộ
, cũng bắt chước “hồn nhiên mặc áo xiêm” như các Ngài, ăn thịt uống rượu,
buông lung phóng túng, không giữ gìn oai nghi phép tắc, thật đáng chê trách lắm
thay! Đó chính là họ đang tạo nhơn vào địa ngục mà không hay. Chúng ta chưa
phải là những bậc thượng căn thượng trí, không thể tu tập theo con đường đốn
giáo
thì không được lìa bỏ giới tướng mà vượt bậc. Phải biết nương vào giới
luật
làm phương tiện qua bờ bên kia, như dây sắn quấn theo cây tùng mà vươn lên
cao. Ngoài ra phải thường hành hạnh khiêm cung nhu hòa, học tập theo gương
sáng
, đức hạnh của các bậc thượng lưu, làm kim chỉ nam cho mình tiến tu

Trong suốt cuộc
đời
tu của người xuất gia, hai dấu ấn có thể nói là quan trọng và sâu đậm nhất
là ngày thế phát xuất gia và khi đăng đàn lãnh thọ giới pháp. Đối trước Phật
đài
trang nghiêm, đàn tràng thanh tịnh, hương trầm nghi ngút, với đầy đủ tam sư
thất chứng
, tứ vị dẫn thỉnh, đông đảo giới tử một lòng chí thành cầu thọ giới
pháp…; đó là thời khắc thiêng liêng nhất, là một dấu ấn đẹp trong suốt cuộc đời
tu, cũng là điểm khởi đầu cho chúng ta nhận lãnh pháp mầu, cầu thọ tịnh giới
của Như Lai để trì giữ. Thiết nghĩ, mỗi vị giới tử nên nhứt tâm chánh niệm, một
lòng chí thành hướng về ngôi Tam Bảo, lắng động mọi vọng tưởng để lóng lòng
nghe kỹ những lời khai đạo của chư vị giới sư, ngõ hầu làm phương châm cho
chính mình mà tiến đạo nghiêm thân. Và cũng nên khắc ghi mãi hình ảnh này để
nuôi dưỡng tâm bồ đề ngày càng lớn mạnh, chí xuất trần thượng sĩ thật kiên cố,
hầu mong “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” để không cô
phụ công ơn Thầy Tổ, cha mẹ và lí tưởng xuất gia của chính mình.Từ vô thỉ kiếp
đến nay, do vô minh mê lầmchúng ta mãi lăn lóc luân hồi triền miên trong ba
cõi
. Nay bước chân vào đạo, nhận ra được con đường chân chánh, nhờ ánh sáng Phật
Pháp
soi rọi, nhờ giới pháp thanh tịnh trang nghiêmchúng ta dần dần đoạn
trừ bớt những tập khí phiền não sâu dày để trở về với chơn tâm, phật tánh bất
sanh
bất diệt hằng hữu. Chính nhờ giới luật đã làm nền tảng cho sự tiến bước
đó. Đời sống của giới là đời sống của sự hòa hợpthanh tịnh; đó cũng chính
ý nghĩa của Tăng (Sangha). Như vậy, một đoàn thể tăng thanh tịnhhòa hợp
đúng nghĩa là một đoàn thể tăng có giữ giới. Cơ sở tự viện nào có nề nếp thanh
quy
nghiêm ngặt, đó là môi trường tốt để đào tạo tăng tài cho Đạo Pháp và dân
tộc. Đạo Phậttồn tại và phát triển hay không chính là nhờ những thế hệ tăng
đủ tài đủ đức này. Tài năng nhờ hiểu sâu Phật Pháp, đức hạnh nhờ giữ giới tinh
chuyên
. Có tài mà không có đức thì chưa phải là người xuất gia đệ tử Phật chân
chính
. Cho nên, có thể khẳng định lại: Giới luật chính là thọ mạng của
Phật Pháp vậy

Người gửi bài: Toàn Trung