Tánh Không, Thuyết Tương Đối Và Vật Lý Lượng Tử

0
37

TÁNH KHÔNG, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI
VẬT LÝ LƯỢNG TỬ

Đức Đạt Lai Lạt Ma -Trần Uyên Thi dịch và chú giải

Lời
người dịch
: Đây là một chương trong quyển “The Universe
in a Single Atom” (Vũ Trụ Nằm Trong Một Nguyên Tử Đơn Lẻ)
của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ XIV, nói về sự hội
tụ giữa khoa học và tâm linh. Quyển sách này do nhà xuất
bản Broadway Books (New York, USA) ấn hành năm 2005, và đã là
một trong những quyển sách bán chạy nhất ở Mỹ.

Chương
III này có tựa đề là “Emptiness, Relativity, and Quantum Physics”
(Tánh Không, Thuyết Tương Đối và Vật Lí Học Lượng Tử).
Chữ không trong tiếng Việt rất dễ gây ngộ nhận, dễ bị
hiểu lầm theo nghĩa đối nghịch với có. Trong Phật học,
không 空 vốn là một từ gốc Hán có nghĩa là rỗng
không. Nói rằng vạn vật đều là “không”, nghĩa là vạn
vật
tuy có đó, nhưng nó không có mặt riêng rẽ, biệt lập,
mà phải nương vào mối tương duyên tương tác với các nhân
và duyên khác mà hiển lộ. Cánh hoa sen thoảng hương thơm
ngát trên mặt hồ kia, nó có thực đấy chứ, nhưng nếu lấy
ra
những yếu tố tạo ra nó mà không phải là nó như nước,
bùn, ánh sáng mặt trời, nhiệt độ, v.v… thì nó không thể
nào có tướng trạng của một cánh hoa sen được. Trong “Luận
Đại Trí Độ”1, Bồ tát Long Thọ (Nāgārjuna)2 nói: “Nhân
duyên sở sinh pháp3, ngã thuyết tức thị không” (Tất cả
những gì do nhân duyên tập hợp mà phát sinh, tôi gọi nó
là “không”). Vì rỗng không, cho nên sự vật luôn luôn biến
đổi
không ngừng, trong từng sát-na, không thể nắm bắt được,
như huyễn, như mộng, như sương khói, như bọt bèo, như tia
chớp4… Vạn vật, kể cả con người, không có tính rắn
chắc, thường hằng, bất biến như ta tưởng.

Đây
chính là chân lí mà các bậc giác ngộ đã thực chứng từ
ngàn xưa, và trong vòng một thế kỷ nay, đã được thuyết
tương đối
kết hợp với vật lí học lượng tử chạm đến.
Những khám phá gần đây của khoa học ở tầng dưới nguyên
tử (subatomic level) cho thấy một số quan điểm của Phật
giáo
sơ thuỷ về sự cấu thành của vật chất hãy còn ở
mức đơn giảnthô thiển, cần phải được xem xét lại
cải thiện. Mặt khác, chỗ bế tắc của khoa học ngày
nay là cái chấp vào “nhị nguyên” (duality), vào sự phân
biệt
chủ thể và khách thể, là ý niệm về một thực tại
khách quan, ở ngoài ta, mà ta có thể nhận xét, đo lường,
đụng chạm mà không làm cho méo mó, lệch lạc đi, và một
chủ thể riêng rẽ, độc lập với ngoại giới. Phật giáo,
trong khi đó, từ ngàn xưa đã đưa ra một “mô hình chặt
chẽ” để có thể nhìn thấu triệt tới cái chân bản lai
diện mục
của vạn vật: mô hình phi thể tánh5 (non-essentialist
model). Phật giáo và khoa học, mặc dầu có những dị biệt,
có thể ngồi lại với nhau để mở ra một chân trời mới
cho sự tìm hiểu thế giớicon người, với hy vọng góp
sức vào việc mang lại hoà bình cho thế giớihạnh phúc
cho nhân loại.

Đó
thông điệp mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đương thời tha thiết
gởi đến độc giả trong quyển sách này, đặc biệt trong
chương thứ ba này.

Trong
khi tánh không, cái xương sống của tư tưởng Phật giáo,
có thể dễ bị biến thành một triết thuyết trừu tượng
thiếu thực tiễn, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh, bằng
cách trích dẫn lời của Ngài Long Thọ, rằng: “Thuyết tánh
không
không phải chỉ để thoả mãn những tò mò của trí
năng
về thực tại, mà còn hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc
về tâm líđạo đức.”

Sách
này vừa giảng Phật học, triết học, vừa giảng khoa học,
có nhiều thuật ngữ và khái niệm triết học lẫn khoa học,
cách dùng từ tinh tếuyên thâm. Trong tinh thần tôn trọng
nguyên tác, người dịch cố gắng dịch sát với nguyên bản.

Toàn
bộ
chú giải trong sách này đều là của người dịch, được
trình bày dưới dạng cước chú (footnotes) hoặc để trong
ngoặc vuông [ ]. Việc in nghiêng một số chữ cho dễ theo dõi
cũng là chủ ý của người dịch. Để tiện cho độc giả
tra cứu, phần lớn những từ ngữ tiếng Phạn/Tạng được
bỏ thêm dấu, phiên âm sang tiếng Việt, và chua chữ Hán,
với sự giúp đỡ của Anh Chân Nguyên Đỗ Quốc Bảo ở Đức.

Người
dịch mong mỏi được các bậc cao minh chỉ bảo thêm cho những
sai sót trong bản dịch, để tuệ giác sâu sắc của Đức
Đạt Lai Lạt Ma XIV – một bậc vĩ nhân tiến bộ của thời
đại
– có thể được truyền đạt đến độc giả người
Việt một cách chính xác và mạch lạc hơn nữa.

Cuối
cùng
, người dịch xin gởi gắm nơi đây lòng biết ơn sâu
sắc đến Giáo sư Bác sĩ Trần Ngọc Ninh, nguyên Viện trưởng
Viện Việt-Học, California, Hoa Kỳ, đã đọc lại bản dịch
và tận tình chỉ bảo cũng như không ngừng khích lệ người
dịch.

Với
tâm từ,

Virginia,
May 30, 2008

Hoài
Hương
TRẦN UYÊN THI

Một
trong những điều hứng khởi nhất của khoa học là nó làm
thay đổi cái nhìn của chúng ta về thế giới này dưới ánh
sáng của những khám phá mới. Cho đến nay, lãnh vực vật
lí học vẫn còn đang loay hoay lúng túng trước một bước
ngoặt quan trọng (paradigm shift6) kể từ khi có sự phát khởi
của thuyết tương đối (relativity) và cơ học lượng tử
(quantum mechanics) ở vào đầu thế kỷ XX. Các nhà khoa học
cũng như triết học thường xuyên phải đương đầu với
nhiều mô hình trái ngược nhau về bản chất của thực tại:
thuyết Newton cho rằng vũ trụ này có tính cách máy móc và
xác định, còn thuyết tương đối của Einstein và cơ học
lượng tử thì lại cho rằng vũ trụ này “hỗn loạn” hơn
nhiều. Thực ra, những gì mô hình thứ nhì này mang lại cho
sự hiểu biết của chúng ta về thế giới vẫn chưa được
hoàn toàn sáng tỏ.


trụ
quan của tôi chủ yếu dựa trên triết thuyếtgiáo
pháp
của Phật giáo, vốn phát khởi từ các bậc trí thức
thuộc thời xa xưa ở Ấn Độ. Tôi được học về triết
học
Ấn Độ từ lúc nhỏ, với thầy Tadrak Rinpoche, vị quan
phụ chính (regent) của Tây Tạng, và thầy Ling Rinpoche. Thầy
Tadrak là một vị thầy khả kính, đã luống tuổi, và rất
nghiêm khắc. Còn thầy Ling thì trẻ hơn, có giọng nói dịu
dàng
và hiểu sâu học rộng, nhưng cũng rất ít nói (ít nhất
là khi tôi còn nhỏ). Hồi đó, mỗi lần có mặt hai vị thầy
này, là tôi sợ đến khiếp vía. Ngoài ra, còn có một vài
thầy phụ tá giúp tôi đàm luận về những điều tôi đã
học, trong đó có thầy Trijang Rinpoche và Ngodrup Tsonknyi – một
tu sĩ, đồng thời là một học giả người Mông Cổ. Sau khi
thầy Tadrak qua đời, thầy Ling trở thành giảng sư chính của
tôi, và thầy Trijang được lên chức phụ giảng.

Tôi
tiếp tục học với hai vị thầy này cho đến hết chương
trình
học vấn chính thức của tôi. Hai thầy đã giảng dạy
cho tôi về những tông phái khác nhau của Phật giáo Tây Tạng.
Cả hai thầy đều rất gần gũi với tôi, nhưng có cá tính
rất khác nhau. Thầy Ling có một thân hình rắn chắc, đầu
hói, mặt to, mắt nhỏ, và mỗi khi ông cười thì cả người
ông đều rung lên. Còn thầy Trijang thì dáng người dong dỏng
cao, đi đứng uyển chuyển và sang trọng với sống mũi cao
hơn một người Tây Tạng bình thường. Ông rất hiền từ,
giọng nói trầm ấm, nhất là khi ông tụng kinh, nghe rất là
du dương. Thầy Ling là một triết gia sâu sắc với một đầu
óc sắc bén và một trí nhớ lạ kỳ. Còn thầy Trikang thì
lại là một nhà thơ nổi tiếng nhất của thời đại ông,
và rất thông thạo về hai lãnh vực nghệ thuật và văn chương.
Đối với tính tình và năng khiếu của tôi, tôi cảm thấy
thân thiết với thầy Ling hơn hết trong các vị thầy. Có
thể nói một cách công bình rằng thầy Ling Rinpoche đã có
ảnh hưởng lớn lao nhất đến cuộc đời tôi.

Khi
học về các chủ thuyết khác nhau của các tông phái Ấn,
tôi cảm thấy chúng rất xa lạ với những điều mà bản
thân
tôi có thể chứng nghiệm được. Thí dụ, thuyết duyên
khởi7 (causation) của phái Số Luận8 (Sāṃkhya) cho rằng quả
là sự biểu hiện của những gì đã nằm sẵn trong cái nhân,
và thuyết hoàn vũ cách (theory of universals) của phái Thắng
Luận9 (Vaiśeṣika) thì cho rằng mặc dầu đa hình vạn trạng,
các vật thể hàm chứa tính phổ quát bất biến thường hằng,
độc lập với tất cả các biệt tướng. Có những thuyết
hữu thần Ấn Độ muốn chứng minh sự hiện hữu của một
Đấng Tạo Hoá, và có những lí luận của Phật giáo phản
bác lại điều đó. Ngoài ra, tôi còn phải học về những
dị biệt vô cùng phức tạp giữa các chủ thuyết khác nhau
ngay cả trong các tông phái Phật giáo nữa. Những điều này
quá sức huyền bí và rối rắm đối với một đứa trẻ
mới mười mấy tuổi, chỉ thích lắp ráp đồng hồ, xe máy,
và dán mắt vào những bức hình về Thế Chiến Thứ Hai qua
sách vở và tạp chí Life như tôi. Thật vậy, lúc Babu Tashi
gỡ cái máy phát điện ra để chùi rửa, thì tôi đứng bên
cạnh ông nhìn say mê đến nỗi quên cả học, quên cả ăn.
Và lúc các thầy phụ tá đến giúp tôi học, đầu óc của
tôi lại chạy theo cái máy phát điện và những bộ phận
của nó.

Nhưng
tất cả đều thay đổi khi tôi tròn 16 tuổi. Các sự kiện
trên thế giới biến chuyển nhanh đến chóng mặt. Khi quân
đội Trung Quốc tiến sát đến biên giới Tây Tạng vào mùa
hè năm 1950, thầy Tadrak [quan phụ chính] đề nghị tôi tạm
thời đứng ra đảm nhận vai trò lãnh đạo quốc dân. Có
lẽ chính vì tuổi thơ đã bị đánh mất, vì gánh nặng của
một thực trạng đen tối và những khủng hoảng không lối
thoát đang đè lên hai vai, mà tôi đã nhận chân được giá
trị
thực sự của học vấn. Không hiểu vì sao, kể từ năm
16 tuổi, tôi bắt đầu ngấu nghiến học về triết học,
tâm lí học, và tâm linh học Phật giáo. Không những tôi theo
đuổi
việc học một cách say mê, mà tôi còn bắt đầu liên
hệ
được những gì tôi học với nhận thức của tôi về
cuộc đời và những gì đang xảy ra ở thế giới bên ngoài.

Trong
khi tôi vùi đầu vào sách vở Phật học, vào việc tham thiền,
quán chiếu về tư tưởng Phật giáo, thì Tây Tạng đang phải
đương đầu với sự có mặt của binh sĩ Trung Quốc trong
lãnh thổ Tây Tạng, trong nỗ lực tiến đến một giải pháp
chính trị ổn thoả cho cả hai bên, và tình trạng ngày càng
trở nên rối rắm hơn. Đến khi tôi hoàn tất chương trình
học vấn và tham dự kỳ thi Geshe10 tại thành phố linh thiêng
Lhasa11 trước hàng ngàn tu sĩ – một sự kiện đánh dấu đỉnh
cao của con đường học vấn của tôi (cho tới nay, đây vẫn
là điều tôi thấy hài lòng nhất) – thì những khủng hoảng
Tây Tạng buộc tôi phải trốn chạy khỏi quê hương sang
Ấn Độ, và từ đó bắt đầu cuộc đời tỵ nạn lưu vong
của tôi, cho đến tận ngày hôm nay. Thế nhưng, chính vì đã
mất đi quốc tịch Tây Tạng, tôi có thể nói một cách thành
thực
rằng tôi đã nghiễm nhiên trở thành một công dân của
thế giới.

Một
trong những tuệ giác sâu sắc nhất của Phật giáo bắt đầu
từ cái gọi là “tánh không12”. Cốt tuỷ của tánh không
là sự nhận biết sâu sắc rằng có một sự chênh lệch rất
lớn giữa những gì tri giác của ta cảm nhận được (trong
đó có sự hiện hữu của chính ta) và bản chất thực sự
của sự vật. Trong cuộc sống hàng ngày, ta thường xem bản
thân
ta và thế giới này là những thực thể cách biệt, xác
định, riêng rẽ và lâu bền. Ví dụ, thử thẩm định tri
kiến
của ta về cái tôi, ta sẽ thấy rằng ta có khuynh hướng
tin rằng có sự có mặt của một thể tánh, từ đó ta tin
tưởng
rằng có một cá nhân riêng biệt và một bản ngã
cụ thể, tồn tại biệt lập với những yếu tố vật chất
tinh thần làm nên sự hiện hữu của ta. Thế nhưng, triết
học
về tánh không cho ta biết rằng cái nhìn này không những
là một sai lầm căn bản, mà nó còn là nguồn gốc của những
sự dính mắc, nắm bắt, và dẫn tới vô số những thiên
kiến
, định kiến của ta.

Theo
thuyết tánh không (theory of emptiness), bất kỳ một sự tin
tưởng
nào vào một sự hiện hữutính cách nội tại
(intrinsic) và biệt lập13 đều không bền vững. Tất cả sự
vật và sự kiệnvật chất [thân] hay tinh thần [tâm], ngay
cả những khái niệm trừu tượng như thời gian – đều không
thể tồn tại một cách khách quan, biệt lập. Nếu ta nghĩ
rằng các sự vật và sự kiện tồn tại một cách biệt lập,
thì nghĩa là ta đã đặt giả thuyết rằng là chúng, bằng
cách nào đó, đã tự viên mãn cụ túc và điều đó có nghĩa
là chúng hoàn toàn cách biệt. Điều này cũng có nghĩa là
chúng không có khả năng tác động qua lại và ảnh hưởng
lên các hiện tượng khác. Thế nhưng, ta đã biết rằng có
duyên khởi: nếu tôi tra chìa khoá vào máy xe, bu-ri14 sẽ
bật lửa, dầu và xăng sẽ cháy lên, máy sẽ chạy. Trong một
thế
giới mà các sự vật hiển hiệntồn tại một cách
riêng biệt và tự hữu, những sự kiện trên sẽ không bao
giờ xảy ra; tôi sẽ không thể cầm bút, và quý vị cũng
sẽ không thể đọc được những dòng chữ này đây.

Chính
chúng ta tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau, ta
phải đặt giả thuyết rằng chúng ta không phải là những
cá thể riêng biệt, mặc dầu ta cảm thấy như vậy. Nói cách
khác, khái niệm về một sự tồn tại tự hữu, biệt lập
của vạn vật [dharma] hoàn toàn không thích hợp với lí duyên
khởi
. Bởi vì lí duyên khởi hàm chứa tính cách tương tuỳ
và tương thuộc của vạn vật, trong khi những gì tự hữu
thì bất biến và biệt lập. Tất cả mọi sự vật trên đời
này đều được cấu thành bởi những sự kiện phụ thuộc
liên quan lẫn nhau, bởi một dòng hiện tượng liên tục
tương duyên với nhau, trong đó không có một thể tánh15 (essence)
cố định, vĩnh hằng, bất biến, và những hiện tượng (phenomena)
này bản thân chúng cũng thay đổi và biến cải không ngừng.

Nói
rằng tất cả sự vật và sự kiện đều là “không” nghĩa
là nó không có một thể tánh bất biến, một thực tại
tự tánh (intrinsic reality), hay một thực thể tuyệt đối nào
có thể tồn tại một cách riêng rẽ. Sự thật về bản chất
thực sự này của vạn vật chính là cái mà kinh sách Phật
giáo
gọi là “tánh không”, hay śūnyatā trong tiếng Phạn.

Trong
cái nhìn ngây thơ và thường tình của ta về thế giới, ta
tưởng như các sự vật và hiện tượng có một thực tính
thường hằng, tự hữu. Ta tưởng rằng thế giới này được
cấu thành bởi những sự vật và sự kiện cụ thể, biệt
lập, và những sự vật, sự kiện [cụ thể, biệt lập] ấy
tương tác với nhau. Ta tưởng rằng những hạt giống thực
tự tánh tạo ra những mầm cây thực có tự tánh ở một
thời điểm thực có tự tánh trong một không gian thực có
tự tánh. Ta tưởng rằng mỗi phần tử trong cái dòng duyên
khởi
này – nhân, thời, sở, quả – đều có thể tánh vững
chắc
. Cái nhìn của ta về thế giới, mà ta nghĩ là được
cấu thành bởi những khách thể rắn chắc và có những đặc
tính
cố hữu, được ta củng cố thêm bằng cách sử dụng
ngôn ngữ của ta với những chủ từ và thuật từ theo cấu
trúc của một bên là danh từ và tĩnh từ, và một bên là
động từ16.

Thế
nhưng vạn vật đều do nhiều thành phần khác nhau tạo nên;
một con người gồm có hai phần thân lẫn tâm. Hơn nữa, tự
tánh
của vạn vật tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa,
như là cái tên [cái mà Ngài Long Thọ gọi là “giả danh”
– ND] mà ta đặt cho chúng, chức năng của chúng, và những
khái niệm của ta về chúng.

Mặc
dầu
được dựa trên cách hiểu của kinh điển Phật giáo,
triết lí về tánh không đã được dẫn giải một cách có
hệ thống lần đầu tiên bởi một triết gia Phật giáo tên
là Nāgārjuna [Bồ tát Long Thọ], sống vào thế kỷ thứ II.
Hiện nay, chúng ta biết rất ít về cuộc đời của Ngài,
chỉ biết rằng Ngài sinh ra ở Nam Ấn và là người quan trọng
thứ nhì góp phần lập nên Đạo PhậtẤn Độ, sau Đức
Phật
[Thích Ca Mâu Ni]. Các sử gia tán thán công đức của
Ngài trong việc thành lập trường phái Trung Luận17 (Madhyamaka)
thuộc Phật giáo Đại thừa18 (Mahāyāna), một tông phái đóng
vai trò chủ yếu ở Tây Tạng cho đến ngày nay. Tác phẩm
nổi tiếng nhất của Ngài là Căn bản Trung Quán Luận tụng19
(Madhyamaka-kārikā), ngày nay vẫn còn được học thuộc lòng,
nghiên cứu, và thảo luận trong các trường đại học
các thiền việnTây Tạng.

Tôi
dành nhiều thì giờ đọc kỹ và đem ra thảo luận với các
vị thầy cũng như đồng môn của tôi về quyển sách này.
Vào những năm 1960s, trong thập niên đầu tiên của cuộc đời
lưu vong của tôi tại Ấn Độ, tôi đã có cơ hội nghiên
cứu
sâu về tánh không. Hồi đó, nói chung tôi rảnh rang hơn
bây giờ nhiều, không phải tham dự nhiều lễ lạc. Tôi cũng
chưa được đi chu du khắp các nơi trên thế giới như bây
giờ, một công việc chiếm rất nhiều thì giờ của tôi.
Trong khoảng mười năm đó, tôi có cơ hội quý báu được
dành nhiều thời giờ học hỏi với hai vị thầy của tôi,
đều là những chuyên gia về cả lí thuyết lẫn thực hành
về tánh không.

Tôi
cũng được học với một học giả tài ba và khiêm tốn tên
là Nyima Gyaltsen (Gen Nyima là tên thân mật của ông). Ông có
một khả năng trời phú hiếm hoi là có thể giảng giải những
tư tưởng thâm sâu vi diệu của Đạo Phật bằng những từ
ngữ
hết sức dễ hiểu. Ông hơi hói và thường đeo một
cặp kính râm to và tròn. Một mắt của ông bị chứng co giật
nên ông hay chớp mắt luôn. Nhưng khả năng định tâm của
ông, nhất là khả năng tập trung vào một luồng tư duy phức
tạp
hay định vào một điểm, thì phải nói là đáng kinh
ngạc
, thậm chí được xem như là một huyền thoại. Ông có
thể nhận biết một cách sáng suốt tất cả những gì đang
xảy ra chung quanh mỗi khi nhập định. Vì tánh khônglãnh
vực
chuyên môn của ông nên tôi cảm thấy rất hứng thú
mỗi khi được thảo luận với ông về đề tài này.

Thế
giới
vi mô (microscopic) của cơ học lượng tử đã mang lại
nhiều thách thức đối với sự hiểu biết thông thường
của chúng ta, và đây chính là một trong những điều phi thường
thú vị của vật lí học hiện đại. Vì ánh sáng có thể
được thấy dưới hai dạng, hoặc là hạt (particle), hoặc
là sóng (wave), và vì nguyên lí bất định (principle of uncertainty),
ta không thể nào biết được một điện tử có chức năng
gì và nó đang ở đâu20, và khái niệm vật lí lượng tử
về sự chồng chập21 mang lại một cách hiểu hoàn toàn mới
lạ so với vật lí học cổ điển, vốn cho rằng mọi vật
đều có tính cách chỉ định và có thể tiên đoán được.
Thí dụ, trong thí nghiệm tư tưởng nổi tiếng của ông Schrödinger
về con mèo: một con mèo được đặt trong một cái thùng chứa
chất phóng xạ có 50% khả năng phóng ra chất độc giết chết
nó. Trong trường hợp này, ta phải đặt giả thuyếtcho
đến
khi nắp thùng được mở ra, con mèo này vừa sống lại
vừa chết, và điều này có vẻ như là một nghịch lí.

Đối
với một Phật tử Đại thừa được tiếp xúc với tư tưởng
của Bồ tát Long Thọ, thì rõ ràng có một sự cộng hưởng
giữa nguyên lí tánh không và vật lí hiện đại. Nếu vật
lí học lượng tử cho biết rằng vật chất không rắn chắc
và xác định như ta tưởng, thì tôi dám nghĩ rằng khoa học
đang tiến dần đến tuệ giác của đạo Phật về tánh không
và tính hỗ tương của sự vật. Trong một cuộc hội thảo
ở New Delhi, tôi đã được nghe nhà vật lí học Raja Ramanan,
được xem là một Sakharov22 của Ấn Độ, nhắc đến sự
đồng hướng giữa triết lí tánh không của Long Thọ và cơ
học lượng tử. Sau khi thảo luận với nhiều khoa học gia,
tôi tin rằng những khám phá lớn lao của vật lí học kể
từ thời Copernicus đang dẫn đến nhận thức rằng bản chất
của thực tại không phải như ta nhìn thấy. Nếu ta quan sát
nghiên cứu thế giới này kỹ hơn – bằng phương pháp khoa
học, bằng thí nghiệm, hoặc theo nguyên lí tánh không của
Phật giáo, hay bằng phương pháp thiền quán – ta sẽ thấy
rằng sự vật vi tế hơn nhiều, thậm chí, trong nhiều trường
hợp
, mâu thuẫn với những giả thuyết và cái nhìn thông
thường của ta về thế giới.


thể ta sẽ đặt câu hỏi này: có tri giác sai lầm về thực
tại
đã đành rồi, nhưng nếu ta cứ tin tưởng rằng vạn
vật
hiện hữutồn tại một cách biệt lập và tự hữu,
thì có tai hại gì không? Ngài Long Thọ cho rằng nhận thức
này dẫn tới những hậu quả rất tai hại. Ngài giảng rằng
tin tưởng vào sự tồn tại riêng rẽ của vạn vật khiến
cho ta dễ rơi vào ngã chấp và cái nhìn lệch lạc khi ta tiếp
xúc
với thế giới bên ngoài và các loài hữu tình đang chung
sống với ta trên quả địa cầu này. Khi ta cho rằng có những
ngoại vậttự tánh là sự quyến rũ, thì ta sẽ phản
ứng
trước các sự vật ấy với một tình cảm luyến ái,
sai lạc, nhưng đồng thời trước những ngoại vật khác mà
ta cho là có tự tánh không quyến rũ, ta lại phản ứng với
một sự ghét bỏ sai lạc. Nói một cách khác, Ngài Long Thọ
cho rằng chính sự nắm bắt lấy những sự vật tồn tại
một cách biệt lập đưa tới phiền muộn, dẫn tới hàng
loạt những hành động, phản ứng tiêu cực và, cuối cùng,
dẫn tới khổ đau. Nói tóm lại, theo Ngài Long Thọ, nguyên
tánh không không phải chỉ để thoả mãn những tò mò
của trí năng về thực tại, mà còn hàm chứa một ý nghĩa
sâu sắc về tâm líđạo đức.


tanhkhong-thuyettuongdoi-contenttanhkhong-thuyettuongdoi-contentDAVID
BOHM: University of London frofessor of Theoretical Physics theories that
demonstrate an amazing similarity to the great mystìcal traditions of
East and West. (David Pratt / Theosophical University Press)

Tôi
có lần hỏi nhà vật lí học David Bohm, một người bạn của
tôi, rằng: Đứng trên bình diện khoa học hiện đại, ngoài
vấn đề nhìn và thấy sự vật một cách sai lầm ra, nếu
người ta tin vào sự hiện hữutồn tại biệt lập của
vạn vật, thì có gì không ổn không? Câu trả lời của ông
rất hay và hữu lí. Ông nói rằng nhìn lại những chủ thuyết
khác nhau đã từng chia rẽ nhân loại, như nạn kỳ thị chủng
tộc
, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hay thuyết đấu tranh giai
cấp
của Marx, ta thấy rằng nền tảng của các chủ thuyết
này là cách nhìn các sự vật như chúng là những cá thể
riêng rẽ, biệt lập. Từ sai lầm này dẫn đến một sai lầm
khác là họ cũng tin tưởng rằng những vật thể nhỏ hơn
nữa cũng có tính cách biệt lập và tự hữu. Câu trả lời
của nhà vật lí học Bohm, dựa trên những nghiên cứu của
ông về vật lí lượng tử, cũng chính là những ưu tư của
Ngài Long Thọ cách đây gần hai ngàn năm về vấn đề đạo
đức
và cách nhìn sự vật theo kiểu này. Đành rằng, nói
một cách chính xác, thì khoa học không quan tâm nhiều đến
vấn đề đạo đức, nhưng có một điều chắc chắn là khoa
học – một nỗ lực của con người – không tách rời khỏi
hạnh phúc của nhân loại. Cho nên, câu trả lời của Bohm
không có gì đáng ngạc nhiên cả. Tôi hy vọng chúng ta
thêm những nhà khoa học có cùng nhận thức như ông về mối
quan hệ mật thiết giữa khoa học, khuôn khổ nhận thức của
nó, và [sự sống còn của] nhân loại.

Theo
tôi được biết thì khoa học hiện đại đã trải qua một
cuộc khủng hoảng vào đầu thế kỷ XX. Những công trình
vĩ đại trong vật lí học cổ điển của Isaac Newton, James
Maxwell, v.v… đã cung cấp cho chúng ta những giải thích
vẻ rất là hiệu quả về thế giới, và chúng có vẻ thích
hợp
với trực giác thường tình của ta. Song, những công
trình
này đã bị thuyết tương đối và những khám phá về
vật chất ở tầng vi mô [tầng dưới nguyên tử], gọi là
cơ học lượng tử, xoáy mòn. Nhà vật lí Carl von Weizsäcker
có lần giải thích với tôi rằng vật lí học cổ điển
chấp nhận cái nhìn máy móc về thế giới. Với cái nhìn
này, một số định luật vật lí có tính cách hoàn vũ gồm
lực hấp dẫn và luật cơ học có khả năng xác định các
mô hình tác động của vật chất một cách hữu hiệu. Trong
khối kiến thức này, có bốn thực tại khách quan: vật thể,
lực, không gian, và thời gian, và luôn luôn có một sự phân
biệt
rạch ròi giữa chủ thể (người quan sát) và khách thể
(vật được quan sát). Thế nhưng, Weizsäcker nói, theo thuyết
tương đối
và vật lí lượng tử, thì trên nguyên tắc, chúng
ta
phải từ bỏ sự phân biệt chủ thể và khách thể, và
cả sự tin chắc của ta vào tính khách quan của các dữ kiện
nhận xét được. Tuy vậy, ông Weizsäcker nhấn mạnh, vấn
đề
là hiện nay ta chỉ có thể sử dụng những ngôn từ
của vật lí học cổ điển khi nói về cơ học lượng tử
và những thí nghiệm có khả năng mang lại một bức tranh
mới về thực tại của nó, trong khi đó những ngôn từ này
đã bị vật lí lượng tử bác bỏ23. Ngoài vấn đề này
ra, ông cho rằng ta phải luôn luôn tìm hiểu về mối tương
duyên chặt chẽ của tự nhiêncải thiện nhận thức của
ta về thực tại, khoa học, và chỗ đứng của con người
một cách đúng đắn hơn dựa trên những tri thức mới mẻ
nhất mà khoa học mang lại.

Dưới
ánh sáng của những khám phá đó của khoa học, tôi nhận
thấy
rằng Phật giáo phải sẵn sàng xem xét lại những lí
thuyết vật lí thô thiển trong thuyết nguyên tử sơ khai của
Phật giáo để thích ứng với khoa học hiện đại, mặc dù
nó đã có chỗ đứng vững chắclâu dài trong truyền thống
Phật giáo. Thí dụ như, thuyết nguyên tử cổ xưa của Phật
giáo
, mà cho đến ngày nay vẫn chưa thay đổi gì lắm, cho
rằng vật chất được cấu tạo bởi tám thành phần sơ đẳng
được gọi là “nguyên tố”, đó là: thổ, thuỷ, hoả,
và khí [tức tứ đại], cùng với sắc, hương, vị, và xúc
[bốn trong sáu trần]. Đất có tính cứng, có sức chịu đựng;
nước có tính mềm, và dính lại với nhau; lửa làm bốc hơi;
và gió gây nên sự chuyển động. Một “nguyên tử” được
xem là một sự tập hợp của tám thành tố này, và sự hiện
hữu

của vật thể trong thế giới vĩ mô được giải thích dựa
trên
nền tảng của sự kết tập của các khối nguyên tử
này. Theo một tông phái rất xưa của Phật giáo, phái Tì-bà-sa
bộ24 (Vaibhāṣika), những khối chất “nguyên tử” này là
những thành phần nhỏ nhất của vật chất, không thể phân
chia
được nữa và không có thành phần cấu tạo. Khi những
“nguyên tử” này kết hợp lại để tạo thành vật thể,
trường phái Tì-bà-sa bộ cho rằng những nguyên tử rời này
không va chạm vào nhau, mà nhờ không khí và những lực khác
của tự nhiên ép chúng dính lại với nhau thành một hệ thống
vật chất, thay vì co rút vào bên trong hoặc giãn nở vô hạn
định
.

Chắc
chắn
rằng những lí thuyết đó đã được phát triển trong
cuộc giao đấu gay go với các tông phái triết học Ấn Độ,
nhất là các thuyết luận lí (logical systems) của các học
phái
Chính Lí25 (Nyāya) và Thắng Luận26 (Vaiśeṣika). Nghiên
cứu
sách vở của triết học Ấn Độ từ thời xa xưa, ta
thấy rằng có rất nhiều cuộc tranh luận, bàn thảo, đối
thoại sôi nổi giữa các tông phái khác nhau. Những tông phái
cổ điển như Phật giáo, Chính Lí học phái (Nyāya), Thắng
Luận học phái
(Vaiśeṣika), Di-mạn-sai học phái27, (Mīmāṃsā),
Số Luận học phái 28 (Sāṃkhya), và Bất nhị phệ-đàn-đa
học phái29 (Advaitavedānta) có cùng mục tiêu, ý hướng
phương pháp luận. Những sự thảo luận sôi nổi này thúc
đẩy
sự phát triển của tri thức và sự chấn chỉnh các
tư tưởng triết học, kể từ thời kỳ phôi thai của Phật
giáo
Ấn Độ cho đến thời trung đại và đương đại Tây
Tạng
.


lẽ một trong những lí thuyết nguyên tử xa xưa nhất được
ghi lại trong hai cuốn A-tì-đàm tâm luận30 (Abhidharma-hṛdaya-śāstra)
và A-tì đạt-ma đại-tì-bà-sa luận31 (Abhidharma-mahāvibhāṣā-śāstra)
của Pháp Thắng32 (Dharmaśrī) thuộc phái Tìbà-sa bộ (Vaibhāṣika).
Cuốn thứ nhất được các học giả sau này cho rằng ra đời
vào khoảng giữa thế kỷ thứ II trước Công nguyên và thế
kỷ thứ I sau Công nguyên. Mặc dầu quyển sách này chưa từng
được dịch sang tiếng Tây Tạng, tôi được biết là có
một bản dịch sang tiếng Trung Hoa vào thế kỷ thứ III sau
Công nguyên
. Sách của Pháp Thắng cho thấy một sự cố gắng
tinh tế trong việc hệ thống hóa những điểm then chốt của
triết học Phật giáo sơ khởi, cho nên ta có thể kết luận
rằng phần lớn những tư tưởng này đã phát sinh vào khoảng
trước thời điểm quyển sách này ra đời. Trong khi đó, quyển
A-tì đạt-ma đại-tì-bà-sa luận là một quyển sách tổng
hợp, ra đời khoảng đầu thế kỷ I và III sau Công nguyên.
Quyển sách này đưa ra một chủ thuyết của một tông phái
triết học Phật giáo được cho là chánh thống, và vì thế
đáp ứng được những thắc mắc cũng như gạt bỏ được
những sự chống đối của các tông phái khác vì tính cách
hữu lí của nó. Mặc dầu những lí lẽ trong quyển A-tì đạt-ma
đại-tì-bà-sa luận khá quen thuộc với Phật giáo Tây Tạng,
quyển sách này chưa bao giờ được dịch sang tiếng Tây Tạng
một cách hoàn chỉnh.

Dựa
trên
hai quyển này, nhất là quyển sau, Thế Thân33 (Vasubandhu),
một trong những ngôi sao sáng của Phật giáo Ấn Độ, cho
ra đời quyển A-tì đạt-ma câu-xá luận34 (Abhidharmakośabhāṣyam)
vào thế kỷ thứ IV sau Công nguyên. Quyển sách này tóm lược
những điểm chính trong quyển A-tì đạt-ma đại-tì-bà-sa
luận (Abhidharma-mahāvibhāṣā-śāstra của Pháp Thắng) và giảng
giải
sâu xa hơn nữa. Nó trở thành một trong những quyển
sách chuẩn bàn về triết họctâm lí học Phật giáo
thuỷ ở Tây Tạng. Hồi còn trẻ, tôi phải học thuộc lòng
quyển sách này.

Về
sự tập hợp của các nguyên tử và mối tương quan giữa
các nguyên tử và các thành phần của nó, Phật giáo sơ thuỷ
sản sanh ra đủ mọi triết thuyết, nhưng chỉ là dựa trên
sự suy luận mà thôi. Có một điểm thú vị là trong quyển
A-tì đạt-ma câu-xá luận có nói đến kích thước của các
loại
“nguyên tử” khác nhau, thí dụ một “hạt”, đơn
vị
nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa, bằng khoảng
1 phần 2400 kích thước của một “nguyên tử thỏ” (rabbit’s
atom), tôi không biết nghĩa là gì (whatever it means). Tôi thực
tình
không biết Ngài Thế Thân tính làm sao ra con số này nữa!

Mặc
dầu
chấp nhận thuyết nguyên tử căn bản, một số tông
phái
Phật giáo không tin rằng nguyên tử là vật nhỏ nhất,
không thể phân chia được nữa (bất khả phân). Một số
thậm chí đặt nghi vấn về bốn khối chất sắc, hương,
vị và xúc [tứ trần] là những thành phần căn bản tạo
nên vật chất. Ngài Thế Thân rất nổi tiếng về những lời
phê bình
của ông về lí thuyết cho rằng thật có những nguyên
tử bất khả phân tồn tại một cách khách quan. Ông lí luận
rằng nếu có những nguyên tử tồn tại biệt lập, thì làm
cách nào giải thích các vật thể quanh ta? Để cho những vật
thể này có mặt, ta phải giải thích được làm cách nào
các nguyên tử kết tập lại với nhau để tạo thành những
hệ thống [vật chất] phức tạp35.

[Theo
Ngài Thế Thân], nếu quả thực có một sự kết hợp như
vậy, thì ta hãy tưởng tượng ra một mô hình trong đó có
một nguyên tử chính được sáu nguyên tử khác vây quanh,
bốn nguyên tử ở bốn góc, một ở trên, và một ở dưới.
Như vậy thì, cái phần mà hạt nguyên tử ở chính giữa tiếp
xúc
với hạt nguyên tử ở phiá đông có cũng tiếp xúc với
hạt nguyên tử ở phiá bắc luôn hay không? Nếu không, thì
cái nguyên tử ở chính giữa phải có nhiều hơn một phần,
và như vậy có nghĩa là nó còn có thể bị phân chia thành
nhiều phần nhỏ hơn nữa; như vậy hạt nguyên tử ở chính
giữa có một phần tiếp xúc với hạt nguyên tử ở phiá
đông, và một phần khác tiếp xúc với hạt nguyên tử ở
phiá bắc. Ngược lại, nếu cái phần tiếp xúc với hạt
nguyên tử ở phiá đông cũng tiếp xúc với hạt nguyên tử
ở phiá bắc, thì không có lí gì cái phần đó lại không
tiếp xúc với tất cả các hạt nguyên tử kia. Và, trong trường
hợp
đó, Thế Thân lí luận, vị trí trong không gian của cả
bảy nguyên tử đó (sáu nguyên tử vây quanh và một nguyên
tử chính giữa), sẽ trùng nhau, và tất cả sẽ hợp lại
thành một nguyên tử duy nhất. Với suy luận như vậy, Thế
Thân
nói rằng không thể nào giải thích thế giới vĩ mô
này bằng quan niệm về sự kết tập (aggregration) của những
vật thể đơn thuần, như là nguyên tử bất khả phân.

Bản
thân
tôi chưa bao giờ hiểu được quan niệm cho rằng những
thành phần cơ bản tạo nên vật chất là sắc, hương, vị,
xúc36. Nhưng tôi hiểu được làm thế nào người ta có thể
đưa ra một lí thuyết ở tầng nguyên tử về vật chất như
vậy. Dù sao, tôi cảm thấy rằng về phương diện này,
tưởng
Phật giáo, mà nói cho cùng thì mới chỉ là một môn
vật lí có tính cách ức đoánsơ đẳng, bây giờ cần
phải
được thay đổi dưới ánh sáng mới của vật lí học
hiện đại, một lãnh vực đã hiểu một cách cặn kẽ với
những tri thức đã được chứng minh bằng thí nghiệm, rằng
thành phần cấu tạo của vật chất là những điện tử xoay
quanh
một hạt nhân, trong có protons và neutrons (trung hòa tử).
Nếu ta đọc về sự mô tả của vật lí hiện đại về các
hạt ở tầng dưới nguyên tử như quarks và leptons37, thì ta
sẽ thấy rõ ràng rằng lí thuyết của Phật giáo sơ thuỷ
quan niệm về những nguyên tử bất khả phân nhiều lắm
cũng chỉ là những mô hình thô thiển. Tuy vậy, khái niệm
căn
bản của đạo Phật về vật thể – cho dù là một vật
thể vi tế nhất cũng phải được nhìn như là một vật cộng
hợp (composite)38 – cho đến nay, vẫn là điều đúng.

Một
trong những động lực (motive) lôi cuốn khoa học và triết
học
vào việc tìm hiểu những thành phần cấu tạo cơ bản
của vật chất là sự tìm kiếm những thành phần tối hậu
không thể phân chia được nữa [nhỏ nhất]. Điều này không
những hấp dẫn các nhà triết học Ấn độ cổ xưa và các
nhà khoa học hiện đại, mà còn lôi kéo các khoa học gia cổ
đại của Hy Lạp, những người được mệnh danh là “những
nhà theo thuyết nguyên tử” (atomist). Đây là cái gọi là“cuộc hành trình đi tìm kiếm cái bản chất thực sự của
thực tại”, tuỳ theo người ta hiểu nó như thế nào. Nhưng
Phật giáo cho rằng cuộc tìm kiếm này sai lầm ngay từ căn
bản
, vì nó đã bị lạc hướng ngay từ đầu. Có một thời
khoa học đã đoan chắc rằng khi tìm ra các nguyên tử, người
ta đã tìm thấy cái bản chất thực sự của vật thể, nhưng
những thí nghiệm vật lí ở thế kỷ XX đã phân tách nguyên
tử ra thành nhiều phần nhỏ hơn nữa. Mặc dầuít nhất
một quan niệm trong vật lí lượng tử cho rằng vĩnh viễn
người ta sẽ không bao giờ có thể tìm thấy một cái hạt
nhỏ nhất tồn tại khách quan và bất khả phân, nhưng hiện
nay vẫn có nhiều nhà khoa học nuôi hy vọng sẽ tìm thấy
những cái vi hạt tối hậu ấy.

Mùa
hè năm 1998, tôi đến thăm phòng thí nghiệm của nhà vật
lí học người Úc Anton Zeilinger tại Đại học Innsbruck. Anton
đưa cho tôi xem một công cụ có thể nhìn thấy một nguyên
tử đơn độc đã bị ion hoá39 (ionized). Nhưng, rất tiếc,
mặc dầu đã cố gắng, tôi vẫn không thể chứng mục được
cảnh tượng huyền diệu đó. Có lẽ tôi chưa đủ duyên.

Tôi
gặp Anton lần đầu tiên trong cuộc hội thảo Mind and Life
(Tâm thức và Cuộc sống) tại Dharamsala năm 1997. Ông có nhiều
điểm trái ngược với nhà vật lí học David Bohm: to con, để
râu, và đeo kiếng. Ông có tính khôi hài và mỗi khi ông cười
thì cả cơ thể của ông cũng cười theo. Là một nhà vật
lí học thực nghiệm, ông hoàn toàn cởi mở trong việc chấp
nhận
thẩm định lại toàn bộ vấn đề lí thuyết dựa trên
kết quả của những thí nghiệm mới mẻ. Ông thích thú tìm
hiểu
Phật giáo trên bình diện lí thuyết, để so sánh
tưởng
của Phật giáo và vật lí lượng tử, vì ông nhận
thấy
rằng cả hai đều phản đối bất kỳ một ý niệm
nào về một thực tại khách quan và biệt lập. Cũng trong
cuộc hội thảo này, tôi đã gặp gỡ nhà vật lí học người
Mỹ Arthur Zajonc. Ông có giọng nói nhẹ và cặp mắt vô cùng
sắc sảo, nhất là khi ông tập trung vào một điều gì. Ông
là một thầy giáo có tài, và có khả năng giảng giải những
đề tài phức tạp nhất một cách rõ ràng. Là thư ký của
buổi hội thảo, ông có khả năng tóm lược, đúc kết những
cuộc thảo luận một cách cô đọng, và điều này đã giúp
ích cho tôi rất nhiều.

Vài
năm trước đó, tôi đã có vinh hạnh được viếng thăm Viện
[nghiên cứu] Niels Bohr ở Copenhagen và mở một cuộc đối
thoại thân mật với các khoa học gia của Viện. Mấy ngày
trước, trong vài ngày ngắn ngủi ghé Luân Đôn, tôi đã mời
nhà vật lí học, David Bohm và phu nhân của ông đến dùng
cơm trưa tại khách sạn mà tôi đang tạm trú. Nghe nói tôi
sắp có một cuộc đối thoại về mối quan hệ giữa triết
học
Phật giáo và vật lí học tại Viện nghiên cứu Bohr,
Bohm đã ưu ái mang cho tôi hai trang tóm lược của Bohr về
tư tưởng của ông đối với bản chất của thực tại. Thật
phi thường khi nghe Bohm mô tả về mô hình “hành tinh hệ”
(planetary model) của nguyên tử của Bohr và mô hình Rutherford,
cả hai đều bắt nguồn từ mô hình “mứt mận” (“plum
pudding” model). Hai mô hình này nói rằng nguyên tử là một
hạt nhân với các điện tử xoay quanh.


hình “mứt mận” nảy sinh vào cuối thế kỷ thứ XIX, sau
khi J. J. Thompson khám phá thấy sự có mặt của các điện
tử mang điện tích âm. Ông tin rằng điện tử mang điện
tích dương có vai trò cân bằng điện tử mang điện tích
âm được trải khắp nguyên tử như là mứt mận, và các
quả mận là những điện tử. Song, sang đầu thế kỷ thứ
XX thì Ernest Rutherford khám phá ra rằng khi các hạt alpha mang
điện tích dương được bắn vào một tấm lá vàng mỏng,
phần lớn các hạt này đi xuyên qua được, nhưng có một
số bị dội lại. Ông đã kết luận một cách chính xác
điện tích dương của nước có chứa điện và vì thế có
khả năng hoá hợp với một ion đối nghịch. các nguyên tử
vàng không thể trải đều khắp các nguyên tử như là mứt
mận, mà chúng tập trung lại nơi điểm giữa của nguyên tử:
khi một hạt alpha đụng phải trung tâm của một nguyên tử
vàng, điện tích dương đã đủ để đẩy chúng ra. Từ đó
Rutherford đưa ra mô hình “thái dương hệ” (solar system) của
một nguyên tử, trong đó hạt nhân có điện tích dương được
vây quanh bởi các điện tử mang điện tích âm. Sau đó, Niels
Bohr đã cải tiến mô hình thái dương hệ của Rutherford thành
mô hình “hành tinh hệ” (planetary model) của nguyên tử, và
đây chính là cha đẻ của cơ học lượng tử.

Trong
buổi nói chuyện, Bohm cũng có kể sơ với tôi về cuộc thảo
luận
từ lâu giữa Bohr và nhà bác học Einstein về cái nhìn
của họ đối với vật lí lượng tử. Nội dung của cuộc
thảo luận này xoay quanh sự phản bác của Einstein về giá
trị
của nguyên lí bất định (uncertainty principle). Điểm
chính yếu của nó xoay quanh vấn đềthực tại, trên căn
bản
, có phải là bất định, bất khả tiên tri, và theo xác
suất (probabilistic) hay không. Einstein cật lực phản đối điều
này, như trong bài viết “God does not play dice!” (Thượng Đế
không chơi trò xúc xắc) của ông. Điều này khiến tôi liên
tưởng
đến các cuộc tranh luận trong lịch sử của Phật
giáo Tây Tạng
đã đóng vai trò trọng yếu như thế nào đối
với việc thiết lậpcải tiến các tư tưởng triết học.

Khác
với các triết gia Phật giáo, các nhà vật lí học hiện đại
có khả năng mở rộng nhãn quan rất nhiều nhờ sự trợ giúp
của các công cụ khoa học như những tấm kính viễn vọng
khổng lồ, ví dụ như kính viễn vọng Hubble, hoặc của các
kính hiển vi điện tử. Kết quả là những hiểu biết thực
chứng
gặt hái được về các thực thể vật chất vượt
xa sức tưởng tượng của con người ở thời cổ đại. Với
cái nhìn đó, tôi đã từng đề nghị đưa vào các trường
đại học Phật giáo môn vật lí căn bản. Tôi nhấn mạnh
rằng đây không phải là đưa vào một môn học mới, mà chỉ
là cập nhật hóa chương trình đã có sẵn mà thôi. Tôi rất
vui mừng khi thấy các trường đại học Phật giáo đã thường
xuyên
tổ chức những buổi học thêm về vật lí hiện đại,
do các giáo sư vật lí và các sinh viên cuối ban tiến sĩ của
các đại họcTây phương tổ chức. Tôi hy vọng rằng
những nỗ lực bước đầu này sẽ dần dần tiến đến việc
đưa môn vật lí hiện đại vào chương trình triết học của
các thiền viện Tây Tạng.

Mặc
dầu
tôi đã từng được nghe về thuyết tương đối của
Einstein cách đây khá lâu, David Bohm là người đầu tiên giải
thích
về nó và về ý nghĩa triết học của nó cho tôi. Vì
tôi không có căn bản về toán học, giảng dạy cho tôi về
vật lí hiện đại, nhất là những đề tài hóc búa như là
thuyết tương đối, là điều không dễ dàng chút nào! Mỗi
lần nhớ lại sự kiên nhẫn của Bohm, giọng nói nhẹ và
cử chỉ dịu dàng, và sự lo lắng làm cách nào cho tôi có
thể lãnh hội được những điều ông giảng, là tôi lại
thấy nhớ ông da diết.

Bất
cứ một người bình thường nào muốn tìm hiểu về thuyết
tương đối
của Einstein cũng đều nhận thấy rằng muốn
hiểu được thuyết này thì trước hết phải phủ nhận hết
những nhận thức thông thường. Einstein đưa ra hai định đề:
sự bất biến của vận tốc ánh sáng, và nguyên lí của tính
tương đối. Thuyết này xác nhận rằng tất cả các định
luật
vật lí phải hoàn toàn như nhau đối với hai người
quan sát đang di chuyển theo hai chiều đối nghịch nhau. Với
hai tiền đề này, Einstein đã làm một cuộc cách mạng trong
nhận thức khoa học của chúng ta về không gianthời gian.

Thuyết
tương đối
của ông cung cấp cho chúng ta phương trình nổi
tiếng
về năng lượngvật chất E=mc2. Phải thú thực
rằng đây là phương trình duy nhất mà tôi biết (ngày nay,
người ta thấy nó cả trên áo thun!) Ngoài ra, là một loạt
những lí thuyết thực nghiệm giả tưởng (thought experiments)
tính cách thách thức và thú vị, thí dụ như là là nghịch
lí cặp song sinh (twin paradox), sự nở dài của thời gian (time
dilation), hoặc sự co rút (contraction) của vật thể ở vận
tốc cao. Đa số những lí thuyết này ngày nay đã được chứng
minh
bằng thí nghiệm cụ thể. Nghịch lí cặp song sinh nói
rằng nếu một trong hai người sinh đôi bay vào không gian trên
một chiếc phi thuyền với vận tốc bằng vận tốc của ánh
sáng đến một hành tinh cách xa trái đất 20 năm ánh sáng
rồi trở về lại trái đất, thì sẽ thấy người anh/em sinh
đôi của mình già hơn mình 20 tuổi. Điều này khiến tôi
liên tưởng đến câu chuyện của Ngài Vô Trước40 (Asaṅga)
được bay đến cõi trời Đâu Suất41, ở đó Vô Trước được
học năm bản kinh Di Lặc, một trong những bộ kinh quan trọng
của Phật giáo Đại thừa, chỉ trong khoảng thời gian uống
xong một li trà. Nhưng khi ông trở về trái đất, thì mọi
người
đã già đi 50 tuổi.

Để
có thể hoàn toàn thưởng thức ý nghĩa của nghịch lí cặp
song sinh, ta phải nắm được hàng loạt những phương trình
phức tạp, mà tôi e rằng đều nằm ngoài khả năng của tôi.
Theo tôi hiểu thì, ý nghĩa quan trọng nhất của thuyết tương
đối
của Einstein là không gian, thời gian, và trọng lượng
(mass) không thể là những cái tuyệt đối, hiện hữu bởi
tự ngã, thường hằng, bất biến. Không gian không phải là
một phạm trù độc lập có ba chiều, và thời gian không phải
là một thực thể riêng biệt, mà không gianthời gian hiển
lộ
đồng thời với nhau trong một liên-tục-thể bốn chiều
của không gianthời gian (four dimentional continuum of “space-time”).
Tóm lại, thuyết tương đối cho thấy mặc dầu vận tốc
ánh sáng là thường hằng, không thay đổi, không có một hệ
quy chiếu đặc cách tuyệt đối (absolute priviledged frame of
reference), và tất cả, trong đó có không gianthời gian,
tối hậu đều tương đối mà thôi. Đây thực sự là một
khám phá phi thường.

Trong
triết học Phật giáo, ý niệm “thời gian là tương đối”
không phải là xa lạ. Trước thế kỷ thứ II, phái Kinh lượng
bộ42 (Sautrāntika) đã phản bác ý niệm cho rằng thời gian
tuyệt đối. Họ vẽ thời gian trên một cái trục quá
khứ
, hiện tại, và vị lai, và chứng minh mối quan hệ hỗ
tương
của ba thời và lập luận rằng ý tưởng về sự có
mặt biệt lập của ba thời này là không bền vững và không
có cơ sở. Họ cho thấy rằng thời gian không phải là một
thực thể thực có trong bản thể, tồn tại độc lập với
những hiện tượng có thời tánh mà là một tập hợp những
liên hệ giữa các hiện tượng xảy ra. Ngoài các pháp (những
hiện tượng xảy ra trên dòng thời gian) mà ta dựa vào để
lập ra ý niệm về thời gian, không hề có một cái “thùng
lớn” (vessel) trong đó mọi sự vật và sự kiện xảy ra,
không hề có bất cứ một cái gì tuyệt đối và tự nó tồn
tại
.

Khái
niệm về tính tương đối của thời gian, sau đó được Long
Thọ
phát triển thêm, phần nhiều mang tính cách triết học,
nhưng khái niệm này đã được duy trì từ gần hai ngàn năm
nay. Mặc dầu tôi nghe nói là một số nhà khoa học xem liên
tục
thể không gian – thời gian bốn chiều của Einstein như
một cái “thùng” tồn tại trên cơ sở có tự tánh, trong
cái thùng đó các sự kiện xảy ra… nhưng đối với một
nhà tư tưởng Phật giáo quen thuộc với tư tưởng của Long
Thọ
, sự chứng minh của Einstein về thuyết tương đối của
thời gian, nhất là qua những thí nghiệm tưởng tượng của
ông, rất có ích trong việc đào sâu thêm sự hiểu biết về
tánh tương đối của thời gian.

Thú
thực thì, tôi chưa nắm bắt được hết lí thuyết lượng
tử, mặc dầu tôi đã cố gắng rất nhiều! Tôi được biết
rằng một trong những nhà vật lí lượng tử nổi tiếng,
Richard Feynman, đã nói câu này: “Tôi nghĩ tôi có thể phát
biểu
một cách chắc chắn rằng không ai có thể hiểu hết
cơ học lượng tử”, vì thế tôi cảm thấy có người đồng
hành
. Nhưng ngay cả với những người dở toán như tôi (toán
học là một lãnh vực của khoa học hiện đại mà tôi chẳng
có chút duyên nghiệp gì với!), có một sự thật rõ ràng
chúng ta không thể xem những hạt dưới tầng nguyên tử
như những thực thể xác định, biệt lập, hay loại trừ
lẫn nhau (mutually exclusive). Thành phần cấu tạo cơ bản của
vật chất và của ánh sáng (các quang tử43) có thể biểu
hiện dưới dạng sóng, hay hạt, hay cả hai. (George Thompson,
người được giải thưởng Nobel vì chứng minh được điện
tử là sóng, chính là con trai của J. J. Thompson, người cũng
được giải thưởng Nobel vì đã thấy được điện tử là
hạt). Tôi nghe nói rằng các điện tử biểu hiện dưới dạng
hạt hay sóng tuỳ thuộc vào người xét nghiệm hay vào những
dụng cụ được người đó chọn để sử dụng trong việc
quan sát.

Mặc
dầu
đã được nghe nói đến tính mâu thuẫn này của ánh
sáng, mãi đến năm 1997, khi nhà vật lí học thực nghiệm
Anton Zeilinger minh họa cho tôi thấy tận mắt, bằng những
biểu hình chi tiết, tôi mới cảm thấy mình nắm bắt hẳn
được vấn đề. Anton chỉ cho tôi thấy rằng chính sự thí
nghiệm khiến cho một điện tử sẽ hành xử như là hạt
hay là sóng. Qua cuộc thí nghiệm nổi tiếng hai khe hở (double-slit),
các điện tử được bắn từng cái vào một tấm chắn có
hai khe hở và in dấu lên một tấm phim chụp ảnh đằng sau
tấm chắn. Nếu chỉ có một khe hở mở ra, thì các điện
tử in lên tấm phim dưới dạng hạt. Nhưng nếu cả hai khe
đều mở, và rất nhiều điện tử được bắn vào, thì hình
ảnh
in trên tấm phim cho thấy rằng chúng đã đi qua cả hai
khe hở đó dưới dạng sóng. Anton đem ra một công cụ khác
để lặp lại thí nghiệm này với mô hình nhỏ hơn, và tất
cả chúng tôi đã theo dõi cuộc thí nghiệm đó một cách thích
thú
. Anton thiên về khuynh hướng thực nghiệm của cơ học
lượng tử, đặt để tất cả tri thức của ông về vấn
đề
này dựa trên những gì ông học được từ các thí nghiệm.
Phương thức này trái ngược với cách tiếp cận của David
Bohm (ông này chủ yếu làm việc bằng lí thuyết và chú trọng
đến ảnh hưởng triết học của cơ học lượng tử). Sau
này, tôi được biết là Anton là người thuộc trường phái
“Copenhagen” về cơ học lượng tử 44, trong khi David Bohm
là một trong những người chỉ trích kịch liệt trường phái
đó.

Thú
thật
, tôi vẫn chưa hiểu rõ hoàn toàn nhận thứcý nghĩa
triết học của quan niệm nhị nguyên (duality) giữa sóng và
hạt này là cái gì. Tôi sẵn sàng chấp nhận ý nghĩa triết
học
căn bản rằng ở tầng dưới nguyên tử (subatomic level),
ý niệm về thực tại không thể tách rời khỏi công cụ
được dùng để đo lường của người quan sát, vì thế không
thể nói rằng thực tại đó hoàn toàn khách quan. Tuy vậy,
nghịch lí này dường như cũng hàm ý rằng ở tầng dưới
nguyên tử, hai trong những nguyên tắc luận lí quan trọng nhất
là luật tương phản (the law of contradiction), và luật bài trung
(excluded middle law) dường như không tuân thủ, trừ phi người
ta cho những điện tử này một ít trí thông minh. Theo kinh
nghiệm
thường tình, ta nghĩ rằng đã là sóng thì không thể
là hạt, song ở tầng lượng tử, ánh sáng có vẻ như mâu
thuẫn
vì nó hành xử như cả hai. Tương tự, trong thí nghiệm
hai khe hở, các quang tử đi qua hai khe hở cùng lúc, do đó
không tuân theo luật bài trung, vì theo luật này thì chúng chỉ
có thể đi qua một trong hai khe hở.

Về
ý nghĩa nhận thức của thí nghiệm hai khe hở, tôi nghĩ là
vẫn còn nhiều điều cần tranh cãi. Nguyên lí bất định
nổi tiếng của Heisenberg’s nói rằng nếu ta có thể đo được
vị trí của một điện tử chính xác chừng nào thì xung lượng
(momentum) của nó càng bất định chừng đó, và ngược lại,
nếu ta có thể đo được xung lượng của điện tử chính
xác
chừng nào thì vị trí của nó càng bất định chừng
đó. Ta có thể biết được ở một thời điểm nhất định
điện tử đó ở đâu, nhưng ta lại không biết nó đang “làm
gì”, hoặc ta biết được nó đang “làm gì”, nhưng lại
không biết nó đang ở đâu. Điều này có nghĩa là người
quan sát đóng vai trò then chốt: để biết được vị trí
của một điện tử, ta phải bỏ qua xung lượng của nó; để
biết được xung lượng của nó, ta phải bỏ qua vị trí của
nó. Vì vậy, người quan sátảnh hưởng đến thực tại
được quan sát. Song, vấn đề vai trò của người quan sát
là một câu hỏi nhức nhối của cơ học lượng tử. Thật
vậy, trong cuộc hội thảo Tâm thức và Cuộc sống năm 1997,
các khoa học gia đưa ra nhiều cái nhìn với nhiều sắc thái
khác nhau. Một số cho rằng vai trò của người quan sát nằm
trong giới hạn của công cụ được sử dụng cho việc quan
sát
, trong khi đó một số khác cho rằng người quan sát đóng
vai trò quyết định đối với thực tại đang được quan
sát
. Vấn đề này đã được thảo luận trong Phật giáo từ
lâu lắm. Một đằng là những người Phật tử có óc “thực
tế”, tin tưởng rằng thế giới vật chất được cấu thành
bởi những thành phần bất khả phân và nó tồn tại khách
quan, độc lập với tâm thức. Một đằng thì là những người
Phật tử “lí tưởng”, cái gọi là phái “duy tâm”, phản
đối
bất kỳ một ý niệm nào về một thực tại khách quan
của thế giới bên ngoài. Họ cho rằng thế giới vật chất
bên ngoài, nói cho cùng, chỉ là sự phản ánh của tâm thức
đang quan sát. Tuy vậy, có một trường phái thứ ba, đó là
tông phái Prāsaṅgika (Quy Mậu Luận Chứng phái), một tông
phái
uy tín nhất trong truyền thống Tây Tạng. Theo trường
phái này thì, mặc dầu họ không phản đối một thực tại
của thế giới bên ngoài, thực tại ấy phải được hiểu
là nó có tính cách tương đối; nó tuỳ thuộc vào ngôn ngữ
mà ta sử dụng, các quy ước xã hội, và những ý niệm chung.
Quan niệm về một thực tại có sẵn, độc lập với người
quan sát, là không bền vững. Như trong vật lí học hiện đại
cho thấy, vật chất không thể được nhận thức hay mô tả
mà không có người quan sátvật chấttinh thần phụ
thuộc lẫn nhau
.

Sự
nhận biết về tánh phụ-thuộc-mà-phát-sinh của thực tại
này, cái mà trong Phật giáo gọi là lí duyên sinh45 (dependent
origination), chính là cốt tuỷ của tư tưởng Phật giáo về
thế giớibản thể của nhân sinh. Nói một cách ngắn
gọn thì lí duyên sinh có thể hiểu theo ba cách: Thứ nhất,
tất cả các pháp hữu vi (conditioned things and events) chỉ khởi
sinh như là cái quả của sự tương tác giữa các nhân và
các duyên. Chúng không thể tự nhiên mà có được. Thứ hai,
có mối quan hệ phụ thuộc hai chiều giữa cái một và cái
tất cả; không có cái một, thì không thể có cái tất cả,
không có cái tất cả thì không có lí do gì lại có cái một.
Mối quan hệ hỗ tương giữa cái một và cái tất cả này
áp dụng cho cả không gianthời gian. Thứ ba, bất cứ một
cái gì hiện hữu và có tự thể chỉ có thể tồn tại trong
một mạng lưới của tất cả các sự vật có thể có hoặc
tiềm ẩn một mối quan hệ tương duyên và tương tác với
nó. Không có một pháp (hiện tượng) nào có thể có mặt
riêng biệt và tự hữu.

Thế
giới
là do một mạng lưới của những liên hệ qua lại phức
tạp
cấu thành. Ta không thể nói đến thực tính của một
vật thể cách biệt nào ở ngoài phạm vi của những liên
hệ
qua lại của nó với môi trường xung quanh, với các hiện
tượng
khác, trong đó có ngôn ngữ, ý niệm, và những quy
ước
khác. Vì vậy, không thể có chủ thể nếu không
cái khách thể xác định chủ thể ấy, cũng không có khách
thể nếu không có chủ thể để cảm nhận, không có người
làm nếu khôngviệc đã làm. Không có cái ghế nếu không
có chân ghế, cái mặt ghế, cái lưng ghế, gỗ, đinh, cái
sàn nhà mà cái ghế đang ở trên, cái bức tường tạo nên
cái căn phòng mà cái ghế đang được đặt trong đó, người
thợ mộc làm ra chiếc ghế, và cuối cùng, cái người (person)
gọi nó là “cái ghế” và nhận ra nó là cái mà anh ta có
thể dùng để ngồi lên. Không những là sự hiện hữu của
vạn vật hoàn toàn tuỳ thuộc lẫn nhau mà danh sắc đích
thực của nó còn phụ thuộc vào những vật thể khác và
những điều kiện khác nữa.

Trong
vật lí học, nghịch lí EPR làm nổi bật thêm tính hỗ tương
sâu sắc của vạn vật. EPR là chữ viết tắt tên của ba
tác giả của nó: Albert Einstein, Boris Podolsky, và Nathan Rosen,
lúc đầu được ba nhà khoa học này lập ra để thánh thức
ngành cơ học lượng tử. Giả sử có một cặp hạt được
tạo ra, và bị tách rời, hai hạt chuyển động theo hai hướng
đối nghịch nhau, với một khoảng cách thực là xa, thí dụ
như, từ Dharamsala (nơi tôi ở) tới New York. Một trong những
tính chất của cặp hạt này là chúng phải xoay theo hai hướng
đối nghịch nhau: nếu cái này “đi lên”, thì cái kia “đi
xuống”. Theo vật lí học lượng tử, sự tương quan giữa
kết quả đo lường (xuống hay lên) phải hiện hữu mặc dầu
thuộc tính của từng cái một chưa được xác định cho đến
khi người thí nghiệm đo lường kết quả của một hạt,
thí dụ như cái hạt ở New York. Lúc đó, cái hạt ở New York
sẽ có một kết quả, thí dụ như là “đi lên”, thì cái
kia cũng phải đồng thời “đi xuống”. Sự xác định kết
quả lên/xuống này là tức thì, ngay cả đối với cái ở
Dharamasala, mặc dầu nó chưa được đo lường. Tuy bị tách
rời, hai hạt này hành xử như là một khối đồng nhất.
Dường như là có một sự tương tức đáng kinh ngạc và sâu
sắc nơi linh hồn của vật lí lượng tử.


lần, trong một buổi nói chuyện trước công chúng ở Đức,
tôi đã gây được sự chú ý của nhiều khoa học gia thực
thụ khi tôi nói đến tuệ giác sâu sắc về thế giới quanh
ta của truyền thống thiền quán. Tôi nói về điểm gặp nhau
giữa truyền thống Phật giáo Tây Tạng và khoa học hiện
đại
, nhất là về tư tưởng của Phật giáo cho rằng thời
gian
tương đối và sự phản đối một ý niệm về thể
tánh
(essentialism). Lúc đó, tôi để ý thấy sự có mặt của
Weizsäcker trong thính chúng, và tôi đã thú thật với ông về
sự hiểu biết ít ỏi của tôi về vật lí lượng tử, ông
đã lịch sự đáp lời rằng nếu thầy của ông, Werner Heisenberg,
cũng có mặt, thì sẽ rất thích thú được nghe về sự cộng
hưởng
giữa triết học Phật giáonhận thức khoa học
của ông.

Một
vấn đề khác của vật lí học nguyên tử là vấn đề đo
lường. Tôi được biết là có cả một cuộc nghiên cứu
dành riêng cho đề tài này. Đa số các khoa học gia cho rằng
hành động đo lường gây ra sự “sụp đổ” của sóng hoặc
của hạt, tuỳ theo công cụ được dùng để đo lường. Chỉ
có lúc đo lường thì cái khả năng đó mới trở thành sự
thật
.

Nhưng
điều chúng ta phải đối mặt là những sự vật và sự kiện
diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Vậy thì, vấn đề là:
làm sao, đứng trên cái nhìn của vật lí học, ta có thể
hoà hợp những ý niệm thường tình của ta đối với những
sự vật mà ta tiếp xúc và thấy hằng ngày với thế giới
kỳ dị của cơ học lượng tử? Hai thái cực này có thể
dung hoà được không? Không lẽ ta bắt buộc phải có một
cái nhìn “tâm thần phân liệt” (schizophrenic) về thế giới?

Trong
hai ngày tu học ở Innsbruck về nhận thức luận (epistemology)
liên quan đến nền tảng của cơ học lượng tử và tư tưởng
Trung Luận của Phật giáo, Anton Zillinger, Arthur Zajonc và tôi
đã có một cuộc đối thoại nho nhỏ. Anton cho hay rằng một
đồng nghiệp được nhiều người biết đến của ông từng
nói rằng phần lớn các nhà vật lí lượng tử như là bị
“tâm thần phân liệt” trong nghề nghiệp chuyên môn của
mình: Khi họ ở trong phòng thí nghiệm, họ là những nhà khoa
học hiện thực. Họ nói về các quang tử và điện tử ở
chỗ này, ở chỗ kia… Nhưng, hễ khi có ai bàn tới triết
học
và hỏi họ về nền tảng của cơ học lượng tử, họ
lại nói là không có cái gì thực có hết nếu không có công
cụ đo lường!

Trong
Phật học, cũng có vấn đề tương tự như thế về sự khác
biệt giữa nhận thức thường tình của ta về thế giới
triết thuyết về tánh không của Ngài Long Thọ. Ngài Long
Thọ
đưa ra hai khái niệm về sự thật, gọi là tục đế46
(conventional truth), để chỉ những kinh nghiệm thường tình
của ta, và chân đế47 (ultimate truth), để chỉ cái chân tướng
tối hậu của vạn vật, ở tầng không tánh. Đứng trên phương
diện
tục đế, ta có thể nói tới thế giới đa nguyên đa
dạng với thể tánh riêng biệt của vạn vật và lí duyên
khởi
. Đây là địa hạt mà luật nhân quả, và các luật
logic như là luật nhất như (principles of identity), luật tương
phản (law of contradiction) và luật bài trung (excluded middle law)
tuân thủ theo một trật tự nhất định. Thế giới thực
nghiệm này không phải là ảo, không phải là không thực.
Nó thực vì ta cảm nhận được nó: Nếu ta gieo xuống một
hạt lúa, nó sẽ nảy mầm, và sau đó thành cây lúa và cho
ta hạt lúa.

Nếu
ta uống thuốc độc, ta sẽ chết, và uống thuốc tốt thì
có thể sẽ khỏi bệnh. Tuy nhiên, đứng trên phương diện
chân đế, vạn vật không có tánh riêng rẽ, biệt lập. Cái
bản thể tánh tối hậu (ultimate ontological status) của nó là
“rỗng không”, vì nó không có tự tánh, không có mặt riêng
rẽ, độc lập.

Tôi
có thể hình dung nguyên lí nhị đế 48 này trong lãnh vực
vật lí học. Ta có thể xem mô hình của Newton là một thí
dụ
điển hình của kinh nghiệm thường tình (tục đế), và
thuyết tương đối của Einstein – dựa trên một giả thuyết
khác từ căn bản – cho thấy thêm một mô hình tuyệt vời
trên một bình diện khác. Mô hình của Einstein mô tả những
khía cạnh của thực tại trong đó sự chuyển động tương
đối
đóng vai trò chính yếu, nhưng trong thực tế thì nó
không ảnh hưởng đến cái nhìn thường tình của ta.

Tương
tự
như vậy, mô hình vật lí lượng tử phơi bày thực tại
trên một bình diện khác, một thực tạitính cách suy
định (inferred), nhất là trên bình diện vi mô. Những bức
tranh
mà những mô hình này vẽ ra đều rất hay, đáp ứng
mục tiêu của nó, nhưng nếu ta tin tưởng rằng những mô
hình này được làm bằng những vật thể có thực, có tự
tánh
, thì ta sẽ chỉ có thất vọng mà thôi.

Tới
đây, tôi thấy ta cần suy gẫm về nghị luận của Ngài Nguyệt
Xứng49 (Candrakīrti), sống vào thế kỷ thứ VII, liên quan đến
sự phân biệt rạch ròi giữa tục đếchân đế. Ngài
Nguyệt Xứng cho rằng, khi tạo nên tri kiến của ta về thực
tại
, ta phải nhận diện sự vi tế của phạm vi giới hạn
đặc điểm của vấn đề được đặt ra. Thí dụ, ông
nói, nếu ta phủ nhận ý niệm về cái ngã riêng rẽ (distinct
identity), luật nhân quả và lí duyên sinh trong thế giới thường
ngày [đứng về phương diện tục đế], như một số người
theo triết lí tánh không chủ trương, chỉ vì những khái niệm
này không bền vững trên bình diện chân đế, thì nghĩa là
ta đã phạm một sai lầm về mặt phương pháp luận. Đứng
trên phương diện tục đế, ta thấy nhân và quả khắp mọi
nơi
. Khi ta muốn điều tra xem ai là người có lỗi trong một
vụ tai nạn, chẳng hạn, ta sẽ không hơi đâu đi tìm hiểu
sự sâu sắc của tự tánh của vạn vật, vì như vậy ta sẽ
bị chìm đắm trong vô số sự kiện xảy ra khiến ta không
biết đâu mà lần. Khi ta ghi nhận những tính chất của nhân
và quả trong thế giới thường tình, ta không thể dùng những
sự phân tích trừu tượng, siêu hình để đi tìm cái “chân
bản thể” của vạn vật, mà ta sẽ dùng những quy ước,
ngôn ngữ, và logic của thế giới thường tình. Ngược lại,
Ngài Nguyệt Xứng lập luận, ta có thể sử dụng những phân
tích về chân bản thể để phủ nhận những định đề siêu
hình của một số môn phái triết học, như là ý niệm về
Đấng Tạo Hoá, hay linh hồn vĩnh cữu, vì những ý niệm này
được đặt ra dựa trên nền tảng của một sự suy luận
về bản chất tối hậu của vạn vật.

Trên
cơ bản, hai Ngài Long ThọNguyệt Xứng nói thế này: khi
ta chỉ nói đến thế giới kinh nghiệm [tức trên phương diện
tục đế], miễn là ta không gán cho vạn vật một sự tồn
tại
biệt lập trên cơ sở tự tánh, thì những khái niệm
về duyên sinh, ngã50, phân biệt, và luận lí vẫn đứng vững
được. Nhưng giá trị của những nguyên lí này bị giới
hạn
trong khuôn khổ tương đối của tục đế. Nếu ta gán
những ý niệm như ngã, hiện hữu, và duyên sinh cho một sự
hiện hữu khách quan, biệt lập, thì ta đã vượt quá giới
hạn
của logic, ngôn ngữ, và quy ước. Ta không cần phải
mặc nhận sự tồn tại khách quan biệt lập của vạn vật,
bởi vì ta có thể gán một thực tính mạnh mẽ không vô cứ
(non-arbitrary) cho các sự vật và sự kiện (không những được
sử dụng hằng ngày mà còn hàm chứa một căn bản vững chắc
về đạo đứcđời sống tâm linh). Thế giới, theo triết
lí của tánh không, được cấu thành bởi một mạng lưới
của những hiện tượng tương duyên và tương tác, trong đó
những cái nhân duyên sinh tạo ra những cái quả duyên sinh
theo những định luật nhân-quả duyên sinh, vì thế những
chúng ta nghĩ và làm trong cuộc sống hằng ngày của riêng
ta có ảnh hưởng vô cùng lớn lao đến tất cả mọi người
và vật xung quanh ta, mà ta không thể tách rời khỏi.

Tri
thức
giới hạn của con người đang được đặt trước một
thử thách gay go, sau khi nền triết học Phật giáo và vật
hiện đại phơi bày tính mâu thuẫn của thực tại. Cốt
lõi
của vấn đề nằm ở bình diện nhận thức luận (epistemology):
làm thế nào ta có thể nhận thứclãnh hội thực tại
một cách mạch lạc, chặt chẽ? Các triết gia Phật giáo vềtánh không không những đã xây dựng cả một nền tảng của
sự hiểu biết về thế giới bằng cách từ bỏ cách nhìn
vạn vật như là những thực thểtự tánh và khách quan
– một sự cám dỗ có thâm căn cố đế – mà họ còn đem tuệ
giác
của mình vào trong từng giây phút của cuộc sống thường
ngày. Giải pháp của Phật giáo đối với vấn đề có vẻ
như là thuộc về tri thức luận đó dựa trên khái niệm nhị
đế
[tục đếchân đế]. Vật lí học cũng cần phải
đề ra một tri thức luận nhằm nối một nhịp cầu chung
cho sự khác biệt trong cái nhìn về thực tại giữa hai ngành
vật lí học cổ điển và vật lí học hiện đại, tức cơ
học lượng tử, cũng như đối với các sự vật và sự kiện
diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Còn cái khái niệm nhị
đế
trong vật lí học, mặt mũi của nó ra sao, tôi thực tình
không biết. Gốc rễ của vấn đề triết học do tiếng chuông
của cơ học lượng tử gióng lên, làm thức tỉnh địa hạt
vật lí học nói chung, là: liệu cái ý niệm về thực tại,
được xác định bởi những nguyên tốthể tánh, có đứng
vững được hay không? Triết học về tánh không của Phật
giáo
đã mang lại cho con người một mô hình chặt chẽ để
lãnh hội thực tại: mô hình phi thể tánh51 (non-essentialist
model). Còn điều này đem lại những lợi lạc gì, thì chỉ
thời gian mới trả lời được.

Hết
chương III


(Tánh
Không, Thuyết tương đối, và vật lý học lượng tử,

Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 – Trần Uyên Thi Việt dịch
)

1 Luận
Đại Trí Độ: Mahāprajñāpāramitā-śāstra

2 Long
Thọ
龍樹, Nāgārjuna: sống vào thế kỷ thứ II. Một trong
những luận sư lỗi lạc nhất trong lịch sử Phật giáo, sau
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sáng lập trường phái Trung Luận
中 論 (Madhyamaka-śāstra).

3 Pháp
; S: dharma; P: dhamma: Tất cả và mỗi cái hay sự gì mà
trong cõi Ta Bà này ta có một ý niệm về nó. Thí dụ, đoá
hoa, đám mây, cái bàn, con người, … đều là pháp, nhưng
“lông rùa” và “sừng thỏ” mà kinh điển hay nhắc đến,
cũng là pháp. Rùa không có lông, và thỏ không có sừng, nhưng
hễ là ta có một ý niệm về nó, thì nó cũng là một pháp.
Pháp ở đây không phải là giáo pháp (teaching).

4 Kinh
Đại Bát Nhã: “Các cõi, các cảnh giới, các thân căn chúng
sanh
… đều như huyễn, như hoá, như mộng, như ảo, như bào
(bọt nước), như ảnh, như lộ (sương), như điển (tia chớp).”

5 Hay
“phi bản chất”, tức là không có tự tánh riêng biệt.

6 Xin
xem chú thích ở chương II.

7 Duyên
khởi
: 縁起, sa. pratītyasamutpāda

8 Số
Luận học phái
數論學派, một trong sáu hệ phái triết học
cổ Ấn Độ sau thời Đức Phật.

9 Thắng
Luận học phái
勝論學派, một học phái triết học cổ điển
của Ấn Độ sau thời Đức Phật.

10
Geshe: kỳ thi tương đương với tiến sĩ Phật họcTây
Tạng
.

11
Lhasa: Thủ đô của Tây Tạng.

12
Không tánh: 空 性, sa. Śūnyatā, ta gọi là “Tánh không”.

13
Independent: theo từ nguyên, là không phụ thuộc, không tương
liên, không tương ứng, không tương duyên.

14
Bougie, tiếng Pháp: nến điện, điện lạp.

15
Essence: Bản chất, thể tánh

16
Thí dụ, ta hay nói: “Trời mưa”, nhưng có phải trời mưa
đâu (không có chủ thể [subject] và tác nhân [actor] ở đây),
chỉ có mưa thôi. Hoặc ta nói: “Tôi giận”, nhưng có thực
là có một cái tôi đang giận không, hay chỉ có cái giận
thôi, nhưng ta lại nắm bắt lấy cái giận đó, và coi nó
là “của tôi”?

17
Trung Luận: 中 論, Madhyamaka-śāstra, Middle Way Treatise (hoặc
Trung Quán phái, Mādhyamika, Middle Way School).

18
Đại Thừa: 大乘, Great Vehicle

19
Madhyamaka-kārikā (Fundamental Wisdom of the Middle Way), do Ngài Cưu-ma-la-thập
鳩摩羅什 dịch sang Hán văn.

20
Một điện tử có thể có mặt ở nhiều nơi cùng một lúc.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, có lần Đức Thế Tôn có mặt một lần
ở cả ba cõi: Ngài đến thăm cõi trời Dạ Ma, đồng thời
cũng có mặt ở cõi Ta Bà, và cõi trời Đao Lợi nữa.

21
Đây là dịch sát theo nghĩa của từ tiếng Anh “superposition”
(sự chồng chập) — nguyên tử này chồng lên nguyên tử kia.
Nhưng, trên thực tế, các nguyên tử không “chồng” lên
nhau mà cái này nằm trong cái kia (tương nhập, tương dung).Đây là một thí dụ cụ thể về sự giới hạn của ngôn
từ
trong vật lí học hiện đại.

22
Andrei D. Sakharov (1921-1989): Khoa học gia nguyên tử cận đại
của liên bang Sô-viết, được coi là cha đẻ của bom khinh
khí. Ông đã cầm đầu phong trào phản kháng nền độc tài
chà đạp nhân quyền trong thời Stalin, và chủ trương huỷ
diệt võ khí hạch tâm. Giải Nobel Hòa bình 1975.

23
Thí dụ cụ thể là việc sử dụng danh từ “superposition”
ở đoạn trên.

24
Tì-bà-sa bộ 毘婆沙部

25
Chính Lí học phái 正理學派, còn gọi là Ni-dạ-da học phái
尼夜耶學派

26
Thắng Luận học phái 勝論學派

27
Di-mạn-sai học phái 彌曼差學派

28
Số Luận học phái 數論學派

29
Bất nhị phệ-đàn-đa học phái 不二吠檀多學派

30
A-tì-đàm tâm luận 阿毘曇心論 , “Essence of Higher Knowledge

31
A-tì đạt-ma đại-tì-bà-sa luận, “Great Treatise on Instantiation“

32
Pháp Thắng: 法勝, Dharmaśrī

33
Thế Thân: 世親, Vasubandhu

34
A-tì đạt-ma câu-xá luận 阿毘達磨俱舍論, “Treasury of Higher
Knowledge “

35
Điều này được khoa học giảng giải minh bạch với mô hình
nguyên tử giống một hành tinh hệ, có những tầng điện
tử xoay quanh một cái nhân. Tầng điện tử ngoài cùng là
tầng có tác dụng hóa học mạnh nhất.

36
Ở đây, tác giả chỉ nhắc đến tứ trần, nhưng có lẽ
ý của tác giả cũng muốn nói tới tứ đại (đất, nước,
gió, lửa) nữa, như tác giả đã nói đến trong một đoạn
ở trên.

37
Quarks và leptons là những vi hạt dưới nguyên tử (subatomic),
và là những thành tố lí tưởng được định trong những
công thức toán học bởi những liên hệ tương ứng với nhau.

38
Đây là nội dung của từ “hữu vi” thường dùng trong Phật
học
.

39
Ion hoá: nguyên tử bị mất đi hay thêm vào một điện tử
ở tầng ngoài cùng trong một dung dịch

40
Vô Trước: 無著, Asaṅga, một trong những đại luận sư của
Phật giáo Ấn Độ sống vào thế kỷ thứ IV, người sáng
lập
Duy Thức Tông 唯識宗 (Vijñānavādin). Tương truyền sư
được Bồ tát Di Lặc trực tiếp giáo hoá.

41
Đâu Suất 兜率 (Tuṣita, Maitreya’s Heavenly Realm): dịch nghĩa
Hỷ Túc 喜足 (vui vẻ và no đủ). Là cung trời thuộc cõi
Dục Giới
, trú xứ của Bồ tát Di Lặc 彌勒.

42
Kinh Lượng bộ 經量部 (Sautrāntika) là một nhánh của Tiểu
Thừa 小乘
(Hīnayāna) xuất phát từ Thuyết Nhất Thiết Hữu
bộ
說一切有部 (Sarvāstivādin) khoảng 150 năm trước Công
nguyên
.

43
Photon

44
Tức trường phái lượng tử (quantum) cổ điển của Niels
Bohr (và Heisenberg), thiên về thực nghiệm (nhưng cũng dùng
toán học).

45
Do thập nhị nhân duyên mà thành

46
Tục đế: 俗諦, saṃvṛti-satya, chân lí tương đối, tích
môn.

47
Chân đế: 眞諦, paramārtha-satya, chân lí tuyệt đối, bản
môn.

48
Nhị đế: 二 諦, satyadvaya, gồm tục đếchân đế.

49
Nguyệt Xứng: 月稱, Candrakīrti, sống vào thế kỷ thứ VII,
được xem là luận sư lỗi lạc nhất thuộc phái Trung Luận
中論, sau Long Thọ (Nāgārjuna).

50
Hay “danh sắc” (identity)

51
Hay “phi bản chất”, tức là không có tự tánh riêng biệt..-)