Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (Tập 02)

0
40


PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH (2001) (TẬP 02)


Pháp Sư Tịnh Không


 


Các vị đồng tu,
xin chào mọi người!


Những vấn đề từ
trên mạng gởi đến, tập hợp lại cũng không ít! Tôi nghĩ, chúng ta sẽ tìm một
thời gian khác để trả lời. Có một số đồng tu một hai ngày nữa sẽ phải rời khỏi
Singapore, do đó thời gian rất là bảo quý. Hôm nay chúng ta bắt đầu thảo luận
Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh.


Ở trong bộ kinh
điển này cũng có thể giải quyết được rất nhiều vấn đề của chúng ta, như ở chỗ
này có một vấn đềtôn giáo dung hòa là một đại thắng sự, nếu chúng ta cũng
đi nghe kinh điển của ngoại giáo thì có trái ngược với “một môn thâm
nhập” hay không? Giáo đích thực có tà, có chánh, chúng ta phải phân biệt
rõ ràng, thế nhưng đối với người có độ sâu thì kiến giải của họ không như vậy,
những người này chân thật không bị cảnh giới bên ngoài nhiễu loạn, cho nên
chánh
sẽ không còn. Hiện tại chúng taphàm phu, sẽ bị cảnh giới bên ngoài
ảnh hưởng, thế nên tà chánh cần phải phân rõ, phải xa tà, thân chánh, đây là
tùy thuận căn cơ mà nói. Hôm nay xin mời mọi người xem Thập Thiện Nghiệp Đạo
Kinh
. Phía trước có “Thượng Dụ” của Hoàng đế Ung Chánh, chúng ta cùng
xem chương này.


Đế vương của triều
Thanh đều là đệ tử của nhà Phật, hơn nữa vào thời Khang Hy, Ung Chánh, Càn
Long, ba triều đại này là thời kỳ thạnh trị nhất của tiền Thanh, họ mời Pháp sư
vào trong cung giảng kinh. Chúng ta xem trong ghi chép thấy giảng Kinh Vô Lượng
Thọ
, lấy lý luận giáo huấn của Kinh Vô Lượng Thọ để trị quốc. Việc làm này rất
đáng được tán thán. Trong cung đình mọi người đều đọc Kinh, nghe giảng Kinh,
xây dựng và cùng hiểu, đây là cách làm rất trí tuệ,rất cao minh. Họ không dùng
ý riêng của chính mình, không bảo người khác nghe ta nói như thế nào đó, không
phải như vậy! Họ nghe Phật nói! Hoàng Đế còn nghe Phật, thần tử, thứ dân đều
nghe theo Phật thì lòng người bình lặng, cho nên thiên hạ đại trị. Chúng ta xem
chương này của ông, liền biết được triều nhà Thanh làm cách nào trị tốt được
quốc gia, chỗ này để lộ ra một chút tin tức. “Thượng Dụ”, dùng lời
hiện tại mà nói chính là huấn từ của Hoàng đế.


Trẫm
duy tam giáo chi giác dân, ư hải nội dã, lý đồng xuất ư nhất nguyên, đạo binh
hành nhi bất bội
“.


Đoạn này là chỉ ra
tổng cương lĩnh, một lời nói ra hết. Thời đại thượng cổ tất cả mọi người đều tự
xưng là “Trẫm”, cũng giống như chúng ta hiện tại xưng là
“Tôi”. Cái chữ “Trẫm” này là trở thành từ chuyên dùng của
Hoàng đế là từ thời Tần Thủy Hoàng, cho nên về sau mọi người đều không dùng cái
chữ này để tự xưng chính mình nữa. Chúng ta phải biết nguyên do của chữ này.


“Trẫm
duy”
, dùng lời hiện tại mà nói
là: “tôi cho rằng, tôi nhận định”, chính là cái ý này.


Tam giáo
Nho-Thích-Đạo thời xưa của Trung Quốc, gọi là ba nhà. Ba nhà này đều là thuộc
về giáo học. Các vị phải nên biết, chữ “giáo” này là giáo học, không
phải tôn giáo. Tôn giáoTrung Quốc đích thực là rất muộn, về sau mới có danh
từ này, hơn nữa không phải từ Trung Quốc mà có, mà là từ Nhật Bản truyền đến,
cho nên ở Trung Quốc không có cái danh từ tôn giáo này, cũng không có khái niệm
về tôn giáo, đây là từ bên ngoài truyền đến. Người Trung Quốc nói “giáo” là ý
nghĩa
của giáo hóa, ý nghĩa của giáo dục, làm thế nào giáo hóa chúng sanh. Ý
nghĩa
của hai chữ “giáo hóa” này rất hay, “giáo” là hành vi, “hóa” là
kết qủa. Chúng ta tiếp nhận giáo huấn của Thánh hiền nhân, thế là liền sanh ra
thay đổi, việc này thường gọi là thay đổi khí chất, hóa ác thành thiện, hóa mê
thành ngộ, hóa phàm thành thánh, đây là nói hiệu quả của giáo học. Cho nên
người Trung Quốc dùng từ dựng, giáo là nhân, hóa là quả, ý nghĩa rất là hoàn
mỹ
. Đây là nói Nho gia, Đạo gia, Phật gia, ba loại giáo dục này.


“Giác dân
ư hải nội”
là dạy nhân dân giác
ngộ
. Hải nội là chỉ Trung Quốc, ở Trung Quốc xúc tiến giáo dục giác dân. Cái ý
nghĩa
này rất hay, quyết không phải là mê tín, là dạy chúng sanh giác ngộ.


“Lý đồng
xuất ư nhất nguyên”
. Lý luận
căn cứ của nó là như nhau, từ trên hình thức mà xem thì đều là căn cứ vào hiếu
đạo sư đạo, đây là Nho-Thích-Đạo ba nhà đều nói hiếu đạo, đều giảng tôn sư, tuy
là cách nói của họ không như nhau, phương pháp cũng có khác biệt, nhưng mục
tiêu
phương hướng của họ quyết định là giống nhau, cho nên “đạo tinh hành,
nhi bất bội”. Hoàn cảnh của Trung Quốc lớn đến như vậy, nhiều nhân khẩu
đến như vậy, vào ngày trước quốc gia không lập nhiều trường học đến như vậy thì
ai giáo hóa chúng sanh? Do ba nhà này gánh vác trách nhiệm giáo hóa chúng sanh,
giúp đỡ quốc gia, giúp đỡ hoàng đế, giúp đỡ xã hội, khiến xã hội đại chúng chân
thật
đạt được đời sống hạnh phúc, an hòa, lợi lạc. Đây là đem lợi ích thù thắng
của tam giáo ba nhà, một câu nói ra hết.


Thế nhưng con
người
họ có phân biệt, chấp trước, họ có phiền não tập khí, thế là không bao
dung
lẫn nhau. Loại tình hình này không khó lý giải. Xã hội ngày nay vấn đề này
càng nghiêm trọng, lỗi lầm xảy ra ở chỗ nào vậy? Ung Chánh cũng chỉ một câu nói
ra hết: “Nhân duy bất năng hốt nhiên quán thông”, đây là lỗi
lầm
căn bản. Tại vì sao không thể bao dung lẫn nhau, tại vì sao đố kỵ bài xích
lẫn nhau? Chính là không có hốt nhiên quán thông, không thể bỗng nhiên quán
thông
. Hốt nhiênđại ngộ, có thể ngộ nhập cảnh giới của Thánh hiền, sự lý
quán thông rồi thì vấn đề gì cũng đều có thể giải quyết.


“Ư
thị nhân các dị tâm
. Dị tâm chính là nói vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước
. Mỗi một người vọng tưởng, phân biệt, chấp trước không như nhau. “Tâm
các dị kiến”
là cách nhìn cách nghĩ của mỗi một người không như
nhau, thế là phiền não tập khí hiện tiền.


Mộ
đạo
giả, vị Phật bất như đạo chi tôn
“. Mộ đạo chính là Đạo giáo,
tín đồ của Đạo giáo, họ nói Phật không có tôn quí như Đạo vậy, thế là tôn Đạo,
xem thường Phật, vấn đề liền xảy ra.


Hướng
Phật giả, vị Đạo bất như Phật chi đại”.
Đệ tử Phật tôn sùng Phật,
xem Phật lớn, Đạo không lớn như Phật.


Nhi
Nho giả hữu hiềm tị nhị dân dĩ vi dị đoan
“. Học trò của Khổng Tử
thì tránh xa Đạo cùng Phật, cho là dị đoan. Dị đoan chính là không phải chánh
pháp
, là cách nói hơi khách sáo hơn so với nói tà pháp, không phải chánh đạo,
thế là ba giáo bài trừ lẫn nhau.


Hoài
hiệp tư tâm, phân tranh giác thắng, nhi bất tương hạ
“. Sự việc
này từ xưa đến nay đã có, nhất là giữa tín đồ với tín đồ tồn tại đối lập mâu
thuẫn
, đôi bên tranh hơn, không ai chịu thấp, hướng lên trên mà đi, nhưng bên
trên đi không được.


Mấy ngày trước
Lý Mộc Nguyên còn nói với tôi, môn hạ đệ tử của Thái Hư cùng đệ tử môn hạ
của Viên Anh không thể hòa thuận lẫn nhau, họ công kích lẫn nhau, không chịu
nhường nhịn. Sau đó hai vị Lão Pháp Sư này gặp nhau rất là khách sáo, tín đồ
của họ thấy được nhưng chẳng hiểu vì sao hai vị Lão Hòa Thượng này gặp nhau
khách sáo đến như vậy, trước đây không hề có việc này. Bên dưới không phục, họ
luôn cho là Sư Phụ của mình rất tuyệt, là đệ nhất, người khác đều không bằng.
Hiện tại loại tập khí này càng sâu hơn, đến đâu cũng đều có thể xem thấy, cho
nên chúng ta đọc cái chương “Thượng Dụ” này cảm xúc rất sâu, hay nói
cách khác, bên trên không có lỗi lầm, lỗi lầm đều là ở phía dưới.


Chúng ta xem tiếp
đoạn sau: “Trẫm dĩ trì tam giáo chi luận, diệc duy đắc kỳ bình nhi
kỳ hỉ”
. Câu này là do Hoàng đế Ung Chính chính mình tự nói. Cách
nhìn của ông đối với tam giáo không giống như người khác, vì sao vậy? Ba giáo
đều hạ công phu, chỗ này chính là phía trước nói “hốt nhiên quán
thông”, cho nên “diệc duy đắc kỳ bình nhi kỳ hỉ”. Bình là bình
đẳng
, ba giáo đích thực bình đẳng.


Ngày nay chúng ta
thấy Singapore, hiện tại Singapore có chín tôn giáo, ngày trước chín tôn giáo
này không hề qua lại với nhau, cũng là vì mỗi mỗi đều cho rằng chính mình là đệ
nhất, người khác luôn là không bằng, ở trong Phật pháp gọi là “tự khen
mình, chê người”. Phật nói: “tự khen mình, chê người”, cái điều
này ở trong “Du Già Giới Bổn” là trọng giới, trong “Phạm Võng
Giới Bổn” đều xếp vào giới điều không cho phép. “Tự khen mình, chê
người” là bạn đang tạo nghiệp, bạn tuyệt nhiên không hiểu rõ đối với người
khác thì xem thường hủy báng họ, cái tội này rất nặng! “Tự khen” là ngạo mạn,
là thuộc về một phần của tham-sân-si. Người chân thậttrí tuệ biết được pháp
pháp bình đẳng. Phật ở trên Kinh Kim Cang nói: “pháp môn bình đẳng
không có cao thấp”
.


Có một số người
cho rằng, Phật nói “pháp môn bình đẳng”, đại kháiThích Ca Mâu Ni
Phật
nói ra tất cả kinh giáo. Đây là do chúng ta nghĩ như vậy, có phải là ý của
Phật hay không? Ai cũng không dám nói! Phật nói là cái ý này phải không? Ngày
nay chúng ta đọc Hoa Nghiêm, từ trong khải thị của Hoa Nghiêm chúng ta thấy ý
của Phật không phải là ý này. Phật nói pháp môn bình đẳng là tất cả pháp thế
xuất thế gian, bao gồm tất cả các tôn giáo, bao gồm cả tà pháp. Vì sao vậy? Vì
như vậy nó mới có thể tương ưng được với Đại Phương Quảng. Tà pháp không nhận ở
chỗ này, vậy thì không phải Đại Phương Quảng. Tà pháp cùng chánh pháp cũng bình
đẳng
, cái đạo lý này rất khó hiểu, tại vì sao nói nó bình đẳng? “Đồng xuất
ư nhất nguyên”, chánh pháp là tâm hiện thức biến, tà pháp cũng là tâm hiện
thức
biến, lìa khỏi tâm thức thì thế xuất thế gian không có pháp nào có thể
được, vậy tà chánh từ chỗ nào mà phân?


Kinh đại thừa
chúng ta đọc nhiều rồi, biết được với pháp tánh tương ưng gọi là chánh, trái
ngược với pháp tánh gọi là tà, tà chánh như vậy mà phân, chúng ta không nói
tương ưng hay không tương ưng, gốc là một thứ, đều là từ đây sanh ra. Chúng ta
phải sâu sắc hiểu rõ cái đạo lý này, sau đó quay đầu quán sát lại chính mình,
một niệm tâm thiện là chánh, một niệm tham-sân-si là tà. Tà, chánh ngay bản
thân
. Một niệm ác là trong vọng tưởng, phân biệt biến hiện ra, một niệm thiện
là trong chánh tri biến hiện ra. Vọng tưởng cùng chánh tri là một, không phải
hai, khi mê rồi gọi là vọng, khi giác rồi gọi là chánh. Do đây có thể biết,
chánh pháp hay tà pháp chính là giác hay mê mà thôi. Giác ngộ rồi tà pháp biến
thành
chánh pháp, mê rồi chánh pháp cũng biến thành tà pháp, đây mới là chân
thật
hiểu rõ đạo lý. Cho nên ba giáo dạy người đều gọi là giác, giác chính là
chánh pháp, dạy người chuyển mê thành giác. Tướng của mê là sáu cõi ba đường,
tướng của giác ngộ là bốn thánh, Nhất Chân. Hiện tướng không như nhau, quả báo
không như nhau, quả báo của mê là khổ, quả báo của giác ngộ là vui, cho nên
“năng đắc kỳ bình”, dùng tâm thanh tịnh bình đẳng để xem.


Tắc
ngoại lượt hình tích chi dị, nội chứng tánh lý chi đồng
, nhi
tri tam giáo, sơ vô dị chỉ, vô phi dục nhân, đồng quy ư thiện
“.
Bạn chân thật hiểu rõ, chân thật thông đạt thì bạn không chú trọng hình thức mà
chú trọng nội hàm của nó, chú trọng thật chất của nó. Tôi lần đầu khi gặp mặt
tổng thống Nathan, ông nói với tôi một câu như thế này: “Trong tất cả các
tôn giáo, ông tôn trọng nhất chính là Phật giáo, Phật giáo chú trọng thật chất
mà không trọng hình thức”
. Lời nói này là người rõ lý, người không rõ
không
thể nói ra được, cho nên chúng ta rất tôn kính đối với ông. Có thể thông
qua cái ải này, không chỉ là tôn giáo mà thế xuất thế gian đều bình đẳng, tất
cả các pháp đều bình đẳng. Bình đẳng thì tánh trí của chúng ta mới có thể xuất
hiện
, phân biệt, chấp trước mới có thể buông xả, cho nên trong pháp đại thừa nói:
“Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên”. Lại nói với chúng
ta
“có pháp nào không phải là Phật pháp?”, tất cả pháp đều là Phật
pháp
, không có pháp nào không phải là Phật pháp, yêu ma quỷ quái cũng là Phật
pháp
.


Phật là gì vậy?
Phật là ý nghĩa của giác, chỉ cần bạn thông đạt tường tận, giác ngộ rồi, thì
pháp này gọi là Phật pháp. Nếu bạn không hiểu rõ, không giác ngộ, mê ở trong đó
thì kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm cũng không phải là Phật pháp, phải
hiểu rõ được cái đạo lý này. Pháp là tất cả các pháp, đây là chúng ta bình
thường
giải thích đạo lý của tất cả vũ trụ nhân sinh, tất cả quá trình diễn
biến hình thành, dùng một chữ làm tổng đại danh từ gọi là “Pháp”.
Phật là ý gì vậy? Là đều thấu hiểu thông đạt đối với những pháp này thì gọi là
Phật. Tất cả pháp thế xuất thế gian triệt để thông đạt tường tận, chúng ta liền
gọi con người này là Phật, họ không mê hoặc đối với tất cả pháp. Sau khi tường
tận chúng ta mới biết được, chỉ cần là chánh pháp, chánh pháp là gì? Là tương
ưng
với thiện, tương ưng với giác.


Phật pháp nói ba
chữ tiêu chuẩn là Giác-Chánh-Tịnh, tương ưng với Giác-Chánh-Tịnh thì gọi là
Phật pháp, trái ngược với Giác-Chánh-Tịnh thì chúng ta gọi là tà pháp. Các vị
nghĩ lại xem, pháp làm gì có tà chánh? Tà chánh là ở mê ngộ, ngộ rồi thì Giác-Chánh-Tịnh,
mê rồi chính là mê-tà-nhiễm. Đối diện với giác là mê, đối diện của chánh là tà,
đối diện của tịnh là nhiễm. Nếu như cái pháp này dạy chúng ta mê-tà-nhiễm thì
không phải là chánh pháp, chúng ta gọi nó là tà giáo, tà pháp; họ dạy chúng ta
Giác-Chánh-Tịnh thì đây là chánh pháp. Chúng ta chưa minh tâm kiến tánh, hay
nói
cách khác, chúng ta ở trong mười pháp giới phải học chánh pháp, phải viễn
ly
tà pháp. Đợi đến khi bạn siêu vượt mười pháp giới, bạn vào được pháp giới
nhất chân rồi thì tà chánh sẽ không còn. Ở trong mười pháp giới có chánh tà,
trong pháp giới nhất chân không có, pháp giới nhất chânviên mãn đại giác,
phải hiểu cái đạo lý này.


Xin mời các vị mở
kinh văn, chúng ta xem tiếp “Thượng Dụ” của Hoàng đế Ung Chính, tờ
thứ nhất đếm xuống hàng thứ ba, xem từ nửa đoạn sau. Tôi đem mấy câu chánh văn
đọc qua, đối chiếu ở chỗ này: “Phù Phật dân chi ngũ giới thập
thiện
, đạo nhân ư thiện dã, ngô Nho chi ngũ thường bách hạnh tú dịch tương cần,
hữu nhân bất dẫn nhân, vi thiện giả tai”
.


Chúng ta xem từ
đoạn này. Đoạn phía trước là đem tông chỉ, cội gốc của của ba giáo vì chúng ta
nói ra, chỗ này cũng chính là khế cơ khế lý mà nhà Phật nói. Lý là “đồng
xuất ư nhất nguyên”, Cơ thì không như vậy, cho nên mới có ba loại phương
pháp
giáo học này, tiếp dẫn ba loại căn tánh khác nhau. Cái này cùng với giáo
học của Phật pháp đại thừa nói hoàn toàn tương ưng với nguyên lý, nguyên tắc.
Phương pháp hình thức tuy là không giống nhau, nhưng phương hướng mục tiêu của
nó đều như nhau, đó chính là đồng quy ư thiện.


Tiêu chuẩn của
Thiện là phải tương ưng với tâm tánh, tương ưng với tánh đức, đây là nguyên tắc
không thay đổi. Thế nhưng mức độ tương ưng với tâm tánh đích thực có cạn, sâu,
rộng, hẹp khác nhau. Chúng ta biết được Pháp Thân Đại Sĩ là tối thanh tịnh,
pháp giới bốn thánh hơi kém hơn một chút so với Pháp Thân Đại Sĩ, cõi trời lại
kém xa hơn một chút, cõi người thì còn xa hơn, ba đường ác thì hoàn toàn trái
với
tánh đức. Giáo giới của Phật, Phật chế định ra cho chúng ta một số qui
luật, nhà Phật thường gọi là giới luật, đều là nương vào cái nguyên tắc này mà
nói ra. Việc này chúng ta phải nên tường tận, sau đó mới có thể thể hội trí tuệ
chân thật của chư Phật Bồ Tát, từ bi vô tận, phương tiện khéo léo. Người chân
thật
trí tuệ thì đối với “hình dị” tuyệt đối không đem nó để ở
trong tâm mà chỉ trọng “thật chất”. “Hình dị” là then chốtkhế cơ,
“thật chất” là khế lý. Quả nhiên khế lý, căn tánh của chúng sanh vô lượng
biên
, chúng ta không cách gì hiểu rõ.


Chúng ta xem trong
Hoa Nghiêm Kinh, Phật Bồ Tát có thể dùng tham- sân-si tiếp dẫn một loại chúng
sanh
. Việc này chúng ta xem ra dường như là trái ngược với tánh đức, nhưng kỳ
thật họ không trái ngược, chúng ta đi làm thì trái ngược, họ đi làm thì không
trái ngược, nguyên nhân này do đâu? Là do tâm địa của họ thanh tịnh, họ không
nhiễm trước hòa quang hồng trần. Tại vì sao chúng ta không thể làm? Chúng ta bị
nhiễm ô, hay nói cách khác, chúng ta tiếp xúc cảnh giới liền khởi lên vọng
tưởng
, phân biệt, chấp trước. Họ là Pháp Thân Đại Sĩ, nên khi tiếp xúc cảnh
giới
họ không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cao là cao ngay chỗ này.
Lìa tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước liền tương ưng với pháp tánh;
nhiễm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì trái ngược, đó là tạo nghiệp!


Thế là Phật chế
định giới hạnh cho chúng ta, chúng ta là sơ cấp nhất, cho nên nhất định phải
tường tận, phải có thể khẳng định ngày nay chúng ta là sơ cấp nhất, Phật dạy
chúng ta cái gì? Thập Thiện Nghiệp Đạo, đây là sơ cấp nhất, lớp mầm non của
Phật giáo, chúng ta có thể làm được hay không? Nếu không thể làm được, vậy
cách
lớp mầm non của Phật giáo cũng không có. Việc này chúng ta chính mình cần
phải
phản tỉnh. Chúng ta học Phật rốt cuộc là ở giai đoạn nào? Chính mình phải
rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo! Sau này pháp sư Thái Hư đã giảng nhân
thừa
của “ngũ thừa Phật pháp”. Năm giới, mười thiện thuộc về nhân
thừa
; thiên thừa thì cần phải thêm “tứ vô lượng tâm”, nhiều ít đều có
chút định huệ mới có thể từ chỗ này hướng lên trên cao.


Chúng ta xem tiếp:
“Phù Phật thị chi ngũ giới thập thiện”. Cái chữ
“Phù” này không có ý nghĩa, chỉ là trợ từ. Nhà Phật nói ra năm giới,
mười thiện, đây là nền tảng của Phật pháp, là đại căn đại bổn của Phật pháp.


“Đạo nhân
ư thiện dã
“. “Đạo” là
dẫn đạo, hướng dẫn người hướng thiện. Học Phật phải từ ngay chỗ này mà học,
người khác không thể làm nhưng chúng ta nhất định phải làm, quyết định phải
tuân thủ. Giới cùng thiện ở trên hình thức là như nhau, nhưng ở trên quả đức
không như nhau, việc này chúng ta cần phải biết, cho nên thọ giới cùng hành
thiện
không như nhau.


Ngũ giới là không
sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu; trong
mười thiện cũng là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng
ngữ
, xem ra thì dường như giống như nhau, thế nhưng quả báo của họ không như
nhau. “Giới” là bạn chánh thức tiếp nhận giáo huấn của Phật Đà, bạn chính mình
phát nguyện, cũng giống người thế gian gọi là phát thệ rồi, bạn đã từng phát ra
thệ nguyện muốn học. Mười thiện không có, bạn không phát ra loại tâm mười thiện
này. Quả báo mười thiện là mong cầu phước báo, năm giới thì không phải phước
báo
, chỗ này không như nhau. Năm giới là cầu cái gì? Cầu được tâm thanh tịnh,
“nhân giới được định, nhân định khai huệ”. Trên hình thức là như
nhau, mục đích phương hướng thì không như nhau, một cái là mong cầu phước báo,
một cái là mong cầu định huệ, đây là giới cùng thiện có khác biệt. Năm giới
nhất định phải ở trước mặt Phật Bồ Tát thọ, mười thiện thì không cần, cho nên
cùng tu học mấy khóa mục này, dụng ý ở chỗ nào vậy? Mục đích ở chỗ nào vậy?
Chính mình phải rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo.


Người học Phật
pháp
tâm thanh tịnh quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Giữ giới có thể đoạn
tham-sân-si-mạn-nghi, tu thiện không có loại năng lực này, dụng ý cũng không ở
chỗ này, cho nên đây là căn bản nhất dẫn dắt người hướng thiện.


“Ngô Nho
chi ngũ thường bách hạnh”
.
Hoàng đế Ung Chánh tự xưng “Ngô Nho”, ông dùng hai chữ này. Ông tự
nhận mình là người Trung Quốc, không phải là người nước ngoài, Mãn Thanh vào
làm chủ Trung Quốc thì cùng Trung Quốc đồng một quốc gia, đồng một dân tộc
“Ngô Nho”, nhà Nho chúng ta, bạn xem thấy cái ý nghĩa này.


Nhà Nho nói
“ngũ thường” cùng nhà Phật nói “ngũ giới” rất gần nhau. Ngũ
thường
là Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín. Nhân thì không sát sanh, sát sanh thì bất
nhân, Nghĩa là không trộm cắp, Lễ là không tà dâm, Trí là không uống rượu, Tín
là không vọng ngữ, cùng với năm giới của nhà Phật là tương đồng. Người có thể
giữ được năm giới thì đời sau nhất định được thân người. Chúng ta có thể được
thân người là do ngay trong đời quá khứ giữ năm giới, chỗ này trong pháp đại
thừa
gọi là “dẫn nghiệp”, dẫn đạo bạn đến cõi người để thọ sanh.
Chúng ta đều được thân người, là cùng đồng một dẫn nghiệp, thế nhưng mỗi một
người diện mạo đều không giống nhau, hoàn cảnh đời sống không như nhau, giàu sang
bần tiện không như nhau, đây là một sức mạnh riêng biệt, cái sức mạnh này gọi
là “mãn nghiệp”.


Mãn nghiệp là gì?
Là nghiệp thiện ác. Ngay trong đời quá khứ ta tu thiện nghiệp nhiều thì ngay
trong đời này ta được giàu sang, thiện nghiệp tu được ít thì ngay đời này tương
đối
bần khổ. Hai loại sức mạnh này chúng ta chính mình phải rõ ràng, phải tường
tận thì sau đó sẽ không oán trời trách người, cho dù sống ngay trong nghịch
cảnh
chúng ta cũng sẽ không oán trời trách người, vì sao vậy? Vì ngay trong đời
quá khứ đã tạo nhân bất thiện thì ngay đời này bị cái quả báo như vậy, chính
mình đương nhiên có thể vui mà tiếp nhận,con người này mới có thể tu hành, mới
có thể hành đạo. Nếu như chúng ta oán trời trách người thì cái ý niệm này liền
tạo tội nghiệp.


“Ngũ thường”
là lão Tổ tông Trung Quốc mấy ngàn năm dạy bảo con em, thường quy đối nhân xử
thế tiếp vật. “Thường” chính là không thể gián đoạn. Người Trung Quốc
tiếp nhận giáo dục này mấy ngàn năm, tuy là gần đây bị mất đi, mọi người không
nói đến, nhưng cái gốc đó luôn tồn tại, ngày nay chúng ta gọi là nhân nghĩa đạo
đức
. Nói Phật pháp Đại thừa người Trung Quốc dễ dàng tiếp nhận, đây là nguyên
nhân
gì? Vì cái gốc đó vẫn còn. Chúng ta từ “năm giới”,“ngũ thường”, quán sát
từ giáo dục này, người Trung Quốc xem thấy tất cả mọi người, xem thấy tất cả
mọi vật đều là thiện, tất cả mọi người đều là người tốt, “nhân giả vô
địch”.


Trong “ngũ
thường”, cái thứ nhất chính là “nhân”. Người nhân từ không có đối
thủ
, nếu như có đối đầu với ta thì người này không nhân từ. Người khác có thể
đối địch với ta, ta quyết không đối địch với người. Bảo người khác không đối
đầu
với ta thì thật khó, đây không phải là giáo huấn của Thánh hiền. Chính ta
không thể đối đầu với người khác, người khác đối đầu là việc của họ, họ xem
thường
ta, chúng ta không dám xem thường họ; họ hủy báng ta, chúng ta không
được hủy báng họ; họ nhục mạ ta, hãm hại ta, chúng ta quyết không dùng tâm lý
báo thù để đối lại với họ, đây là học Thánh, học Hiền. Thánh hiền nhân cùng
phàm phu khác biệt chính ngay chỗ này. Phàm phu tạo nghiệp, thánh hiền nhân tu
công tích đức, không như nhau! Nếu không mà nói, chúng ta đọc sách Thánh hiền,
học giáo Thánh hiền, học đến chỗ nào vậy?


Mấy khóa mục này
cần phải ghi nhớ, mỗi giờ mỗi phút đều không thể trái ngược, đó gọi là tu hành.
Nếu như tư tưởng kiến giải của chúng ta, hành vi trái với ngũ giới ngũ thường
thì bạn sai rồi! Biết được sai rồi thì chúng ta phải mau đem nó tu sửa lại, đây
tiêu chuẩn thiện ác của đại thánh đại hiền thế xuất thế gian, đây gọi là
thiện. Phù hợp với tiêu chuẩn này mới gọi là thiện, không phù hợp với tiêu
chuẩn
này đó không phải là thiện. Người khác bất thiện, chúng ta không được làm
việc bất thiện theo họ, chúng ta phải hành thiện để cảm hóa họ.


Chúng sanh vì sao
tạo tác bất thiện? Là vì phiền não tập khí quá nặng, không có người dạy bảo họ.
Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phật giảng rất hay: “tiên nhân bất thiện, bất
thức đạo đức, vô hữu ngữ giả, thù vô quái dã”
. Có thể lượng thứ cho
họ, cha mẹ của họ không dạy bảo họ, lão sư của họ không dạy bảo họ, người lớn của
họ không dạy bảo họ thì họ làm sao biết được? Không có người dạy bảo mà họ biết
được thì đó là Phật Bồ Tát tái sanh, đó là bậc thánh hiền, không phải là phàm
phu
. Người phàm không có người giáo huấn, phiền não tập khí làm gì mà không
hiện hành chứ! Cho nên chúng ta phải tường tận, chỗ này tuy là nói
Nho-Thích-Đạo ba giáo, trên thực tế nội dung chỉ nói đến Phật cùng Nho.


“Bách
hạnh”, “hạnh” là hành vi, “bách” là hình dung số nhiều, tuyệt đối không
phải là nói 100 điều. “Ngũ thường”, cái chữ “ngũ” này đích thực
ràng
là số tự, “bách hạnh” thì không phải là một chữ số, là một hình dung từ,
nhà Nho gọi là “ba ngàn oai nghi”. Trong “Lễ Nghĩa” đã nói
“bách hạnh” chính là chỉ những việc này, đều là “dụ đạo tương
khuyên”, dẫn người làm thiện.


Phía sau, Hoàng đế
Ung Chánh có nêu lên một câu chuyện, đoạn câu chuyện này là một sự việc vào
thời nhà Tống: “tích Tống văn đế vấn thi trung, hà thướng chi nhật lục
kinh, bổn thị tế tục”
. “Lục Kinh” là nhà Nho. Toàn bộ điển
tích của nhà Nho mọi người đều biết “Thập Tam Kinh”, nó tổng cộng có
mười ba bộ. “Lục kinh” trên thực tế cũng chính là chỉ “Thập Tam
Kinh”, tông chỉ của nó, tông chỉ của giáo học là “tế tục”, hay
nói
cách khác, đoan chánh phong khí xã hội, mục đích của nó chính ngay chỗ này.


“Nhược
tánh linh chân yếu, tắc dĩ Phật kinh vi chỉ nam”
. Nói đến học tâm tánh, Phật Kinh là đệ nhất, cũng
chính là nói chân tướng của vũ trụ nhân sanh thì Phật Kinh giảng nói được rất
thấu triệt. Nội dung của Phật Kinh, dùng khóa mục của giới học thuật ngày nay
mà nói là bao gồm tất cả, chân thật là đại viên mãn mà trong kinh điển thường
hay
nói. Tống Văn Đế hiểu.


“Như suất
thổ chi dân giai thuần? Thử hóa tắc ngô tọa chí thái bình hĩ”
. Tiến cử Phật pháp, “suất thổ chi dân”,
dùng lời hiện tại mà nói là nhân dân cả nước, nhân dân toàn quốc đều có thể học
tập Phật pháp, đều có thể tiếp nhận giáo dục của Phật Đà (“Thuần” là
tâm chân thành, “thử” chính là nói Phật pháp), đều có thể dùng tâm
thuần phát, tâm chân thành tiếp nhận giáo huấn của Phật Đà, vậy thì ta liền
“tọa chí thái bình”, thiên hạ vô sự, làm thái bình thiên tử, không
phải lo lắng bất cứ việc gì. Đây là từ trước người lãnh đạo quốc gianhận
biết
đối với ba giáo.


Ung Chánh có thể
nêu ra mấy câu nói này, đương nhiên họ nhận biết, họ tán đồng cách nói này, họ
thưởng thức cách nói này. Chúng ta cũng biết được, họ đương nhiên học tập loại
cách nói này, cho dù họ làm đến được nhiều hay ít là có quan hệ với lĩnh ngộ
của họ. Họ không làm được cái bộ phận này là có quan hệ với tập nhiễm của họ.
Tập nhiễm là phiền não tập khí, công phu càng sâu thì phiền não tập khí sẽ càng
tan nhạt, chân thật khế nhập cảnh giới, họ không làm Hoàng đế. Hoàng đế Thuận
Trị triều nhà Thanh xuất gia. Thích Ca Mâu Ni Phật thông đạt việc này, vương vị
không cần, một lòng một dạ từ nơi công tác giáo học. Việc này còn vui hơn làm
Hoàng đế, đây là đại lạc, so với làm hoàng đế còn phú quý hơn. Vậy thì người
chân thật thông đạt mới được, không hoàn toàn thông đạt thì không được! Ung
Chánh được xem là rất không tệ, Ung Chánh là vì con trai của ông mà xây dựng
nền tảng, cho nên Càn Long là thời đại thạnh nhất của triều Thanh, ông xây dựng
cái nền tảng này. Chúng ta biết được Khang Hi, Ung Chánh, Càn Long, ba triều
đại
này trong cung đình ngày ngày đọc Kinh Vô Lượng Thọ, giảng Kinh Vô Lượng Thọ,
đây là quan niệm của họ, dùng Kinh Vô Lượng Thọ để trị quốc, họ có cái cùng
hiểu này.


Phía sau là “
huống
chi đích đối thoại”.
“Hà huống chi đích đối thoại”
cho ta khải thị rất lớn. Các vị nếu như là tường tận rồi, ngày nay thế giới tuy
là loạn, chúng ta chăm chỉ nỗ lực học tập thì bạn sẽ có tín tâm giúp đỡ xã hội,
giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Không nên
cho rằng cái lực cá nhân chúng ta tu trì này quá yếu kém, vậy thì chúng ta
không hiểu rõ chân tướng sự thật. Hiểu rõ chân tướng sự thật thì bạn không có
loại phân biệt chấp trước này.


Chúng ta mỗi người
nỗ lực tu hành, cho dù một chút việc làm đều không có, thế nhưng thầm lặng cảm
hóa
. Cái sức mạnh này vẫn là không thể nghĩ bàn, sẽ ảnh hưởng những người xung
quanh
bạn, sẽ ảnh hưởng thế giới, sẽ ảnh hưởng đời sau. Tu trì của một người
công đức rất to lớn, nếu chúng ta không thâm nhập kinh tạng thì không cách gì
hiểu rõ. Ta luôn cho rằng, cá nhân một người tu hành có cái gì là cừ khôi đâu?
Một người tạo tội nghiệp có gì để đáng nói đâu? Một người tạo tội nghiệp sẽ
liên lụy xã hội, liên lụy đời sau, lỗi cũng là không cách gì nói hết. Chúng ta
cần phải đem những sự việc này làm cho rõ ràng, “đoạn ác tu thiện, phá mê khai
ngộ”!


Hôm nay thời gian
hết rồi! Chúng ta chỉ giảng đến chỗ này. A Di Đà Phật!


PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO
KINH
(tập 2)


Người
giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không


Giảng tại:
Tịnh Tông Học Hội Singapore


Thời gian:
năm 2001


Cẩn dịch:
Vọng Tây cư sĩ


Biên tập:
Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền