Phát Bồ Đề Tâm – Nhất Hướng Chuyên Niệm (Phần 2)

0
35

PHÁT BỒ ĐỀ TÂMNHẤT HƯỚNG CHUYÊN
NIỆM
(PHẦN 2)



Pháp Sư Tịnh Không


 


Hôm
qua, chúng ta đã học Phát Tâm Bồ ĐềNhất Hướng Chuyên Niệm cùng tính chất
quan trọng của tâm Bồ Đề, đồng thời chúng ta cũng đã nói đến thế nào là tâm Bồ
Đề
. Hôm nay chúng ta cũng vẫn tiếp tục bổ sung một chút, nói qua tâm Bồ Đề
gì, sau đó mới giảng qua làm thế nào để phát tâm Bồ Đề. Hôm qua chúng ta đã
dùng kinh văn trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, nói đến tâm Bồ Đề bao gồm ba loại
tâm.



Thứ nhất là Chí Thành Tâm.



Thứ hai là Thâm Tâm.



Thứ ba là Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm.


Phật
nói, có thể đầy đủ ba loại tâm này thì quyết định có thể vãng sanh thế giới Tây
Phương Cực Lạc
. Ba thứ tâm này, nói một cách đơn giản chính là như Ngài Ngẫu
Ích Đại Sư trong Di Đà Yếu Giải nói về Tín – Nguyện. Tín – Nguyện là phải có sự
chân thành, một trăm phần trăm (100%) tin tưởngphát nguyện. Bạn có thể tín
nguyện một cách chân thành thì tâm chân thành này chính là tâm chí thành. Có
thể tin chắcthế giới Tây Phương Cực Lạc, tin chắc có Phật A Di Đà và cũng
tin chính mình vốn dĩ là Phật, hiện tại nếu niệm Phật cầu sanh thế giới Tây
Phương Cực Lạc
để thành Phật, đây là việc có thể làm đến được. Tin tưởng 48 đại
nguyện
của A Di Đà Phật nhất địnhchân thật. Hiện tại chúng ta tuy là phàm
phu
sanh tử tội ác, nghiệp chướng sâu nặng, thế nhưng nhờ sức bổn nguyện của A
Di Đà Phật
, chắc chắn có thể nương nhờ tiếp dẫn của Phật vãng sanh Tây Phương.
Đây chính là thâm tâm, nghĩa là tin sâu.


Chúng
ta
phát nguyện cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, đến thế giới Cực Lạc để
làm gì? Làm Phật đó mà! Làm Phật để rộng độ chúng sanh. Tâm này chính là tâm
hồi hướng phát nguyện. Cho nên, tâm Bồ Đề nói một cách đơn giản nhất, dễ hiểu
nhất chính là tin sâu, nguyện thiết, cầu sanh Tịnh Độ. Ngài Ngẫu Ích Đại sư
nói: “Tin sâu, nguyện thiết chính là Vô Thượng Bồ Đề”, đây là Vô Thượng Bồ
Đề
Tâm
. Tâm này vừa phát ra thì chắc chắn vãng sanh thế giới Tây Phương Cực
Lạc
. Cho nên chúng ta tu hành là phải tu cái tâm này, nếu như chỉ tu trên hành
vi
có thể rất là khổ cực, nhưng chưa hẳn được thành công. Giống như chúng ta
muốn đoạn phiền não, trong Liễu Phàm Tứ Huấn có một ví dụ như trảm độc thọ. Chúng
ta
đốn một cây có độc, cây này có độc chúng ta phải đốn đi. Nếu như chỉ tu trên
hành vi giống như chúng ta tỉa nhánh, tỉa cành vậy, là tu giả, vậy thì tu đến
bao giờ mới có thể tiêu trừ được nó? Nếu như chúng ta biết cách tu tâm, nghĩa
là trực tiếp từ ngay gốc mà đoạn phiền não. Tâm Bồ Đề vừa phát thì toàn bộ
phiền não sẽ không phát khởi, sẽ không có chỗ để khởi phiền não. Cho nên tâm Bồ
Đề
thật đáng quý, nó là chánh nhân để bạn thành Phật, là chánh nhân để bạn vãng
sanh
. Do đó chúng ta hãy tư kiểm điểm, phản tỉnh lấy mình rốt cuộc đã phát tâm
Bồ Đề chưa? Phát tâm Bồ đềtrạng thái như thế nào? Trước mắt chúng ta có một
tấm gương rất sống động, đó là cô giáo Lưu Tố Vân, là người thật sự phát tâm Bồ
Đề
, chân tín, nguyện thiết cầu sanh Tịnh Độ. Bạn xem, điều gì cô cũng có thể
buông xả được. Nếu như không phát tâm Bồ Đề mà muốn buông xả thì thật không dễ.
Bạn xem người thế gian, một số người vật ngoài thân không thể buông xả được,
tiền tài, tài sản không buông nổi; thân thể không buông xả được; đối với tình chấp
của gia đình quyến thuộc không buông xả được. Những thứ không buông xả được quá
nhiều, cho nên vĩnh viễn bị cột chặt ở trong sáu cõi luân hồi. Nếu như muốn
buông xả từng chút rất là khổ cực. Hiện tại dạy chúng ta bỗng chốc phải buông
hết, vậy thì phải hiểu rõ đạo lý, hiểu rõ tường tận thì bạn mới có thể chân
thật
phát khởi tín nguyện. Cho nên tâm Bồ Đề vừa phát thì giống như mặt trời
giữa hư không, màn đêm tự tan mất.


Tôi
tự mình nghĩ lại việc học Phật trong 20 năm qua, nghe Tịnh Không ân sư giảng
kinh
nói pháp 20 năm, tôi rất là may mắn từ đầu đến cuối chỉ theo một vị thầy,
không hề nghe qua một vị thầy nào khác. Tuy nhiên cũng rất là hổ thẹn, 20 năm
cũng không có học được tốt, mãi cho đến bây giờ, mặc dù so với 20 năm trước đã
buông xả không ít, thế nhưng vẫn còn nhiều thứ chưa buông.


Sáng
hôm qua, ân sư thế độ cho tôi đến thăm viếng lão pháp sư. Sau khi nói xong lời
khai mạc, ra ngoài nghỉ ngơi, lúc đó Tịnh Không ân sư cũng vừa mới đến. Hai
người bạn cũ gặp nhau nên rất nhiệt tình trò chuyện với nhau. Hòa Thượng Xướng
Hoài nói: “Tôi kính phục nhất là công phu nhìn thấu, buông xả của Ngài Tịnh
Không
. Nhìn thấu, buông xả không ai có thể sánh bằng Ngài”
. Sau đó Ngài lại
nói với tôi: “Thầy không thể sánh, con cũng không thể sánh”. Kỳ thật,
lão Xướng Công cũng là đang nhắc nhở tôi, khẳng định lão Hòa thượng xem thấy
cảnh giới tu hành của tôi vẫn còn kém xa, phải học với Tịnh Không ân sư chúng
ta
.


Các
vị xem, sư phụ trong lúc giảng pháp thường nói, Ngài học Phật 60 năm là học
điều gì? Chính là sáu chữ mà ngày đầu tiên học phật, đại sư Chương Gia dạy cho
Ngài: “Nhìn được thấu, buông được xuống”. Học hết 60 năm, chỉ tu sáu chữ
này. Do đó, những người học Phật chúng ta phải từ trên phương diện này mà nỗ
lực
làm. Tự bản thân tôi cũng muốn chia sẻ một chút về việc tôi làm cách nào để
học tập nhìn thấu, buông xả, làm thế nào để kiểm điểm tâm Bồ Đề. Phải từ việc
nhìn thấu, buông xảkiểm điểm. Các vị xem, sư phụ thượng nhân viết ra câu
đối: “Chân Thành, Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Chánh Giác, Từ Bi”, đây
là tâm Bồ Đề, chính là tâm Phật. Bạn thật sự có tâm này chưa thì phải từ ngay
hành vi của các bạn mà xem. Phía bên đây là hành: “Nhìn Thấu, Buông Xả,
Tự Tại, Tùy Duyên, Niệm Phật”
. Trước tiên chúng ta nói hai chữ đầu
tiên, đây là hai chữ then chốt, quý vị nhìn thấu, buông xả thì sẽ được tự tại.
Được tự tại thì thân tâm thư thái, giống như Tịnh Không ân sư chúng ta, 86 tuổi
thân thể vẫn khỏe mạnh, Xướng Công rất là bội phục, nói: “Tôi không bằng
Ngài”
(Xướng Công còn nhỏ hơn sư phụ hai tuổi). Xướng Công nói: “Công
phu nhìn thấu buông xả của Ngài rất cao”
. Đó là hai vị trưởng giả thị hiện
cho chúng ta xem.


Được
“tự tại” là do nhìn thấu buông xả mà có. Làm thế nào để có thể buông xả? Cần
phải
nhìn thấu. Làm sao nhìn thấu? Phải hiểu lý, hiểu rõ chân tướng sự thật của
vũ trụ nhân sanh. Vậy chân tướng là gì? Trên kinh Kim Cang nói với chúng ta
“Phàm sở hữu tướng đều là hư vọng”, và kinh Vô Lượng Thọ cũng nói “Quán Pháp
như
hóa”. Tất cả pháp là huyễn hóa, không có chân thật, bạn mới buông xả được.
Tam Muội thường tịch tức là đạt tự tại trong việc buông xả. Tự tại thì bạn được
tùy duyên, không tự tại bạn không thể tùy duyên. Tùy duyên để làm gì? Để niệm A
Di Đà Phật
, như cô giáo Lưu Tố Vân nói: “Sống một ngày thì niệm A Di Đà Phật
một ngày”. Phàm là người chân thật buông xả thì họ chỉ làm một việc, đó là niệm
Phật
.


Tôi
tự nhìn lại việc tu học trong 20 năm qua, 10 năm đầu cơ bản là nghe pháp, nghe
kinh, có thể nói là nghe như không nghe, vì nghe nhưng không hiểu. Vì sao nói
nghe không hiểu? Vì chưa buông xả. Lúc bấy giờ mới lên đại học không bao lâu,
năm 1991 tôi lên đại học, 1992 thì Tịnh Không ân sư đến chùa Quan Hiếu ở Quảng
Châu giảng kinh A Di Đà, báo cáo nghiên tập do lão Hòa thượng Bổn Hoán thỉnh
mời
. Mẹ tôi dẫn tôi đến gặp Tịnh Không ân sư, từ đó bắt đầu tiếp nhận kinh giáo
của Ngài giảng dạy. Lúc bấy giờ tôi thỉnh một bộ băng ghi âm (cassette), khi đó
chưa có băng ghi hình, là do công ty Nhất Tâm Viên – Đài Bắc, Đài Loan sản xuất
băng cassette. Ngài Bổn Hoán đưa cho mẹ tôi một quyển Đại Thừa Vô Lượng Thọ
kinh
do Ngài Hạ Liên Cư hội tập, để chúng tôi về nhà xem. Lúc đó Hòa Thượng Bổn
Hoán khuyên tôi xuất gia. Đó là chuyện của 20 năm về trước. Khi đó dù Ngài đã
khuyên tôi hai lần, các đồng tu bên cạnh nghe được, ngay cả vị thị giả của Ngài
cũng cảm thấy lạ, nói: “Bổn lão bình thường không bao giờ nói chuyện với ai,
vừa gặp anh thì nói rất nhiều, còn khuyên anh xuất gia”
. Ngài khuyên tôi
sau khi xuất gia phải làm đại pháp sư. Ngài nói: “Con xem, những người tại
gia
bận điều gì, người xuất gia bận điều gì?
Những người xuất gia chúng
tôi
bận việc hoằng pháp lợi sanh”
. Mặc dù Ngài khuyên, nhưng lúc đó tôi
đang bận việc xuất ngoại, không nghĩ đến việc xuất gia.


Sau
khi đến Mỹ du học thì tôi đã bắt đầu nghe ân sư Tịnh Không giảng dạy kinh giáo.
Thế là tôi đến Phật đường ở Dallas để thân cận với sư phụ thượng nhân, và cùng
ngồi đối diện với Ngài là vào tháng 5 năm 1997. Câu đầu tiên là Ngài khuyên tôi
phải cố gắng học và đọc kinh Vô Lượng Thọ. Đó là chuyện của 15 năm về trước.
Lúc đó, tôi nghe sư phụ thượng nhân giảng kinh Vô Lượng Thọ, giảng lần thứ hai,
tổng cộng có 107 băng ghi âm. Lúc bấy giờ gặp sư phụ thượng nhân cho các pháp
mang dòng chữ Ngộ thế phát lần cuối, tôi có dự lễ thế phát. Hôm đó có vài
đồng tu thế phát mà chỉ mới ghi danh có một ngày trước đó, bao gồm những vị pháp
chúng tôi quen như pháp sư Ngộ Thắng, pháp sư Ngộ Lâm – người Mỹ, v.v….
Sau đó có rất nhiều người cũng khuyến khích tôi: “Anh muốn xuất gia không?
Đây là lần cuối cùng sư phụ làm lễ thế phát. Từ lúc Hàn Quán Trưởng ra đi vào
năm 1997, sau khi bà Hàn Quán trưởng ra đi, sư phụ sẽ không cạo đầu cho ai nữa.
Xưa kia đều do Hàn Quán Trưởng yêu cầu nên Ngài phải làm. Bây giờ Hàn Quán
trưởng đi rồi, Ngài sẽ không cạo nữa. Đây là chuyến xe cuối cùng, anh phải mau
tranh thủ”.
Lúc bấy giờ tôi không dám, tôi nói: “Tôi không dám, tôi sợ
đọa địa ngục”
. Bởi vì nghe nói trước cửa địa ngục Tăng đạo nhiều, tu không
tốt phải đọa địa ngục và lúc đó tôi cũng đang muốn lấy bằng tiến sĩ. Sau khi
lấy xong bằng tiến sĩ thì làm giáo sư Đại học, vẫn còn đi trên con đường truy
cầu danh lợi của thế gian, chưa có một chút nào nhìn thấu để buông xả, tuy
nhiên
nghe pháp thì chưa bao giờ gián đoạn và rất là thích nghe. Khi tôi du học
ở bên Mỹ, căn bản là mỗi ngày mang theo một cái máy cassette nhỏ, mỗi ngày mở
cassette ra nghe. Giống như cảnh sát Huỳnh Bá Lâm nói, bây giờ sướng quá, nghe
đại kinh giải có MP3, lúc đó chúng tôi phải nghe máy cassette. Tôi nghe rất
nhiều và dần dần cũng hiểu rõ đạo lý, sự giác ngộ cũng bắt đầu. Tuy nhiên lúc
bấy giờ cũng chưa buông xả được thế pháp, nhưng vẫn mơ hồ cảm thấy phải hướng
về phương hướng buông xảnỗ lực, phải cầu sanh Tây Phương, một đời này không
thể để luống qua.


Năm
1999, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thì tôi bắt đầu đi làm, dạy học ở trường đại
học
Mỹ. Trong khoảng thời gian đó tôi thường cùng với mẹ đến thân cận với
phụ
. Sư phụ cũng có lần khuyên tôi phải rời Mỹ, vì tương lai Mỹ sẽ có tai nạn,
phải mau rời Mỹ để sang Úc Châu, Tịnh Tông Học Viện cũng vừa thành lập vào đầu
năn 2001, con qua đó chúng ta cùng nhau cộng tu, vả lại trường đại học
Queensland mời thầy đảm nhiệm chức giáo sư vinh dựđại diện cho trường đi dự
Hội Nghị Hòa Bình của Liên Hiệp Quốc, đẩy mạnh việc đoàn kết tôn giáo hòa bình
thế giới, con đi theo thầy để làm phiên dịch tiếng anh cho thầy. Tôi nghe xong
trong lòng cảm thấy hồi hộp, bối rối, tuy nhiên lại cảm thấy mình vô cùng vinh
hạnh
, nên quyết định rời nước Mỹ. Tuy nhiên nguyên nhân chính yếu để tôi rời
khỏi Mỹ là do một sự kiện vào ngày 11 tháng 9. Sư phụ vừa mới nói Mỹ sẽ có tai
nạn
, không ngờ sau đó lập tức xảy ra. Tôi nghĩ tai nạn chắc là đến rồi, nên tôi
lập tức rời Mỹ để sang Úc. Việc qua Úc chỉ là một việc buông xả nho nhỏ mà
thôi, bởi vì tiền lương ở Mỹ cao gấp đôi lần tiền lương ở Úc.


Khi
sang Úc, tôi cũng chưa thật sự buông xả những pháp của thế gian. Tôi nghĩ,
trước tiên nên tìm một trường đại học, xin một phần giáo chức để giải quyết sự
sống, sau đó dùng thời gian dư ra để yểm trợ sư phụ hoằng pháp. Thật may mắn,
trường đại học Queensland đang cần một vị giảng sư cao cấp về tài chánh. Tôi
liền gởi lý lịch đi, họ xem lý lịch của tôi cũng khá tốt nên lập tức nhận ngay,
và chỉ trong một tháng đã giúp tôi và mẹ tôi làm xong thủ tục di dân. Thế là
chúng tôi đến Úc Châu, bỏ đi thẻ xanh của nước Mỹ.


Sau
khi sang Úc, tôi vừa làm việc vừa đi theo sư phụ thượng nhân đến các nơi trên
thế giới để đẩy mạnh hài hòa các tôn giáohoằng pháp. Trải qua những lời dạy
cũng như bằng thân giáo của Ngài, dần dần tôi được tăng trưởng tâm Bồ Đề của
mình. Sư phụ nhắc nhở tôi: “Người trẻ tuổi phải có sứ mạng”. Lúc đó tôi
nghĩ, rốt cuộc sứ mạng của tôi là gì? Đời này tôi đến đây để làm gì? Nghĩ đi,
nghĩ lại chỉ có một đáp án, đó chính là phải hoằng pháp lợi sanh. Sư phụ Ngài
cũng rất là thiện xảo, Ngài nói: “Bây giờ con có thể hoằng pháp bán thời
gian”
. Bởi vì lúc bấy giờ tôi vẫn còn làm việc, Ngài biết tôi không chịu
buông xả công việc của mình, nên Ngài muốn tôi hoằng pháp bán thời thôi. Cho
nên sau khi làm việc xong, tôi mới làm việc hoằng pháp. Làm dần dần, dần dần,
đại khái nhờ tu phước báo, phước đến thì tâm sáng. Ở trường đại học Queensland,
tôi đã dạy hết ba năm. Bấy giờ trường đại học mời tôi làm phó giáo thọ và hướng
dẫn sinh viên tiến sĩ, đồng thời trường đại học Hạ Môn ở Trung Quốc cũng gởi
giấy mời tôi làm chủ tịch giáo sư. Lúc bấy giờ sư phụ cũng vô cùng thiện xảo
khuyên tôi, con có thể đến trung tâm giáo dục tôn giáo ở Lô Giang, nơi đó đang
xây dựng, con có thể sang đó để giúp đỡ. Tôi nói: “Dạ được”. Lúc đó mẹ
tôi hỏi sư phụ: “Thưa Ngài, Ngài xem Mao Sâm (đó là thế danh của tôi) nên ở
lại nước Úc làm việc tốt hay là trở về Trung Quốc, chỗ nào tốt hơn?”.

phụ
thượng nhân nói một câu: “Phải làm Thánh hiền!”. Mẹ tôi nghe xong
không hiểu gì. Sau khi về nhà, hai mẹ con cùng nhau tham cứu câu nói này, vì
câu trả lời của sư phụ hình như không nhằm vào câu hỏi. Chúng tôi hỏi ở Trung
Quốc
tốt hay ở Úc Châu tốt, Ngài nói phải làm Thánh hiềný nghĩa gì? Sau đó
chúng tôi hiểu rồi, tham cứu ra rồi, nếu làm Thánh hiến đến đâu cũng tốt, không
làm Thánh hiền đến đâu cũng không tốt.


Muốn
làm Thánh hiền trước tiên bạn phải buông xả danh văn lợi dưỡng, buông xả sự
hưởng thụ của năm dục sáu trần, buông xả tự tư tự lợi, bạn không thể chỉ biết
nghĩ cho mình. Câu hỏi ở Úc Châu tốt hay ở Trung Quốc tốt đều là nghĩ cho mình.
Hiện tại không thể vì mình mà nghĩ, vậy thì phải làm sao? Thì đừng nghĩ nữa,
nghe lời sư phụ thôi. Chúng tôi mới đến thỉnh giáo với sư phụ: “Chúng con
nên làm như thế nào?”
. Sư phụ chỉ dẫn tôi: “Bây giờ con có thể hoằng
pháp
toàn thời gian”
. Thế là tôi hạ quyết tâm từ chức việc dạy học ở trường
đại học Queensland, đồng thời từ chối thư mời làm chủ tịch giáo thọ của trường
đại học Hạ Môn.


Vào
ngày 27 tháng 9 năm 2006, mẹ tôi dẫn tôi đến HongKong bái sư. Lúc đó sư phụ rất
hoan hỷ, Ngài đặc biệt thay quần áo mới, phục trang của Hàn Quốc, sau đó ra
tiếp tôi với mẹ tôi. Mẹ tôi bước lên chỉnh lý lại mình, sau đó mời Ngài ngồi
lên ghế. Tôi và mẹ hướng về Phật Bồ Tát lạy ba lạy, sau đó hướng về sư phụ lạy
ba lạy. Sư phụ thương nhân không có nói là không lạy. Bình thường Ngài thường
nói không lạy, không lạy, nhưng lần này Ngài để chúng tôi lạy đủ ba lạy, không
nói lời nào. Kế đó mẹ tôi hướng về sư phụ đọc bài “Tiễn con bái sư”. Có lẽ
nhiều người đã xem qua “Mẫu Từ Tử Hiếu”, văn chương trong quyển sách đó hoàn
toàn
đều là sao chép lại. Sư phụ thượng nhân rất là hoan hỷ, đại khái Ngài xem
thấy cậu bé này rốt cuộc đã chịu buông xả một chút rồi. Đây chỉ là sự buông xả
vật ngoài thân, buông xả bước đầu.


Trước
tiên
bạn đối với tài sản, với danh vị, đối với lợi dưỡng, đối với tiền tài bạn
phải nhìn được thấu, buông được xuống. Bạn xem, thật là không dễ, từ mười chín,
hai mươi tuổi thì bắt đầu nghe pháp, đến năm 2006 là ba mươi hai tuổi, mười
bảy, mười tám năm, hơn mười năm rồi mới có thể buông xả được một chút. Tôi cũng
thuộc loại độn căn, kém xa so với cô giáo Lưu, trong mười năm cô đã hoàn toàn
buông xả, còn tôi mới buông xả bước thứ nhất. Tuy nhiên có được bước thứ nhất
thì sẽ có bước thứ hai. Khi chúng ta buông xả được một chút thì có thể nhìn
thấu thêm một chút. Nhìn thấu thêm một chút bạn lại có thể buông xả thêm một
chút. Cho nên sau khi buông xả, vào tháng giêng năm 2007, tôi đến HongKong. Lúc
bấy giờ tôi đã đem tất cả tài sản, cũng không nhiều, một chút thôi, như nhà
cửa, xe hơi đều bố thí, sắp xếp đâu vào đó. Tiền trong nhà băng, phần nào nên
biếu cha mẹ thì biếu cha mẹ, nên bố thí thì bố thí, cũng giải quyết xong hết,
đến HongKong theo sư phụ học giảng kinh. Mẹ tôi thì trở về Trung Quốc đại lục
sống cuộc sống thoái hưu của mẹ, nhưng mẹ rất là giúp đỡ tôi.


Trong
bài tiễn con bái sư đặc biệt nói: “Mao Sâm tương lai hoàn toàn giao cho Ngài
điều giáo. Tương lai hoặc giả hiện tướng tại gia như Ngài Lý Bĩnh Nam, hoặc giả
giống như Ngài hiện tướng xuất gia, hoàn toàn do Ngài quyết định”
. Sư phụ
đối với bài văn “Tiễn con bái sư” có thể Ngài thích nhất là câu nói này. Cho
nên vào năm 2007, có lần trong lúc giải đáp Phật học, Ngài đặc biệt nói: “Mẹ
của Chung Mao Sâm hiện giờ giao con cho tôi điều giáo, sau này xuất gia hay tại
gia
do tôi quyết định. Thật đáng quý!”.
Ngài nói tiếp: “Tôi hy vọng thế
nào? Tôi hy vọng Mao Sâm sau này xuất gia làm pháp sư tốt, kế thừa huệ mạng của
Phật”
.


Bạn
xem, năm 2007 sư phụ đã nói câu nói này rồi, bảo tôi xuất gia, kết quả, chờ mãi
cũng không có xuất gia, vì sao vậy? Vì vật ngoài thân buông xả được, tình chấp
vẫn chưa buông nổi, đích thật sư phụ trong lúc giảng pháp thường nói, tình chấp
là khó buông nhất. Thật tế là không dễ buông bỏ, bởi vì khi tôi trưởng thành,
thời gian theo mẹ là nhiều nhất. Hai mẹ con nương tựa với nhau để sống. Bao
nhiêu năm qua rồi, hiện giờ nói xuất gia, xa lìa mẹ thật là khó! Cho nên trải
qua
năm năm suy nghĩ và chuẩn bị sau cùng mới hạ quyết tâm. Vào năm ngoái,
khoảng tháng ba, tháng tư, tôi viết một lá thư cho sư phụ nói: “Hiện tại đệ
tử
hạ quyết tâm buông xả trần duyên, xuất gia; mong muốn tương lai tu hành,
hoằng pháp lợi sanh”
. Sư phụ nhận được thư của tôi, lúc đó sư phụ đang ở Úc
châu, tôi ở HongKong giảng kinh. Tôi nhờ cô Ngô Phạm chuyển tin fax này cho
phụ
. Kết quả, khi tôi gởi tin nhắn cho Ngài, hình như ngay tối hôm đó tôi liền
nhận được tin trả lời qua cô Ngô Phạm là sư phụ đã ra chỉ thị rồi, Ngài sẽ sắp
xếp cho tôi. Tôi cảm giác hình như sư phụ chờ lá thư này đã lâu lắm rồi. Kết
quả, không bao lâu sư phụ liền từ Úc châu trở về HongKong, dẫn tôi đi chùa Viên
Minh
thăm viếng Xướng Công. Đây là một người bạn cũ hơn ba mươi năm quen biết,
đã nhiều năm chưa gặp mặt, cũng chưa từng ngồi ăn cơm chung. Hôm đó bỗng dưng
dẫn tôi đi đến đó để ăn cơm, tôi cảm thấy rất kỳ lạ, tại sao phải đến chùa Viên
Minh? Lúc đó chùa Viên Minh cũng chưa xây xong, rất nhiều công trình đang còn
dỡ dang. Sư phụ dẫn tôi đến đó dùng cơm, lúc đó Ngài Xướng Công cũng rất hoan
hỷ
, ra nghênh đón sư phụ thượng nhân chúng ta. Khi mọi người cùng nhau bước vào
thang máy, cửa thang máy vừa đóng, sư phụ liền nói: “Tương lai cho Chung Mao
Sâm làm đệ tử của thầy, theo thầy thế phát xuất gia có được không?”.
Xướng
Công nghe xong cũng ngạc nhiên, vì chưa hề có sự chuẩn bị tư tưởng. Ngài quay
qua nhìn tôi, Ngài nói: “Được!”. Ngài cũng không biết tôi là ai. Thế là
nhận lời rồi! Nói chung đối với Xướng Công, ai muốn xuất gia Ngài đều vui vẻ
cho họ thế phát, dù Ngài không biết người đó là ai. Xem như đã nhận lời xong.
Tôi cảm giác hình như hai người đang nói đùa với nhau, trong thang máy đã nói
xong mọi việc.


Qua
vài tháng sau, không nghe nói năng gì nữa, tôi nghĩ có phải sư phụ đã quên mất
rồi không? Tôi lại đi hỏi sư phụ, sư phụ nói: “Được! Vậy thì mau mau tìm
ngày tháng thôi”
. Sau cùng chọn xong ngày và cũng liên lạc xong với Xướng
Công. Ngày 15 tháng 7 năm ngoái, ở chùa Viên Minh làm lễ thế phát. Xướng Công
nói: “Lúc đó tôi nghĩ Ngài Tịnh Không nói đùa, không ngờ là thật”. Sau
đó Ngài nói tôi gởi sơ yếu lý lịch, mới biết là khi tôi còn tại gia có những
học vị, công việc, lương bổng; sau khi từ chức làm việc tại trường học, đi
hoằng dương văn hóa truyền thống, hoằng dương Phật pháp năm năm. Ngài rất tán
thán
, Ngài nói: “Tịnh lão có thể đem người đệ tử như vầy giao cho mình xuất
gia
, có phải là đùa hay không?”.
Lúc đó Ngài cũng không dám tin, nhưng quả
thật
đó là sự thật. Chúng tôi thật tình đến, Ngài cũng thật tình tiếp đãi. Cho
nên, vào ngày 15 tháng bảy đã tổ chức nghi thức thế phát vô cùng long trọng.
Lúc đó có khoảng gần một ngàn người đến dự, sư phụ thượng nhân cũng tham dự
buổi quán lễ đó, và mẹ tôi cũng có tham gia. Trong lúc tôi xuất gia, quý vị có
thể đã xem DVD đó, lúc đó tôi khóc thật là khó coi. Tôi khóc, mẹ tôi cũng khóc.
Đặc biệt trong nghi thức có một đoạn nghi thức phải bái biệt cha mẹ của mình.
Xướng Công để mẹ tôi ngồi bên phải của chánh điện, mời sư phụ thượng thân ngồi
bên trái, trước là bái tạ cha mẹ, sau đó bái tạ sư phụ. Xướng Công rất có trí
tuệ
, bởi vì hiếu thân tôn sư là đại căn đại bản của người học Phật. Khi tôi bái
biệt mẹ tôi, mẹ tôi mới đề ra ba điều kiện khi xuất gia phải làm cho tốt:



Điều thứ nhất: Con nhất định phải thật sự nỗ lực tu hành, có thể chứng
ngộ
tâm tánh.



Điều thứ hai: Con nhất định phải hoằng pháp lợi sanh.



Điều thứ ba: Con nhất định phải vãng sanh Tinh Độ.


Mẹ tôi tiễn con xuất gia đề ra ba yêu
cầu
. Lúc đó tôi vừa khóc, vừa nghe lời dặn dò của mẹ. Sau khi tôi lạy mẹ xong
thì đến lạy lão sư. Ngài Tịnh Không ân sư là lão sư truyền pháp của tôi, truyền
thụ đại pháp cho tôi, nên phải bái tạ lão sư. Không có thầy, không có cha mẹ
không có thể nào có nhân duyên thù thắng xuất gia của ngày nay. Cho nên, khi
bái tạ sư phụ, sư phụ cũng dặn dò tôi vài lời: “Đã chọn con đường xuất gia
thì phải có sứ mạng, phải đem Phật Giáo trở lại giáo dục của Phật Đà”
. Do
đó sư phụ thượng nhân khuyến khích tôi phải hoằng pháp lợi sanh. Xướng Công
theo đó đặt cho tôi pháp hiệu là Định Hoằng. Hoằng là hoằng pháp, hoằng pháp
lợi sanh, ngay đời này nhất định phải hoằng pháp lợi sanh. Pháp hiệu này cũng
là một sự thúc đẩy sách tấn đối với tôi. Nếu như tôi không thể hoằng pháp,
không thể kế thừa huệ mạng của Phật, không thể chấn hưng giáo dục Phật Đà,
không thể làm những việc cống hiến này thì tôi có lỗi với danh hiệu này, càng
có lỗi với cha mẹ và sự đào tạo bồi dưỡng của sư phụ thượng nhân. Cho nên xuất
gia
là một bước thứ hai buông xả. Như tôi vừa mới nói, từ Mỹ sang Úc là buông
xả
nhỏ, chưa hoàn toàn buông xả. Sau khi chân thật đem công việc từ bỏbuông
xả
vật ngoại thân, đây là bước thứ nhất.


Bước thứ hai buông xả tình chấp đi xuất
gia
. Đương nhiên mọi người không nên hiểu lầm, “buông xả tình chấp” không phải
nói là không có tình cảm, không nhận sáu thân nữa, không phải ý nghĩa như vậy,
nếu như vậy thì không bằng cả súc sanh, vì súc sanh còn có tình cảm. Buông xả
tình chấp không phải là buông xả tình cảm. Tình cảm có thể có, đó là chuyện bình
thường
và có thể hằng thuận chúng sanh. Tuy nhiên có tình cảm nhưng không nên
chấp trước, đây gọi là buông bỏ tình chấp. Phật năm xưa cũng có tình cảm, khi
phụ vương bệnh nặng thì Phật Thích Ca Mâu Ni mau mau trở về ở bên cạnh cha
mình, an ủi cha trong lúc lâm chung và khuyên cha cầu sanh thế giới Cực Lạc,
đây là tình cảm. Sau khi phụ vương qua đời đích thân Ngài khiêng quan tài cho
cha. Phật cũng là có tình, có nghĩa. Chỉ cần bạn không chấp trước là được, như
cô giáo Lưu, cô là người có tình cảm rất dồi dào. Tôi nhớ vào ngày 25 tháng 12
năm 2009, trong lúc giảng kinh sư phụ thượng nhân nói: “Tôi muốn ra đi”.
Lúc bấy giờ cô giáo Lưu, tôi và vài vị đồng tu ngồi trong phòng thu âm nghe
giảng pháp, cô giáo Lưu liền khóc, khóc rất là đau lòng. Sư phụ giảng pháp
xong, chúng tôi lập tức quỳ xuống thỉnh mời sư phụ cửu trụ thế gian. Cô giáo
Lưu lúc đó đã khóc rất nhiều, đó là tình cảm. Tình cảm cũng là Bồ Tát thị hiện,
chỉ cần bạn không nên chấp trước thì sẽ không bị chướng ngại.


Trở lại bước thứ hai của tôi là buông
bỏ
tình chấp, còn phải tiếp tục buông nữa. Nhân duyên buông bỏ thứ nhất là do
sư phụ thượng nhân, như vừa rồi tôi mới nói, vào cuối năm 2009, ngày 25 tháng
12, Ngài nói Ngài sẽ ra đi, Ngài không muốn ở thế gian nữa, lúc đó Ngài đang
giảng kinh Hoa Nghiêm. Khi đó chúng tôi cùng nghĩ làm cách nào khiến sư phụ cửu
trụ
thế gian. Tôi nghĩ, nhân duyên sư phụ thượng nhân trụ thế là giảng kinh
thuyết phápđào tạo nhân tài. Nếu như có duyên này thì sư phụ sẽ không ra
đi. Nếu như không có duyên này, đương nhiên sư phụ Ngài sẽ cảm thấy không cần
thiết
thế gian nữa. Cho nên chúng tôi nghĩ dùng phương pháp gì để giữ sư phụ
lại. Trước đó, vào năm 1997, sư phụ vẫn luôn khuyến khích tôi học kinh Hoa
Nghiêm
. Đó là chuyện của 15 năm về trước, khi đó tôi vẫn còn học ở Mỹ. Tôi đã
gặp sư phụ và nói với Ngài: “Sư phụ! Đệ tử rất muốn học kinh Hoa Nghiêm với
Ngài”
. Vì lúc đó đã sang năm thứ hai Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm, đó là ngày
8 tháng 5 năm 1998, khai giảng tại Singapore. Một năm trước sư phụ chuẩn bị mở
một lớp Hoa Nghiêm nhận năm học trò, lúc bấy giờ tôi rất muốn ghi danh, tuy
nhiên
chỉ là nghĩ mà thôi, không buông xả được, vì chưa học xong tiến sĩ. Cho
nên tuy là nghĩ và cũng tỏ vẻ muốn học Hoa Nghiêm với sư phụ, nhưng Ngài nói
với tôi: “Thế xuất thế gian pháp đều phải xem duyên phần”. Tôi nghe xong
trong lòng cảm thấy rất là hổ thẹn, chắc chắnhiện giờ duyên của mình chưa
đến, thật sự là vậy. Vì sao vậy? Vì chưa buông bỏ được. Cho nên có đồng tu nói:
“Tôi rất muốn theo sư phụ học”. Theo sư phụ thì dễ thôi, chỉ cần bạn
buông xả là được ngay. Lúc bấy giờ vì tôi vẫn chưa buông xả.


Năm ngoái sau khi xuất gia, tôi hỏi
phụ
một câu: “Thưa sư phụ! Ngài còn nhớ vào 15 năm về trước, ở Dallas có một
thanh niên 24 tuổi tham gia buổi lễ thế phát xuất gia sau cùng của Ngài cho các
đồng tu, người đó chính là con, Ngài nhớ không? Lúc đó con muốn xuất gia
không buông xả được, Ngài còn nhớ không?”
Sư phụ nói: “Nhớ!”. Tôi
lại hỏi sư phụ: “Nếu như lúc đó con xuất gia theo thầy có phải tốt hơn bây
giờ không?”
Sư phụ nói: “Đương nhiên rồi!”. Sau đó sư phụ nói tiếp: “Rất
tiếc lúc bấy giờ con chưa tin”
. Tôi cảm thấy thật sự hổ thẹn, không có tin
Phật! Cho nên duyên phần thực tế quan trọng nhất vẫn là nương vào tín nguyện
của chính mình. Bất luận làm việc gì phải nhờ có tín nguyện. Vãng sanh Tây
Phương
đương nhiên cũng nhờ tín nguyện. Cho nên vãng sanh được hay không là xem
quý vị có chân tín, nguyện thiết không. Không phải A Di Đà Phật không muốn đón
bạn đi, là do bạn có muốn đi hay không. Nếu bạn muốn thì chắc chắn sẽ đi được.
Nếu không muốn đi thì A Di Đà Phật cũng không thể kéo bạn đi. Cũng giống như
quá trình tôi theo sư phụ học Phật pháp, sư phụ rất là có lòng nhẫn nại, chờ
đợi tôi giác ngộ. Qua 15 năm mới từ từ giác ngộ, sau cùng mới quyết tâm xuất
gia
.


Xuất gia, tôi cảm thấy nhân duyên này
vẫn còn một điều phải buông bỏ, không chỉ là thế pháp phải buông bỏ, mà đối với
văn hóa truyền thốngPhật pháp cũng phải buông bỏ. Bởi vì sau khi tôi từ
chức dạy học trong vòng 5 năm nay, đích thực cũng đang nỗ lực học tập truyền thống
văn hóa của Nho-Thích-Đạo, tự học và tự giảng. Tôi đã giảng không ít những kinh
điển
, có lẽ những đồng tu cũng biết, kinh điển của Nho-Thích-Đạo thật sự giảng
rất nhiều, có 20 đến 30 bộ như là Hiếu Kinh, Đệ Tử Quy, Cách Ngôn Trị Gia của
Châu Tử, Luận Ngữ Đại Học, v.v… Đạo giáo thì giảng Thái Thượng Cảm Ứng Thiên,
Du Ý Công Gặp Táo Thần ký, Văn Xương Đế Quân Âm Trắc Văn, Văn Xương Đế Quân
Tiên Hiếu Văn, v.v… Nhà Phật thì giảng nhiều hơn, như kinh Đại Tạng, kinh Thập
Thiện Nghiệp
Đạo, kinh Di Đà, kinh Vu Lan Bồn, v.v…, giảng gần 3.000 giờ.
Càng giảng càng thích thú. Một khi đã thích rồi thì không muốn ngừng nghỉ nữa,
như vậy cũng là sự chấp trước đối với kinh điểntruyền thống văn hóa. Lúc đó
tôi có một vọng tưởng, vọng tưởng này cũng khá lớn, nghĩa là tôi sẽ đem những
kinh điển chính yếu của Nho-Thích-Đạo đều giảng qua một lần, hy vọng để lại một
khóa trình cho mọi người tham khảo. Cho nên tự tôi kê ra một danh sách rất dài,
cần phải giảng những kinh gì, kinh gì. Sư phụ cũng biết tôi chấp trước, Ngài cũng
hằng thuận chúng sanh. Mỗi khi giảng xong một bộ là đi báo cáo với sư phụ, rằng
con đã giảng xong rồi, kế tiếp sẽ giảng những thứ gì. Sư phụ lại chỉ thêm lần
sau giảng Hiếu kinh. Lần sau giảng xong rồi thì giảng tiếp kinh gì? Tứ Thư.
Thật là càng giảng càng lớn!


Như vừa rồi tôi mới nói, năm 1997 tôi
rất muốn theo sư phụ học Hoa Nghiêm, nên cuối năm 2006, sau khi tôi từ chức dạy
học, có một hôm sư phụ chủ động nói với tôi: “Về sau con có thể giảng lại
kinh Hoa Nghiêm”
. Tôi nghe rồi cảm thấy vô cùng hoan hỷ, vì đây là tâm
nguyện
từ mười năm nay. Trong những buổi giảng trước đây tôi cũng từng nói qua
với các vị, kinh Hoa Nghiêm mãi là ước mơ, cuối cùng lại được học. Tuy nhiên
hiện tại vẫn còn phải lo cắm gốc, do đó phải học kinh điển của Nho-Thích-Đạo trước,
nên tôi lập ra một danh sách, sau khi giảng xong Tứ Thư của nhà Nho sẽ chuẩn bị
giảng Chu Di. Tôi sẽ dùng Chu Di Thiền Giải của Ngài Ngẫu Ích Đại Sư. Sau đó
tôi sẽ giảng qua một lần Đạo Đức kinh của Đạo gia, và sẽ dùng chú giải của Ngài
Hám Sơn Đại Sư. Tôi dự định đem ba nhà Nho – Thích – Đạo dung hợp quán thông
với nhau để giảng. Kế đó vẫn còn nghĩ sẽ đem kinh Thánh chọn ra vài đoạn để
giảng. Xong, kinh Cô Ran tôi cũng lựa vài đọan để giảng, và cũng đem hai loại
này dung hợp quán thông vào nhau để giảng, khiến cho mọi người biết rằng tất cả
mọi tôn giáo kỳ thật là cùng cội, cùng nguồn. Sau đó sư phụ lại điểm cho tôi
thêm một tựa đề, đó là Chư Kinh Phật Thuyết Địa Ngục Thập Yếu. Quyển sách đó
rất dày, bảo tôi giảng qua một lần từ đầu đến cuối. Sau cùng, đương nhiên kinh
Hoa Nghiêm
là sự lựa chọn sau cùng. Tôi nghĩ, giảng kinh Hoa Nghiêm đến già,
khi đó tôi có thể giảng kinh Vô Lượng Thọ rồi.


Giấc mơ đẹp này cứ như thế kéo dài đến
ngày 25 thánh 12 năm 2009, bỗng nhiên nghe sư phụ nói chuẩn bị ra đi, trong
lòng tôi bàng hoàng. Tôi vẫn chưa bắt đầu học Hoa Nghiêmsư phụ nói Ngài sẽ
ra đi, phải làm sao đây? Đó là một cú sốc rất lớn đối với tôi. Vào ngày 1 tháng
1 năm 2010, lúc đó cô giáo Lưu và thầy Hồ Tiểu Lâm, ba huynh đệ chúng tôi cùng
với sư phụ thượng nhân đi Singapore hoằng pháp. Lúc bấy giờ, chúng tôi có hát
bài “Ân Sư” để thỉnh cầu sư phụ trụ thế. Tuy nhiên hát vẫn là hát, bạn phải
dùng hành động thực tế để thỉnh sư phụ thượng nhân trụ thế. Trong lòng tôi
nghĩ, những kinh điển của Nho – Thích – Đạo không thể giảng nữa, nếu không sẽ
không có thời gian để học với sư phụ thượng nhân. Hiện giờ chỉ có thể lựa chọn
một bộ, một môn thâm nhập. Tôi tự nghĩ, những gì mình đã học, bộ nào thâm nhập
nhiều nhất? Xin thưa thật với các vị, kinh điển Nho – Thích – Đạo tôi đã giảng
rất nhiều, thế nhưng thuộc lòng chỉ có một bộ kinh, đó chính là kinh Vô Lượng
Thọ
, ngay cả kinh A Di Đà tôi cũng không thuộc, chỉ có thể thuộc lòng kinh Vô
Lượng Thọ
mà thôi. Tôi nghĩ, kinh Vô Lượng Thọ tôi cũng đã nghe qua rất nhiều
lần, ít nhất là năm – sáu lần, từ đầu đến cuối rất thuần thục, lại rất ưa
thích
, còn kinh Hoa Nghiêm, tuy mơ ước nhưng bộ kinh này quá lớn, từ đầu đến
cuối đọc qua một lần cũng không dễ, nói chi đọc tụng và thuộc lòng là rất khó,
huống hồ căn cơ của người thời đại nay, có mấy người có thể tiếp nhận được kinh
Hoa Nghiêm? Bộ kinh Hoa Nghiêm lớn như vậy, hơn nữa nói ra đều là cảnh giới của
Pháp Thân Đại Sĩ, không dễ gì thọ trì.


Nghĩ lại, cả đời sư phụ thượng nhân,
cống hiến vĩ đại nhất của Ngài chính là hoằng dương kinh Vô Lượng Thọ, vậy thì
chúng ta phải truyền thừa kinh Vô Lượng Thọ của Ngài mới đúng. Kinh Vô Lương
Thọ là rất khế hợp với căn cơ chúng sanh thời kỳ Mạt Pháp, đương nhiên cũng khế
hợp với căn tánh của tôi. Đọc kinh Hoa Nghiêm đôi lúc còn buồn ngủ, không khế
hợp với căn cơ của mình, vậy thì làm sao? Phải nên học kinh Vô Lượng Thọ. Sau
đó tôi lại nghĩ, sư phụ thượng nhân đã bảo tôi giảng kinh Hoa Nghiêm rồi, nếu
tôi không nghe lời sư phụ làm sao được? Lúc đó tư tưởng tôi đang có sự đấu
tranh, có nên nghe lời sư phụ không? Tôi nghĩ, thế nào gọi là thật sự nghe lời
sư phụ? Vì sao Ngài bảo tôi giảng kinh Hoa Nghiêm? Có thể Ngài nhìn thấy tôi
còn mê, rất ưa thích những đại kinh, đại luận, đó là tập khí của những phần tử
trí thức, nên Ngài tùy thuận tôi mà nói.


Kinh Vô Lượng ThọNhư Lai chánh
thuyết Đệ Nhất Kinh, mười phương chư Phật đồng tán thán, thiên kinh vạn luận
cùng nương về, tất cả chư Phật đều tuyên nói, hơn nữa, sau khi pháp diệt tận,
bộ kinh này lưu lại thế gian 100 năm để độ vô lượng chúng sanh. Pháp môn này là
pháp môn thù thắng nhất, viên mãn nhất, cứu cánh nhất, phương tiện nhất, dễ
dàng nhất, thẳng tắt nhất, thù thắng như vậy tại vì sao chúng ta lại không
giảng kinh Vô Lượng Thọ? Thông qua sự suy nghĩ của lý tánh, cuối cùng tôi quyết
định
buông bỏ kinh Hoa Nghiêm. Đương nhiên kinh điển của thế gian, kinh điển
Nho-Thích-Đạo và những kinh điển khác cũng phải buông bỏ. Tôi hạ quyết tâm
chuyên học và giảng kinh Vô Lượng Thọ. Thế là tôi đến đảnh lễ sư phụ, mặc dù
trong lòng có chút không an, bởi vì sư phụ bảo tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, bây
giờ tôi lại nghịch lại lời của sư phụ, không biết sư phụ sẽ nghĩ gì về tôi.
Nhưng dù sao tôi vẫn phải nói, nên quyết định gặp Ngài: “Thưa sư phụ, đệ tử
không muốn học kinh Hoa Nghiêm nữa, đệ tử muốn một đời này chuyên tu, chuyên
hoằng kinh Vô Lượng Thọ”
. Tôi lại thưa với sư phụ: “Đệ tử nghĩ, hiện nay
con đã gần 40 tuổi rồi, năm trước 38 tuổi, năm nay 40 tuồi rồi. Nếu như con có
thể sống thêm 40 năm, con hy vọng có thể đem kinh Vô Lượng Thọ giảng 40 lần”
.
Khi tôi nói lời này, thật sự trong lòng rất lo lắng, không biết sư phụ sẽ phản
ứng
ra sao, Ngài sẽ chau mày không vui hay như thế nào đó (vì sư phụ bảo tôi
học Hoa Nghiêm, bây giờ tôi lại học kinh Vô Lượng Thọ), nhưng không ngờ sư phụ
lại tươi cười, sau đó Ngài nói: “Nếu con chân thật đem kinh Vô Lượng Thọ
giảng được 40 lần thì con thành được Vô Lượng Thọ Phật rồi”
. Tôi nghe xong
trong lòng thấy thật nhẹ nhàng. Sư phụ thượng nhân sau cùng đã ấn định cho tôi:
“Sự quyết định này của con là chính xác!”.


Thật vậy, bởi vì kinh Vô Lương Thọ là
trung bổn của kinh Hoa Nghiêm. Kỳ thật, tôi nghĩ, cũng đâu có nghịch lại ý chỉ
của sư phụ, chẳng qua không giảng đại bổn của Hoa Nghiêm, bây giờ giảng trung
bổn
của Hoa Nghiêm, vẫn là giảng kinh Hoa Nghiêm mà. Thời gian tôi học giảng kinh
Vô Lượng Thọ có thể nói trên căn bản là sau khi tiếp xúc kinh giáo của sư phụ
mới bắt đầu, nên rất là quen thuộc đối với kinh Vô Lượng Thọ, và ở trong nước
cũng thường cùng với một số pháp sư nói đến kinh Vô Lượng Thọ, nghe qua ý kiến
của họ.


Khi nghe đến bộ kinh Vô Lượng Thọ bổn
hội tập, có người nói có vấn đề. Tôi hỏi: “Vấn đề gì vậy?”. Họ cũng
không thể nói ra được, đại khái có thể đây là cư sĩ hội tập, họ nói cư sĩ hội
tập là không đúng pháp. Những ngôn luận này rất nhiều. Trên internet, sự phê bình
đối với bổn kinh hội tập này cũng rất nhiều, nhưng tôi đối với bổn hội tập kinh
Vô Lương Thọ này là tin sâu, không nghi. Tôi liền nghĩ phải làm thế nào để đem
bổn hội tập kinh Vô Lượng Thọ này phát dương quang đại, bởi vì bổn hội tập này
là bổn hoàn chỉnh của kinh Vô Lượng Thọ. Đem bổn hoàn chỉnh nhất này phổ biến
rộng lớn, khiến cho chúng sanh đoạn nghi, sanh tín. Có thể dùng bổn hội tập
hoàn thiện nhất này để chỉ đạo chúng ta tu hành và cũng có thể lợi ích cho
chúng sanh 9.000 năm thời kỳ Mạt Pháp. Sư phụ thượng nhân cũng đã nói, tương
lai pháp diệt tận, vẫn có thể duy trì lại trên thế gian này 100 năm, đó chính
bộ kinh Vô Lượng Thọ do Ngài Hạ Liên Cư hội tập.


Tôi suy nghĩ, làm thế nào để mọi người
tin và phục bổn kinh hội tập này? Do đó tôi lại tiếp tục khởi vọng tưởng nữa,
hay là tôi đem năm quyển nguyên gốc, cộng thêm quyển hội tập của cư sĩ Vương
Long Thư, đó là quyển đại A Di Đà Kinh (quyển này trước khi tôi đọc qua quyển
của Ngài Hạ Liên Cư, tôi đọc xong cũng rất cảm động), thêm vào đó là quyển hội
tập của cư sĩ Ngụy Mạc Thâm và còn bản tiết hiệu của cư sĩ Bàng Tế Thanh, chín
loại này tôi đều đem giảng qua một lần. Sau khi giảng xong, tôi sẽ long trọng
giới thiệu quyển kinh hội tập của Ngài Hạ Liên Cư, khiến cho mọi người tâm
phục, khẩu phục. Đây đều là vọng tưởng. Tôi đem cách nghĩ này nói với cô Lưu Tố
Vân. Kết quả, cô nói với tôi: “Thầy không nên làm như vậy, cứ chuyên hoằng
kinh Vô Lượng Thọ của Ngài Hạ Liên Cư hội tập. Ai muốn nói gì thì nói, chúng ta
quyết định kiên trì bộ kinh này”
. Cho nên tôi vô cùng cảm ân cô Lưu Tố Vân,
cô vừa nhắc nhở, tôi liền suy nghĩ: “Đúng rồi! Hà tất phải vì người khác mà
đi làm những chuyện phí thời gian, cũng làm lỡ việc học tập của mình. Mình cứ
chuyên tu, chuyên hoằng quyển hội tập này, buông bỏ hết tất cả những quyển
nguyên gốc và quyển tiết hiệu”.
Lần này tôi chân thật buông bỏ tất cả mọi
kinh điển khác, chỉ còn lại quyển kinh Vô Lượng Thọ của Ngài Hạ Liên Cư hội
tập. Do đó, bắt đầu từ năm 2010, tôi quyết định chuyên tu chuyên hoằng quyển
kinh này. Ngay khi tôi hạ quyết tâm như vậy, tôi có cảm giác được Tam Bảo gia
trì
, Phật Bồ Tát cảm ứng.


Vào ngày 5 tháng 4 năm 2010, tiết Thanh
Minh
, bỗng dưng sư phụ bỏ kinh Hoa Nghiêm và bắt đầu giảng kinh Vô Lượng Thọ.
Sau đó Ngài nói với mọi người: “Từ nay về sau, chỉ giảng kinh Vô Lương Thọ
thôi, không giảng kinh gì hết”.
Trong tâm tôi có cảm giác, sự quyết định
này của Ngài là vì tôi. Lúc đó tôi cũng có cảm giác, thật sự là trong nhà Phật
không buông bỏ một người. “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân”,
chỉ cần bạn chịu học thì tận hư không khắp pháp giới, tất cả chư Phật Bồ Tát
đều đang giúp đỡ bạn, đều đang chăm sóc bạn, đều đang dẫn dắt bạn thâm nhập vào
pháp môn mà bạn đang học. Nếu bạn không muốn học kinh Hoa Nghiêm thì giảng cho
bạn kinh Vô Lượng Thọ. Do đó tôi nghĩ, nhân duyên này thật là không thể nghĩ
bàn và sự phát tâm này của chính mình cũng phải là kiên cố, bất thoái.


Hồi tưởng lại việc 20 năm qua, tôi đã
buông xả được ba cấp. Cấp thứ nhất là buông bỏ được vật ngoài thân. Cấp thứ hai
buông bỏ tình chấp. Cấp thứ ba là ngay cả Phật pháp cũng phải buông, kinh
Hoa Nghiêm
cũng phải buông bỏ. Đến sau cùng mới có thể quay về một bộ kinh
Lượng Thọ
, một câu A Di Đà Phật. Tôi thật sự là người độn căn. Các vị xem, hai
mươi năm mới từ từ, từ từ buông bỏ, đương nhiên vẫn chưa có triệt để, vẫn còn
xen tạp. Tuy nhiên nói buông bỏ vật ngoài thân, tình chấp, Phật pháp nhưng cũng
chưa có thuần. Về sau phải không ngừng buông bỏ ngày càng triệt để hơn, ngày
càng tinh thuần hơn.


Thông qua sự học tập buông xả như vậy,
tự tôi cũng có cảm giác chính mình có tiến bộ càng ngày càng nhanh chóng. Mười
năm về trước, đương nhiên nói về việc huân tu về Phật pháp thì tôi có một chút
tiến bộ, ví dụ như nói, tánh tình của tôi không còn bao chao như trước. Có thể
có rất nhiều đồng tu không biết, khi tôi còn trẻ, tánh tình rất nóng vội, ngoài
ra
còn rất nhiều tập khí, tâm bệnh. Những tật xấu của mười năm về trước từ từ
giảm bớt đi. Mười năm sau tiến bộ nhanh hơn mười năm trước, như vừa vừa mới nói
buông xả được ba cấp, đều là ở mười năm về sau, hơn nữa tập trung vào sáu
năm sau này. Trong sáu năm nay, mỗi năm tốc độ tiến bộ nhanh hơn mỗi năm. Cho
nên các vị đồng tu nếu xem đĩa giảng của tôi sáu năm về trước, các vị sẽ cảm
thấy
sắc mạo của tôi không như nhau, đương nhiên khí chất càng không như nhau.
Có nhiều đồng tu cũng rất khích lệ tôi, nói rằng: “Hiện tại thầy tiến bộ rất
nhanh”
. Vào hai tháng trước, tôi cùng đi với sư phụ qua Thái Lan, tôi gặp
cô Tống Bảo Lan cũng từ Mã Lai sang. Cô đến nói với tôi rằng: “Hiện giờ thầy
giảng kinh thuyết pháp rất có định lực. Ngày trước nhìn thầy giống như một đứa
trẻ con, hiện giờ bỗng dưng thầy trở thành một người rất là thành thục”
.
Đương nhiên đây chỉ là lời khuyến khích của cô. Tự tôi cũng biết mình là người
chưa được thành thục lắm, dĩ nhiên so với ngày xưa, tôi cảm thấy mình thành
thục
hơn nhiều, đích thực cũng cảm thấy tâm mình định rất nhiều. Cái “định”
này, tôi cảm thấy nguyên nhân quan trọng nhất là vì tôi quyết định chỉ chọn lấy
một bộ kinh, một câu Phật hiệu, chọn lấy pháp môn Tịnh Độ. Căn bản là một bộ
kinh
, một câu Phật hiệu, các vị xem tôi, mới chỉ hơn một năm một chút, bộ kinh
Vô Lượng Thọ tôi đã giảng qua hai lần, từ đầu đến cuối. Ngoài raNhật Bản còn
giảng chuyên đề, giảng 48 đại nguyện. Gần đây ở chùa Viên Minh, HongKong, dùng
tiếng Quảng Đông giảng lại một lần nữa. Kế đó ở Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà
HongKong giảng Tịnh Độ căn bản giới, chuyên giảng phẩm thứ 35. Tóm lại, giảng
đi giảng lại cũng là kinh Vô Lượng Thọ, không luận là giảng trọn bộ kinh hay là
giảng chuyên đề, tôi chỉ giảng bộ kinh này.


Sau khi gom nhiếp tâm lại thì chân thật
định liền xuất hiện. Trong lục độ Bồ Tát, các vị xem, thiền địnhxây dựng
trên căn bản của tinh tấn. Chữ “tinh tấn”, sư phụ giải thích rất rõ ràng,
“tinh” nghĩa là chuyên tinh, “tấn” nghĩa là tiến bộ. Bạn có thể chuyên tinh mới
có thể tiến bộ. Tâm bạn không chuyên, điều này muốn giảng, điều kia muốn giảng;
điều này muốn học, điều kia muốn học thì rất khó tiến bộ. Đây không gọi là tinh
tấn
, gọi là tạp tấn, loạn tấn. Các vị xem, hôm nay cô giáo Lưu nói với chúng
ta
, bạn niệm một câu Phật hiệu, có cần thêm chú đại bi hay không, có cần thêm
mười tiểu chú hay không? Đều không cần thiết! Thật sự một bộ kinh, một câu Phật
hiệu
, cũng có thừa để thành Phật. Càng chuyên tinh thì càng có chỗ tốt. Hiện
tại
tôi chân thật đã thể hội được đôi chút. Càng thể hội thêm chút nào thì càng
có thêm tín tâm. Hiện tại tôi xuất gia vẫn chưa tới một năm, giả như tôi có
thêm thọ mạng bốn mươi năm nữa, tôi thật sự giảng kinh Vô Lượng Thọ bốn mươi
lần, thì có phải tôi giống như sư phụ đã nói, tôi là Vô Lượng Thọ Phật rồi! Cho
nên tín tâm này vô cùng quan trọng.


Có một vị giáo sư, ông có thể thông
linh, ngày trước tôi không cảm thấy hứng thú đối với việc này, đương nhiên bây
giờ cũng không thể nói là có hứng thú, chỉ có thể xem như tham khảo. Vị này
cũng đã từng được sư phụ giám định qua ông là người như thế nào. Có lần ông bế
quan
niệm Phật thì Ngài Hạ Liên Cư đến tìm ông, chắc chắn là Ngài từ Tây Phương
Cực Lạc
đến. Ngài Hạ Liên Cư nói với ông về ai? Nói về pháp sư Định Hoằng, Ngài
nói rằng: “Hiện tại pháp sư Định Hoằng thiếu kém niềm tin. Thầy ấy là nhân
tài
của nhà Phật, tuy nhiên thiếu niềm tự tin. Hy vọng thầy ấy có thể tu ra
niềm tin”.
Ông giáo sư đó mới ghi lại và đưa cho tôi xem. Tôi đọc qua và
nghĩ, chẳng lẽ tôi không đủ niềm tin hay sao? Ngày trước về mặt thế pháp, tôi
cũng có những thành tựu nho nhỏ, còn trẻ lắm đã làm giáo sư rồi. Tôi tự thấy
mình rất đầy đủ niềm tin. Sau đó tôi học Phật cũng rất là thuận lợi, không thể
nào thiếu niềm tin được. Sau khi suy nghĩ kỹ lại, Ngài Hạ lão nói tôi thiếu
niềm tin, tiêu chuẩn này khẳng định không phải dùng tiêu chuẩn của thế pháp
nói. Niềm tự tin theo tiêu chuẩn của Phật pháp là tin gì? Sau đó tôi liền nghĩ
được thông, tin tưởng chính mình là Phật, đây là niềm tự tin quan trọng nhất.


Phật giáo khác với những tôn giáo khác.
Những tôn giáo khác trước tiên là tin Thần, tin Thượng Đế. Phật pháp trước tiên
phải tự tin chính mình, tin chính mình vốn dĩ là Phật. Trong kinh Hoa Nghiêm,
Thích Ca Mâu Ni Phật đã thị hiện cho chúng ta, sau khi thành Phật rồi, Ngài nói
gì? “Lạ thay, lạ thay! Chúng sanh đều có đức tướng, trí tuệ của Như Lai,
do bởi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà không được chứng đắc”
.
Chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh vốn dĩ là Phật, hiện tại vì có vọng
tưởng
, phân biệt, chấp trước mà không được chứng đắc. Sau khi tôi nghe câu nói
này xong, lúc đó tôi có sự hiểu sai lệch, hiểu không viên mãn. Ngày trước tôi
lý giải như thế nào vậy? Tôi nghĩ những chúng sanh đó họ không biết tự mình vốn
dĩ là Phật, cho nên đã không có trí tuệ, đức tướng của Như Lai, bởi vì họ có
vọng tưởng phân biệt chấp trước, nên không chứng đắc được. Đây đều là việc của
họ, không có liên quan gì với ta. Bây giờ hiểu rồi, không phải họ có vọng tưởng
phân biệt chấp trước, mà là ta có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.


Chúng sanh vốn dĩ là Phật, Phật thì làm
gì có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước? Thế thì ai có vọng tưởng chấp trước?
Ta có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước! Bởi vì ta có vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước nên ta đem chúng sanh, họ vốn dĩ là Phật, đã xem họ thành chúng
sanh
. Trí tuệ, đức tướng Như Lai của họ, ta không nhìn thấy ra, cho nên ta
không thể chứng minh họ là Phật, đương nhiên cũng không thể chứng minh mình là
Phật. Cho nên, trách nhiệm này là ở chính mình, đến khi nào bạn đem vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước buông xả rồi, bạn mở to mắt ra nhìn, chúng sanh vốn dĩ là
Phật, giống mình cũng là Phật vậy. Trí tuệ, đức tướng của Như Lai cũng tròn
đầy, viên mãn. Cho nên hiện giờ chúng tavọng tưởng, chấp trước, đó là gì?
Đem Phật xem thành chúng sanh, mỗi người đều là chúng sanh. Nhìn thấy họ có
vọng tưởng, phiền não, nghiệp chướng sâu dày, tự cho mình là hơn người, xem
thường
tâm bệnh của người khác, không ngờ mọi người đều là Phật đến thị hiện.
Cho nên sư phụ thượng nhân nói, đến lúc nào bạn thành Phật? Khi bạn nhìn thấy
mọi người, mọi vật đều là A Di Đà Phật thì lúc đó bạn liền thành Phật. Tuy
nhiên
bây giờ không nhìn thấy ra thì sao? Bởi vì chính mình có vọng tưởng, phân
biệt
, chấp trước nên mới không chứng đắc, không thể chứng minh được người khác
A Di Đà Phật. Do đó trước tiên tự mình phải phản tỉnh lấy mình, chúng ta tin
tưởng
chính mình là Phật, cũng tin tưởng chúng sanh là Phật.


Hiện tại muốn cầu sanh thế giới Tây
Phương
Cưc Lạc chính là muốn đem Phật tánh hiển lộ ra, “nhờ y chánh của người
hiểu rõ tự tâm của ta”. Thế giới Tây Phương Cực Lạc y chánh trang nghiêm
do A Di Đà Phật đã xây dựng từ vô lượng kiếp, mục đích chính là vì chúng ta. Kỳ
thật, không phải là chúng ta, mà là giúp đỡ ta, không còn chúng ta nữa, vì mọi
người
đều là Phật, chỉ có mình ta là phàm phu, đúng vậy không? Giúp đỡ ta, đến
làm cho Phật tánh của chính mình hiển lộ ra; đem trí tuệ, đức tướng của Như Lai
hiển lộ ra. Đây là lòng từ bi vô lượng của A Di Đà Phậtvô lượng phương tiện
khéo
léo của Ngài, đều được chư Phật tán thán. Khi bạn chưa vãng sanh thế giới
Cực Lạc
thì bạn thật sự không hiểu sự thọ dụng của Phật là như thế nào, cho nên
bạn không thể nào hoàn toàn tin tưởng chính mình là Phật, vì bạn chưa từng thọ
dụng
qua.


Trong kinh Hoa Nghiêm có một câu
chuyện
, mấy hôm trước tôi có chuẩn bị giảng bài học của ngày hôm nay, bỗng dưng
cao hứng, tôi nghĩ, Ngài Ngẫu Ích đại sư nói qua pháp môn Tịnh Độ là áo tạng
của Hoa Nghiêm, mật tủy của Pháp Hoa. Bảo tạng áo diệu của kinh Hoa Nghiêm
nằm trong kinh Vô Lượng Thọ, mật tủy tinh túy của kinh Pháp Hoa cũng nằm trong
kinh Vô Lượng Thọ, nay tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ, nên tôi tìm hiểu xem kinh
Hoa Nghiêm
, kinh Pháp Hoa rốt cuộc có áo tạng gì, có mật tủy gì. Khi tôi đem
kinh Pháp Hoa ra xem, lật đến phẩm thứ tư là Phẩm Diệu Giác, trong đó có một
câu chuyện rất hay, tôi xin kể cho các vị nghe. Câu chuyện đó như thế này:


Thích Ca Mâu Ni Phật cùng với Ngài
Lợi Phất
và những vị A La Hán, đại đệ tử của mình nói một chuyện thí dụ. Trong
kinh Pháp Hoa thường dùng thí dụ để nói rõ vấn đề. Là thí dụ gì? Ngài nói với
chúng ta rằng, chính mình vốn dĩ là Phật, làm sao lý giải? Thông thường phàm
phu
không dám thừa nhận mình vốn là Phật. Việc này giống như có một đại phú
trưởng giả, gia đình vô cùng giàu có, tài sản bằng cả một nước. Ông ấy có một
đứa con nhỏ, là con ruột của mình và là con một trong gia đình, nên rất mực
thương yêu, trân quý. Thế nhưng, có một hôm đứa bé đi lạc, bị mất tích, tìm
khắp nơi vẫn tìm không ra. Thế là đứa bé này rời xa cha mẹgia đình, không
tìm được đường về, lưu lạc khắp nơi, sống đời sống khổ cực của một đứa bé ăn
mày
, bị người ức hiếp, nhục mạ, bữa đói, bữa no, cuộc sống vô cùng khó khăn và
đói rách. Cứ như thế lang thang mãi, không tìm ra con đường về nhà. Mười năm,
hai mươi năm, thậm chí đến năm mươi năm trôi qua, đứa bé đã trưởng thành và đã
hơn 50 tuổi rồi.


Mặc dù mấy mươi năm đã trôi qua nhưng
cái tâm đi tìm con của người cha vẫn không ngừng nghỉ. Có một hôm, người cha
dọn nhà đến một thành phố lớn, người con cũng vừa đến thành phố đó xin ăn.
Người cha từ xa nhìn thấy có một người thân tướng, hình ảnh rất là quen thuộc,
nhìn kỹ thì ra đó chính là con của mình đã thất lạc 50 năm rồi, cuối cùng đã
tìm thấy nó. Khi đó người cha đang ngồi đoan chánh trên một bảo tọa, được trang
sức toàn những vàng ròng, trân châu quý giá, trên người mặc gấm lụa, hai bên có
những người hầu phục tùng, bảo vệ rất oai hùng. Đại phú trưởng giả vừa nhìn
thấy người ăn mày đó, lập tức gọi người hầu, hãy mau đến gọi người đó lại. Hai
người hầu liền chạy tới. Người ăn mày vừa thấy liền nghĩ, có người đang đến bắt
mình, phải mau chạy đi, nên vội vàng chạy nhanh. Người hầu rượt theo và bắt
được rồi lấy dây cột lại. Người ăn mày này nghĩ, lần này xong rồi, không biết
mình
đã làm gì đắc tội người đại phú trưởng giả này đây? Chắc chắn mình sẽ chết
thôi. Khi bị dẫn đến trước mặt cha mình, người ăn mày đã ngất xỉu. Người cha
biết rằng đứa con đã thất lạc 50 năm trước, nó đã hoàn toàn quên mất cha mình,
hoàn toàn quên mất hết danh phận phú quý và gia tộc giàu sang của chính mình,
không thể lập tức nói với nó “ta chính là cha của con”, sẽ làm nó bay hồn vía
mất. Phải làm sao đây? Phải dùng phương tiện khéo léo, nên bảo người thả nó ra.


Sau khi được thả, đứa con cảm thấy nhẹ
nhõm, an tâm, cho rằng mình đã thoát chết rồi. Sau đó vị đại phú trưởng giả
phái hai người tướng mạo vừa ốm, vừa khô cằn, không có vẻ gì của một người giàu
, giả làm những kẻ ăn mày, đến nói với nó rằng: “Chúng tôi có quen một nhà
đại phú hộ, họ đang thiếu một người gánh phân, ngươi muốn đi làm không? Họ trả
lương cao lắm!”.
Người ăn mày này đang lúc không có tiền, không có cơm ăn,
nghe nói có việc làm mừng quá, gánh phân cũng không sao, nên liền nhận lời ngay
và đến nhà trưởng giả để làm việc, mỗi ngày đi gánh phân. Đại phú trưởng giả
nhìn thấy con mình gánh phân như vậy, trong lòng rất là xót xa, nhưng lại không
dám nói với nó “ngươi là con của ta”, sẽ làm nó sợ hãi, không dám thừa nhận,
Thế là đành phải để nó an tâm sống ở đây, sau đó từ từ tăng thêm tiền lương cho
nó, đối xử với nó đặc biệt tốt, khiến nó cảm thấy vô cùng cảm động, vì người
chủ đối với mình quá tốt như vậy. Thậm chí có lần đại phú trưởng giả cởi bỏ hết
áo quần gấm lụa của mình, mặc áo quần của người công nhân để gánh phân cùng với
nó và khuyến khích nó rằng, ngươi hãy yên tâm ở đây làm việc tốt, ta sẽ đối đãi
với ngươi như con ruột của mình. Đứa con nghe xong cảm động đến khóc òa lên và
phát nguyện nhất định phải trung thành với người chủ này.


Cứ như thế, trải qua 20 năm, đứa con
này cũng dần dần quen với gia đình. Tuy nhiên nó vẫn chưa biết người chủ chính
là cha của mình, chỉ nghĩ ông chủ đối với mình tốt đến như vậy, tất cả đồ đạt
trong nhà đều cho mình xem, lại nói bao nhiêu vàng bạc châu báu, ngươi muốn lấy
thì cứ việc lấy, tự nhiên mà lấy dùng. Dần dần nó quen với lối sống giàu sang,
dần dần khí lượng của nó cũng lớn, tầm nhìn xa hơn, tâm lượng rộng lớn hơn. Thế
rồi 20 năm sau nữa, khi vị đại phú trưởng giả đến lúc lâm chung, cho gọi hết
tất cả mọi người trong gia tộc đến, đồng thời cũng gọi người gánh phân (lúc này
không còn là người gánh phân nữa). Xong trưởng giả nói với họ, nó chính là con
của ta, 20 năm trước ta đã nhận ra nó, thế nhưng lúc đó nó không dám thừa nhận,
cho nên ta phải kiên nhẫn chờ đợi hết 20 năm. Nay ta đã già rồi, sắp sửa ra đi,
tài sản của ta không người thừa kế, bây giờ ta sẽ giao hết toàn bộ tài sản này
cho nó thừa kế. Tuyên bố xong, đứa con mới dám nhận và vui mừng đến phát cuồng
lên, thì ra đây là cha của ta, đây là nhà của ta, ta vốn là chủ nhân của nhà
này. Đến đây là xong câu chuyện của Phật đã kể.


Tuy nhiên tôi vẫn còn mấy câu nói mới
xong, khi Phật nói xong câu chuyện này, Ngài Xá Lợi Phất liền đại ngộ, thì ra
chính mình vốn dĩ là Phật; hư không pháp giới chính mình là chủ nhân; tất cả
những thứ trang nghiêm cho dù là thế giới Hoa Tạng, cho dù là thế giới Cực Lạc,
toàn bộ đều là của mình vốn sẳn có. Chỉ vì chính mình không dám thừa nhận
phải khiến đức Thích Ca Mâu Ni Phật đến thế gian này của chúng ta để đóng vai
trò
của một người ăn mày, làm một người khất sĩ tu hành khổ hạnh, vì chúng ta
giảng kinh nói pháp 49 năm, đến sau cùng mới đem chân tướng sự thật nói rõ cho
chúng ta. Kinh Pháp Hoa sau cùng mới nói với bạn, bạn vốn dĩ chính là Phật,
hiện tại chỉ cần bạn thừa nhận là được. Vì vậy, chúng ta cần phải có lòng tự
tin “chúng ta vốn là Phật”. Tuy nhiên hiện giờ vẫn còn là phàm phu, nhưng nó
không thể ảnh hưởng đến bản chất vốn là Phật của mình. Cũng như đứa trẻ thất
lạc lang thang kia, tuy hiện giờkẻ ăn mày, nhưng thân phận, bản thân của nó
vốn là đại phú trưởng giả, những gì cần có thì đều có đầy đủ.


Hiện tại tuy chúng tachúng sanh tội
ác
trong sáu cõi, nhưng đó chỉ là thân thể của một người chúng sanh, riêng bản
tánh
của chúng ta chính là Phật, thế giới Tây Phương Cực Lạc chính là của ta.
Điều này A Di Đà Phật từ bi, Ngài dùng đủ mọi phương tiện khéo léo để nói với
chúng ta rằng: “Con ơi hãy đến đây, con ơi hãy mau về nhà! Sau khi về nhà
rồi, thế giới Tây Phương Cực Lạc sẽ giao cho con. Khi con về nhà, ngôi vị Pháp
Vương
này sẽ giao cho con ngồi. Con sẽ là tam giới đặc tôn, con sẽ là Pháp
Vương”.


Hôm nay vì mọi người nói thế nào là tâm
Bồ Đề. Hy vọng có thể giảng được rõ hơn, khiến cho mọi người thật sự tin tưởng
hơn, chân thật thừa nhận chính mình là Phật. Chính mình hiện tại lại phát
nguyên muốn làm Phật thì phải phát khởi tín, nguyện vãng sanh thế giới Tây
Phương Cực Lạc
. Đây chính là Vô Thượng Bồ Đề Tâm.


Tốt rồi, xin cảm ơn mọi người.


A Di Đà Phật!


Phát Bồ Đề TâmNhất Hướng Chuyên
Niệm
. (Phần 2)


Người giảng: Pháp sư Định Hoằng


Địa điểm: Nhà Hàng Hải Cảnh Như Tâm –
HongKong.


Thời Gian: Ngày 17 tháng 06 năm 2012


Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ


Biên tập: Phật tử Diệu Hương. Phật tử Diệu Hiền.

 

i