Pháp Quán Đại Bi, Asanga (375-430) Ngài Vô Trước

0
39

ASANGA (375-430)
NGÀI VÔ TRƯỚC
PHÁP QUÁN ĐẠI BI
Bản dịch Anh ngữ: “Asanga’s Teaching of Great Compassion.”
Trích từ : Essential Tibetan Buddhism. R.A.F. Thurman.[1996]
Bản dịch Việt Ngữ : Đặng Hữu Phúc

dailuansu-votruocdailuansu-votruoc[ Tu tập mở đầu ]

Để
phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước
nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với
tất cả hữu – tình và rồi tư – duy về giáo pháp tâm linh về nhân và quả có bảy
chi do ngài Di Lặc giảng cho ngài Vô Trước. Trước nhất, hãy tưởng tượng xuất
hiện
trước bạn một hữu – tình chẳng hề giúp đỡ bạn cũng chẳng hề gây tổn hại
bạn. Hãy nghĩ “Ông này tự thấy ông ta muốn có hạnh phúc và không muốn khổ đau,
hoàn toàn giống như mọi người khác cũng đều mong muốn như vậy. Tôi sẽ làm cho
tôi thoát khỏi sự yêu thích và không yêu thích. Tôi chẳng muốn cảm thấy thân
cận với vài người và giúp đỡ họ trong khi đó cảm thấy xa cách những người khác
và làm tổn hại họ. Tôi sẽ phát triển tâm bình – đẳng đối với tất cả hữu – tình. Chư
vị lạt machư thiên hãy gia – hộ cho tôi làm được điều này!”

Một
khi bạn cảm thấy tâm bình – đẳng đối với
người trung – lập đó, hãy tưởng tượng một người mà bạn yêu thích. Hãy cố gắng
cảm thấy tâm bình – đẳng đối với người đó. Hãy nghĩ “Lòng thiên lệch của tôi là
do lòng yêu thích của tôi. Vì tôi luôn luôn ham muốn những hữu tình quyến rũ,
tôi đã tái sinh liên tục trong vòng sinh – tử đầy khổ lụy”. Hãy ngăn chặn lòng
ham muốn
của bạn bằng tư – duy như thế và hãy thiền định.

Một
khi bạn cảm thấy tâm bình – đẳng đối với con người yêu thích đó, hãy tưởng
tượng đến một người không yêu thích. Hãy cố gắng cảm thấy tâm bình -đẳng đối
với người này. Hãy nghĩ “Bởi vì đã có một sự không hòa thuận giữa chúng tôi,
tôi đã phát triển một sự không yêu thích đối với người này và do thế tôi thiếu
tâm bình – đẳng. Không có tâm bình – đẳng tôi không thể có tâm Bồ-đề trong tâm
trí
tôi!” Hãy ngăn chặn lòng không yêu thích của bạn bằng tư-duy như thế và hãy thiền định.

Khi
bạn cảm thấy tâm bình-đẳng đối với người không yêu thích đó, hãy tưởng tượng cả
hai người chung với nhau. Hãy nghĩ “Hai người này đều giống nhau ở điểm mỗi
người tự mình muốn có hạnh phúc và không muốn khổ đau. Nhìn từ quan-điểm của
tôi, người này giờ đây tôi thân cận như thế nhưng đã tái sinh làm kẻ thù của
tôi vô số lần rồi. Người này tôi cảm thấy bất hòa nhưng đã tái sinh làm mẹ của
tôi vô số lần và đã săn sóc tôi với lòng từ-bi, lòng yêu thương. Tôi nên yêu
thích người nào đây? Tôi nên oán ghét người nào đây? Tôi muốn cảm thấy tâm
bình-đẳng, không vướn vào yêu thích và không yêu thích”. Chư
vị Lạt machư thiên, hãy gia-hộ tôi thực hiện được tâm bình-đẳng này.

Một
khi bạn đã cảm thọ tâm bình-đẳng như thế, hãy trải rộng tâm này đến tất cả
hữu-tình. “Tất cả hữu-tình đều như nhau. Mỗi hữu-tình đều muốn hạnh phúc
không muốn khổ đau. Tất cả hữu-tình đều là người trong gia đình của tôi. Do đó
tôi sẽ học tâm bình đẳng và không vướng mắc vào chuyện yêu thích kẻ tôi thấy
thân cận và không yêu thích kẻ mà tôi thấy xa cách, giúp đỡ vài người và tổn
hại
những người khác. Chư vị Lạt machư
thiên
hãy gia-hộ tôi thành tựu điều này!”.

[ 1: Tất cả hữu tình đều là mẫu thân ]

Một
khi bạn đã phát triển được tâm bình đẳng, hãy thực thi giáo chỉ thứ nhất của
bảy giáo chỉ về nhân và quả để đạt đến Tâm Bồ đề. Hãy quán tưởng chư vị lạt ma
chư thiên trước mặt bạn và hãy tư-duy “Tại sao tất cả hữu-tình là người
trong gia đình tôi? Vì không có sự khởi đầu của vòng sinh tử, thế nên cũng
không có sự khởi đầu của các tái sinh của tôi. Trải qua vô lượng vô biên cuộc
sống này, không hình thức sinh sống nào mà tôi không được sinh ra. Trong tất cả
hữu tình, không ai mà không là mẹ của tôi trong vô số lần. Mỗi người là mẹ của
tôi trong thế giới con người vô lượng lần, và sẽ lại trở thành mẹ tôi nhiều lần
nữa”.

Khi
bạn đã kinh nghiệm đầy đủ sự thật này, hãy tư-duy về lòng từ-bi (the kindness)
chúng sinh đã hiển hiện cho bạn khi họ đã là mẹ của bạn. Hãy quán tưởng chư
vị lạt machư thiên trước bạn, hãy tưởng tượng rõ ràng mẹ của bạn ở đời này,
khi bà còn trẻ và khi bà già dần đi. “Bà không những chỉ là mẹ tôi trong đời
này, nhưng bà đã chăm lo săn sóc cho tôi biết bao nhiêu đời qua mà con số không
thể đếm được. Trong đời này bà đã từ-bi cho tôi an-trú trong thai-tạng của bà,
và khi tôi được sinh ra bà đã thương yêu đặt tôi trên chiếc gối mềm mại và ru
tôi trong vòng tay của bà. Bà đã ôm ấp tôi với bộ ngực ấm áp của bà, đã cho tôi
bú những giòng sữa ngọt ngào của bà. Bà đã đón chào tôi với nụ cười âu yếm
ngắm nhìn tôi với đôi mắt hạnh phúc sung sướng. Bà lau sạch nước mũi cho tôi và
thu dọn sạch sẽ các thứ tôi bài tiết. Tôi có đau yếu chút ít thì làm bà lo lắng
khốn khổ hơn so với cái lo bà có khi bà sắp chết. Xem nhẹ các đau khổ thân tâm,
các cơ cực về tinh thần, các lạm dụng, tệ bạc, không quan-tâm chút nào đến
chính bà, bà cung cấp cho tôi đầy đủ, sẵn sàng mọi thứ tôi cần cũng y như lúc
cung cấp thức ăn thức uống và nơi cư-trú. Bà cho tôi vô lượng hạnh phúc
lợi-ích và bảo-vệ tôi tránh khỏi mọi khổ đau và những tổn hại không thể đo
lường được”. Hãy tư-duy về lòng từ-bi vô lượng của bà. Và rồi sau đó, cũng theo
cách đó, hãy tư-duy về lòng từ-bi của cha của bạn và những người khác thân
thiết
với bạn, bởi vì họ cũng là mẹ của bạn đã vô số lần.

[
2: Tưởng nhớ ân đức của tất cả hữu tình mẫu thân ]

Khi
bạn có đầy đủ kinh-nghiệm về sự thật này, hãy thiền quán về những hữu-tình bạn
cảm thấy vô tư đối với họ (impartial) “Mặc dầu giờ đây có vẻ như họ không có
liên quan gì với tôi, họ đã là mẹ của tôi vô số lần, và trong những đời sống
đó, họ đã bảo vệ tôi với lòng từ-bi và nhân-đức”. Khi bạn đã có kinh-nghiệm về
sự thật này hãy thiền quán về những hữu-tình mà họ giờ đây là đối-thủ đua tranh
với bạn. Hãy tưởng tượng rõ ràng trước bạn, và hãy nghĩ: “Làm sao bây giờ tôi
có thể cảm thấy rằng những người này là những kẻ thù của tôi? Vì số lượng cuộc
đời
đã vô lượng, họ đã là mẹ tôi trong vô số lần. Khi họ là mẹ tôi họ đã đem
đến cho tôi hạnh phúclợi ích vô lượng và đã bảo-vệ tôi thoát khỏi khổ đau
tổn hại. Nếu không có họ tôi không thể tồn tại ngay chỉ một khoảng thời gian
ngắn ngủi và nếu không có tội họ sẽ không thể chịu nổi những đau khổ cơ cực dù
chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi. Chúng tôi cảm thấy một sự gắn bó mạnh mẽ
như thế trong vô số lần. Thế mà bây giờ họ là những đối-thủ của tôi do duyên
khởi
vận-hành (due to bad evolutionary actions). Vào một thời gian khác trong
tương lai họ sẽ lại là mẹ của tôi, người bảo vệ tôi với lòng từ-bi.” Khi bạn có
kinh-nghiệm đầy đủ về sự thật này, hãy thiền quán về lòng nhân-đức của tất cả
hữu-tình.

[
3: Phát triển ý-nguyện báo ân hữu tình mẫu thân ]

Sau
đó hãy thiền quán về báo ân tất cả hữu tình, tất cả các bà mẹ của bạn. Hãy quán
tưởng
chư vị lạt ma và chư thần bảo-hộ (deities) trước bạn và tư-duy. Từ thời
vô-thủy những bà mẹ này đã bảo vệ tôi với lòng từ-bi nhân đức. Vậy mà từ đó tới
nay (yet as) tâm trí của họ bị phiền não (phiền-động não-loạn) bởi những ma chướng
của say mê, mê đắm (demons of addictive passsions) họ đã không có được tâm trí
tự chủ và thành ra bị quẩn trí. Họ thiếu con mắt để thấy hoặc con đường đưa tới
cõi ngườichư thiên hoặc con đường đưa tới Niết Bàn, tối-thượng thiện-hảo.
Họ không có được vị thầy tâm linh, người dẫn đường cho những kẻ mù. Liên tục bị
thoi nện bầm dập tả tơi do các tác-nghiệp sai-trái đánh-nhầu-với-nhau-một-trận,
họ lăn trượt tới bên bờ vực thẳm dễ sợ của tái sinh trong tương tục của sinh
tử
, đặc biệt là những cảnh-giới thấp kém của tử-sinh . ( Continually pummeled by the discord of wrong deeds, they slip to the
edge of the terrifying abyss of rebirth in the life-cycle, especially its lower
state
).Tảng-lờ-không-ngó-ngàng
đến những bà mẹ từ-bi nhân-đức này là không biết hổ thẹn. Để báo-ân tôi sẽ
giải- thoát họ khỏi khổ đau sinh tử tương-tục và sẽ an-lập họ trong đại-lạc của
giải thoát. Chư vị lạt machư thiên, hãy
gia-hộ cho tôi làm được điều này.

[
4: Phát triển tâm từ-bi: Giúp hữu tình mẫu thân làm chủ hạnh phúc và căn nguyên
của hạnh phúc
]

Rồi
sau đó hãy thiền quán về từ-bi (Love). Hãy tưởng tượng một người bạn quý mến
rất nhiều, chẳng hạn như mẹ của bạn “ Làm thế nào để bà ta có thể có được hạnh
phúc
vô-lậu, hạnh phúc không còn tập khí phiền não, (undefiled happiness: tịnh
lạc) khi mà bà không có được ngay cả hạnh phúc hữu lậu (defiled happiness), hạnh
phúc
vẫn còn tập khí phiền não của cõi đời sinh tử tương tục? Những gì hiện nay
bà hãnh-diện khoe-khoang khoác-lác là hạnh phúc thì trơn tuột mất biến thành
khổ đau. Bà khao khát và khao khát, nỗ lựcnỗ lực, ham muốn cái hạnh phúc phù
du của giây phút thoáng qua (desiring a moment’s happiness), nhưng bà chỉ tạo
lập căn-nguyên của khổ đau tương lai và những tái sinh trong những cảnh-giới
thấp kém hơn của hữu tình. Nên trong cõi đời này, mệt lử và kiệt sức, bà chỉ
tạo ra khốn khổ, khổ đau. Nhất-định-là-dứt-khoát-là, bà không có hạnh phúc thật
sự. (She definitely does not have real happiness). Thật là tuyệt diệu biết bao
nếu bà làm chủ được hạnh phúc và tất cả căn-nguyên của hạnh phúc. Bà mong muốn
làm chủ chúng. (May she possess them!)

Tôi
sẽ làm cho bà làm chủ hạnh phúc và tất cả căn-nguyên của hạnh phúc. Chư vị lạt-ma và chư thiên hãy gia-hộ tôi làm được điều
này!”

Khi
bạn đã đạt được kinh-nghiệm này, hãy tiếp tục thiền quán, trước hết hãy tưởng
tượng những người khác thân thiết với bạn, tỉ dụ cha của bạn, và sau đó hãy
tưởng tượng một người mà bạn cảm thấy vô tư với họ, và sau đó một người đối
nghịch và sau cùng tất cả hữu tình.

[
5: Phát triển tâm đại bi: Giải cứu khổ đau của hữu tình mẫu thân trong sinh tử
tương tục
]


rồi sau đó hãy thực hiện pháp thiền đại-bi và trách-nhiệm phổ-quát (Then do the meditation of great compassion and
universal responsibility): “Chư vị phụ-thân và mẫu-thân của tôi, số lượng có
thể chất đầybầu trời, đang bị buộc chặt vào vòng duyên khởi nhân quả và những
thống khổ trong hoàn cảnh bị bỏ rơi, không ai giúp đỡ (helplessly). Bốn dòng
sông giòng tương tục của ái dục (desire), giòng tương tục của hữu (existence),
giòng tương tục của vô-minh (ignorance), giòng tương tục của tà-kiến [hoặc tin
vào đấng tạo lập hữu ngã thường hằng, bản-ngã thường hằng; hoặc tin vào đoạn
diệt
, không có đời trước đời sau, không có duyên khởi, không có giải thoát
(fanaticism: chủ-thuyết tôn giáo cuồng tín vào cực đoan = tà-kiến)], tất cả bốn
dòng sông này quét họ vào trong giòng nước lũ của sinh tử tương tục trong cảnh
họ bị bỏ rơi, không ai giúp đỡ, vào nơi mà họ bị vùi giập tả tơi hoa lá bởi
những con sóng của sinh, già, bệnh và chết. (The
four rivers, the rivers of desire, existence, ignorance, and faniticism, sweep
them helplessly into the currents of the life cycle, where they are battered by
the waves of birth, old age, sickness anh death).

Họ
bị trói buộc trọn vẹn vào cái vòng trói chặt chẽ và khó mà phá được các mối nối
kết đủ loại của các tác nghiệp duyên khởi nhân quả. Từ thời vô-thủy họ đã bước
vào cái lồng sắt của thủ chấp những ý niệm “tôi” và “của tôi” ở ngay tâm điểm
của lòng họ. Cái lồng này thì rất khó mà khai mở bởi bất cứ một ai. Bị bao trùm bởi bóng tối
mênh mông của vô-minh (=vô thủy vô minh) nên mọi phán đoán thiện ác đều bị ngăn
ngại, họ không nhìn thấy, chính lúc này, con đường đưa đến những trạng thái
hạnh phúc của hữu-tình. Nói chi đến chuyện họ thấy con đườnggiải thoát và giác
ngộ
(Much less do they see the path leading to liberation and enlighttenment).

[
6: Trách nhiệm phổ quát = Bản thệ: Nếu tôi không cứu, ai sẽ cứu? ]

“Những
hữu tình tiều tụy này đã bị hành hạ không ngừng nghỉ bởi những khổ đau của khốn
khổ (khổ khổ), khổ đau của biến dịch (hoại khổ), và khổ đau lan tràn của tạo
tác (hành khổ). Tôi thấy tất cả các hữu-tình này, những mẫu-thân của tôi, đang
bị trầm luân thê thảm trong đại-dương của sinh-tử. Nếu tôi không cứu họ, ai sẽ
cứu? Nếu tôi tảng-lờ-không-hay-biết đến họ, tôi sẽ không biết xấu hổ là gì, một
loại thứ thấp kém nhất trong tất cả hữu-tình. Nguyện-vọng của tôi theo học đại
thừa
sẽ chỉ thuần là từ-ngữ, và tôi không thể nào trình diện mặt tôi trước Chư
Phật và Bồ-Tát. Thế nên, trong mọi hoàn cảnh, tôi sẽ phát triển khả năng cứu
vớt tất cả mẫu-thân hiền-đức âu sầu của tôi ra khỏi đại-dương sinh-tử và an-lập
họ nơi quả-phật. Hãy nghĩ đến điều này và hãy lưu xuất một trách-nhiệm
phổ-quát, dũng mãnh, tinh thànhnhất tâm: chúng sinh vô biên thệ nguyện độ (Think this and generate a very strong and pure universal responsibility).

[
7: Phát triển Bồ-Đề-Tâm ]

Cuối
cùng
hãy thiền định về tâm Bồ-đề. Hãy tự hỏi bạn có thể hoặc không thể an-lập
tất cả hữu-tình nơi quả phật, và hãy phản-tỉnh (reflect), “Tôi không biết tôi
đang đi đâu; làm sao tôi có thể an lập vào chính lúc này, một hữu-tình nơi quả
phật? Ngay cả đến những vị đã thành tựu những quả vị học trò của Đức Phật
(disciple: Thanh Văn) hoặc ẩn-sĩ Phật ( hermit Buddha: Độc giác Phật) cũng chỉ
có thể thành tựu những mục tiêu nhỏ bé của hữu-tình, và không thể an-lập các
hữu-tình nơi quả Phật. Thế nên chỉ có một vị Phật toàn giác (a perfect Buddha)
mới có thể dẫn tất cả hữu tình đến toàn giác (full enlighttenment). Thế nên
trong mọi hoàn cảnh (no matter what), tôi sẽ đạt quả vị Phật Vô-Thượng
Chánh-Đẳng-Chánh-Giác (peerless and completely perfect Buddhahood) vì lợi ích
của tất cả hữu-tình. Chư vị lạt machư
thiên
, hãy hoan hỉ gia-hộ tôi làm được điều này!”.

——————————————————————————————–

CHÚ
THÍCH CỦA BẢN DỊCH VIỆT NGỮ

Chú thích 1: Trong bản dịch
Việt ngữ, những gì bên trong dấu […] đều là chú thích của người dịch bản Việt.

Chú thích 2:

Bản
Anh ngữ:

Think this and generate a very strong and pure universal responsibility.

Pure:
Clear- clean- does not contain any harmful substances – complete and total –
produced or practised according to a standard or form that is expected of it (
Formal )

Universal:
1. of affecting or including all

2. existing or occuring
everywhere

Bản
Việt ngữ:

Hãy nghĩ đến điều này và hãy lưu xuất một trách nhiệm phổ quát dũng mãnh, tinh
thành
nhất tâm: chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.

Nhất
tâm
= dốc lòng.

Universal love = compassion = đại bi, tình yêu phổ quát

Universal
responsibility = trách nhiệm phổ quát = tâm đại bi

Mother
beings : hữu tình mẫu thân

Chú thích 3

Mười
hai chi của một vòng duyên khởi:

1.
minh
2.hành 3.thức 4.danh sắc

5.Sáu
xứ
6.xúc 7.thọ 8.
ái

9.thủ 10.Hữu 11.Sinh 12.lão
tử

Hữu
(Bhava: Sanskrit)

Hữu
(Existence) là trở thành (becoming). Hữu là tiến trình của nghiệp, là quả của
nghiệp hiện tại, nuôi dưỡng bởi Ái và Thủ. Hữu là giai đoạn đi trước giai đoạn
tái sinh (new existence): sinh và lão tử. Thế nên Hữu được gọi tên là Hữu, theo
quả của nó.

Chú thích 4

Các
biểu ngữ về kiến chấp: có 360 vọng kiến (false views) và 62 tà kiến (wrong
views) của các triết gia (=nhà ngoại đạo), có thể tóm tắt thuộc hai nhóm có và
không (hữu và vô, thường hằng và đoạn diệt-being and non-being, to be and not
to be, eternalism and nihilism).

Nhập
Lăng già Đại thừa kinh tuyên bố là “…Các triết gia cũng như những kẻ sơ trí, họ
tôn quý cái nhị biên giữa có và không (they cherish the dualism of being and
non-being)”.

Các
pháp do duyên khởi nên không có tự tính.

Whatever
depends upon conditions,

That
is empty of intrinsic existence. (Tsong Khapa)

Nhân
duyên
hội hợp nên pháp gọi là có; nhân duyên biệt ly nên pháp gọi là không.

Thế
nên duyên khởi (dependent arising) cũng là tinh không (= các pháp đều thiếu vắng
cái hiện hữutự tính = chân không = chân không diệu hữu: emptiness,
openness), cũng là trung đạo (=lìa hữu vô: middle way, beyond extremes), cũng là
như huyễn (illusion).

  • Kính lễ Đức Phật:

Đức Phật Cồ Đàm Đại Thánh Chủ

Thương xót hữu tình thuyết nhân duyên

Để đoạn dứt tất cả kiến chấp

Nay tôi dốc lòng đảnh lễ Phật

( Bồ Tát Long ThọKệ tụng kết thúc
Trung Luận)

  • Bồ
    Tát
    Đại Huệ Mahamati tán thán Đức Phật ( Kinh Lăng Già)

Thế gian lìa sinh diệt
Như hoa đốm trên không
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi

Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa nơi tâm thức
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi

Xa lìa chấp đoạn thường
Pháp thế gian như mộng
Trí chẳng trụ hữu, vô
khởi tâm đại bi

  • Đức
    Phật
    giảng về không có tự tính và pháp tu tập vô tự tính trong kinh Lăng Già
    (trích Lăng Già Nhập Đại Thừa Kinh, bản dịch Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn trang
    164-165):

[76]
Lại nữa, này Mahàmati, không phải các sự vật là không được sinh ra, mà chúng không
được sinh ra từ chính chúng, trừ phi chúng được quán sát trong trạng thái
Tam-ma-địa, đấy là ý nghĩa của “các pháp đều vô sinh”.

Này
Mahàmati, theo ý nghĩa thâm sâu nhất thì không có tự tínhvô sinh. Tất cả các
pháp khôngtự tính nghĩa là có một sự trở thành luôn luôn có và liên tục, một
sự thay đổi từng sát na từ trạng thái hiện hữu này sang trạng thái hiện hữu khác;
này Mahàmati, thế thì tất cả các pháp đều không có tự tính. Đấy gọi là tất cả các
pháp đều không có tự tính.

Lại
nữa, này Mahàmati, vô nhị là gì? Này Mahàmati, đấy nghĩa là ánh sáng và bóng tối, dài và ngắn, đen và trắng
là những biểu từ tương đối và cái này không độc lập đối với cái kia; như Niết-bàn
luân hồi, tất cả các sự vật là không-hai, không có Niết-bàn ngoài nơi có luân
hồi
; không có luân hồi ngoài nơi có Niết-bàn; vì cái điều kiện hiện hữu không có
đặc tính độc lập đối với nhau. Do đó mà bảo rằng tất cả các pháp là vô nhị như Niết-bàn và luân hồi vậy.
Vì vậy, này Mahàmati, ông phải tu tập ( thể nghiệm ) cái không, vô sinh, vô nhị
vô tự tánh.

Nguồn: Đặc
San Hiện Thực số 16/2009 , Năm thứ 5 , trang 154-165

Ảnh minh họa trên: Đại luận sư Vô Trước (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.)