Năng Lực Của Bi Mẫn

0
25

NĂNG LỰC CỦA BI MẪN
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Bi mẫn là một
tâm có hương vị duy nhất
của lòng thương mến
đến tất cả chúng sinh.
Từ lòng bi mẫn tất
cả mọi mục tiêu được đạt đến.

LONG THỌ, Tràng Hoa Quý Báu.

 

dalailama-01345smdalailama-01345smCùng với từ
ái
, bi mẫn là khuôn mặt của lòng vị tha. Đấy là một cảm giác từ chiều
sâu của trái tim mà chúng ta không chịu đựng nổi khổ đau của người khác mà
không hành động để giải thoát. Khi bi mẫn
được lớn mạnh hơn, ý chí của chúng ta cũng lớn lên tương ứng để chính mình cố gắng
vì ợi ích của tất cả chúng sinh, ngay cả
nếu ta phải làm việc ấy đơn độc. Đây là
sự phục vụ không thành kiến đối với tất cả chúng sinh, bất chấp vị thế của họ
là gì. Trong việc làm sáng tỏ chí nguyện
này, chúng ta thấy rằng bằng việc đạt đến giác ngộ của chính mình, cuối cùng
chúng ta sẽ có thể hoàn thành hy vọng của mọi người trong chu vi mở rộng của
lòng từ ái của chúng ta, “tôi sẽ làm bất cứ điều gì tôi có thể làm để đạt
đến
giác ngộ vì lợi ích của họ,” chúng ta quyết định như thế. Bi mẫn là viên đá nền tảng của khuynh hướng vị
tha để đạt đến sự giác ngộ vô thượng nhằm để hổ trợ tất cả chúng sinh.

Đại
bi
là gốc rể của hành động vị tha đối tượng kinh ngạc của thế giới: không có cội
nguồn nào lớn hơn cho việc cứu giúp và hạnh phúc [hơn là đại bi]. Cho đến
khi mà chúng talòng bi mẫn, chúng ta sẽ tự do khỏi những sự băn khoăn sâu
thẩm nhất. Khả năng để cống hiến chính mình đến lợi ích của
người khác mang lại, bằng trái lại thì không đạt được, sức mạnh và tiềm năng
cho sự thánh thiện. Phát sinh lòng đại
bi
, và chúng ta trở thành một người thân hữu của tất cả chúng sinh, lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh vị tha khác và là đứa
con yêu mến của đấng giác ngộ.

 

BI MẪN NHƯ HẠT
GIỐNG
, NƯỚC, VÀ THU HOẠCH

Bi mẫn tự nó được
thấy là
Hạt giống của sự
thu hoạch phong nhiêu, nước để tăng trưởng,
Và thể trạng
chín muồi của sự thụ hưởng lâu dài.
Do vậy, vào lúc
bắt đầu tôi nguyện cầu bi mẫn.

NGUYỆT XỨNG

 

Bi
mẫn là thiết yếu trong giai đoạn khởi đầu, giai đoạn giữa, và giai đoạn kết
thúc của sự thực tập tâm linh. Nó giống
như hạt giống của giác ngộ. Chúng ta cần
nước, đất, và phân bón để canh tác mùa màng – cho dù đấy là lúa gạo, lúa mạch,
lúa mì, hay bắp. Một hạt lúa chỉ có thể
phục vụ như nguyên nhân của cây lúa và không thể lớn lên thành cây lúa mạch, vậy
thì
đấy là nguyên nhân phi thường của lúa gạo. Tương tự thế, một động cơ bi mẫn là nguyên nhân phi thường của sự giác
ngộ
vô thượng, và vì thế nó trở thành nền tảng của việc thực hành tâm linh, giống
như một hạt giống. Đấy là sự bắt đầu.

Đến
những giai đoạn giữa, khi đặt khuynh hướng vị tha vào trong sự thực tập, chúng
ta
khám phá ra rằng thật không dễ dàng để giúp ngay cả một chúng sinh vượt thắng
hình thức biểu hiện của ngay cả một loại rắc rối, không đề cập đến việc chiến
thắng khuynh hướng tiềm tàng trong tâm. Sự cải thiện như vậy đòi hỏi nổ lực liên tục. Chúng ta có thể trở nên mệt mỏi và nhụt chí,
nhưng nếu chúng ta tiếp tục phát triển bi mẫn, chúng ta sẽ không đánh mất sự cống
hiến
vị thachúng ta đã phát sinh trước đây. Nếu chúng ta duy trì lòng bi mẫn mạnh mẽ khi chúng ta chạm trán với những
hoàn cảnh khó khăn, chí nguyện của chúng ta sẽ tăng trường một cách tự
nhiên
. Đây là tầm quan trọng của bi mẫn
trong những giai đoạn giữa: nó như nước nuôi dưỡng những phẩm chất tâm linh
nó nhằm để nuôi dưỡng những người khác đối với giác ngộ.

Sự
giác ngộ tròn vẹn có nghĩa là chúng ta ở trong sự hiện diện tương tục của đại
bi
, do vậy chúng ta sẽ không duy trì trong sự hòa bình đơn độc mà sẽ luôn luôn
dấn thân một cách trọn vẹn vì lợi ích của những người khác. Giống như thể trạng chín muồi của sự thu hoạch
được thụ hưởng bởi vô số, đây là tầm
quan trọng của đại bi lúc kết thúc.

Quan
tâm
cho người khác là một ý chí đảm đương gánh nặng để giúp đở họ đạt đến hạnh
phúc
của chính họ. Một sự gánh vác can đảm,
vô song, vị tha như vậy của gánh nặng này cuối cùng đưa đến sự ngưỡng mộ những
trình độ phát triển tâm linh nhằm đề phục vụ một cách hiệu quả hơn.


Lhasa, khi trao truyền giáo huấn từ ái và bi mẫn đến giới trẻ của tôi, tôi đã
phải xúc động từ sâu thẩm bên trong. Sau
lần đầu tiên đến Dharamsala, Ấn Độ như một người tị nạn, tôi đã điều khiển một
lễ khai tâm, và tôi đã lau nước mắt khi đọc lại thi kệ của Nguyệt Xứng
(Chandrakirti – ở trang trước). Mặc dù
tôi đã xúc động một cách sâu xa qua việc quán chiếu những phẩm chất diệu kỳ của
vị tha, nhưng chúng dường như điều gì đấy xa vời, khó khăn cho tôi để đạt được. Khoảng năm 1969, sau khi đạt được tuệ giác nội
quán
vào trong việc làm thế nào chúng ta cường điệu chính mình vào trong việc
biểu hiện như một đạo sư và những thứ phóng đại vào trong những đối tượng dưới
sự kiểm soát của chúng ta như thế nào, tôi thấy rằng giải thoát thật sự là có
thể đạt được bởi vì si mê đã làm nên những sự thổi phồng như thế đơn giản
sai lầm, và có một năng lực đối khángkiến thứctuệ trí vững chắc – có thể
loại trừ nó.

Biết
rằng giác ngộ là có thể đạt được, và sau khi thực hành Hướng Dẫn Lối Sống Bồ Tát trong những năm cuối của lứa tuổi ba
mươi, tôi đã đạt được đủ kinh nghiệm, cảm nhận của tôi về từ ái và bi mẫn chân
thật
ở tại một khoảng cách đã được thay đổi, và tôi đã phát triển một niềm tin
đấy là tôi có thể phát triển lòng vị tha thật sự. Kể từ lúc ấy tôi đã thực hiện một tiến trình
nào đó đối với mục tiêu ấy.

Hãy
để tôi nói với quý vị một câu chuyện vui về những dòng nước mắt này. Một người nọ tham dự buổi lễ và không hiểu tối
thiểu
tại sao tôi khóc đã đi đến gặp vị
giáo thọ của tôi, Trijang Rinpoche, trong ngày kế tiếp. Ông cho hay rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã cực kỳ
đau buồn trong buổi lễ đến nổi ngài đã khóc. Trijang Rinpoche hỏi ông ta: “Tại sao ngài khóc?” Ông nói, “Ngài đã thất vọng bởi vì ngài
chỉ có một cơ hội ở Tây Tạng để ban bố lễ quán đảnh này.” Trijang đã ngạc nhiên với sai lầm của người ấy. “Không chỉ ông sai lầm rằng Đức Thánh
Thiện
đã ban lễ quán đảnh này chỉ một lầnTây Tạng, nhưng ngài sẽ không bao
giờ thất vọng đối với một việc như vậy.” Tôi đã cười và cười khi tôi nghe câu chuyện ấy.

 

MỞ RỘNG VÒNG
XOAY CỦA MỐI QUAN TÂM NÀY NHƯ THẾ NÀO


Đối
với ai chúng ta trau dồi lòng bi mẫn? Câu trả lời là, Mỗi một chúng sinh, bởi vì mỗi người phiền não với một
hình thức đau khổ nào đó. Trong những
thiền quán trước đây, chúng ta đã phát triển một sự mật thiết với những người khác. Đầu tiên chúng ta nhận ra rằng chúng ta và người ta bỉnh đẳng trong việc
muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau; thứ đến chúng ta đã học rằng trải qua sự
tương tục của những kiếp sống mọi người đã từng là người thân nhất của chúng
ta
, cho chúng ta sự giúp đở một cách hoan hỉ; cuối cùng chúng ta đã thấy rằng
chính bản chất của xã hội mà người khác cung ứng những thứ phục vụ cần thiết đã
hổ trợ chúng ta, cho dù có chủ ý hay không. Nếu chúng ta không có nhận thức thấu cảm này, thế thì khi chúng ta cố gắng thấu hiểu nổi khổ của một người
khác qua sự thống khổ của chính mình, chúng ta thậm chí có thể cảm thấy vui sướng
trong nổi khổ đau của kẻ thù.

Vài
thế kỷ trước, một tu sĩ đã vui mừng khi nghe rằng một vị tu sĩ khác, người mà
ông không thích đã kết hôn, trong việc vi phạm những thệ nguyện của một tu
. Vị tu sĩ vui mừng pha trà, mời một số
bè bạn của ông, và nói với họ, “Tôi có một việc tốt đẹp nói với quý vị. Người ta nói rằng vị tu sĩ ấy đã có vợ.” Khi vị lạt ma của vị tu sĩ kháo chuyện ấy biết
việc gì đã xảy ra, ông nói, “Vị kháo chuyện này đã tích tập nhiều nghiệp xấu
hơn
bằng việc thích thú rằng một vị tu sĩ khác đã đánh mất thệ nguyện của mình
hơn là vị tu sĩ ấy tự làm.” Như
Tông Khách Ba nói,

Trên
thế giới, khi khổ đau được thấy trong một kẻ thù, không chỉ nó là không thể chịu
nổi, mà chúng ta lại vui mừng với nó. Khi một người không từng giúp đở cũng không làm hại chúng ta được thấy
là khổ đau, trong hầu hết mọi trường hợp chúng ta sẽ không chú ý đến người ấy. Những sự phản ứng này là qua việc không có một
cảm nhận tình cảm với sự quan tâm đến những người này.

Tuy
nhiên
, khi chúng ta thấy một người thân khổ đau, thì việc đó là không chịu nổi,
và mức độ không thể chịu nổi ấy lớn như tình cảm của chúng ta với người ấy. Do thế, đấy là tầm quan trọng thiết yếu để
phát sinh một cảm nhận yêu mến và tình cảm
mạnh mẽ đối với chúng sinh.

Bất
chấp họ là giàu hay nghèo, mạnh khỏe hay ốm đau, già hay trẻ, điều cốt yếu phải
có một cảm giác không thay đổi về sự yêu
mến với người khác và sự đau khổ liên tục của họ.

Thật
dễ dàng hơn để phát sinh lòng bi mẫn trong khi quán tưởng về một người chúng
sinh
rất nghèo khổ, nhưng chúng ta cũng cần phản chiếu trên những người dường
như hoàn toàn không khổ đau nhưng người nào thật sự hành động trong những cách
như vậy cuối cùng sẽ mang đến những biểu hiện khổ đau. Mở rộng sự quán chiếu và bi mẫn này đến những
người đã từng làm nhưng việc như vậy trong quá khứ, việc tích tập những xu hướng
nghiệp chướng tiêu cực. Mặc dù những tác động nghiệp chướng của họ không bị
trải nghiệm trong hiện tại, những người
đang thành đạt này đã chất chứa những nguyên nhân của khổ đau tương lai chắc chắn
giống như một khối u ung thư không đau đớn nằm trong thân thể. Mở rộng đề mục thiền quán này một lần nữa bằng
việc phản chiếu trên những chúng sinh sai lầm trong bản chất nội tại với những
gì chỉ là niềm vui sướng nông cạn và phải chịu sự đau khổ của thay đổi (hoại khổ). Cuối cùng phản chiếu trên vấn đề tất cả chúng sinh phải chịu sự quay cuồng
của khổ đau lan tỏa cùng khắp (hành khổ) như thế nào — quyện kết trong một tiến
trình của những điều kiện vượt khỏi tầm kiểm soát của họ

 

NHỮNG BƯỚC THIỀN
QUÁN


dễ dàng hơn để phát sinh bi mẫn đối với những người thân, hãy bắt đầu với một
người thân nhất.

1- Đưa đến tâm một
người thân có một nổi đau khổ rõ ràng, và hãy nghĩ:

Giống như tôi,
con người này muốn hạnh phúc và không muốn
khổ đau, tuy thế trớ trêu thay lại có nổi khổ như vậy. Chỉ mong sao người này có thể thoát khỏi khổ
đau và những nguyên nhân của đau khổ!

Phân
tích những cách mà người này đau khổ cho đến khi chúng ta có một cảm nhận mạnh
mẽ về việc sung sướng diệu kỳ như thế nào nếu người ấy có thể tự do khỏi tất cả
các loại đau khổ. Khi cảm nhận suy giảm,
hãy nghĩ nhiều hơn về việc con người đau khổ như thế nào, và khi điều này phát
sinh một sự thương xót mạnh mẽ và một nguyện ước cho sự giải thoát của người ấy,
duy trì với điều này mà không phân tích. Điều này được gọi là sự luân chuyển
giữa thiền phân tích (quán) và thiền ổn định (chỉ). Tiến hành hai thứ thiền này tới và lui, thay
đổi vì thế cường độ của cảm nhận duy trì
mạnh mẽ. Cuối cùng, hai loại thiền tập sẽ
hổ trợ lẫn nhau và làm sâu sắc mỗi thứ hơn mà chúng ta không cần phải luân chuyển
giữa hai thứ nữa.

2- Quán tưởng trước mặt ta một người
thân, người mặc dù không bị nổi khổ đau trớ trêu tức thời, nhưng sẽ đau khổ
trong tương lai qua những hành vi phiền não chướng ngại ẩn tàng nặng nề của những
loại mà tất cả chúng ta đã phạm phải trải qua từ thời vô thỉ. Hãy nghĩ:

Giống như tôi,
con người này muốn hạnh phúc và không muốn
khổ đau, tuy thế trớ trêu thay lại có nổi khổ như vậy. Chỉ mong sao người này có thể thoát khỏi khổ
đau và những nguyên nhân của đau khổ!

Thay
đổi giữa thiền phân tích và thiền ổn định.

3- Từ từ mở rộng đề mục thiền quán này đến từng người
một, đầu tiên với nhiều người thân hữu hơn, rồi thì với những người trung tính,
cuối cùng với những người thù oán, sau chót bao gồm tất cả chúng sinh khắp
hư không.

Mở
rộng
phạm vi của thiền quán vì thể chúng ta không bị giới hạn để nguyện ước điều
ấy chỉ cho một ít người được thoát khỏi khổ đau hay tất cả chúng sinh được giải thoát khỏi những loại khổ đau nào đấy mà
thôi. Sự nguyện ước cho lợi ích của người
khác không cục bộ và không bị thành kiến – đấy là một nguyện ước chân thành
mỗi một chúng sinh được giải thoát khỏi tất cả mọi loại khổ đau và nguyên nhân
của nó.

Bằng
việc trau dồi lòng bi mẫn đầu tiên cho những người thân, rồi đến những người
trung tính, và cuối cùng đến những người thù oán, chúng ta cuối cùng nắm giữ một
điều là sự cảm nhận bi mẫn một cách mạnh mẽ cho chúng sinh trong phổ quát. Tuy nhiên, nếu khởi đầu, chúng ta thiền quán
trên chúng sinh một cách tổng quát mà không tập trung một cách tha thiết đến những
cá nhân, chúng ta có thể có cảm tưởng là có lòng bi mẫn cho tất cả
chúng sinh, nhưng khi một hoàn cảnh trái ngang chẳng hạn như bị cản trở trong
điều gì đó chúng ta muốn mà chẳng may sinh khởi, thì chúng ta sẽ biểu lộ hoàn toàn ngược lại.

 

THIỀN TẬP HỔ TRỢ

 

Thật
hữu
ích để tưởng tượng một con vật bất lực – một chúng sinh với khả năng rất giới
hạn
không ai bảo vệ – một tình trạng túng quẩn. Hãy tưởng tượng một tạo vật trước mặt chúng ta và hãy lưu tâm đến vấn đề,
sẽ ra sao nếu thay đổi vị trí [giữa ta và tạo vật bất lực ấy]. Hãy nghĩ:

Nếu tôi ở trong
vị trí của con vật khốn khó này, tôi có thể chịu nổi hay không?

Hãy
cố gắng để cảm nhận những chúng sinh đang cảm nhận ra sao. Loại thiền quán tưởng tượng này là rất hữu
ích cho việc bồi bổ lòng bi mẫn.

 

TĂNG CƯỜNG BI MẪN

 

Khi
chúng ta đã làm một tiến trình nào đó, hãy làm mạnh năng lực của bi mẫn bằng việc
di chuyển từ “Nếu người này có thể được tự do khỏi đau khổ và những nguyên
nhân
của đau khổ mà thôi!”đến “Nguyện cho người này được tự do khỏi
đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ!”

1- Đem đến tâm một
người thân đang đau khổ rõ ràng, và hãy nghĩ:

Giống như tôi,
con người này muốn hạnh phúc và không muốn
khổ đau, tuy thế trớ trêu thay lại có nổi khổ như vậy. Nguyện cho người này được thoát khỏi khổ đau
và những nguyên nhân của đau khổ!

Thay
đổi luân phiên giữa thiền phân tích và thiền định chỉ.

2- Quán tưởng trước mặt ta một người thân, người mặc
dù không bị nổi khổ đau trớ trêu tức thời, nhưng sẽ đau khổ trong tương lai qua
những hành vi phiền não chướng ngại ẩn tàng nặng nề của những loại mà tất cả
chúng ta đã phạm phải trải qua từ thời vô thỉ. Hãy nghĩ:

Giống như tôi,
con người này muốn hạnh phúc và không muốn
khổ đau, tuy thế trớ trêu thay lại có nổi khổ như vậy. Nguyện cho người này được thoát khỏi khổ đau
và những nguyên nhân của đau khổ!

Thay
đổi luân phiên giữa thiền phân tích và thiền định chỉ.

3- Chậm rãi mở
rộng
đề mục quán chiếu này đến từng người một, đầu tiên đến nhiều người thân
hơn, rồi đến những người trung tính, và cuối cùng đến những người thù oán, và sau chót bao gồm cả tất cả chúng sinh
khắp hư không.

Khi chúng ta cảm
thấy
hoàn toàn tác động với nguyện ước cao thượng này rồi, di chuyển đến trình
độ
mạnh mẽ nhất của bi mẫn, là quyết định: “Tôi sẽ giúp người này thoát khỏi đau khổnguyên nhân của khổ
đau!”

1- Đem đến tâm một
người thân đang đau khổ rõ ràng, và hãy nghĩ:

Giống như tôi,
con người này muốn hạnh phúc và không muốn
khổ đau, tuy thế trớ trêu thay lại có nổi khổ như vậy. Tôi sẽ giúp người này thoát khỏi đau khổ
nguyên nhân của khổ đau!

Thay
đổi luân phiên giữa thiền phân tích và thiền định chỉ.

2- Quán tưởng trước mặt ta một người thân, người mặc
dù không bị nổi khổ đau trớ trêu tức thời, nhưng sẽ đau khổ trong tương lai qua
những hành vi phiền não chướng ngại ẩn tàng nặng nề của những loại mà tất cả
chúng ta đã phạm phải trải qua từ thời vô thỉ. Hãy nghĩ:

Giống như tôi,
con người này muốn hạnh phúc và không muốn
khổ đau, tuy thế trớ trêu thay lại có nổi khổ như vậy. Tôi sẽ giúp người này thoát khỏi đau khổ
nguyên nhân của khổ đau!

Thay đổi luân phiên giữa thiền phân tích và thiền định
chỉ.

3- Chậm rãi mở rộng đề mục quán chiếu này đến từng
người một, đầu tiên đến nhiều người thân hơn, rồi đến những người trung tính,
cuối cùng đến những người thù oán, và
sau chót bao gồm cả tất cả chúng sinh khắp hư không.

Qua
tiến trình này, bi mẫn chân thật sẽ tiến triển. Đây không phải là lòng thương xót thông thường lẫn lộn với luyến ái hay
dính mắc, là chỗ mà khi điều gì đó chỉ nho nhỏ mà không vừa ý, chúng ta lập tức
nổi giận. Lòng bi mẫn thật sự là một sự
tỉnh thức rằng tất cả chúng sinh phải được thoát khỏi khổ đau.

 

ĐỐI PHÓ VỚI SÂN
GIẬN NHƯ THẾ NÀO

 

Khi
những người khác cáu kỉnhhiểm độc với chúng ta, thật khó khăn để duy trì
lòng bi mẫn. Sân giận cần được kiểm
soát
, nhưng không che giấu được với chúng ta. Hãy nhận ra phản ứng của chúng ta: đừng phủ nhận chúng. Nếu chúng ta làm thế, lòng bi mẫn của chúng
ta
sẽ là giả dối.


hai loại cảm xúc. Một loại cần được bày
tỏ, nói đến. Thí dụ, chán nản chẳng hạn. Có thể người nào thân cận với chúng ta chết,
chúng ta thương tiếc một cách âm thầm. Nên thay vì che dấu cảm xúc, chúng ta bày tỏ một cách công khai, năng lực
áp đảo của nổi buồn sẽ bị yếu bớt đi. Loại
cảm xúc khác, kể cả sân giận, luyến ái mạnh mẽ, và tham dục mạnh bạo: không có
sự chấm dứt tự nhiên cho những thứ này. Thí dụ, nếu sân giận được biểu lộ, ngày mai có thể hơn nữa; trái lại nếu
chúng ta giảm thiểu tối đa sự sân giận của chúng ta, nó sẽ bị yếu dần. Chúng ta có thể thấy điều này qua kinh nghiệm của chính chúng ta. Ban cho sự sân giận của chúng ta lời nói
hành động giống như cho một đứa bé một đống rơm và một hộp diêm quẹt. Một khi châm ngòi, sân giận sẽ phơi bày tràn
ngập trong không khí và có thể nổi cơn thịnh nộ không thể kiểm soát. Sự lựa chọn duy nhấtkềm chế sân giận, và
phương pháp để làm điều này là suy nghĩ. Giá trị của sân giận là gì? Giá
trị
của bao dung và bi mẫn là gì?

Những
ai không xem các cảm xúc phiền não như sân giận là bất lợi bị khổ sở đối với một rắc rối và nổi cơn tức giận, họ cảm thấy họ
đúng đắn toàn hảo, ngay cả họ không buồn có một chút quan tâm nào đến việc
người khác nhìn họ như thế nào hay không. Vì họ xem việc nổi giậnbình thường, họ không nổ lực để giảm thiểu
sân giận. Trái lại, những ai xem các cảm
xúc
phiền nãotiêu cựctai hại không tự động chấp nhận sân giận. Đôi khi sân giận có thể thắng thế và khống chế
họ, nhưng sâu thẩm bên trong họ vui khi tiếp nhận nó – có một sự miễn cưởng đó. Ngay cả nếu họ không thực hiện những sự đối
phó
đầy đủ, sự miễn cưởng bên trong của họ về việc nổi giận sẽ làm một sự khác
biệt lớn lao về lâu về dài. Vì thế, điều
quan trọng là phản chiếu trên những bất lợi của sân giận.

Hãy
sử dụng ý thức trung thực thông thường của chúng ta. Sân giận có ích lợi không? Nếu chúng ta nổi giận đối với ai đó, kết quả
là không tốt cho ta và cũng không tốt gì cho người. Không có gì hữu ích từ đấy. Kết cục, sân giận không làm tổn hại người
khác mà lại tai hại cho ta. Khi chúng ta sân giận, thức ăn ngon không có mùi vị gì. Khi chúng ta nổi giận, ngay cả bộ mặt của người
phối ngẫu, con cái, hay bè bạn cũng tức tối, không phải bời vì khuôn mặt của họ
thay đổi mà bởi vì điều gì đó sai lạc trong thái độ của chúng ta. Khi một sự kiện bất hạnh xảy ra, chúng ta
thể đối diệnđối phó một cách hiệu quả hơn khi không có sân giận. Sân giận hầu như vô dụng. Có lẻ một lời lẻ thô ác đôi khi cần thiết làm
cho một người nào đó lánh xa một hành vi ngu ngốc, trong một phạm vi mà sân giận
có thể sinh khởi, nhưng sự sân giận như thế không nên là động cơ
chính,nhưng từ ái và bi mẫn mới nên là
[mục tiêu chính từ trong thâm tâm]. Những
hành vi phát sinh đơn thuần từ sân giận hoàn toàn không lợi ích gì cả, nhận ra
điều này có thể phục vụ để làm mạnh sự quyết tâm của chúng ta để chống lại
chúng.

Thật
không
dễ dàng để có một sự quan hệ trắc ẩn mạnh mẽ với mỗi một chúng sinh, vì
thế không nên nhụt chí nếu một thái độ thành kiến làm cản trở sự thiền quán của
chúng ta. Chúng ta cần một lòng can đảm
của một nổ lực không dao động suốt cả cuộc đời của chúng ta và cho nhiều kiếp sống
sắp đến. Một sự chuyển hóa thậm thâm như
vậy không thể xảy ra chỉ qua đêm, hay trong một tuần, hay trong một tháng, hay ngay cả trong một năm. Tuy nhiên, chúng ta sẽ dần thấy sự thay đổi
trong những phản ứng của chúng ta đến những con ngườithế giới. Khi những phản ứngtái diễn, đừng nghĩ điều
này biểu hiện sự thất bại trong thiền tập của chúng ta; đúng hơn hãy lấy những
sự kiện thế ấy như những thúc đẩy kích thích chúng ta thiền tập nhiều hơn nữa.

 

QUÁN TƯỞNG HỔ TRỢ:

CHO VÀ NHẬN

 

Khi
chúng ta thấy chúng sinh trăn trở vì khổ đau, điều trung thực là biết rằng những
khổ đau của họ là qua các nghiệp chướng của chính họ, và do thế chúng ta bị hạn
chế
trong vấn đề chúng ta có thể hổ trợ họ bao nhiêu một cách trực tiếp. Tuy nhiên, chúng ta có thể tự nguyện và nhiệt
tình – từ trong chiều sâu thẩm của trái tim – thực hiện những nguyện ước và
quán tưởng với sau đây với một năng lực to lớn của ý chí:

Con
người này đang đau khổ vô cùng tệ hại và mặc dù muốn đạt được hạnh phúc cùng
làm nguôi bớt khổ đau, nhưng không biết từ bỏ đức tính xấutiếp nhận đạo đức
tốt. Nguyện cầu khổ đau của người này
cũng như tất cả nguyên nhân của chúng chín muồi trong tôi.

Điều
này được gọi là sự thực hành tiếp nhận khổ đau của người khác trong việc sử dụng
khí
cụ bi mẫn
.

Một cách tương ứng, từ trong chiều sâu
của trái tim chúng ta có thể nguyện ước và quán tưởng rằng chúng ta ban cho người
khổ đau hạnh phúc của chúng ta.

Tôi sẽ ban cho
những chúng sinh này mà không một chút do dự hay hối hận bất cứ phước đức nào
mà tôi đã tích tập trong hình thức của nghiệp lành, là điều thuận lợi cho họ.

Điều này được gọi là sự thực hành bố
thí
sự hạnh phúc của chính ta trong việc sử dụng khí cụ từ ái.

Mặc
sự quán tưởng tinh thần như vậy không thật sự mang đến những kết quả này, nó
thật sự sẽ gia tăng quyết tâmnăng lực ý chí, trong khi tạo nên một không
khí hòa bình. Những sự thực tập này được
tiến hành trong sự kết hợp với hơi thở ra và hơi thở vào – thở vào khổ đau của
người khác và thở ra niềm hạnh phúc của chính ta vào trong đời sống của họ.

 

QUÁN TƯỞNG HỔ TRỢ:

SỬ DỤNG NỔI BẤT
HẠNH

 

Tương
tự
thế, khi chúng ta bệnh hoạn hay đau khổ vì một sự kiện bất hạnh, hãy tưởng
tượng:

Nguyện cho cơn bệnh hay sự bất hạnh này phục
vụ
như một sự thay thế cho nổi khổ đau của tất cả chúng sinh.

Điều
này sẽ giữ sự đau khổ của chúng ta khỏi trở nên tệ hại hơn qua việc phiền não về
nó, và nó sẽ làm nổi bật lòng can đảm của chúng ta. Cũng hữu ích để nghĩ:

Nguyện cho nổi khổ mà tôi đang chịu đựng
hiện nay thể hiện như một chức năng của sự chín muồi, biểu hiện, và kết thúc
nhiều nghiệp không lành mà tôi đã tích tập.

Trong
kinh nghiệm giới hạn của tôi, những sự
thực tập này thật sự là những cội nguồn của sức mạnh nội tại và sẽ giữ một nụ
mĩm cười trên khuôn mặt của chúng ta. Lo
lắng
sẽ không ích gì, có phải không?

Mới
gần đây, có một vụ động đất khá mạnh ở Dharamsala trong khi tôi đang thiền tập
hàng ngày về trau dồi từ ái và bi mẫn. Mặc
dù động đất là sự đe dọa đời sống một cách mạnh mẽ, tôi không sợ hãi chút nào,
điều này phải là qua việc đang trong lúc quán chiếu đến nhu cầu của những người
khác. Nhưng tôi phải thừa nhận rằng chỉ
khoảng vài tuần trước đây, trong khi
đang bay vài giờ qua một đám không khí nhiễu loạn giữa Bombay và Nam Phi. Tôi chú ý rằng những lòng bàn tay của tôi đã ướt đẩm mồ hôi. Vì thế tôi đã phản chiếu trên kiến thức của
tôi là nếu nghiệp chướng của tôi dành cho là tôi phải chết, thế thì đơn giản
tôi phải chết, và nếu không, sáng mai tôi sẽ ở Nam Phi. Tôi cảm thấy khá hơn. Điều khác biệt là trong nhận thức của
tôi. Nếu có thể làm điều gì đấy về vấn nạn
ấy, chúng ta hãy tiến hành; nếu không thể, lo lắngvô ích.

Theo
kinh điển Phật Giáo Tây Tạng về vấn đề rèn luyện lòng vị tha, khi chúng ta hạnh
phúc
, đừng quá hưng phấn về điều ấy, mà hãy cống hiến lợi ích đển tất cả chúng
sinh
nghiệp lành thu hoạch hạnh phúc, và khi chúng ta đau khổ, hãy tự nhận vào
tất cả khổ đau của chúng sinh. Chúng ta
thường lên và xuống trong tâm ý, nhưng trong cách này chúng ta có thể duy trì
lòng can đảm nội tại, không cho phép nổi bất hạnh quấy nhiễu sự tĩnh lặng của
tâm – không quá vui mừng, cũng không quá buồn đau, hãy ổn định.

 

KHI NGƯỜI KHÁC CỐ
GẮNG
LỢI DỤNG CHÚNG TA

 


thể là ngay cả nếu chúng ta vẫn là một người khiêm tốn, trung thực, và toại
nguyện
, một số người bạn, hàng xóm, đồng nghiệp, hay địch thủ của chúng ta sẽ lợi
dụng
chúng ta. Đơn giản cho phép điều
này là vô lý. Dưới những hoàn cảnh như
thế, đầu tiên chúng ta phải thấu hiểu rằng người kia cũng là một con người
cũng có quyền để hạnh phúc. Với sự tôn
trọng
và bi mẫn đối với người ấy, chúng ta có thể hành động phù hợp với hoàn cảnh
người ấy đã tạo nên. Điều này có nghĩa
là việc đáp ứng một cách mạnh mẽ nếu cần thiết, nhưng không bao giờ đánh mất nhận
thức
bi mẫn. Trong thực tế, bi mẫn là
phương cách duy nhất để đối phó với một rắc rối như vậy, vì sân giận và cáu kỉnh sẽ chỉ trở ngại hiệu quả của hành động
và làm mọi thứ phức tạp hơn. Đầu tiên,
thật khó duy trì bi mẫn đối với ai đấy đang đe dọa hay làm tổn hại, nhưng nếu
chúng ta cố gắng liên tục, chúng ta sẽ tìm ra phương pháp để phản ứng một cách
mạnh mẽ tối đa đối với hoàn cảnh đòi hỏi nhưng không đánh mất thái độ từ ái.

Giống
như mối quan hệ giữa một bậc cha mẹ ân cần và con cái. Đôi khi đứa con ngu si và ngổ ngáo, và nhằm để
chấm dứt thái độ ấy, người cha hoặc người mẹ hành động – tương ứng với những
hoàn cảnh ấy – với lời lẻ nghiêm khăc hay ngay cả thô tháo, có thể thậm chí trừng
phạt
đứa trẻ, nhưng không đánh mất lòng thương mến. Đó là cung cách để đối phó với vấn nạn.

Nguyên
tác: The
fifth step: The Power of Compassion
Ẩn
Tâm Lộ ngày 17-3-2012

 

sự