Mê ở Ta Bà, Sực Nhớ Quê Hương Là Cực Lạc

0
29

MÊ Ở TA BÀ,
SỰC NHỚ QUÊ HƯƠNG LÀ CỰC LẠC

Hồ Dụy

que_huong_cuc_lacque_huong_cuc_lacGiải quyết sự khổ trong đời này (tức khi
nhẹ lòng trước mọi chướng ngại) và an lạc, giải thoát khỏi luân hồiđời sau,
ngoài Phật pháp ra không gì có thể thay thế.

Giả như không có niệm lực
gia trì của chư Phật và Bồ tát, sự sống ở các hành tinh sẽ chóng tàn hoại. Chốn Nam Diêm
Phù Đề
sở dĩ còn ở trong kiếp trụ cũng nhờ niệm lực gia trì của chư Phật, Bồ
tát
và một phần nhờ ý niệm từ chính lớp người hiểu, hành và sống theo Chánh
pháp
. Tiếc là ý niệm siêu thiện từ việc trì niệm hồng danh Đức Phật quá ít so
với tạp âm, tà âm tràn ngập hư không. Thử tính trong một xóm làng, thành phố
hay quốc gia, tỉ lệ người phát sóng siêu thiện bao phần trăm so với chiều ngược
lại? Hậu quả của ý niệm thiện hay bất thiện không những ảnh hưởng các mối quan
hệ xã hội, mà theo tiến sĩ vật lý lượng tử của Đại học Harvard John Hagelin
(Giám đốc Liên Hiệp toàn cầu khoa học gia cho Hòa bình Quốc tế, là người đã
phát triển lý thuyết “Trường đại thống nhất dựa trên siêu dây” của
A.Einstein), ý niệm là dạng dao động sóng phát ra sẽ biến đổi từ trường, có
thể ảnh hưởng cả một thành phố. Còn chân tướng sự thật thì sao, theo lời dạy
của các chân sư cũng như lời dạy trong kinh điển, mỗi ý niệm dầu nhỏ nhiệm là
“nhổ một sợi lông chấn động toàn thân”, nên một ý niệm của riêng mình
có thể chấn động tận hư không khắp pháp giới. Năng lực của tâm quá lớn, thật
ngoài sức tưởng tượng, thậm chí còn hơn cả bom nguyên tử như một thiền sư từng
nói. Vì tâm chính là pháp giới; toàn cả vũ trụ chính là tâm mình. Cũng là ví dụ
của các bậc cổ đức giác ngộ: trong mộng thấy có ta và thế giới; do đâu mà có,
không phải là tâm của ta biến ra sao. Thế giới trong mộng là do tâm ta trong
mộng biến hiện, thế giới ngoài đời cũng do tâm vọng của chúng sanh trong mười
pháp giới biến hiện. Còn thế giới Cực lạc là do chân tâm của Phật và Thánh
chúng
tạo nên. Cho nên trở về Cực lạc mới thật là trở về quê hương của chân
tâm
tự tánh.

Phật độ khắp
mười phương, nhưng chớ hiểu nhầm hai chữ “tha lực”; rằng Phật sẽ đưa tay “bốc”
chúng sanh từ Ta bà đặt lên Cực lạc. Nếu Phật làm vậy đã không còn ai cùng khổ
trên quả địa cầu nữa. Nhân quả luân hồiquy luật vận hành của vũ trụ chứ
không phải do Phật bày ra. Ta bà là bể khổ, đâu đâu cũng khổ, chỉ cần “chán”
trần ai, ngày đêm thiết nguyện sinh về Cực lạc, Phật sẽ đến lúc ta lâm chung
(hay lâm nạn). Điều đáng trách là ta bịt mắt trước cảnh Cực lạc mô tả trong
“ngũ kinh, nhất luận” nên thấy Ta bà tươi đẹp quá trời; niệm Phật ngày đêm song
chưa hề có tâm thế về với Phật, cứ hẹn rày hẹn mai, hẹn đến lúc thân xác tàn
hoại vẫn bám chặt lấy “ngôi nhà” tứ đại. Thương xót chúng sanh, Phật mở con
đường
thoát cảnh lầm than ô trược. Phật chỉ ra tâm Phật trong mỗi chúng sanh,
và do vậy bất kể ai cũng có cơ hội lên nước Phật. Trôi lăn từ vô thỉ, thậm chí
có người kiếp trước có tu, kiếp này vẫn phàm phu không hề tin Phật, đều là sự
thể
rất hiển nhiên. Chớ tưởng ta đời này theo Phật sẽ an ổn dong buồm cập bờ
giác. Trong a-lại-da mỗi sinh mạng chứa quá nhiều chủng tử xấu. Nghiệp lực
trong một người thôi, nếu có hình tướng sẽ đầy cả hư không. Dẫu tu tập tinh
tấn
, lúc mạng chung lỡ nhân xấu trồi lên sẽ rơi vào tam đồ vạn năm không ra
được, cũng là sự thường nốt.

Vẫn biết ai rồi
cũng chết, nhưng sự thậtmuôn vàn cái chết thảm thương. Có một Phật tử tu tập
khá chuyên cần, ngày sắp mất đạo tràng đến hộ niệm, đứa con trai tự dưng “từ
trên trời rơi xuống” ngăn cấm triệt để, bà uất nghẹn trợn mắt mà chết. Chứng
kiến
cảnh một người nằm liệt giường bao nhiêu năm trời đến thối thịt, con cháu
mỗi lần bước vào liền ói mửa vẫn phải lau rửa hàng ngày, sẽ thấm thía sự chết
không đơn giản. Chưa nói chứng đắc cao sang, chỉ cần có một cái chết nhẹ nhàng,
một cái chết an lành trong chánh niệm và có đạo hữu trợ niệm tiễn đưa đã khó
lắm rồi. Tổ Ấn Quang từng khuyên người hãy dán chữ tử trên trán là vậy.
Bậc giác giả khuyên người đời mỗi đêm lên giường nên lắng tâm niệm Phật. Nếu
chuyên chú lâu ngày, ta sẽ thấy được trạng thái rất gần giấc ngủ; xem như sắp
trôi vào cõi chết. Ấy là lúc ta nắm được cận tử nghiệp. Chứng đắc lên thẳng
Cực lạc là khó; dùng thường nghiệp (ngày nào cũng niệm Phật) và bám cận
tử nghiệp
để lên nước Phật sẽ nhiều hy vọng hơn.

Hành giả nào
suốt đời do dùng tâm phàm niệm Phật, và do không huân tập “Phật tiếp dẫn”, phút
lâm chung miệng niệm tâm loạn động, chưa tương ưng với tâm Phật thì đâu có ai
xuất hiện. Phật sẽ đến tiếp dẫn nếu tâm người đó tương ưng với tâm Phật. Phật
bên ngoài chính là do tâm [Phật] trong ta cảm ứng. Ngược lại, ví như một người
không hề sợ ma, lúc nào cũng chỉ biết niệm Phật, thì dẫu có bước giữa nghĩa địa
cũng không thể gặp ma. Nói theo ý của Hòa thượng Tuyên Hóa, tâm Phật chính là
từ tâm ma quỷ mà tu thành. Tâm ma quỷ, hiểu ở mức thô tức tâm quá nhiều vọng
tưởng
đảo điên, luôn toan tính lợi mình hại người và vạn vật. Mỗi ý niệm phát
xuất, dẫu là vi tế nó đều tồn tại như một dạng vật chất. Dẫu thoáng nghĩ xấu về
người, thì ý nghĩ đó đã xuyên vào đối tượng mình nghĩ và còn “sát thương” vô số
trên đường bay của nó đến tận cùng pháp giới. Ta có thể ngăn được chân tay song
cực khó để ngăn ý niệm xấu ác. Đa phần nghiệp lực là do ý niệm tạo thành. Ý
niệm
chồng chéo lên nhau tại kiếp này và từ nhiều kiếp trước. Tại sao bỗng thấy
ghét một người trong lúc họ không can hệ gì đến ta? Có thể do ta có vướng mắc
thù oán với họ từ thuở xa xôi nào trước lúc cha mẹ sinh thành hoặc đời này do
ta hay “ngó lỗi người”. Ý niệm giận ghét nhau sẽ tạo nên một loại từ trường,
nếu có máy đo chụp lại sẽ cho màu sắc tối xám; nhiều thiền sư chứng thiên nhãn
đã nhìn thấy loại màu sắc này. Thí nghiệm nước kết tinh cũng đã chứng minh,
tuy chỉ phản ánh “sắc”. Kinh điển Phật cho biết ý niệm tích lũy đều
phát sanh loại từ trường có đầy đủ “sắc thanh hương vị xúc”. Cụ thể
truyền thống Osawa khuyên khi người hay cáu giận không nên nấu ăn và cũng không
nên bưng soạn đồ ăn cho người khác, vì ý niệm vô hình (hữu hình đối với người
thiên nhãn) đã phóng vào làm biến đổi đồ ăn, người ăn có thể bị đau bụng hay
nặng hơn có thể “ngộ độc”…

Mỗi một hình ảnh
lọt vào mắt sẽ được lưu giữ dẫu bao lâu vẫn trỗi dậy quấy phá tâm như một loại
vi rút hạng nặng. Câu Phật hiệu khởi lên, là phương pháp tối ưu thanh lọc phiền
não
. Hiện tượng bỏ vợ theo bồ bởi ta không chịu xóa cái ấn tượng mạnh mẽ ban
đầu
; không bỏ được thói phàm ăn bởi ghi khắc quá sâu đậm về những món ngon,…
Lúc tâm chưa kịp lưu một khuôn mặt đẹp, một món ăn ngon, một bài hát hay, câu
hồng danh đã thực hiện chức năng “tẩy xóa”. Niệm Phật mà không nghe rõ từng
chữ, những hình ảnh sẽ mạnh hơn và tất nhiên vọng tưởng chiến thắng. Tha thiết
niệm hồng danh bằng cả máu huyết, đến một lúc nó sẽ đánh đổ bất cứ loại vọng
tưởng
nào.

Người chỉ dùng
miệng niệm Phật mà không dùng tâm; xưng là đệ tử Phật trong lúc hành vi trái
hẳn lời Phật dạy, luôn chực nhảy khỏi khuôn khổ ngũ giới, thập thiện
khác gì với tay vào hư không đánh đu vọng tưởng. Người học Phật đều biết nhân
quả
; vẫn ít người ngờ đến mức độ tàn phá thân tâm từ vọng tưởng. Tưởng rằng
hành vi xấu (nhất là hành vi giữa bàn dân thiên hạ) mới đưa lại hậu quả; tưởng
rằng nghĩ xấu chút sẽ chẳng hại ai, đâu ngờ đó mới chính là tế bào “ung thư”.
Tôi đã và đang phóng vô vàn ý niệm xấu, như một dạng “dáo mác” có mức độ “hủy
diệt” khủng khiếp. Hành vi này nếu tiếp tục nhân lên, lúc có những ý nghĩ/hành
động/hình ảnh tương tự trước mắt, nó như ngòi được châm lửa đốt rụi rừng công
đức
. Điều này giải thích tại sao có những vụ ly hôn hay vụ án lớn đơn thuần
xuất phát từ những chuyện nhỏ nhặt. Bởi quá khứ họ đã phát xuất ý niệm xấu đến
nhau, không tập dùng Phật hiệu xóa ký ức; những ý niệm đó nén lâu ngày thành
khối u nằm im lìm [tưởng rất yên bình] trong tâm, chực chờ cơ hội đánh gục
những đôi chân hướng về cõi Phật.

Nếu tâm lúc nào
cũng với ý niệm thiện, hay trong trường hợp chướng ngại trái chiều nào ta cũng
khởi tâm niệm Phật, nhẹ nhàng thanh thoát cho nó trôi đi như rác rến trên dòng
sông, tâm ấy tịnh sáng và sẽ “cho ra” một thân thể khỏe mạnh, đủ thời gian giúp
ta có tấm vé lên Cực lạc. Tại ngôi chùa Thiên Giang ở phố cổ Bao Vinh, trong
đạo tràng ít nhất có 3 trường hợp bệnh viện kết luận là “K”; tin Phật, đêm nào
họ cũng niệm Phật đã đẩy lùi ung thư, có người hai năm vẫn bình thường, có
người hai mươi năm rồi vẫn như chưa có sự cố nào xảy ra trong đời. Trở về với
thí nghiệm nước nhờ vào âm thanh thiện tác động đã chuyển từ nhơ bẩn qua trong
sạch
, sẽ thấy niệm Phật có thể chữa lành bệnh nan y. Điều quan trọng ở đây là
người bệnh có niệm Phật thuần thành hay chỉ niệm với tâm ích kỷmục đích duy
nhất
là cốt lành bệnh để tiếp tục sống những tháng ngày lầm mê. Liên đới việc
hộ niệm lúc lâm chung, nếu mười người hộ niệm mà tâm vẩn vơ đâu đâu bất quá chỉ
hơn chút xíu máy niệm Phật với vai trò nhắc nhở khổ chủ tỉnh giác. Lúc hộ niệm
phải nhất tâm như ngồi giữa đạo tràng dự khóa công phu mới đem lại lợi ích lớn
cho người được hộ niệm và chính bản thân mình.

Vọng tưởng luôn
mạnh mẽ bởi nó được sản sinh vô số mỗi ngày và được nuôi dưỡng bằng sự buông
thả của hành giả. Lúc ta nằm trên giường tiếng là thư giãn, song trong đầu có
những cuộn phim chiếu qua tâm thức một cách sống động; tâm ta rong ruổi cũng
như đứa trẻ với đống đồ chơi thả cái này chụp cái kia. Thay vì để tâm tham dự
bữa tiệc vọng tưởng cho đến khi mệt lả trôi vào giấc ngủ lúc nào không hay, ta
buộc tâm duy nhất vào câu “Nam mô A Di Đà Phật”; ban ngày cũng với phương pháp
này đối đãi vạn sự vạn vật, lâu ngày ta sẽ nhận được lợi ích vô biên – đó là sự
thanh thản. Một ả hàng cá chửi [dẫu ta đúng chăng nữa] mà ta chửi lại thì trong
lúc đó ta không bằng họ. Chớ bận tâm nhiều đến những lời khen, quyết niệm Phật
mỗi khi ai đó làm trái ý thích của mình, cho đến lúc tự cảm thấy họ chính là
thầy, là thiện tri thức, cảm thấy thương yêu họ, chừng đó ta đã vượt khá xa
trong tiến trình liễu thoát.

*

Một bậc chân tu từng ví:
những tập tánh xấu của ta cũng như rất nhiều chương trình được cài đặt sẵn
trong máy vi tính; hễ khởi động máy, những chương trình ấy cùng đồng loạt “nổi
loạn”. Trong quá khứ, có thể có những sợi dây liên hệ bất hảo với ai đó,
nếu tình trạng này được lặp lại nhiều lần, tâm ta sẽ lưu vào ký ức thành một
loại “ác dữ liệu”; khi gặp lại người đó, dữ liệu này tự động sẽ nhảy
ra ngoài tầm kiểm soát, và như vậy mỗi lần gặp dữ liệu càng thêm đậm nét. Ta
lại cho rằng tình trạng này là thật, cũng gần giống như hiện tượng tự kỷ ám thị
hay “nhìn dây thừng tưởng lầm con rắn” mà sợ toát mồ hôi. Có khi
đương sự đã thay đổi hẳn, nhưng ta vẫn nhìn người đó với hình ảnh cũ, đó chỉ là cái bóng cũ do chính ta phóng
hiện. Nhiều loại bệnh tật cũng từ đó phát sinh, nếu biết thì chỉ ít ngày đã có
thể hóa giải, còn không hiện tượng này sẽ lặp lại cho đến không cùng, lại càng
có cơ hội “oán trời trách người”, tội nghiệp sẽ càng thêm nặng, phước
thọ tổn giảm nghiêm trọng.

Theo diễn giải của Bồ tát
Di Dặc còn khủng khiếp hơn: hàng tỉ ý niệm vi tế phát xuất chỉ trong một giây.
Tu thiền định để có thể vượt Tam giới phải dứt sạch ý niệm vi tế đoạn hoặc chứng
chân; tính theo tiêu chuẩn này trên trái đất được bao người đủ căn cơ? Với pháp
môn
Tịnh độ, điều quan trọng trước hết là có đầy đủ niềm tin về Cực Lạc quốc;
tin rồi có thiết nguyện vãng sanh về cõi ấy?; quảng đại phát nguyện rồi mức độ
hành trì niệm Phật chuyên nhất không? Người tu có chịu bỏ Ta Bà vào bất cứ lúc
nào để về với Phật như lòng mong muốn của một người tù được trả tự do, như mong
muốn của đứa con xa quê bao nhiêu năm mong một lần trở về?? Lưu lạc trong vô số
kiếp trần ai khổ não. Ai mà chẳng có nguồn cội. Ai không ước trở về nguồn cội.
Cái khó là ta cứ nghĩ nguồn cội ở đây, sống trên đất mà chết cũng trên mặt đất
này.

Chớ bao giờ quên quê
hương của chúng taCực Lạc.

Con người ai cũng từng
rơi vào trạng thái “sực nhớ”. Lúc ta cố lục lọi trí nhớ lại không tìm ra điều
muốn nhớ, nhưng một lúc nào đó lại “sực nhớ”. Thực tế đó thường là những lúc ta
thả lỏng thân tâm. Trí không căng thẳng, tâm bớt vọng động ấy là lúc quyền năng
tối thượng phát huy tác dụng. Những người nhập thiền tự dưng nhớ lại những
chuyện xa xưa hồi nhỏ; bậc chứng quả Thánh thì nhớ hàng trăm kiếp trước của
mình và của mọi người, đều nằm vào “lý thật tướng” này. Sở dĩ quyền năng tối
thượng
không phát huy tác dụng bởi tâm ta chứa quá nhiều rác, từ đó dồn tất cả
công việc vào trí nhớ. Có thể nêu thí dụ: ngày mai hoặc ngày kia ta phải làm
việc ấy, cứ sợ quên, thế là ép trí nhớ vận dụng công năng liên tục. Rốt cuộc
vẫn quên. Dĩ nhiên vẫn có trường hợp ta sực nhớ, song cuộc hẹn đã qua hoặc chưa
đến, tức nhỡ việc. Ngược lại, luôn biết xóa mọi thông tin để làm sạch tâm; đến lúc
nếu ta cần làm việc ấy việc kia vào thời điểm đó, chỉ cần phát thông tin rồi
“xóa” luôn, “không thèm nhớ nữa”, đúng thời điểm quyền năng tối thượng sẽ nhắc
ta một cách hoàn hảo! Lý này chính là nương vào cái không mà trụ. Cũng như ngài Huệ Năng khi nghe đến
“ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (nên sinh tâm mình vào nơi không có chỗ trụ)
liền hoát ngộ vậy. Thời hiện đạibác sĩ Hew Len đã “phát hiện” và chứng nhập
diệu lý thâm sâu trong kinh Phật này, và chính ông đã chữa lành rất nhiều bệnh
nhân chỉ với việc xóa [thông tin] căn bệnh của đối tượng khỏi tâm mình.

Không luyến tiếc thân
mạng
, song người tu phải gìn giữ thân mạng quý giá để có đủ thời gian hành trì
trước lúc quả đạo kịp chín. Biết gìn giữ thọ mạng của muôn loài chúng sanh
giữ thọ mạng cho chính mình… Gìn giữ thân mạng theo chánh pháp khác với những
người ngày nào cũng với ý nghĩ khám chữa bệnh, ngày nào cũng chọn lọc đồ ăn
thức uống quá cầu kỳ. Lời Phật dạy chưa dễ tin thì nay khoa học cũng chứng minh
được: người ăn chay luôn ít bệnh tật và minh mẫn hơn người ăn mặn. Ở đây chớ
nhầm lẫn: người lao động trí óc đơn thuần hay người tu tập cần ít năng lượng
lại ăn với chế độ của lực sĩ. Một tài liệu của Pháp được công bố cho hay, bệnh
ung thư cũng có thể chữa mà không cần thuốc. Chất bổ dưỡng như thịt bò, các
loại
cá thịt, sữa, đường… là thức ăn chính của con ung thư; chỉ cần người bệnh khước
từ những thứ đó, ăn thuần rau củ, thay sữa bằng sữa đậu nành, con ung thư không
thức ăn, sẽ tự diệt. Hay theo thực đơn Osawa. Gạo lứt phải ngâm trong nước
đúng 22 giờ rồi nấu, kiên trì ăn với muối mè sẽ lành bệnh như phép màu. Bây giờ
khoa học hiện đại đã phát hiện: đường là một thảm họa của nhân loại, phá hoại
não trạng và bại hoại thân thể. Loại chất độc này cũng như mì tinh đánh lừa vị
giác
, người tu những tưởng dần dần cũng nên giảm dùng ở mức tối đa, tiến tới
loại khỏi danh sách thực đơn. Bệnh xuất phát từ công việc đặc thù, từ sự tùy
tiện trong ăn uống, bệnh cũng xuất phát từ tâm đen tối mê mờ. Và đặc biệt quan
trọng là ý niệm lo sợ cái chết theo kiểu “tôi giàu có, tôi phải hưởng thụ, tôi
không thể chết khi còn quá nhiều tiền của”. Mỗi ý niệm sợ chết phóng ra, con vi
rút trong họ có nhiên liệu sống mãnh liệt hơn. Chỉ điều này thôi cũng cho thấy
Phật là một đại danh y. Nếu là đạo hữu cùng hiểu đạo lý thì chẳng sao (bởi khi
ta khai bệnh, họ sẽ biết xóa ngay thông tin đó); ngược lại với người không học
Phật, họ sẽ khắc chạm căn bệnh của ta vào não trạng, ngày nào cũng phát ý niệm:
“gay rồi, bệnh ấy nguy rồi, khó lành, khó qua khỏi rồi v.v”. Ta lo sợ, bệnh
càng nặng đã đành; hễ “khối u” trong ta nhiều “fan hâm mộ” nó càng có lý do để
tồn tại.

Mức độ xóa thông tin của
ta thuần thục, quyền năng tối thượng làm việc cực kỳ hiệu quả. Sự vui sự buồn
vừa ập đến liền như tảng băng ném vào lửa. Tâm trở lại bình lặng vốn dĩ. Trong bất cứ chúng sinh nào cũng đều có
chủng tử Phật, vĩnh viễn không tàn lụi dẫu trôi qua lục đạo vô lượng kiếp. Mác
đã đúng một phần trong câu mang tầm triết lý nhân sinh: “Bản chất con
người
là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Nhưng có hai điểm hạn chế lớn:
thứ nhất Mác chỉ bàn đến con người; quan trọng hơn, tổng hòa các mối quan hệ
hội
chỉ tạo nên tập tánh chứ không
phải bản tánh (bản chất). Bởi bản
chất
của chúng sanh muôn loài là tự tánh,
tức Phật tánh. Giống như một bãi đất trắng, sau một thời gian hội các nhân
duyên
như nước, gió, không khí, hạt giống v.v, sẽ tạo nên rừng cây rậm rạp đủ
loài, nhưng dưới lớp đất thênh thang kia vẫn chứa hạt giống Bồ đề. Người tu là
người biết phát quang tạp cây để hạt giống đó nẩy mầm tỏa bóng. Rừng cây kia
dẫu đổi được cả khối vàng song không bao giờ là bản chất; hạt giống Bồ đề mới
chính là xạ hương, là tinh hoa của con người. Ai những kiếp trước thiếu duyên
với Phật pháp kiếp này phải tận dụng Trí để nhận diện chân giả, bước về miền
sáng. Trí là chìa khóa mở ngôi nhà Phật pháp. Nhiều người cầm chìa khóa lại
chấp nó là ngôi nhà, cứ thế trang hoàng đánh bóng, mong người đời nhìn vào
ngưỡng mộ trầm trồ ngợi ca. Điều này chẳng khác mình trú trong thân tứ đại lại
ngỡ thân chính là… nhà. Đến lúc nhà cháy lao ra mới tròn mắt trước cảnh giới
tối sầm!

Chư Phật không thể xóa nghiệp như ông chủ
nào đó hào phóng xóa nợ cho kẻ bần cùng. Phật A Di Đà chỉ mở lượng hồng ân cho
phép
mỗi người gói ghém nghiệp cũ,
tinh tấn dụng tâm trì niệm hồng danh ngài phát đại nguyện lên Cực Lạc thế giới.
Nếu chúng ta không dụng tâm mà chỉ dùng miệng niệm Phật thì dẫu đến bạc tóc
đường về Tịnh độ vẫn là “quá khó quá khó”. Trở lại ví dụ ma. Ai đêm nằm một mình bỗng sợ ma, cứ thế ý niệm [sợ ma] mới
chồng lên ý niệm cũ, lúc mở mắt sẽ rùng mình trước con ma ngay trước mặt. Dẫu
sợ ma, người đó cứ bám vào câu Phật hiệu, lần theo từng chữ “Nam mô A Di Đà
Phật”, niệm chữ nào nghe rõ chữ đó, mọi cảnh giới xấu đều trở về không. Từ đây
mới thấu yếu chỉ của niệm Phật chính là nghe rõ câu mình niệm. Giữa đạo
tràng
hàng trăm người, ta vẫn điềm nhiên nghe lấy câu hồng danh [mình niệm] nối
nhau bất tận – đó là dùng tâm Phật niệm Phật; còn không dễ chừng rơi vào tình
trạng
lên giọng cho đúng tông và khi đó ta trở thành một “con hát” của dàn hợp
xướng trong lúc vọng niệm lôi tâm khắp hồng trần tạo ác. Biết lắng tâm và lắng
nhĩ căn lúc niệm Phật thì dẫu ta giữa chợ vẫn có thể điềm nhiên an lạc.

Ta Bà cõi tạm, như cái thang ải mục ta
đang đứng cheo leo và sẽ gãy đổ bất cứ lúc nào. Để có cớ gọi tên sự chứng ngộ phải bắt đầu từ việc niệm Phật tẩy xóa mọi ý
niệm
xấu ác khởi lên. Hãy dụng tâm niệm Phật để “sực nhớ” những kiếp
trước
ta từng với tay gần chạm vào Đức Phật, và bây giờ chùm nho nơi vườn Cực Lạc
đã không còn xanh nữa…

H.D