Lột Xác Và Tập Nghiệp Chúng Sinh

0
13

LỘT XÁC VÀ TẬP NGHIỆP CHÚNG SINH
Thích Đạt Ma Phổ Giác

Quyển
“Lột xác” chúng tôi đã viết khi xưa, nay có thời gian rà soát lại với lần tái bản
kỳ này, được đổi tựa là “Lột xác & Tập nghiệp chúng sinh”. Chúng tôi chỉnh sửa lại cho đầy đủ và bổ túc
thêm phần tập nghiệp chúng sinh, nói về một số nghiệp căn bản để mỗi người
chúng ta cùng tham khảo. Kính mong rằng, lần hội ngộ kỳ này sẽ thêm
cho ta nhiều đắn đo, suy nghĩ về tương
lai con người sẽ ra sao, bởi càng ngày càng có nhiều thói quen xấu có hại cho
người và vật. Chúng tôi xin chân thành bộc bạch, ghi lại
đôi dòng để quý Phật tử gần xa cùng biết mà đón đọc lại tác phẩm “Lột xác &
Tập nghiệp chúng sinh”.

 

PHẦN 1: QUẢNG ĐỜI NGHIỆP CHƯỚNG

THỜI THƠ ẤU

 Không biết kiếp trước tôi đã gieo tạo nghiệp nhân gì mà từ khi mở mắt
chào đời, tôi đã mang theo mình chứng bệnh nan y đau ban khỉ. Chính bởi căn bệnh
hiểm nghèo này mà tôi đã hành mẹ tôi vất vả, nhọc nhằn, khổ sở, khiến bà gầy
mòn
, ốm yếu, hao tâm, tổn lực vì lo lắng, chăm sóc cho tôi.

 Hồi đo, thân hình tôi ốm o, gầy gò như con khỉ khô, suốt ngày tôi chỉ nằm
trên đầu gối của mẹ. Cứ mỗi lần mẹ tôi di chuyển sang nơi khác thì tôi lại khóc
thét lên, tôi không bao giờ chịu rời khỏi vòng tay chăm sóc của bà. Phân của
tôi thải ra bảy ngày sau vẫn còn hôi thối, vậy mà mẹ v?n phải chịu đựng suốt cả
năm dài ròng rã.

 Theo lời mẹ tôi kể lại: ( hiện nay là tu sĩ Thích nữ chơn Huyền, đệ tử của
Hòa Thượng Thường Chiếu) Suốt cả một năm trời cứu chữa, nhưng cơn bệnh ban khỉ
của tôi không hề thuyên giảm m cịn n?ng hon. Các thầy thuốc đều bó tay bảo rằng
đứa bé này chỉ còn chờ chết, mẹ tôi nghe nói v?y chỉ biết ngày đêm cầu trời khấn
Phật cứu giúp mà thôi. Đang lúc mẹ tôi buồn rầu khổ đau trong tuyệt vọng không
biết phải làm sao để cứu tôi, thì một đêm bà nằm mộng thấy Bồ-Tát Quán Thế Âm
xuất hiện, tay cầm bình nước cam lồ đến vuốt đầu mẹ tôi và bảo rằng: “ Này tín
nữ! Chớ có lo buồn, sầu khổ hãy nhanh chân lên núi Bà Đen ở Tây Ninh sẽ có vị
thầy chữa khỏi”.

 Sáng ra, mẹ tôi mừng quá liền kể lại giấc chiêm bao cho cha tôi nghe. Vì
thương con nên cha mẹ tôi không quản ngại đường xá xa xôi lặn lội tìm đến nơi với
lòng tràn đầy hy vọng mong thầy cứu chữa. Gặp được thầy, sau khi bắt mạch, xem
bệnh cẩn thận, thầy nói với ba mẹ tôi rằng:

 Đứa bé này 95% coi như đã chết không thể cứu chữa được, chỉ còn chút hy
vọng
mỏng manh mà thôi. Mẹ tôi vừa khóc vừa nghẹn ngào kể lễ:

Thầy ơi ! con đến đây là niềm hy vọng cuối cùng.
Đời con thật là bất hạnh. Trăm lạy, ngàn lạy thầy, van xin thầy, mong thầy cứu
giúp cho con của con, đời đời kiếp kiếp con xin nhớ ơn thầy.

 Nhờ sự chăm sóc nhiệt tình của mẹ và thầy sau gần một tháng, bệnh tình của
tôi đã giảm, tôi được bình phục gần như trở lại hoàn toàn. Thật là nhiệm mầu và
k? di?u thay, tôi như người từ cõi chết trở về. Ơn cứu mạng của thầy, suốt cuộc
đời
tôi luôn ghi nhớ khắc sâu.

 Sau đó, ông bà nội lãnh nuôi tôi dùm để cha mẹ tôi về Gò Vấp lập nghiệp,
do hoàn cảnh nhà đông con và tôi là đứa con lớn nhất trong gia đình. Đến năm
1966, tôi đã có thêm ba đứa em và mẹ tôi đang mang thai, nên cha mẹ rước tôi về
Gò Vấp để giữ em. Hồi đó, chỗ tôi ở là nơi nổi tiếng đệ nhất ăn chơi của giới
giang hồxã hội đen, được sự bảo kê của quân lính chế độ củ, do Đực Cao Bồi
làm thủ lĩnh. Sau này anh ta bị tên đệ tử bắn chết.

 Nơi đây là tụ điểm của bốn món ăn chơi tứ đổ tường: cờ bạc, rượu chè,
hút chích, đĩ đếm, đủ các hạng mục từ thấp đến cao và nhiều hình thức khác. Tất
cả ân oán của giới giang hồ, phía nhà nước chế độ cũ không đủ khả năng giải quyết
được.

 Chỉ trong vòng hai năm, từ Bình Dương trở về Gò Vấp, tôi bắt đầu bị tiêm
nhiễm
bởi những thói hư tật xấu mà theo lẽ tuổi đời của tôi không thể nào dính
mắc. Mới tám, chín tuổi đầu mà tôi đã biết hút thuốc, uống rượu và cờ bạc rồi.
Thật đúng với câu:

 “ Gần mực thì đen, gần
đèn thì sáng.”

 Chỉ là một đứa trẻ còn trong tuổi thiếu nhi mà tôi đã sa đà vấp ngã quá
sớm như thế!

 Ngoài những buổi đến trường, thời gian còn lại tôi làm nhiệm vụ canh gác
cho các sòng bài. Được chút ít tiền công của các con bạc, tôi cùng những đứa trẻ
trong xóm xúm lại nhậu lai rai, chơi bài đủ kiểu, do biết các ngón nghề gian lận
học được của các anh chị. Ngoài ra tôi còn là một đứa bé rất ngang tàn, ngỗ nghịch.
Hễ tôi bước ra khỏi nhà là có người đến trách móc, không bị người này đến mắng
chửi
tôi là thứ đã ăn cắp, ăn trộm thì cũng cũng có người dẫn con đến bắt đền
vì bị tôi hiếp đáp, đánh đập. Cứ mỗi lần có người đến kêu ca như vậy, thì tôi lại
bị mẹ dùng cái dây xích chó xích chân tôi lại rồi khóa vào chân giường hay bàn
ghế. Như vậy, tôi vẫn chứng nào tật nấy không hề ngán sợ chút nào, hễ lúc nào mẹ
đi vắng thì tôi lại bẻ gãy cái ổ khóa rồi quấn luôn dây xích vào chân, để đi
chơi đầu trên xóm dưới.

 Là đứa con lì lợm nhất nhà, luôn cãi lời cha mẹ, nên tôi thường bị mẹ
đánh đòn nhừ tử. Có những lúc bị đòn roi đau đớn, tôi phải chui xuống gầm giường
trốn. Mẹ tôi tức quá lấy cây chọc vào người tôi không thương tiếc. Thế mà tôi vẫn
chứng nào tật ấy, không sửa đổi bản thân mình. Có lẽ do bị đòn roi quá nhiều,
nên tôi trở nên chai lì, không biết sợ sệt gì nữa.

 Năm tôi 13 tuổi, cha tôi bị bắt buộc đi lính trong đợt tổng động viên
năm 1972. Lúc này, ở nhà chỉ còn một mình mẹ phải lo chạy ăn cho tám anh em và
thăm nuôi cha tôi ở quân trường. Trước đó, mẹ tôi chỉ làm việc nội trợ, chăm
sóc chồng con, kinh tế trong gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào cha tôi. Giờ đây,
gánh nặng gia đình đè lên cả trên hai đôi vai gầy của mẹ tôi, bà phải thức
khuya
dậy sớm, buôn gánh bán bưng cực khổ sớm trưa để nuôi tám anh em chúng tôi
ăn học, vì là đứa con lớn nhất trong nhà nên tôi phải giúp mẹ buôn bán để kiếm
sống qua ngày.

 Lúc này kinh tế gia đình tôi rất khó khăn. Mặc dù mẹ tôi dã thức khuya,
dậy sớm, buôn gánh bán bưng, bươn chải nhiều cách nhưng vẫn không đủ nuôi tám
anh em chúng tôi. Thế là bao nhiêu của cải, vàng bạc mẹ tôi dành dụm trước ngày
đi lấy chồng, đều từ từ đội nón ra đi. Trước hoàn cảnh khó khăn đó, mẹ tôi đành
phải cắn răng nuốt lệ vào lòng, đồng ý cho một người Mỹ nhận hai đứa em tôi làm
con nuôi, để có được tiền trợ cấp hàng tháng.

 Trong lúc cuộc sống ngày càng khó khăn, thiếu thốn cơ cực như vậy, nhưng
tôi vẫn chứng nào tật ấy “ ngựa quen đường củ”. Vì thói quen đam mê cờ bạc,
tiêu xài hoang phí tôi đã tán tận lương tâm, lấy bớt phần lời kiếm được trong
việc mua bán của mẹ để vui chơi thỏa thích.

THUỞ TẬP TÀNH ĂN CHƠI

 Từ năm 13 tuổi đến năm 16 tuổi, tôi chính thức tham gia vào băng trộm
chuyên nghiệp nổi tiếng thời bấy giờ. Băng trộm này tung hoành ngang dọc khắp cả
Sài Gòn-Chợ Lớn, gồm có: Thọ chín ngón, Sơn trại hòm, Bửu sô lô, Ngọc giang mai
và Tuấn lúc ky v.v… hoạt động bằng nhiều hình thức như móc túi, giật đồ, vào
nhà dân lấy trộm hoặc khống chế công khai hoặc vào cửa tiệm để lừa đảo… tuy không phải là người trực tiếp hình sự,
nhưng tôi lãnh trách nhiệm chỉ điểm hoặc làm lá chắn cho đồng bọn thực hiện. Tiền
bạc và đồ đạc sau khi trộm cướp được, đều tiêu vào cờ bạc, rượu chè, đàng điếm.

 Cuộc sống tôi cứ kéo dài trong triền miên tội lỗi như vậy cho đến ngày
30 tháng 4 năm 1975, khi đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Lúc này chúng
tôi
đổi phương hướng hoạt động, vào các khu quân sự do nhà nước tiếp thu và bộ
đội quản lý. Trộm cắp ở khu quân sự này rất nguy hiểm, nếu bị phát hiện sẽ bị bắn
chết tại chỗ. Thế mà chúng tôi cũng không biết sợ sệt là gì. Tất cả chỉ vì mục
đích
có tiền để ăn chơi, hưởng thụ nên chúng tôi sẵn sàng hy sinh cả mạng sống
của mình. Lúc này tôi đã biết chút về hương vị của gái làng chơi.

 Khoảng tháng 3 năm 1976, nhà nước có chủ trương kêu gọi thanh niên đi
xây dựng vùng kinh tế mới ở các vùng ngoại ô thành phố. Tôi và một số đồng bọn
đăng kí tham gia vào tổ chức Thanh Niên Xung Phong. Trong đội ngũ Thanh Niên
Xung Phong, tôi luôn cố gắng phấn đấu gương mẫu học tập, lao động đi đầu trong
mọi công tác. Trong lao động học tập, rèn luyện đạo đức, tôi luôn thể hiện
người có phẩm chất nhân cách tốt, tích cực tham gia các phong trào văn, thể, mỹ
của đơn vị. Chỉ sau ba, bốn tháng siêng năng tinh cần làm việc gương mẫu, tôi
được kết nạp vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Và trong suốt thời gian
hai năm trời, tôi được bình chọn là đoàn viên ưu tú, được phong tặng là con
chim đầu đàn của đơn vị.

 Trong hai năm này, cuộc đời của tôi đã hoàn toàn thay đổi đến tột đỉnh
không thể ngờ được. Từ một con người ăn chơi sa đọa, gây ra nhiều lỗi lầm
nghiêm trọng, giờ đây trong từng phút, từng giây tôi đã tự cải hóa được bản
thân
mình. Tôi thầm cảm ơn chế độ đã giúp cho tôi gột rửa tội lỗi và làm lại cuộc
đời
, làm mới lại chính mình. Sau đó, đơn vị đề cử tôi đi học khóa bồi dưỡng đào
tạo
cán bộ ba tháng, rồi chuyển sang công tác tại trường Thanh Niên Xây Dựng Cuộc
Sống Mới phân hiệu Vĩnh An. Tại đây, tôi được phân công trông coi và giáo dưỡng
các thanh niên, thanh nữ xì ke, ma túy, mại dâm, đầu trộm đuôi cướp và nhiều
thành phần bất hảo khác trong xã hội.

 Trường Thanh Niên Xây Dựng Cuộc Sống Mới, do thành đoàn Thanh Niên Cộng
sản thành phố Hồ Chí Minh trực tiếp quản lýchỉ đạo. Trong đó có cựu thủ tướng
Võ Văn Kiệt, lúc ấyBí thư thành ủy, cùng nhiều cán bộ cao cấp khác chỉ đạo,
hướng dẫn, giúp đỡ. Nơi đây tôi được phụ trách nhiệm vụ đại đội phó bảo vệ nội
bộ tại phân hiệu Vĩnh An, tỉnh Đồng Nai. Cơ chế quản lý của trường gồm bốn địa
điểm: phân hiệu Xuyên Mộc, phân hiệu Vĩnh An, phân hiệu Duyên Hải, phân hiệu Lộc
Ninh, gồm có khoảng 10.000 học viên và hơn một ngàn cán bộ quản lý.

 Tưởng cuộc đời tôi đã hoàn toàn thay đổi tốt đẹp và vươn lên với cuộc sống
mới, nào ngờ khi có chút danh vọng, địa vị nhỏ nhoi như vậy thì tôi bắt đầu
sanh chứng ngựa quen đường cũ trở lại. Từ đó tôi sa ngã trở lại với quan niệm
sai lầm chết là hết, không có con người tâm linh, không có nhân quả nghiệp báo,
tốt xấu, không tội phước gì cả sống là phải hưởng thụ để chết làm ma ngáp ruồi.

 Chính vì quan niệm sai lầm như thế nên tôi lại một lần nữa lao thân vào
tội lỗi, bất kể là cha mẹ hay người thân, tôi vẫn đối xử thậm tệ, không biết
tôn trọng cung kính. Và thay vì quản lý, giáo dưỡng những con người tệ nạn xã hội
thì tôi bị họ lôi cuốn vào con đường sa đọa trở lại. Tôi đã lén lút theo họ hút
cần sa, dùng thuốc kích thích, rồi chích xì ke và bị mê mệt bởi các cô gái. Những
kinh nghiệm lão làng của các cô gái làng chơi sành điệu hiện là học viên của
trường đã làm tôi mê mẩn, tê tái cả tâm hồn. Tôi lao vào giống như con thiêu
thân bởi sức hấp dẫn của thói đam mê bệnh hoạn này. Tôi dần dần bị mất uy tín
và rồi bị mắc chứng bệnh xã hội lần thứ nhất.

 Từ đây tôi càng lún sâu vào tội lỗi. Thay vì thực hiện nhiệm vụ nhà trường
giao cho, tôi phải theo dõi đường dây xì ke ma túy lén lút đem vào cho trại
viên, tôi lại bị những người này mua chuộc và chính tôi là người tạo điều kiện
cho họ đem vô, cho con nghiện tiếp tục hút chích một cách dễ dàng. Mọi người
trong trường giáo dưỡng đều gọi tôi là cán bộ biến chất, đánh mất hết lương tâm
của người cán bộ. Đúng là tôi quá ngu si mê muội.

 Sau đó, nhà trường đổi tôi qua công tác đi trực tiếp các trạm kiểm soát
trên tỉnh Đồng Nai, như trạm kiểm soát cây số 86 Phú Cường – Dốc Mơ, trạm ngã
ba Dầu Giây để canh bắt những học viên trốn trại. Ngoài ra, chúng tôi còn bắt
giữ những ai bị nghi ngờ. Vì thế, tôi thường lạm dụng quyền hạn để bắt những cô
gái đẹp đi buôn bán hàng cấm hoặc hàng hóa không đủ chứng từ, không có giấy
đóng thuế v.v… nếu họ chịu “ cho và nhận”
thì sẽ được trả lại hàng hóa và còn được thêm một số quyền lợi khác.

 Trong thời gian từ 1978 đến 1979 tôi tha hồ nhiễu nhương, làm tình, làm
tội những người buôn hàng chuyến, vận chuyển hàng hóa qua các trạm này. Nếu tôi
làm đúng theo lời dạy của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh thì xã hội tốt đẹp
biết bao. Nhưng tôi đã làm ngược lại, thường xuyên nhận hối lộ của người đi
buôn, của những học viên trốn trại. Khi có tiền, chúng tôi tiêu dùng cả vào
vi?c vui choi trác táng. Vì lúc ấy, tôi có quyền sử dụng súng riêng nên tôi muốn
làm gì thì làm, không ai dám kêu ca hay khiếu n?i gì h?t.

 Lúc đó bản thân tôi rất háo thắng, c?ng cao ngã mạn chẳng xem ai ra gì.
Có đôi lúc đụng chạm với bộ đội. Họ bao vây, thế là tôi nã súng tứ phía giống
như đánh trận. Do thói quen ngông cuồng tôi hành xử rất liều lĩnh, không hề biết
sợ sệt khi lực lượng bộ đội Đoàn 600 đến bao vây bắt, mặc dù họ trang bị vũ khí
đầy đủ. Tôi là người bị bắt dù có súng trong tay, bị đưa lên xe trấn áp dưới sự
chứng kiến của rất nhiều người đi buôn.

 Vì tôi hay bao bọc che chở, ăn đút lót của người đi buôn nên những người
này đã tập trung lại xin thả tôi ra. Họ bảo lãnh tôi và nói tôi rất tốt, không
hà hiếp ai cả. Âu cũng là phước đức nhiều đời của tôi còn xót lại, nếu không
tôi cũng đã tan thân mất mạng, vì thời kỳ này là thời kỳ quân quản.

 Tháng 12 năm 1979 tôi xin nghỉ việc về nhà. Tháng 01 năm 1980, tôi được
vào làm Trưởng Ban bảo vệ đội xây dựng nhà đất quận Gò Vấp. Sau đó do yêu cầu của
Uỷ Ban Nhân Dân phường 7 quận Gò Vấp, họ mời tôi về để hợp tác làm việc và tôi
đã xin nghỉ việc ở quận để về phụ giúp công việc ở phường. Do bất đồng quan điểm
với địa phương, tôi bị đưa đi nghĩa vụ quân sự, học tập tại quân trường Quang
Trung. Mặc dầu trước đó tôi đã nhiều lần tình nguyện xin đi nhưng Ủy Ban Phường
không cho, nay vì đụng chạm nên họ đẩy tôi đi.

 Sau ba tháng huấn luyện ở Quang Trung, tôi về làm đơn khiếu nại với
do
bất mãn địa phương” với Ban chỉ huy quân sự quận Gò Vấp. Và tôi đã nhận được
quyết định bổ nhiệm công tác về làm Ban chỉ huy quân sự phường đội 7: nơi trước
đây tôi đã từng tranh chấp.

ĐẠI BÀNG TUNG CÁNH

 Về đây, tôi công khai phát triển sở trường của mình như tổ chức cờ bạc,
rượu chè, đàng điếm ngay trong cơ quan và tôi đã sống thỏa thích với những
tháng ngày trụy lạc. Lúc này tôi đã bỏ chích xì ke vì không đủ điều kiện đáp ứng,
còn những thứ khác vẫn cứ tiếp tục duy trì thoải mái.

 Vì “ thành tích” sắp sửa bại lộ nên tôi xin xuất ngũ để chuyển công tác
ra huyện Duyên Hải với lý do: “ mãn hạn nghĩa vụ quân sự 1980 – 1982”. Trong thời
gian
này tôi đã móc nối nhận hối lộ để làm giấy tờ miễn nghĩa vụ cho một số người.

 Tôi lại bị công an phường 7 quận Gò Vấp truy tố về tội môi giới nhận hối
lộ và bị đưa vào trại tạm giam quận Gò Vấp chờ ngày ra tòa. Nhưng nhờ quen biết
với công an có thẩm quyền nên tôi được đưa lên làm tù trưởng, được ra vào nơi
giam giữ một cách tự do. Tôi thường hay đi mua đồ giúp cho một số tù nhân, mỗi
lần mua như thế tôi thường tính giá cao để ăn lời. Ngoài ra tôi còn trấn lột những
tù nhân nhà giàu và móc nối để tiếp tế cho những phạm nhân xì ke.

 Thay vì hối cải, sửa đổi bản thân để quay về con đường lương thiện, tôi
lại tiếp tục lún sâu vào con đường tôi lỗi và tôi trở nên tàn nhẫn vô lương tâm
hơn. Mỗi tù nhân một tháng có tiêu chuẩn là nửa ký thịt, tôi lãnh về, chừa lại
một ít nấu qua loa một bữa, còn lại bao nhiêu đem bán hết rồi cùng chia với các
công an quản lý. Ngoài ra tôi còn cắt xén gạo của tù nhân đem bán để có tiền phục
vụ
cho thói hư tật xấu của mình.

 Không những thế, tôi còn khống chế các đại bàng cũ như Quý đen lai Tây,
Thống đại bàng và cuối cùng không còn ai là địch thủ đáng để tôi phải lo ngại nữa.
Do đó chúng tôi tuy sống trong tù mà cũng giống như ông hoàng, bà chúa, muốn gì
được đấy. Lúc này tôi bị bệnh xã hội lần thứ hai vì thường quan hệ bất chính với
nhiều đối tượng khác nhau.

TẠO DỰNG MÁI ẤM GIA ĐÌNH

 Sáu tháng tù trôi qua, tôi được bảo lãnh miễn truy tố ra tòa với tội
danh nhận hối lộ và môi giới hối lộ. Khi ra tù, tôi quyết định làm lại cuộc đời,
làm mới lại chính mình. Nhưng cầm tờ đơn xin việc làm, đi đến đâu cũng bị từ chối
lý do ở tù 6 tháng. Lý lịch đen đã làm cho tôi khổ đau, hận thù, bất mãn tột
cùng, nhưng biết làm sao bây giờ. Giờ muốn làm lại cuộc đời nhưng không có cơ hội.
Suy đi tính lại chỉ còn một kế sách duy nhấtđăng ký đi thanh niên xung
phong lần nữa, hy vọng bạn bè năm xưa có thể giúp đỡ.

 Từ năm 1983 đến 1989, nhờ môi trường cực khổ và khắc nghiệt đã làm hạn
chế
thú đam mê của tôi so với trước rất nhiều. Thời gian thanh niên xung phong
này không còn bao cấp như thời xưa, nên tôi liền đăng ký đi khai thác lồ ồ trên
khắp tỉnh Sông Bé ( do ba tỉnh Bình Dương, Phước Long, Bình Long gộp lại).

 Tại đây, tôi hay qua lại với một người con gái sau này là vợ tôi. Ngày
hôm đó tôi cùng nhậu với gia đình sau này là cha vợ của tôi, ví quá xỉn cho nên
tôi ngủ ở lại. Nữa đêm tỉnh dậy trong cơn nửa tỉnh, nửa mê tôi không làm chủ được
nên liền đến bên gường nàng ôm chầm lấy. Cha mẹ nàng hay mới bảo rằng:

 Nếu thương nó thì về bảo bố mẹ lên tao gả cho. Nghe vậy sáng hôm sau tôi
liền bay về Gò Vấp, gặp cha tôi đúng lúc ông đang nhậu với vài người bạn, nhưng
tôi cũng thật tình tranh thủ thưa thiệt:

 Ba ơi, đi hỏi vợ cho con.

 Ba tôi bảo:

 Thôi để bữa khác đi, hôm nay ba đang nhậu với các chú bác của con.

 Tôi năn nỉ ba tôi mãi mà không được, ba hỏi vợ cho con đi ba. Ba hãy
tranh thủ sắp xếp đi liền nha ba. “ cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày
lắm kẻ dèm pha.” Được mấy người bạn của ba tôi nói thêm vào, bất đắc dĩ lắm ba
tôi mới chịu đi. Tôi và một người bạn của ba tôi lên đường liền và nhờ thủ trưởng
đơn vị của tôi đứng ra mai mối, làm lễ trầu cao, chờ ngày thành hôn theo kiểu tổ
chức lễ cưới tập thể. Cuộc tình của tôi là như thế đó! Không trãi qua thời gian
tìm hiểu, chỉ vì chút sỉn say mà nên duyên chồng vợ.

 Khi chưa cưới vợ thì tôi làm việc còn có tiền ra tiền vô, nhưng sau khi
dạm hỏi rồi chờ sáu tháng sau cưới thì tôi lại không làm ra tiền. Suy nghĩ mãi
cũng không biết làm thế nào để có tiền cưới vợ, vì ngày cưới đã sắp đến gần
bên. Không biết xoay xở cách nào để có tiền tổ chức lễ cưới, suy nghĩ mãi mà vẫn
bế tắc, tôi nảy sinh ý định tự tử để khỏi mất mặt với bạn bè và không cần biết
sẽ để lại khổ đau cho gia đình tôi, như thế nào. Thật là ngu xuẩn và hèn mạc,
khi nghĩ rằng chết là hết, là giải quyết xong được tất cả mọi việc.

 Thế là tôi lấy khoảng 20 viên ký ninh, dùng để trị sốt rét uống vào một
lúc, rồi ăn một đĩa mì xào và nhảy xuống sông cho mau chết.

Duyên nợ chưa hết, tôi chưa chết được, mọi
người
cứu kịp thời và đưa tôi vào trạm xá súc ruột. Tôi may mắn thoát chết qua
đường tơ kẽ tóc, nhưng khi tỉnh dậy, cặp mắt đã bị mù. Ba ngày sau mắt tôi từ từ
sáng lại, nhưng bị mờ vì đồng tử đã giản nở. Sau đó để lại di chứng quáng gà nặng,
không làm chủ được sự đi lại, bị mất phương hướng khi trời về chiều.

 Thấy tôi tự tử được cứu sống, anh thủ trưởng thương tình cho mấy bao
phân bón để bán lấy tiền cưới vợ, cha mẹ cho tiền mua trang sức và vốn liếng.
Đám cưới được tổ chức trùng ngày đám giỗ ông nội vợ cho tiện, một công hai việc.
Bạn bè Thanh Niên Xung Phong của tôi đến dự khá đông.

 Lúc bấy giờ, tôi được làm trợ lý khai thác cho thủ trưởng mới. Sếp này rất
tin tưởng nên giao hết quyền hành điều phối, sắp xếp các công việc khai thác lồ
ồ trên tỉnh Sông Bé. Tôi được cắp một cây súng AK cùng chiếc xe jeep lùn của Mỹ
để làm phương tiện bảo vệ đơn vị.

 Hạnh phúc đến với tôi, nhưng tôi không biết gìn giữ. Chứng nào tật nấy,
tôi tiếp tục sa ngã trên con đường tội lỗi, rượu chè, bài bạc, đàng điếm nên cuối
cùng
thâm lạm tiền nuôi quân khai thác. Trong một lần thua cờ bạc, không có tiền
chung, tôi đành thế lại khẩu súng và sau đó bỏ trốn về nhà vợ sinh sống.

 Hai tháng sau, ban bảo vệ nông trường Nhị Xuân Thanh Niên Xung Phong mới
phối hợp với công an xã Mỹ Hạnh Bắc Huyện Đức Hòa Tỉnh Long An đến bắt tôi với
tội danh làm mất súng và bỏ trốn. Tôi dẫn ban bảo vệ lên xã Minh Hưng Tỉnh Bình
Phước để chuộc lại súng và làm tờ tường trình kiểm điểm. Thế là thủ trưởng đơn
vị
 đồng ý cho qua hết và bãi nại cho tôi
về nhà sống với vợ con, không một lời oán trách. Thật là may mắn cho tôi quá chừng.
Sau này tôi được biết anh thủ trưởng đã bị tù 10 năm, vì không có khả năng chi
trả các khoản nợ cho nhà nước.

 Khoảng 10 năm, sau khi đi tu, tôi có ghé lại thăm anh để trình bày và hối
lỗi
về việc trước đây tôi cũng có thâm lạm chút ít tiền quỹ của đơn vị mà anh
đã thông cảm bỏ qua. Nhưng đến nơi, mới biết anh đã bán sạch hết nhà cửa và đi
đâu, không ai biết? Tôi ăn nănhối hận vô cùng đối với hành động vô trách của
mình trước kia đã làm cho anh liên lụy. Tội lỗi này tôi không biết trả làm sao
đây, chỉ mong làm thật nhiều công đức để cầu nguyện trên chư Phật gia hộ cho
gia đình anh được tai qua nạn khỏi.

Phật giáng trần gõ cửa vô minh

Chỉ đường giải thoát chúng sinh ta bà.
(Chính Trung)

 Đó chỉ là một chút việc nhỏ nhoi mà tôi có thể làm được với vị cứu tinh
của đời mình khi xưa.

 Đứa con đầu lòng của tôi ra đời, nhưng cũng đồng thời là lúc tôi bế tắc
nhiều chuyện, đời sống kinh tế gia đình ngày càng thiếu thốn, khó khăn thậm chí
đến cái quần xà lỏn tôi cũng không có mặc. Tôi bỏ quê vợ và chở đứa con đi theo
trên chiếc xe đạp trành không có vè, trông túi không có lấy một xu nhỏ. Trên đường
đi về nhà con tôi đói khóc đòi ăn khi thấy hàng quán bày biện bên lề đường, tôi
nghẹn ngào rơi nước mắt nhìn con mà không biết làm sao. Tôi an ủi con mình,
thôi ráng đi con gần đến nhà ông bà nội rồi con tha hồ muốn ăn gì cũng được.
Ngày hôm sau cha mẹ cùng chú bác vợ và vợ tôi, xuống bắt con về trở lại. Tôi tự
ái
, ở lại nhà cha mẹ ruột sống và đứng ra làm chủ một lò bánh mì.

NGỰA QUEN ĐƯỜNG CŨ

 Cũng chứng nào tật nấy. Đêm thì làm bánh mì, ngày thì cờ bạc, đàng điếm
hậu quảvỡ nợ. Mẹ tôi thấy vậy, mới khuyên tôi nên rước vợ con về đây
cùng ở để tiện bề chăm sóc. Tôi xin lỗi cha mẹ vợ, dẫn vợ và con về sống chung.
Thế là một đứa con nữa lại ra đời. Vợ tôi trở lại quê nhà sanh đứa con thứ hai,
sau khi đầy tháng tôi có về thăm một lần rồi từ đó không bao giờ trở về nữa. Vì
lý do sa sút, cờ bạc, rượu chè nên tán gia bại sản, vỡ nợ và bị chủ nợ siết lò
bánh mì. Tôi không còn khả năng nuôi vợ và hai đứa con nữa, nên đành bỏ nhà ra
đi lang thang bụi đời, tìm kế sinh nhai.

 Từ đó, cuộc sống của tôi ngày càng trở nên bế tắc, khó khăn tôi sống bất
cần đời, không biết ngày mai. Thế là tôi bị bệnh xã hội lần thứ ba do đam mê
trác táng.

 Lúc này, tôi sống quanh quẩn khu vực bệnh viện nhi đồng 2 quận 1. Vẫn cờ
bạc, rượu chè, đàng điếm như xưa, tôi nói gạt mẹ, cho tiền mua xích lô chạy,
nhưng thực tế tôi lấy tiền đó đi đánh bài và chơi số đề. Nơi đây tôi bắt đầu
làm quen với Hùng Sài Gòn, Mỹ Trường Gà, Dũng Tây Đen và những tay đâm thuê,
chém mướn là đàn em của Năm Cam. Do ăn chơi, tiêu xài quá mức nên dẫn đến vỡ nợ
không có tiền chi trả. Cuối cùng tôi bỏ trốn về nhà định tự tử lần nữa để cho
xong kiếp thân tàn ma dại.

 Trong khoảng thời gian lưu lạc giang hồ, tôi đụng độ nhiều trận khóc liệt
như sau:

 Bởi vì đam mê nhậu nhẹt, nên có lần tôi cùng hai người bạn nhậu xỉn ngà
ngà. Thấy bàn bên cạnh có mười mấy người công an cũng đang nhậu. Bọn tôi liền
kiếm chuyện gây sự, chửi mắng. Thế là bị họ đánh cho một trận tơi bời. Bởi họ
đông hơn nên bọn tôi phải chịu thua, bỏ chạy thục mạng. Nếu không sẽ bị họ bắt
nhốt luôn. Sau đó bọn tôi phục trên đường đi về, dùng cây ba phân vuông để đánh
trả thù.

 Đêm đó từ phía sau, chúng tôi đã đập mạnh vào ót của một anh công an.
Anh ta bất tỉnh nằm tại chỗ, chúng tôi hoảng quá chạy về trốn trong bụi tre gần
sau nhà. Thật là tày trời, dám đánh cả công an. Sau đó các công an đem súng xuống
khám xét hết nhà tôi và truy quét quanh nhà. Tôi nằm trong bụi tre nghe rõ ràng
tiếng lên đạn của nhiều cây súng AK và những âm thanh hằn học dọa nạt cha mẹ tôi,
buộc phải tìm ra tôi và hai đứa bạn, nếu không sẽ đốt sạch nhà.

 Khoảng chừng ba bốn giờ sáng cha tôi ra tìm, biểu tôi phải đi lên đơn vị
gấp vì lúc đó tôi vẫn còn là Thanh Niên Xung Phong. Cha của một người bạn tôi
nhờ có quen cấp lớn, nên đã dàn xếp mọi chuyện đều ổn thỏa, nhưng vẫn phải bồi
thường
tiền cho người bị đánh. 

 Cũng trong ngày đó, tôi trở về đơn vị đóng tại Phú Riềng Đỏ, Bình Phước.
Khi xe vừa chạy tới chợ Phú Riềng, tôi gặp anh đại đội phó va thế là hai anh em
sáp vô nhậu cho đến ngà ngà say. Trên đường đi về đơn vị gặp ba thanh niên cũng
đã say, chở nhau trên chiếc honda. Chúng kiếm chuyện gây sự với chúng tôi. Anh
đại đội phó sẵn có cây rựa trên tay, nên chém chúng để thị uy, chúng bị thương nhẹ nên hoảng hồn rồ máy xe bỏ chạy. Chỉcòn một cây số nữa là tới đơn vị, bỗng tôi thấy nơi mé rừng thấp thoáng có nhiều
đốm lửa của ngu?i hút thuốc nên bèn sinh nghi, tôi đề phòng và đi tránh xa hướng
có tàn lửa chập chờn đó. Nhưng vẫn không sao tránh được, vì chúng có ba người,
cầm cây sẵn chỉ chờ chúng tôi đi đến là ra tay trả thù. Tôi lanh lợi nên chạy
thoát
, còn anh đội phó không may, bị chúng đánh cho tơi bời nhừ tử. Đánh xong
chúng bỏ đi. Tôi nhanh chân chạy về đơn vị cầu cứu và chở anh bạn đi cấp cứu.
Đúng là nhân quả hiện tiền trước mắt.

Thiện ác cuối cùng đều có báo

Cao bay xa chạy cũng khó toàn.

 Một lần khác, tôi bị tên giang hồ Quang Đệ, là đàn anh tại khu vực Hồ
Con Rùa, quận 1, chuyên chích xì ke, lúc nào cũng kiếm chuyện ăn hiếp tôi. Nhiều
lần như vậy, tôi đã trình báo với công an địa phương để nhờ giải quyết dùm
nhưng không hiệu quả. Một người có thớ như hắn thì làm gì mà không biết cách
mua chuộc công an! Hắn ăn chia với công an, nên tôi không làm gì được. Đành chịu
vậy bởi vì xung quanh tên này có rất nhiều anh hùng hảo hán. Tôi mà đụng đến chỉ
có nước chết mà thôi.

 Tức tối dưới sự đàn áp của hắn, tôi bèn bàn kế với mấy anh em bạn nhậu
làm thế nào để hạ thủ tên này. Và đây cũng là năm cuối cùng trước khi tôi đi
tu.

 Có một đứa trong bọn tôi nói rằng: Đâu có chuyện gì là khó, nếu muốn
thanh toán hắn thì cũng dễ dàng thôi. Anh nhờ tên Chính già trở đi, anh ngồi
phía sau mã tấu sẵn sàng, canh nó ngồi ở đâu rồi chạy đến chém liền và lập tức
tẩu thoát. Ta hành động trong chớp nhoáng như vậy làm sao nó trở tay cho kịp.
Trong lúc bàn bạc như thế vô tình cha tôi nghe được, ông liền bảo:

 Nếu mày giết người mà làm được tổng thống thì nên giết, còn không thì
thôi.

 Lời
nói
của cha tôi khiến tôi thức tỉnh, hoàn hồn trở lại và bỏ ý định giết người.
Quả thậtmay mắn cho chúng tôi, nếu không nhờ có người cha khuyên can thì chắc
chắn
giờ đây tôi còn nằm trong tù gỡ lịch. Một khi thân phận con người bị chìm
trong bóng tối của tội lỗi, chỉ có hận thùđau khổ chiếm hết cuộc đời, tôi
làm sao có cơ hội làm mới lại chính mình, để ngày hôm nay chia sẻ tâm tình cùng
với anh em bạn hữu gần xa.

 Cha ơi! Con xin cảm ơn cha đã kịp thời ngăn chặn tội ác tày trời và cho
con có cơ hội làm mới lại chính mình, để con được sống tốt hơn, sống có ích cho
xã hội và chia sẻ nỗi khổ niềm đau để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh cho tất cả mọi
người
.

 Còn nhiều chuyện khác còn tệ hại hơn nữa, nhưng chúng tôi xin tạm gác
qua để trở lại vấn đề ban nãy, khi tôi bị vỡ nợ và có ý định tự tử lần thứ hai.

 Lúc đó, tự nghiệm lại bản thân, tôi thấy mình sống thật dư thừa, chưa từng
giúp ích gì cho ai kể cả là cha mẹ. Tôi chỉ toàn gây ra phiền muộn đau khổ đau
cho nhiều người và chắc chắn không một ai đoái hoài, thương xót đến một thằng
ngang tàng bướng bỉnh như tôi. Miên man với những suy nghĩ chán chường trong
tuyệt vọng, tôi quyết định tự tử để chối bỏ cuộc sống.

HỒI SINH

 Đã quyết định như thế, nhưng tôi vẫn chưa kịp thực hiện ý nghĩ điên rồ
đó. Một đêm nọ, tôi đói quá bèn tìm đến chỗ mẹ bán cháo ngoài chợ để giã từ mẹ.
Không ngờ đây là một đêm làm thay đổi cuộc đời của tôi sau này. Trong lúc tôi
đang ăn cháo thì mẹ tôi bảo:

 Con đi tu đi con ơi! Đi tu sướng lắm con à.

Tôi cãi lại:

 Đi tu làm sao sướng, đi tu khổ thấy bà.

 Tuy miệng nói như vậy, nhưng một ý nghĩ khác lại len lỏi trong tôi có
nên đi tu không, hay là phải tự tử? Tôi nhớ lại lần tự tử trước khi lấy vợ, tôi
liền tự nhủ với lòng mình “ tội gì phải tự tử, đi tu đi rồi tính sao ” và tôi
đã chấp nhận làm theo lời khuyên của mẹ.

 Tôi bắt đầu tập tành tu tại gia. Nhờ sự hỗ trợ của mẹ và các em, tôi có
đủ tiền tiêu mỗi ngày. Về sau tôi bắt đầu ăn chay luôn nhưng vẫn uống rượu với
mồi chay như đậu phộng, cóc, ổi…

 Nhìn lại quãng đời từ thuở ấu thơ cho tới bây giờ, tôi đã tạo ra không
biết bao nhiêu tội lỗi như là nói láo, làm nhục gia cang, lường gạt, cờ bạc, rượu
chè, đàng điếm… nói chung bốn món “ tứ đổ tường” tôi không thiếu món nào. Bao
nhiêu đồ đạc, của cải trong nhà, tôi đều vơ vét đem bán hết; thậm chí đến những
cuốn sách đi học của các em, tôi cũng không chừa. Tới mức gạo để trong nhà tôi
cũng bán sạch. Mỗi khi cần tiền thì tôi xin, xin riết không cho thì tôi mượn,
mượn rồi thì không trả.

 Đối với nợ nần bên ngoài, tôi đã vay mượn của ai thì không bao giờ trả.
Mẹ tôi biết được liền lén giấu ba tôi trả hết. Lúc nào nói chuyện với mẹ, tôi
cũng văng tục, chửi thề.

 Tôi đã lường gạt mẹ tôi nhiều cách, nào là lấy vàng để vượt biên, nhưng
thực sự tôi có vượt biên bao giờ đâu, hoặc cần vốn làm ăn, nhưng đâu có làm gì.
Khi nào túng quá mà mẹ tôi không cho tôi tìm cách ăn cắp.

 Cho đến khi tôi vào Thiền Viện tu rồi mà vẫn còn làm khổ bà. Suốt chín
năm trời, tháng nào bà cũng lên Thiền Viện thăm tôi và còn cho tôi tiền mua
kinh sách để làm các việc phước thiện. Bởi bà sợ tôi không chịu ở chùa tu học,
mà bỏ trốn ra sống bên ngoài.

 Không chỉ đối với mẹ, đối với cha, tôi cũng là đứa con bất hiếu. Người đời
ví ơn cha cao vời vợi như núi Thái Sơn. Còn tôi trả ơn cha bằng những lời chửi
mắng thô tục. Thậm chí tôi có thể đánh ông khi có rượu vào. Những lúc như vậy
ông thường kể lễ:

 Nếu tao không cứu mày hồi nhỏ thì mày đã chết rồi, bây giờ mày trả ơn
tao bằng cách đó sao?

 Tôi trả đũa:

 Tại ông đam mê ân ái mới có tui ngày hôm nay, ông phải có trách nhiệm lo
cho tôi chớ!

 Thật là một đứa con đại bất hiếu. Rồi thời gian trôi qua, thân thể của
cha tôi ngày càng hao mòn do bị bệnh lao phổi phải nằm bệnh viện điều trị lâu
dài
. Ấy thế mà, tôi chưa một lần vào thăm viếng cha, mặc dù mẹ tôi thường nhắc
nhỡ khuyên bảo tôi đi thăm. Chẳng hiểu lúc đó tôi có còn là con người hay không
mà không có tình thương đối với cha như thế ? Tôi thật bất nhân, bất nghĩa quá
chừng
.

Chẳng những gạt cha mẹ, tôi còn gạt luôn
người em là một thầy tu. Tôi nhờ thầy mượn giùm cho tôi mấy chỉ vàng rồi tôi
không trả, khiến thầy phải bị mang tiếng lường gạt mấy năm liền. Sau đó thầy phải
nhín ăn, bớt mặc mới trả hết số nợ ấy cho tôi.

Trở lại thời gian tôi chuẩn bị đi tu nhưng
còn nghiện nặng cờ bạc, hút chích, đàng điếm. Làm sao vượt qua mọi cám dỗ để đi
tu đây?

 Cuối
cùng
tôi quyết định rũ sạch bụi trần trước khi bước chân vào cửa thiền môn.

VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH

Đứng trước những cám dỗ của khoái lạc, một
con nghiện như tôi, muốn dứt bỏ hẳn đâu phải là chuyện dễ dàng. Vật vã gần 2
tháng trời, tôi cũng chỉ bỏ được phân nửa, tưởng chừng không thể nào qua nỗi.
Nhưng tôi đã vượt qua khỏi cơn vật vã dài hạn một cách lạ lùng. Hằng ngày tôi
như người mất hồn, ăn không được, ngủ không được, trong người luôn thèm khát
dượi
, bần thần, khốn khổ vô cùng. Để khống chế cơn nghiện, ban ngày tôi phải ra
bàn bida ngồi xem cho đỡ cơn ghiền, ban đêm ngồi xem tivi để khỏa lấp cơn thèm
khát
vật vã.

 Chấp
nhận
như vậy, gần 3 tháng mới vượt qua được. Khi chịu đựng cơn thèm khát của
thói quen, sự hành hạ của thân thể, cảm giác trong tôi như có hàng ngàn con kiến
đang tung hoành, thật không biết phải dùng ngôn từ nào để diễn tả cho hết. Ngày
nay trong các trung tâm cay nghiện, có nhiều phương pháp để giúp cho học viên
vượt qua nhanh hơn, chỉ trong vòng 10 ngày là có thể cắt cơn nghiện theo lời
thuyết trình của cán bộ quản giáo mà tôi có dịp tiếp xúc.

Ngoài việc mẹ tôi hết lời động viên khuyên
nhủ đi tu, trong nhà còn có một người em đi tu nay là Thượng tọa Thích Nhật Từ
được mọi người quý kính và tôn trọng. Sau khi vượt qua cơn vật vã tôi quyết tâm
xuất gia đầu Phật. Cho đến bây giờ nhà tôi đã xuất gia cả thảy năm người, trong
đó có mẹ tôi. Được như vậy là nhờ nhân duyên có thầy Nhật Từ đi tu trước. Nhưng
khi đi tu tôi chưa biết gì về Phật pháp, chỉ vì cảm thương mẹ chứ không phải đi
tu vì lý tưởng giác ngộ, giải thoát.

 Rời
xa đô thị, bỏ lại sau lưng dĩ vãng đen tối, tôi chọn vùng thôn quê hẻo lánh, có
đời sống tự túc và phải tu thiền, trong khi đó tôi không biết tu thiền là gì!

Sau khi nhận giấy giới thiệu của thầy Nhật
Từ, rồi nhờ thầy Thiện Long là sư huynh của thầy, cùng mẹ tôi đến Thiền Viện
Thường Chiếu xin công quả dài hạn. Tôi đã xin giấy tạm vắng và may sẳn hai bộ đồ
lam, để khỏi quay trở về nhà.

Một đi không trở lại

Hai đi không quay về

Ba đi vì quyết chí

Bốn đi đổi cuộc đời.

PHẦN 2: QUAY VỀ BỜ GIÁC

GIÁC NGỘ

 “
Như một đứa con lạc loài sau những tháng năm phiêu lãng tìm lại mái nhà xưa,
con trở về với tấm thân tàn, ma dại. Tâm trí con đã lấm đầy bùn đen cùng thấm
thía những nỗi khổ niềm đau trong tuyệt vọng. Nhớ lại lỗi lầm từng làm khổ cha
mẹ
, tội lỗi vút ngàn làm sao con kể hết. Hôm nay con trở về xin chư Phật một
lòng thương xót cho đứa con bất hiếu. Con nguyện từ nay lìa bỏ những thói hư tật
xấu, nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa.

 Tiếng chuông chùa rung động đã dắt thần thức con lần về Thiền Viện Thường
Chiếu
. Lạy Phật Tổ xin soi đường dẫn bước, cho con được gặp ân sư khai tâm mở
trí, lòng ngập tràn nỗi niềm sám hối ăn năn”.

Phật giáng trần gõ cửa vô minh

Chỉ đường giải thoát chúng sinh ta bà.

 Bước chân dừng trước cổng Thiền Viện Thường Chiếu, lòng bình yên hạnh
phúc
như trở về dòng sông quê êm đềm như tôi đã từng ở đây tự thuở nào, tâm tôi
liền phát sinh niềm phấn khởi vô biên.

 Sau đó chúng tôi đến nơi thầy trụ trì Thiền viện Thường Chiếu. Chỉ một
mình
tôi trực tiếp xin nên sư phụ không nhận, mặc dầu tôi đã nhiều lần năn nỉ.
Sư phụ hướng dẫn tôi đến gặp sư ông Trúc Lâm để xin, nhưng sư ông cũng không chấp
nhận. Cuối cùng, tôi đến gặp vị phó trụ trì là thầy Thông Hạnh nhưng cũng không
được giải quyết. Mẹ tôi nản lòng nên nói rằng:

 Nếu quý thầy không chấp nhận, thôi thì con hãy về xin các chùa ở thành
phố mà tu. 

 Tôi kiên quyết nói với mẹ, thôi mẹ về đi. Nếu quý thầy không cho thì con
nằm vạ đến chết luôn ở đây.

 May sao, sau hai lần tha thiết trình bày nữa, tôi đã được sư phụ Thường
Chiếu
chấp nhận và được đưa vào nhà khách để tập sự công quả.

BƯỚC ĐẦU TU TẬP

 Ở
đây tiêu chuẩn bắt buộc phải tập ngồi thiền theo tư thế kiết già, trong khi đó
tôi ngồi bán già còn không được, huống chi ngồi kiết già. Phải trải qua 3 tháng
thực tập nhưng tôi ngồi kiết già chỉ được một, hai phút là cùng. Phải mất 3 năm
sau tôi mới ngồi được một tiếng đồng hồ.

 Thời khoá tu rất chặt chẽ, từ 3 giờ khuya ngồi thiền đến 5 giờ sáng, ban
ngày phải lao tác, làm vi?c có khi phải làm cả ngày lẫn đêm mới xong việc, nhất
là khi Thiền Viện vào những đợt trùng tu. Tối, sau một giờ sám hối thì tiếp tục
ngồi thiền một tiếng rưỡi.

 Ngồi thiền rất khó, nhiều khi chúng tôi suy nghĩ thà làm việc cả ngày
còn sướng hơn ngồi thiền. Thời gian công quả của tôi phải trải qua một năm sau
mới được sư phụ cho xuất gia.

 Sau khi xuất gia một thời gian, được nghe lời giảng dạy của thầy, lúc bấy
giờ tôi mới nhận chân rằng:

Được sinh làm người rất khó

Giữ được thân lại khó gấp vạn phần.

 Sự quý giá của thân người tương tự như con rùa mù bị trôi giạt trên biển
cả, một trăm năm mới tìm được một bọng cây.

 Không ngờ hơn nửa đời người, vì hiểu biết sai lầm mà tôi đã làm tổn hại
không biết bao nhiêu người, nhất là cha mẹ tôi. Than ôi!kiến chấp sai lầm
cho rằng, chết là hết, không nhân quả, không tội phước, không có kiếp tái sanh,
nên tôi tha hồ làm điều ác, sống trên sự đau khổ của nhiều người khác, mua một
bán mười, đủ mánh khóe gian manh, lừa đảo, mượn nợ không trả, chỉ mong sao thỏa
mãn
sở thích của mình mà thôi chớ nào biết:

Phước họa
do ta tạo lấy

Nhân quả theo ta như
bóng với hình.

 Nhờ gặp được Tam Bảo, gặp được minh sư chân chánh, gặp được thầy lành bạn
tốt nên tôi đã dần hồi thay đổi và chuyển hóa được những thói hư tật xấu ngày
càng thuyên giảm được nhiều.

 Đến nay, tôi đã trải qua 12 lần nhập thất tu tập. Thiền viện Thường Chiếu
là nơi đạo trên một ngàn Tăng ni, đã cho tôi nhiều bài học quý giá của cuộc đời.
Khó có thể tin được rằng, một con người sa đọa, không nhân cách, không phẩm chất,
tội lỗi đến tận cùng như tôi, giờ đây đã được cải hóa, đã được hoàn lương và
thay hình đổi dạng một cách kì diệu. Nhưng đây là một sự thật, là sự nhiệm mầu
của Phật pháp đã giúp cho tôi làm mới lại chính mình bằng trái tim yêu thương
hiểu biết. Nếu khôngPhật pháp làm gì cứu được đời tôi như ngày hôm nay.

 Sau khi xuất gia được 1 năm, theo lời yêu cầu của bản thân, tôi được thầy
cho phép nhập thất để nhìn lại chính mình.

NHẬP THẤT

 Nhập thất là cửa phương tiện để mỗi hành giả tự nhìn lại chính mình mà
biết cách chuyển hóa những phiền não khổ đau, thành an vui hạnh phúccuối
cùng
đạt được trạng thái tâm thanh tịnh sáng suốt, và tự tại giải thoát.

 Về phương diện hình thức như ở Thiền Viện Thường Chiếu hiện nay có 22
cái thất để quý thầy thay phiên nhập thất. Thiền sinh mới chưa đủ khả năng nhập
lâu dài thì phát tâm nhập từ một tuần đến ba tuần, chúng bình thường thì nhập
49 ngày, ba tháng, sáu tháng hoặc một năm. Khi nhập thất mỗi thiền sinh chỉ một
việc buông xả tất cả mọi vọng niệm, cho dù đó là niệm Phật. Mỗi thiền sinh
không được qua lại thất kế bên để trò chuyện, không được bỏ ra ngoài trong suốt
thời gian tu tập, chuyện cơm nước đã có các huynh đệ hỗ trợ hàng ngày nên không
phải bận tâm, lo lắng.

 Về phương diện hành trì: Nhập thất giúp cho mỗi thiền sinh có cơ hội
nhìn lại chính mình, thấy rõ từng tâm niệm thiện ác, tốt xấu, đúng sai mà không
theo chúng thì tự động những vọng niệm ấy sẽ tan hòa vào hư không. Mỗi thiền
sinh
chỉ kiên trì bền bỉ làm một việc như thế nhìn rõ từng vọng niệm của mình,
nó như thế nào, biết rõ như thế đó không cần xua đuổi thì tự động nó lặng và cứ
như thế cho đến khi nào sạch vọng niệm mà vẫn thường biết rõ ràng thì đồng với
chư Phật. 

 Lần đầu tiên chúng tôi xin được nhập thất hai tháng là kỷ niệm không thể
nào quên được, trong cuộc đời tu tập của chúng tôi. Tại sao vậy? Vì trong hai
tháng này tôi luôn sống trong cảnh giới lõa thể, thức cũng như ngủ đều thấy như
vậy, không cách nào kềm hãm được, không cách nào hóa giải được, nó thôi thúc
trào dâng như dòng thác đổ. Thật là trăm khó, ngàn khó, vạn khó! Nếu không đủ sức
chịu đựng thì phạm giới thủ dâm, không chịu nổi thì phải bể thất. Theo kinh
nghiệm
của các thầy đi trước cho biết, nếu để bể thất lần đầu tiên, thì lần sau
khó bề nhập thất trở lại. Biết làm sao đây? Nếu không hóa giải được thì sẽ bị tẩu
hỏa nhập ma, bởi ở trong thất khôngtiếp xúc với ngoại cảnh, cho nên bao
nhiêu chuyện đã qua trong cuộc đời đều tái hiện rõ ràng như người cầm trái xoài
trên tay.

 Lúc này tiến cũng không được mà lùi cũng không xong, bước tới thì sa hầm
sụp hố, đứng lại thì thịt nát, xương tan.

 Nhớ lại lời Phật dạy, phải quán thân bất tịnh. Nghĩa là quán thân thể
con người dù xấu hay đẹp cách mấy, dù xuất thân từ hạng bậc nào trong xã hội
cũng chỉ là một cái nghĩa trang chứa đầy những rác rưởi hôi thối bên trong.
Mình ăn các loài động vật như chim trời, cá nước, thú rừng, gia cầm, gia súc… nói chung những loài có sự sống là mình đã đẩy
hết tất cả những vật thực này vào trong người, thành một nghĩa trang tập thể.
Như thế thân người có khác nào chiếc đãy da chứa đựng những sự bất tịnh, nó có
tác dụng lôi kéo bản thể của ta mãi mãi vào vòng nghiệp chướng. Nếu dung nạp
ngày càng nhiều các thứ bất tịnh từ những món ăn chơi thì nghiệp chướng đó ngày
càng trầm trọng đến đời đời kiếp kiếp không thể nào thoát ra được. Nhưng càng
quán thì cảnh tượng lõa thể ấy lại càng hiện lên rõ ràng hơn, làm cho tôi bức rức
khó chịu như người đứng trên hầm lửa.

 Sau đó, tôi chuyển sang quán pháp như thật và bất thọ giả. Nghĩa là chuyện
như thế nào thì quán như thế ấy. Quán một cách rõ ràng tường tận, nó hiện thì
biết nó hiện nhưng không có thân này tiếp nhận. Quán như vậy kéo dài gần một
tháng mà vẫn không có kết quả. Trong phạm vi nhập thất của tôi, từ trong nhà cho đến ngoài sân lúc
nào cũng đầy ắp những hình ảnh ân ái nam nữ, làm tôi cho ăn không ngon ngủ
không được.

 Cuối cùng tôi phải chọn phương pháp thành tâm phát đại nguyện và thiết
tha sám hối.

Nguyện đời đời kiếp kiếp tu hành cho đến
khi thành Phật để cứu độ tất cả chúng sanh.
Nguyện cho đến khi nào chúng sanhcõi Ta
này thành Phật hết, tôi là người thành Phật sau cùng.
Nguyện đời đời kiếp kiếp được gặp bậc minh
sư chơn chánh, được gặp thầy lành, bạn tốt để cùng nhau diễn nói đạo vô thượng.
Nguyện đời đời kiếp kiếp, sau khi thành tựu
đạo quả, giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán.
Nguyện đời đời kiếp kiếp được trí tuệ rộng
lớn thông đạt các pháp, biện tài vô ngại vì lợi ích chúng sanh.
Nguyện đời đời kiếp kiếp siêng làm việc
lành
, trừ bỏ việc ác giữ tâm không phiền não.
Nguyện đời đời kiếp kiếp chịu khổ cho tất cả
chúng sanh.
Nguyện đời đời kiếp kiếp, thành quả lợi ích
mà có được xin hồi hướng cho tất cả chúng sanh.

 Sau khi phát đại nguyện, tôi sám hối quán kể hết tất cả lỗi lầm trong đời
hiện đại. Đối diện trước bàn thờ Phật, chúng tôi thành tâm nguyện cầu chư Phật
khắp mười phương quang giáng đạo tràng chứng minh cho lòng thành của con. Sau
thời gian sám hối như vậy, tôi lại dùng phương pháp quán dục tưởng, từ tâm thức
sinh nên phải từ tâm thức mà chuyển hóa. Bởi nội kết trong tôi về tính dục quá
mạnh, cho nên phải tới ba bốn ngày gần ra thất, thế giới lõa thể trong tôi mới
dần hồi giảm bớt.

 Qua thời gian được nhập thất hai tháng như thế, tuy không bị bể thất ra
trước thời gian. Nhưng đã cho chúng tôi một bài học vô cùng quý báu trong cuộc
đời
những gì chúng ta gieo trồng trong quá khứ hoặc hiện tại dù tốt hay xấu nó
đã trở thành thói quen quay trở lại sai sử chúng ta, nhà Phật gọi là pháp trần
tức là những hình ảnh được ta nhớ lại. Nếu ta huân tập quá đậm đà, lâu dài, thì
trở thành thói quen thâm căn cố đế, chúng ta không cần khởi niệm nhưng nó vẫn
nhú lên trong tâm thứclôi cuốn ta nhớ lại những hình ảnh mà ta yêu thích
trước kia.

 Những điều vừa kể trên là thật hết sức hổ thẹn đối với người tu như
chúng tôi, vì đó là nghiệp chướng ràng buộc nhiều đời. Nhưng vì nhiệt huyết cao
độ làm lại chính mình, cho nên chúng tôi phải trình bày ra đây để chúng ta cùng
học hỏitham khảo.

 Chúng tôiThiền Viện tu tập phải trải qua thử thách hết chín năm, nghiệp
thức
luyến ái này mới tạm thời lắng dịu, có nghĩa là vẫn còn đối với nghiệp
gieo giống làm người. Thật là không thể
đơn giản chút nào, nếu dễ dàng thì ai tu cũng thành Phật hết rồi. Vì vậy, vấn đề
chính yếuchúng tôi muốn nói cho quý vị biết được là đừng để cho niệm luyến
ái
dục vọng nam nữ cuốn hút quá mức. Người xuất gia thì phải dứt khoát, đoạn
tuyệt
, vì đi ngược lại dòng đời, còn người tại gia thì vẫn còn có quyền hưởng
thụ dục lạc ái ân nam nữ nhưng phải biết cách điều hòa, vừa phải cho có chừng mực.
Nhưng thế gian thì cần phải phát triển giống nòi nhân loại, người Phật tử
quyền lấy vợ, lấy chồng rồi có con để kế thừa sự nghiệp của gia đình. Thôi thì
chúng ta có quyền chọn lựa miễn là sống như thế nào để không làm tổn hại cho
người và vật là được rồi. Chỗ này nhường lại cho quý vị sáng suốt chọn lựa.

 Ba trong bốn thứ đam mê như : rượu chè, cờ bạc, hút xách, tôi có khả
năng vượt qua một cách dễ dàng, nhưng để đoạn trừ nghiệp luyến ái nam nữ quả thật
rất là khó khăn đối với tất cả mọi người, còn người xuất gia như chúng tôi
phải lội ngược dòng cho nên cũng trày da tróc vãy lắm để vượt qua luyến ái lìa
buộc ràng.

 Chúng ta vì sao có mặt ở trên cõi đời này? Xin thưa, đó là vì nghiệp
tình ái. Để dứt trừ nghiệp ái đòi hỏi chúng ta phải có thời gian tu tập để lần
hồi
được chuyển hoá theo thời gian. Do tập khí luyến ái nam nữ huân tập nhiều đời
nhiều kiếp, cho nên những pháp trần trong ta vẫn còn dấy lên, tự mình khó dừng
lại được thói quen yêu thích này. Nhờ có tu hành, cho nên mình mới biết vọng niệm
không thật, ta khéo tìm cách chăn dắt tâm trở về chánh niệm, khác xa ngày
xưa
khi dục niệm khởi lên, ta liền bám víu chạy theo để hưởng thụ cho bằng được.

 Nhớ lại ngày xưa khi chưa biết tu là gì, chỉ cần khởi niệm nghĩ về tình
dục
chúng tôi thao thức trăn trở không bao giờ ngủ được suốt cả đêm, thế là
bằng mọi cách phải làm sao giải quyết cho bằng được, mới ngủ ngon lành.

 Cũng nhờ sự nhiệt tình chỉ dạy của sư phụ đã giúp cho chúng tôi dần hồi
giảm bớt được những vọng niệm xấu ác, tuy chưa hoàn toàn dứt hẳn nhưng chúng
tôi
cảm thấy an lạc, hạnh phúc vô cùng. Nhớ lại trong kinh đức Phật đã từng
nói: nếu có cái thứ hai nữa giống sự ân ái của nam nữ thì trên đời này không ai
có thể tu hành, thành tựu đạo quả, may mà nó chỉ có một thứ thôi, đã làm cho
loài người điên đảo vì chúng.

TẬP NGHIỆP CHÚNG SINH

 Nhờ có môi trường tu hành tốt, mỗi năm chúng tôi được nhập thất một lần
49 ngày cho đến 3 tháng và hiện nay có thêm chương trình nhập thất từ 3 tháng đến
3 năm cho mỗi thiền sinh.

 Chúng tôi đủ duyên nhập thất được 12 lần từ lúc xuất gia cho đến ngày
hôm nay. Vì vậy mà những gì xưa kia chúng tôi lầm chấp cho rằng chết là hết
không có nhân quả nghiệp báo, tội phước hoặc những gì ta làm thì không thể thay
đổi được. Hôm nay nhờ gặp được Tam Bảo, nhờ gặp được Phật pháp và gặp được minh
sư chân chánh, mà chúng tôi biết được cách thức chuyển hóa được những thói hư,
tật xấu có tính cách làm tổn cho người và vật.

 Được sự chỉ dạy tận tình của sư phụ Thường Chiếu giúp cho tôi làm mới lại
chính mình, từ một con người xấu xa tội lỗi đã thay đổi cuộc đời, bằng những việc
làm
thiết thực để dấn thân đóng góp phục vụ cho tha nhân. Qua lời Phật dạy
trong kinh Nghiệp báo chúng tôi trích dẫn ra đây để mọi người cùng tham khảo
học hỏi.

 Hạnh phúc hay khổ đau đều do chính mình
chủ động tạo lấy, rồi bị nó chi phối sai sử trở lại làm cho ta dính mắc vào đó
không thể buông xả được.

 Như vậy nghiệp là do ta huân tập lâu ngày
trở thành thói quen, đâu phải ai đem đến ép buộc cho mình. Nên nói tập nghiệp tánh nó vốn không, nếu tánh nó thật
có thì mọi người ra đời đều giống nhau như khuôn đúc. Nhưng rõ ràng là không phải
vậy, vì mỗi người đều có sự sai biệt khác nhau về mọi mặt. Do bản chất của nó vốn
là không, nhưng tại ta tập nên lâu ngày trở thành nghiệp, cho nên nói là tập
nghiệp
.

 Thói quen ham thích là căn bệnh chung của
tất cả mọi người hầu như ai cũng có, ham thích nhiều hay ít là do thói quen
huân tập của chúng ta. Quý Phật tử ở nhà ăn uống những món quen miệng hợp khẩu
vị, bây giờ vô chùa quý thầy cho ăn món khác, mình không thích nên ăn cảm thấy
không ngon miệng. Cụ thể như đa số quý Phật tử quen ăn mặn, hôm nào đi chùa quý
thầy đãi ăn chay, quí vị liền nói con ăn chay không được nên chạy ra ngoài kiếm
ăn.

 Như vậy thói quen thích ăn mặn là do mình
huân tập lâu ngày, bây giờ tuy mình là Phật tử nhưng không thích ăn chay, vì ăn
chay
chúng ta mới tập, chớ hồi nhỏ cha mẹ cho ăn gì ăn nấy, đâu biết chay mặn
là gì đâu? Nhưng khi chúng ta đã tập quen rồi, nếu thức ăn có khác đi mình chịu
không nỗi, chẳng muốn ăn. Trong ăn chay cũng có cái thích và không thích nữa.
Như người thích rau luộc, thích đồ mát đem thức ăn có nhiều dầu hoặc đồ giả mặn
thì ta không thích. Tại sao vậy? Tại vì rau luộc hợp với khẩu vị của ta.

 Người thích ăn đậu hủ, người thích xào
chiên, người thích ăn rau luộc mỗi người thích mỗi thứ không ai, giống ai. Bây
giờ chúng ta thử nghiệm lại coi cái thích đó tự nó có hay là do mình huân tập?
Rõ ràng là do mình huân tập, lâu ngày trở thành thói quen, khi người đã quen ăn
chay
rồi khi nghe món mặn thì thấy khó chịu vì tanh. Cho nên cái gì chúng ta
ham thíchcố gắng duy trì thì trở thành thói quen, thành ra cái thích đó trở
lại
sai sử chúng ta.

 Từ cái chưa tập mình cố gắng huân tập cho
thành có, cái có đã thuần thục rồi cho nên gọi là tập nghiệpchúng ta bị
nghiệp đó chi phối lại. Tất cả những gì ta ham thích, đó là sở thích theo nghiệp
nên ta bị nghiệp sai sử trở lại, cho nên chúng ta phải gọi là thích đủ thứ. Bây
giờ thử ta đi từ tập nghiệp hiện tại, trở lui về tập nghiệp quá khứ xem nó ra
sao.

 Như người nam hồi còn trẻ chưa biết hút
thuốc là gì, họ có bao giờ thèm thuốc đâu? Nhưng khi thấy người lớn phì phà điếu
thuốc trông oai phong lắm nên từ đó bắt chước theo, mới đầu chỉ tập hút một hai
điếu cảm thấy đắng miệng, khó chịu nhưng tập dần riết thành quen, rồi chừng năm
ba tháng sau thành ghiền. Lỡ bữa nào không có thuốc hút, họ cảm thấy khó chịu
nên nói tôi thèm thuốc quá, có ai cho tôi xin một điếu thuốc hút thì ngon biết
mấy.

 Khi hút thuốc lâu ngày trở thành ghiền, những
lúc như vậy nói tôi ghiền thuốc quá nên không làm gì được thật là khốn khổ, khó
chịu vô cùng. Người nào không ghiền thuốc thì thấy khỏe re vì đâu có huân tập
mà ghiền. Người nam thì hay có tật nếu không hút thuốc thì phải biết uống rượu.
Nhiều người thấy hút thuốc, uống rượu hao tiền tốn của, suy giảm trí tuệ nên cố
gắng
chừa bỏ. Khi bỏ được chừng vài ba tháng bị bạn bè trêu chọc là pê đê, thờ
bà nghe nói vậy liền tức quá hút thuốc, uống rượu trở lại sau này bị ghiền nặng
hơn làm khốn khổ vợ con. Nếu ta trước kia chưa từng uống rượu, khi thấy rượu ta
có ghiền, có thèm hay không? Nhưng khi ta đã uống năm ba năm rồi thấy ai bài
sòng nhậu ra, dù người ta không mời, ta cũng tìm cách nhào vô uống, vì ta quá
thèm và nghiền rượu rồi. Có người rắn mắc khi thấy người ta uống rượu, không mời
mình liền nói: có ai kêu tôi không, không kêu à thì tôi tự phạt mình ba ly.
Nhưng luật uống rượu vào ba thì ra bẩy, cuối cùng xạo xạo cũng uống được mười
ly, đó là câu châm biến những kẻ ghiền rượu mà hay uống ké. Quý vị thấy mắc cở
chưa, tại vì ghiền cho nên mới làm liều như vậy ai chê thì chê, miễn mình đỡ
thèm là được rồi. Tại sao thèm? Vì ta huân tập lâu ngày nên thành quen, bữa nào
thiếu nó thì chịu không nỗi, giống như con gà mất toi đứng ủ rủ.

 Đa số người nam biết uống rượu, hút thuốc
là có hại vừa tốn tiền vừa bệnh hoạn, nhưng do ta tập hoài lâu ngày thành thói
quen
nếu thiếu nó ta chịu không nỗi. Thế là mình bị nghiệp ghiền thuốc, ghiền
rượu
sai sử chi phối nên thiếu mấy thứ đó ta cảm thấy bần thần rã rượi và mệt mỏi,
không làm gì được.

 Trở lui về quá khứ chúng ta thấy tập quán của
con người, do người này uống người kia hút rồi níu kéo chằng chịt nhau mời qua
mời lại để rồi thành bạn ghiền. Nhất là ở thôn quê có tập tục, đám ma, đám cưới,
đám giổ họ bày ra hút uống nhậu linh đình mỗi khi có dịp. Họ cho đây là một
truyền thống tốt đẹp của người xưa để lại, nếu con cháu không bắt chước theo sợ
ông bà tổ tiên buồn phiền. Nên mỗi khi có đám giổ, đám ma họ bày tiệc nhậu linh
đình
gọi là trả nợ thế gian, vì gia đình này mời gia đình kia.

 Thậm chí có nhiều nhà rất nghèo thiếu thốn
khó khăn đủ thứ, vậy mà khi có đám giổ cũng ráng mượn nợ làm cho thật lớn để được
gia đình người thân chòm xóm khen, nhà thằng Ba làm đám giổ cha nó lớn ghê,
đúng là ông Bảy có phước thật. Phước đâu chẳng thấy chỉ thấy để lại hậu quả
không tốt, hễ thanh niên, đàn ông là phải biết hút thuốc uống rượu, rồi lại còn
cái nghiệp cờ bạc nữa. Đó là chưa nói đến vấn đề trai gái, ái chà quá nhiều thứ
không tốt làm cho người ta điên cuồng trong si mê nghiện ngập để rồi càng ngày
làm mất đi nhân cách làm người của mình.

 Thế giới chúng ta mỗi ngày có khoảng 40
ngàn người thiếu ăn vì không có đủ lương thực để cấp cho họ. Vậy mà từ gạo người
ta biến chế ra rượu là cái thứ làm cho nhân loại hao tiền tốn của, mất thời
gian
để rồi sinh bệnh hoạn. Và từ đó vẫn đến nhiều tệ nạn xã hội do rượu gây
ra, hiếp dâm, cướp của giết người, phá rối trật tự công cộng, bạo hành gia
đình
, tai nạn giao thông, lãng phí giờ làm việc hành chánh và rượu còn tiêu tốn
vào đối tác giao dịch làm ăn. Các làng nướng mọc lên như nấm, dần hồi làm mất
đi phẩm chất nhân cách của con người cũng tự rượu mà ra.

 Như vậy, chúng ta sở dĩ khổ đau mất tự chủ
là do nghiền thuốc, nghiền rượu và làm cho người thân gia đìnhxã hội lo
thêm gánh nặng? Việc huân tập uống rượu, hút thuốc này ta không thể đổ thừa cho
ai được, vì rõ ràng là do mình tập tành từ lúc ban đầu. Nếu ta đổ thừa tại vì
người này dụ tôi hút thuốc, tại vì người kia dụ tôi uống rượu, đó là cách thức
bao che lý luận đổ thừa bâng quơ không có căn cứ thực tế. Người ta ép dụ mà
mình không hút, không uống thì thôi, tại vì mình ham thích và muốn chứng tỏ bản
lĩnh với đời, nếu ta không huân tập thì làm sao trở thành tập nghiệp được.

 Nghiệp nghiền rượu, nghiền thuốc là chính
mình đã huân tập lấy chớ nên đổ thừa cho ai. Ta đã lỡ huân tập nó rồi sau đó mới
thấy khốn khổ, hao tiền tốn của, thân thể sinh bệnh hoạn, tâm trí mờ mịt tối
tăm
làm khổ gia đình, người thân. Bây giờ chúng ta muốn bỏ nghiệp ấy thì phải
làm sao đây? Ta phải can đảm, dũng mãnh chấp nhận đau thương một thời gian
thường xuyên nghiệm xét, quán chiếu sự tác hại của nó. Nghiệp do mình tạo ra từ
thân, miệng, ý khi muốn bỏ, chúng ta cũng phải bắt đầu từ đó. Chúng ta biết
ràng
trước kia mình đâu có nghiền rượu, nghiền thuốc, tại ta tập hút, tập uống
lâu dần mới thành ghiền.

 Bây giờ chúng ta muốn hết nghiền, đỡ tốn tiền,
ít bệnh hoạn và bớt khổ đau thì ta cố gắng tập trở lại, đừng hút thuốc, đừng uống
rượu nữa. Vì bản chất của rượu, thuốc tánh nó là không, chúng ta tập lâu ngày
trở thành thói quen, rồi thói quen đó trở lại sai sử chúng ta cho nên gọi là tập
nghiệp
.

 Nghiệp tuy có nhưng biết nó là không thật,
đừng theo nữa thì từ từ nó sẽ hết chớ có gì khó khăn đâu, tại vì ta không chịu
bền bỉ, kiên trì buông bỏ chúng. Thấy thuốc không thèm hút, thấy rượu không
thèm uống, tuy có khổ sở khó chịu một thời gian, nếu ai có nói móc, nói méo là
chuyện của họ, ta cứ an nhiên, bình thản thì lâu ngày sẽ hết nghiền. Bởi tánh của
nghiệp nó vốn là không, đâu phải thật có, nó từ bên ngoài huân tập vô rồi trở
thành
nghiệp, không phải cái có sẵn từ trước đến giờ. Như vậy, nếu ta cố gắng kiên
trì
, bền bỉ một chút thì bỏ dễ dàng, chớ đâu có gì là khó khăn mà nhiều người
không thể làm được.

 Có mười nghiệp khiến chúng sinh bị quả báo
sinh nhiều bệnh tật. Những gì là mười?

 Một là vui thích với việc đánh đập chúng
sinh
và giết hại.

 Hai là khuyến khích người khác đánh đập
hành hạ chúng sinh.

 Ba là khen ngợi tán thán khi thấy người
khác đánh đập chúng sinh.

 Bốn là thấy người đánh đập hành hạ chúng
sinh
mà mình sinh tâm vui mừng.

 Năm là luôn nói nặng lời với cha mẹ khiến
cha mẹ buồn khổ.

 Sáu là phỉ báng và chê bai các bậc hiền
Thánh
.

 Bảy là thấy người đau khổ bệnh tật mà mình
sinh tâm vui mừng.

 Tám là khi thấy người khác an vui hạnh phúc
mà mình sinh tâm ghen tỵ, tật đố.

 Chín là không nhiệt tình chăm sóc cho người
hết bệnh hoặc cho lầm thuốc giả.

 Mười là ăn đêm chưa tiêu mà lại tiếp tục
ăn thêm.

 Do mười nghiệp đánh đập hành hạ chúng sinh
cho nên trong hiện đời bị quả báo nhiều bệnh tật khổ đau. Tại sao chúng tôi mới
tám chín tuổi đầu mà đã biết hút thuốc, cờ bạc và uống rượu rồi?

 Con người từ khi mở mắt chào đời là đã chịu
sự chi phối của nghiệp nhân quá khứ, dần dần lớn khôn có sự hiểu biết, bắt đầu
chúng ta huân tập nghiệp mới, cái gì ta tập lâu ngày thì trở thành thói quen. Nếu
ta biết sống thân cận gần gũi và lắng nghe những lời chỉ dạy của các bậc hiền
Thánh
, luôn làm những điều hay lẽ phải thì lâu ngày ta trở thành người tốt, để
đóng góp phục vụ cho gia đìnhxã hội.

 Ngược lại nếu ta thường xuyên sống gần gũi
những người xấu ác, thì lâu ngày ta sẽ bị tiêm nhiễm các thói hư tật xấu, làm
cho nhân cách và phẩm chất đạo đức của ta trở nên tối tăm mờ mịt, tự mình chuốc
lấy khổ đau.

 Cho nên tục ngữ việt Nam có câu: Gần mực
thì đen, gần đèn thì sáng là có nguyên nhân. Gần người tốt thì chúng ta cũng dễ
dàng bắt chước làm tốt theo và gần người xấu thì ta cũng dễ bị tiêm nhiễm những
thói hư tật xấu của họ, đó là tập nghiệp trong hiện tại. Vậy cái gì đã thôi
thúc
chúng tôi bị dính mắc từ khi còn nhỏ.

 Phật gọi là tập nghiệp chúng sinh, còn
nói theo từ ngữ khác là do thói quen hay còn gọi là chủng tử đã được huân tập
thuần thục trong nhiều đời.

 Vậy nghiệp là gì? Nghiệp là năng lực, là hành động được lặp đi
lặp lại nhiều lần qua thân, miệng, ý của mỗi người, rồi lâu ngày trở thành thói
quen
. Thói quen đó có sức mạnh chi phối và sai sử lại chúng ta. Bản thân chúng
tôi
nếu không gặp được Tam bảo, không gặp được thầy lành bạn tốt thì suốt cuộc
đời
sống theo những tập nghiệp xấu ác.

 Thời gian được xuất gia tại Thiền Viện Thường
Chiếu
chúng tôi phải cố gắng tu học và lao động. Trong thời gian này chúng tôi
bị nhiều chứng bệnh tưởng chừng như không qua khỏi. Thứ nhất là bị suy thận vì
di chứng ba lần bệnh xã hội, huyết áp tăng cao đến độ không thể ngờ thường
xuyên
từ 21 hoặc 22 trên 11, bị viêm gan siêu vi B, bị bệnh trĩ, bệnh tim. Thân
thể
bị suy nhược mất sức đề kháng nên thường xuyên bị cảm cúm, đi phân sống bị
tiêu chảy và nhất là bệnh mờ mắt. Bác sĩ Hồng Nhung sau khi khám bệnh đã khẳng
định một câu rằng, mắt của thầy không thể chữa trị được vì đồng tử đã bị giản nở.

 Vì nhiều bệnh như thế, cho nên tôi phải áp
dụng
phương pháp nhịn ăn mỗi ngày chỉ uống nửa lít nước là tối đa, thời gian nhịn
mỗi lần là 21 ngày. Bản thân chúng tôi tuy hiện tại bệnh tật có bớt nhiều so với
khi trước, nhưng hết bệnh này thì đến bệnh khác. Loại bệnh thứ nhất là do nghiệp
báo
quá khứ tạo nên bây giờ phải trả. Loại bệnh thứ hai do hiện tại ăn uống
sinh hoạt không phù hợp, trong 8 năm gần đây tôi bị đủ thứ bệnh hành hạ nhiều
khi muốn thoái bồ đề tâm. Nhưng nhờ có tu chút đỉnh nên tôi sẵn sàng chấp nhận
quả báo mệt mỏi, khổ đau và nặng nề nhất là bệnh mất trí nhớ vì bị tai biến mạch
máu não.

 Đó là quả báo của sự làm khổ và hành hạ
chúng sinh hoặc xúi giục người khác đánh đập và giết hại. Nhẹ thì bệnh hoạn, nặng
thì chết yểu. Đức Phật đã từng dạy rằng đã làm người ít ai hoàn toàn không gây
tạo tội lỗi làm hại chúng sinh, chính vì những tập nghiệp của mỗi người khác
nhau nên không ai giống ai, người tốt kẻ xấu, người thiện kẻ ác.

 Chúng ta từ vô thủy kiếp cho đến nay không
ít thì nhiều khi có mặt trong cuộc đời này, đều làm khổ đau cho nhau ngoài trừ
các bậc Thánh nhân. Chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn phải chịu nhiều quả báo
trong hiện đời, như bị cô gái giả làm bụng bầu để vu oan giá họa đức phật trước
mặt
bàn dân thiên hạ. Bị bọn ngoại đạo giết một cô gái rồi đem chôn trong Tịnh
để vu oan cho đức Phật hãm hiếp.

 May nhờ phước đức của Ngài quá lớn nên đã
chiêu cảm vua quan tìm ra sự thật. Nhân quả nghiệp báo sẽ không chừa bỏ một ai
khi đủ nhân duyên, đủ điều kiện. Chiêm nghiệm những gì đã xảy ra trong cuộc đời
của chúng tôi và một số bài học nhân quả của đức Phật.

 Chúng tôi chân thành khuyên nhủ tất cả mọi
người
hãy nên tin sâu nhân quả, vì làm lành được hưởng phước báo tốt đẹp, làm
ác chịu quả sa đoạ khổ đau. Và chỉ có Phật pháp mới giúp ích cho chúng ta biết
cách làm chủ bản thân, bằng trái tim yêu thươnghiểu biết để ta dấn thân,
đóng góp phục vụ tốt cho gia đìnhxã hội.

 

PHẦN 3 : RỬA
NGHIỆP LỘT XÁC

NĂM LỜI KHUYÊN CHÂN THÀNH

 Sự trải nghiệm trong suốt quá trình tu tập
của biết bao nhiêu bậc hiền Thánh đã đi trước, để lại cho chúng ta những lời chỉ
dạy rất bổ ích, chúng tôi xin chân thành trình bày ra đây bằng tất cả tấm lòng
với trái tim yêu thươnghiểu biết.

1-TIN PHẬT

 Sự sống của con nguời là luôn tìm kiếm hạnh
phúc
cho thể xác lẫn tinh thần, vậy ai muốn tìm về cội nguồn của an lạc thì ta
phải tìm hiểu coi Phật là gì? Là ai? Chúng ta muốn học hỏi và bắt chước đi theo
con đường giác ngộ, giải thoát thì ta phải biết đức Phật là ai, trước khi tin
Phật. Tin như vậy là niềm tin chân chánh vì có tìm hiểu học hỏitu tập. Phật
có phải là con người lịch sử hay là một đấng thần linh thượng đế như người cổ
xưa đã gán cho hoặc Ngài là một nhân vật huyền thoại không có thật.

 Phật là danh từ chung nói cho đủ gọi là Phật
đà
, nói gọn lại gọi là Phật. Phật là người giác ngộ, là người tỉnh thức, là người
vì lợi ích tha nhân, vì sự sống của con người. Giúp cho mọi người biết cách làm
chủ bản thân, tin sâu nhân quả với tinh thần chia vui sớt khổ.

 Trước khi thành Phật Ngài là một hoàng thái
tử
chuẩn bị kế thừa ngôi vua, ý thức được sự khổ đau của nhân loại vì bị sinh,
già, bệnh, chết. Ngài chấp nhận bỏ hết cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con
ngoan, thần dân thiên hạ để ra đi tìm cầu chân lý giúp cho con người thoát khỏi
sinh già, bệnh, chết. Sau 5 năm học và tu với hai vị đạo sư nỗi tiếng thời bấy
giờ, vẫn không hết được phiền muộn khổ đau do tham, sân, si chi phối. Nghe nói
rằng lối tu khổ hạnh ép xác, hành hạ thân thể sẽ thành tựu đạo quả nên Ngài đã
kiên trì bền bỉ thực hành liên tục sáu năm, cho đến thân thể chỉ còn lại da bọc
xương và cuối cùng bị ngất xỉu.

 Nhờ một cô thôn nữ cúng dường bát sữa, Ngài
tỉnh lạitìm ra lối tu trung đạo, ăn uống vừa đủ để nuôi sống thân này và
dùng trí tuệ để phá tan vô minh phiền não. Cuối cùng Ngài đã biết cách làm chủ
bản thânan nhiên tự tại, giải thoát không còn bị mọi dục vọng trên cõi đời
này làm lung lạc và thành Phật.

 Điểm đặc biệt ở đây Ngài là một con người bằng
xương bằng thịt, giống như tất cả mọi người chúng ta. Ngài cũng được sinh ra từ
bụng mẹ, lớn lên Ngài vẫn có vợ có con như tất cả mọi người thế gian. Ngài là một
con người đi tu cuối cùng thành Phật để cứu độ chúng sinh, chúng ta cũng là con
người
nếu ai chịu tu theo lời Ngài chỉ dạy thì ta cũng sẽ thành Phật trong
tương lai. Bởi vì Ngài thường nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ
thành”. Ai trong chúng ta cũng đều có khả năng thành Phật như Ngài, bởi vì Phật
là tánh biết sáng suốt ngay nơi thân mỗi người, chỉ vì chúng ta chẳng chịu thừa
nhận
nên đời đời kiếp sống trong đau khổ lầm mê. Phật là con người như tất cả mọi
người
, vẫn sống làm việc phục vụ vì lợi ích chúng sinh mà không tham lam, sân hận,
si mê dính mắc như người đời.

 Cho nên trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa Bồ
tát
Thường Bất Khinh dù bị người mắng chửi, đánh đập nhưng Bồ tát vẫn không buồn,
không giận không oán, không ghét mà còn nói rằng: Tôi không dám khinh các người
vì các người đều sẽ thành Phật. Bồ tát Thường Bất Khinh suốt cả cuộc đời chỉ
làm một việc nhắc nhỡ mọi người đều có Phật tánh.

 Về mặt thực tế cuộc đời Phật là con người
dám buông xả hết tất cả những gì thế gian mong muốn, để dấn thân đóng góp, phuc
vụ, giúp đỡ, sẻ chia không biết mệt mỏi, nhàm chán bằng trái tim yêu thương
hiểu biết, giúp cho con người biết cách làm chủ bản thân để cùng nhau chia vui
sớt khổ bằng tình người trong cuộc sống. Về khía cạnh tâm linh Phật giúp cho ta
nhận ra tính biết sáng suốt đang tiềm ẩn nơi mỗi người, nương nơi mắt thì thấy
biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy tức là biết, biết mà không dính mắc bị dòng đời
cuốn trôi, vậy không phải Phật tánh là gì? Tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế,
ai nhận ratrở về sống với chân tâm của mình thì đời đời kiếp kiếp thoát khỏi
mê lầm khổ đau.

 2-TIN SÂU NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO

 Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả
năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây
giờ bằng sự tin sâu nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau
không ai có quyền ban phước giáng họa, mình làm mình chịu không đổ thừa cho ai
hết.

 Chúng ta tạo nghiệp lành hay dữ hạt giống
lành dữ ấy không bao giờ bị mất khi hội đủ nhân duyên, ta sẽ thọ nhận tất cả quả
khổ vui do mình gây ra. Người biết tu và tin sâu nhân quả sẽ không oán trời
trách đất, đỗ thừa tại bị thì là… sẵn sàng chịu nhận quả xấu mà không tạo thêm
ân oán, hận thù do đó nhân quả ác dần hồi dứt sạch. Con người do tạo nhân quả
không đồng đều nên có sự sai biệt rất lớn trong cuộc đời như giàu nghèo, sang
hèn, đẹp xấu, thông minh hay ngu dốt, sống thọchết yểu.

 Vậy nhân quả là gì? Nhân là nguyên nhân, quả
là kết quả. Như ta trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu. Nhân là mầm,
quả là hạt, từ hạt sinh ra mầm, từ mầm phát triển thành cây và từ cây cho ra
trái. Nhân quả luôn đan xen kết nối nhau, nương vào nhau mà hình thành và tương
quan mật thiết với nhau.

 Đặc tính của nhân quả là do nhiều nhân
duyên
kết hợp lại mà thành, không có cái gì một nhân mà cho ra kết quả được. Một
ví dụ về hạt lúa người ta hay nói rằng hạt lúa sinh ra cây lúa, đó là lời nói
rút gọn thật ra hạt lúa phải kết hợp nhiều duyên phụ thuộc như không khí, ánh
sáng, đất, nước và sự chăm sóc của con người

Giáo
nền tảng của đạo Phật có khả năng chuyển hóa khổ đau thành an vui hạnh phúc,
làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, hay còn gọi là ở hiền gặp lành,
gieo gió gặt bão.

Chúng
ta
tạo nghiệp lành hay dữ, hạt giống lành dữ ấy rơi vào tàng thức. Đến khi đủ
duyên chúng ta sẽ thọ nhận tất cả các quả khổ vui, người biết tu sẽ không than
oán, hờn trách khi quả khổ đến mà sẵn sàng thọ nhận và tìm cách chuyển hoá. Do
đó, con người khi mới sinh ra đã có sự bất đồng và sai biệt như giàu nghèo,
sang hèn, đẹp xấu, sống thọ, chết yểu, thông minh hay đần độn.

Tuy
gieo nhân thì phải gặt quả nhưng nhân quả không cố định, có thể thay đổi được.
Vì vậy, trong thực tế có người sinh ra trong hoàn cảnh gia đình thiếu thốn,
nghèo đói, xấu xí, tàn tật, nhưng họ cố gắng vươn lên, cuối cùng thành đạt, trờ
nên giàu có, danh vọng tiếng tăm, có địa vị cao trong xã hội được mọi người
kính trọng.

Khi
hiểu được giáo lý nhân quả, chúng ta sẽ sống có trách nhiệmý thức được hậu
quả
xấu gây khổ đau cho người. Không ỷ lại hay đổ thừa mọi chuyện xảy ra là do
“khi không”, “tự nhiên” mà chính ta phải chịu trách nhiệm đối với mọi hành vi tạo
tác của bản thân.

Hiểu
ứng dụngnhân quả vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta sẽ không đổ thừa
do số mệnh định sẵn hay có sự an bài của đấng tạo hóa nào đó, mà không vươn lên
làm mới lại chính mình, thay đổi hoàn cảnh.

Do
đó, tin sâu lý nhân quả sẽ giúp chúng ta có cách nhìn thông thoáng hơn, không bị
lệ thuộc vào một đấng quyền năng thượng đế, mà chính mình là thượng đế của
chính mình. Không một ai có quyền ban phước, giáng họa. Mọi sự khổ vui đều do
mình tạo lấy và ta có quyền thay đổi hoàn cảnh sự sống tùy theo năng lực và sự
tu tập của bản thân.

3-TIN
SÂU TAM B
O
(PH
T,
PHÁP, TĂNG)

Phật
con người, Pháp là những lời dạy chân chính của Ngài, Tăng là những người
truyền thừa, thay Phật hoằng dương chánh pháp, sống trong tinh thần lục hòa,
đoàn kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần chia vui sớt khổ, phục vụ
lợi ích
chúng sanh. Tăng là những người hiến trọn đời mình cho mục đích trên để
cầu thành Phật, dưới hoằng hóa độ sanh vì lợi ích con người. Nhờ có chư Tăng,
Ni thay Phật hoằng truyền những lời dạy của Ngài khiến cho chánh pháp được mở
mang rộng rãi đến tất cả mọi người. Những ai hấp thu được tinh ba của Phật
pháp
, người đó ngày càng được an vui hạnh phúc hơn và sẵn sàng an ủi, sẻ chia,
giúp đỡ vì tình người trong cuộc sống.

Nhưng
Tăng cũng có nhiều loại. Đại khái lược lại có ba: Bồ Tát Tăng, Thanh Văn Tăng
Phàm Phu Tăng. Đây là Tăng bảo chân chánh xứng đáng được mọi người y chỉ tu
học
tôn kính cúng dường.

Phật
tùy duyên giáo hóa và đã nhập Niết bàn, nay chỉ còn lại những lời vàng ngọc của
Ngài. Còn Tăng thì thay Phật truyền trì chánh pháp, hiến trọn đời mình cho sự
nghiệp
vì lợi ích chúng sanh. Tăng Phàm phu là những người chân thật, nguyện hiến
đời mình cho lý tưởng giác ngộgiải thoát, đang kế thừa con đường Phật đạo,
tuyên dương chánh pháp giúp cho mọi người bớt khổ, thêm vui, luôn làm lợi cho
chúng sanh. Tuy Phàm phu Tăng chưa thành tựu đạo quả, nhưng nhờ học hiểu và
hành trì tới đâu thì hướng dẫn tới đó. Vì vậy, ai phát tâm cúng dường Phàm phu tăng
vẫn được phước không thể nghĩ bàn.

Thực
tế
trong cuộc đời này, phàm phu Tăng là số đông gần gũi với chúng ta nhất. Nếu
ai vâng theogìn giữ năm điều đạo đức của Phật chế ra, vì lòng từ bi, ngăn
ngừa
chúng ta rơi vào hố sâu tội lỗi,
giúp ta có ý thức được sự khổ đau của sự giết hại gây nên.

Chúng
con nguyện sống với lòng từ bi, thương yêu bình đẳng, không làm tổn hại con người
cho đến các loài vật. Không gian tham trộm cướp, không tà dâm ngoại tình, không
nói dối, không uống rượu và dùng những chất kích thích có hại như xì ke, ma túy
v.v… Phàm phu Tăng chân thật tu hành, thuyết pháp độ sanh mang tinh thần của
các vị Thánh Tăng Bồ TátThánh Tăng Thanh Văn.

Phàm
phu
Tăng là số đông cho nên quý Phật tử dễ gần gũi và tiếp cận hơn, chúng ta vẫn
học hỏi được những điều hay, lẽ phải để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày.

Nói
tóm lại, tin sâu Tam Bảo là tin Phật, Pháp, Tăng, khi chúng ta tin, không nên
thần tượng hóa, vì thần tượng hóa dễ sụp đỗ và mất tín tâm. Chỉ thấy thầy mình
hay, thầy mình giỏi, vì vậy dễ dẫn đến tư tưởng phê bình, chỉ trích người khác
do đó làm mất đi sự hoà hợp trong tăng đoàn gây sự chia rẽ.

Tăng
là đoàn thể sống trong an vui hòa hợp. Vì lợi ích số đông mà nhiều người cùng sống
đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết với
tinh thần vô ngã vị tha.

4-Sám hối làm mới lại chính
mình

Đạo
Phật
không dạy chúng ta trốn tránh cuộc đời hoặc chối bỏ sự thật của tội lỗi
tìm cách sám hối để làm mới lại chính mình. Sám hối là sám lỗi trước, nguyện
không cho tái phạm lỗi lầm xưa. Hối là ngăn ngừa lỗi sau, không cho phát sinh kể
từ ngày hôm nay. Sám hối đúng nghĩa là phải có tâm hổ thẹn và cầu tiến.

Người
biết hổ thẹn sẽ không dám cho tội lỗi phát sinh hoài. Nhờ vậy, người thành tâm
sám hối thì tội lỗi dần dần được tiêu trừ.

Ai
trong chúng ta không một lần vấp ngã dù ít hay nhiều. Nhưng điều quan trọng hơn
hết là khi bị vấp ngã, chúng tacan đảm đứng lên hay không?

Sám
hối
tinh thần cầu tiến, làm mới lại chính mình. Với tinh thần cầu tiến, biết
hổ thẹn, nhờ sám hối chúng ta sẽ không tái phạm lỗi lầm xưa. Với lòng chí thành
thiết tha sám hối, sẽ giúp cho chúng ta vơi bớt tội lỗi và từ từ hết sạch.

Nhờ
sám hối mà tâm ta ngày càng trong sạch. Dám sám hối là một việc làm can đảm,
khiến tâm cống cao ngã mạn, tự ti, mặc cảm, lần lần thuyên giảm, nhờ vậy ta
càng ngày càng sống tốt hơn ít phạm phải lỗi lầm.

Tu
mà không gan dạ sám hối quả thật là người hèn nhát, không xứng danh là một con
người
. Sám hốiphương pháp sách tấn mạnh nhất. Nhờ sám hối, dù có tạo tội
bao nhiêu, chúng ta vẫn là người tốt trong hiện tạimai sau.

Tóm
lại
, sám hối là một phương pháp tu hành rất thiết thực, có lợi ích cho hiện tại
mai sau. Người đời vì không biết, nên một khi có lỗi lầm thì ém nhẹm giấu diếm,
không cho ai biết, tìm cách che giấu tội lỗi. Vì thế tội lỗi ngày càng thêm chồng
chất
, cuối cùng hết phước, chịu họa không thể lường. Người xưa nói: “Người không gặp hoạn nạn, không biết quay
đầu sám hối”
. Do đó mà đại đa số người đời bị sa hầm sụp hố. Đến khi tỉnh
ngộ
, hiểu ra, mới biết sám hối là điều cần thiết cho tất cả mọi người chúng ta.

5-Áp dụng lời Phật dạy

Làm
phước bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ, niệm Phật, tụng kinh, thiền quán, hồi
hướng công đức
cho tất cả chúng sanh, đó là những tiêu chí đầu tiên Phật dạy
chúng ta. Nhờ vào công đức của những việc làm trên, chúng ta sẽ giảm bớt đi
lòng tham, ích kỷ, nhỏ nhoi, ti tiện. Thấy rõ sự sống của chúng ta không thể
tách rời nhau mà mọi người cần phảitrách nhiệm thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ
lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống với tinh thần chia vui sớt khổ.

Tụng
kinh
nhằm mục đích hiểu lời Phật dạy, để ta biết được điều hay, lẽ phải, mà áp
dụng
vào trong đời sống hằng ngày nhằm chuyển hoá nỗi khổ niềm đau, thành an
vui hạnh phúc, ngay trong giờ phút hiện tại.

Tụng
kinh
để thấm nhuần lời Phật dạy, có ích thiết thực trong việc hành trì, gội rửa
thân tâm chúng ta ngày càng được trong sạch hơn.

Tụng
kinh
là cơ hội tốt nhất để ta học hỏi, tìm hiểu, tư duy, quán chiếu soi xét lại
chính mình. Nhờ thuờng xuyên nghiệm xét lời Phật dạy chúng ta thấy biết rõ ràng
chỗ si mê chấp ngã để làm tổn hại cho người và vật.

Tụng
kinh
không phải để chúng ta cầu nguyện van xin Phật hay Bồ tát giúp cho mình
tai qua nạn khỏi, gia đình được nhiều hạnh phúc, làm ăn được khấm khá.

Tụng
kinh
để cho ba nghiệp: thân, miệng, ý, của chúng ta hằng thanh tịnh, nhờ thân ngồi ngay ngắn, miệng
tụng lời Phật dạy, ý nhiếp tâm vào lời kinh, nhờ vậy cảm thấy bình yên hạnh
phúc
ngay tại đây và bây giờ.

Niệm
Phật
để giúp ta nhớ nghĩ chân chánh, không nhớ nghĩ lăng xăng, có hại cho mình
và người. Niệm Phật tức nhớ Phật. Phật vì lòng từ bi rộng lớn cứu khổ chúng
sinh
. Niệm Phật để tâm được thanh tịnh, sáng suốt, để thấy biết đúng như thật.
Niệm Phật là quá trình chuyền hóa ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện, có công
năng
dừng lắng được điều ác chưa sanh, không cho phát sanh, điều ác đã sanh,
không cho tái phát. Niệm Phật để nhớ nghĩ việc làm tốt của Ngài mà chúng ta cố
gắng
thực hành theo nhằm soi sáng muôn loài vật.

Thiền
quán
để chúng ta thấy rõ sự sai biệt trong cuộc đời đều do con người tạo lấy,
giàu nghèo, tốt xấu, nên hư, phải quấy, thành bại, được mất, hơn thua, thông
minh
, dốt nát, sống thọ, chết yểu đều có nguyên nhân sâu xa của nó. Người Phật
tử
chân chính ngoài việc học hỏi ra còn phải dùng thiền quán để soi sáng muôn
loài vật.

Nhờ
quán chiếu sâu xa lời Phật dạy, giúp cho chúng ta dễ dàng cảm thôngtha thứ,
bao dungđộ lượng, giúp đỡ và sẻ chia, an ủinâng đỡ bằng trái tim yêu
thương
hiểu biết trong tinh thần đoàn kết, hoà hợp với tấm lòng vô ngã vị
tha
. Không thấy ai là người thù của mình, chỉ có người chưa thông cảm với nhau
mà thôi. Nhờ hiểu và quán chiếu lời Phật dạy, chúng ta biết cách buông xả mọi
chấp trước do bám víu vào xác thân này mà ta có cuộc sống bình yên, hạnh phúc.
Cuối cùngphát nguyện hồi hướng.

Hồi
là xoay lại, hướng là hướng đến. Chúng ta xoay sự ưa thích, quyến luyến phiền
não
tham, sân, si có công năng tàn phá và làm tổn hại muôn loài vật trở thành sự
thương yêu chân thật.

Hướng
là hướng đến Chân, Thiện, Mỹ, nên mỗi khi làm việc phúc lành nào, chúng ta đều
hồi hướng, nhất là sau khi thuyết pháp, giảng kinh, chia sẻ… chúng ta hay đọc
bài kệ:

Nguyện
đem công đức này

Hướng
về khắp tất cả

Đệ
tử
chúng sanh

Đều
trọn thành Phật đạo.

Phát
nguyện
hồi hướng để chúng ta cố gắng duy trì những gì có lợi ích cho chúng
sanh
trong hiện tạimai sau để tất cả đều được chung hưởng.

3 ĐIỀU TU HỌC

Hòa
thượng
trụ trì Thiền viện Thường Chiếu dạy rằng:

“Học tập làm việc như
uống ăn làm nên sự sống. Tu là hơi thở quyết định sự sống. Thân thể này thiếu
tu cũng như thiếu hơi thở trong chừng phút giây là chết ngay”.

Để
từng bước đạt được kết quả vững chắc, Thiền Viện Thường Chiếu đã đề ra một công
thức
tu học gồm 3 phương tiện: Học tập, hành trì và lao động như cái đỉnh 3
chân, nếu thiếu một chân thì sẽ không vững chắc và không thể thành tựu đạo
pháp
.

Trong
ba phương diện trên, phương diện thứ ba “lao động” nó quan trọng không kém hai
phương diện học tập và hành trì.

Lao
động để hiểu được sự nhọc nhằn của đàn na tín thí. Họ phải nhịn ăn, bớt mặc để
giúp cho chúng ta tu hành. Nhờ lao động mà chúng ta cảm thông được từ con người
cho đến muôn loài, đều phải nương nhờ lẫn nhau. Khống có một loài nào có thể
tách rời khỏi sự cộng sinh của thế gian này mà bảo tồn sự sống. Ta không làm ruộng,
nhưng vẫn có cơm ăn, ta không dệt vải nuôi tằm nhưng vẫn có quần áo để mặc, vì
sự sống của nhân loạicon người đã làm tổn hại không biết bao nhiêu là sinh
vật khác.

Đây
điều kiện đầu tiên mà chúng tôi học được ở Thiền viện Thường Chiếu. Lao động
để hiểu được giá trị đích thực của nó, để bảo tồn sự sống, để được cùng nhau
đóng góp và phát triển xã hội trong tình thương yêu nhân loại và muôn loài.

Lao
động để biết được công lao cực khổ của con người, để phục vụ cho xã hội, cũng
lẽ sống thiết thực. Nếu thiếu lao động sẽ mất giá trị sự sống và con người
không tồn tại. Ngoài ra, lao động còn là phương cách điều hòa trạng thái tinh
thần
, rèn luyện thể lực, hòa mình với thiên nhiên. Trong lúc lao động, chúng ta
vẫn có thể an nhiên trì niệm, tu tập, lao động như một nhu cầu sống không thể
thiếu trong xã hội.

Lao
động như ăn cơm

Học
hỏi
như uống nước

Tu
sửa như hơi thở.

(Lời
Hòa Thượng Tôn Sư)

Phương
thức thứ hai là học tập.

Học
ở đây để hiểu lời Phật dạy, ta phải biết một cách rõ ràng, thấu đáo, tường tận.
Khi hiểu được rồi, chúng ta phải biết áp dụng vào trong đời sống hằng ngày nhằm
chuyển hóa phiền não tham, sân, si thành vô lượng trí tuệtừ bi.

Đức
Phật
không bắt buộc chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào những lời dạy của Ngài, mà
Ngài muốn chúng ta chiêm nghiệm, quán xét, tư duy, soi sáng, khi ta thấy rõ lợi
ích
thiết thực của việc học hỏi lời Phật dạyáp dụng tu hànhlợi lạc thì
ta mới tin.

Nhờ
học hỏichúng tôi đã nhận ra được sự sai lầm quá lớn lao với quan niệm chết
là hết và không có nhân quả tội phước gì hết. Thuở thiếu thời, mới tám, chin tuổi
đầu, làm gì chúng tôi có đủ nhận thức về sự đam mê hưởng thụ. Ấy thế mà tôi đã
tiêm nhiễm soa đọa ở lứa tuổi này. Nhờ chiêm nghiệm lời Phật dạy, tôi đã biết
được con người khi mới sanh ra chỉ với hai bàn tay trắng, đến khi nhắm mắt lìa
đời cũng hai bàn tay trắng. Duy chỉ có nghiệp thức tốt hay xấu là con người phải
mang theo như bóng với hình. Nghiệp thức là những hành động tốt hoặc xấu, từ
thân, miệng, ý mà chúng ta huân tập mỗi ngày, lâu dần trở thành thói quen. Thói
quen
đó, có sức mạnh chi phối, dẫn dắt chúng ta tới chỗ xấu hay tốt cho kiếp
sau
, tùy theo nghiệp nhân đã gieo tạo trong hiện tại.

Nghiệp
là những hành động do ta huân tập hằng ngày được lặp đi, lặp lại nhiều lần, lâu
ngày trở thành thói quen. Chính thói quen đó có sức mạnh sai sử chúng ta trở lại.
Như việc hút thuốc chẳng hạn, lúc mới bắt đầu, bắt chước bạn bè hút thử. Những
điếu thuốc đầu tiên, nó chỉ cho ta cái cảm giác đắng hôi, khó chịu mà thôi. Lúc
này thì ta làm chủ nó, muốn hút hay không hút tùy ý dễ dàng. Nhưng lâu ngày,
dài tháng khi đã quen với hương vị cay đắng ấy rồi thì sự xúc tác của nó mới có
tác dụng. Lúc này, điếu thuốc là vật thơm ngon kỳ lạ, thiếu nó ta không thể chịu
nỗi ngáp vắn, ngáp dài. Vì sao? Vì cơ thể ta đã quen với hương vị của nó rồi.Thiếu
nó là gây ra trạng thái trong người bức xúc, xốn xang, khó chịu, chảy nước miếng,
nước mũi, thèm khát một cách lạ thường. Khi tâm trạng thèm khát phát sinh làm
cho ta cảm thấy khó chịu, vật vờ như thiếu cái gì trong cơ thể mình. Những khi
cơn nghiện trỗi lên, thì lúc ấy ta thấy trên đời nay không có gì quý hơn điếu
thuốc. Nếu khi đó có liền một con “dế nhủi” thôi là đã hấp dẫn rồi. Huống hồ là
được thưởng thức một điếu thuốc nguyên vẹn với tách cà phê nóng.

Quý
vị biết dế nhũi là gì không? Dế nhũi là phần tàn thuốc còn sót lại khi người ta
hút thuốc gần hết rồi quăng đi. Trong lúc ghiền chỉ cần một con dế nhũi thôi là
đã tạo cảm giác dễ chịu rồi, huống chi là đầy đủ.

Như
trường hợp thực tế của bản thân tôi, khi còn nhỏ có thói quen mút móng tay, đến
nỗi hai cái răng cửa mòn hết một nửa. Mỗi lần tôi mút, cạy răng cửa như vậy là
một lần khổ đau. Vì cảm giác khó chịu nhức đầu, có khi giật bưng bưng cả mặt.Mỗi
khi phiền muộn điều gì là tôi càng cạy răng nhiều hơn. Cạy càng nhiều thì càng
nhức đầu. Vậy mà cho tới năm 47 tuổi, nhờ một bác sĩ nha khoa là một Phật tử
thuần thành, pháp danh Xuân Anh, giúp công quả trám và nhổ thay răng cho tôi. Kể
từ đó tôi mới chuyển được nghiệp cạy răng của mình.

Tất
cả các vị thấy ghê hồn chưa, đó là thói quen không tạo giá trị, chỉ kích thích
cảm giác khó chịu. Vậy mà tôi phải mất gần 40 năm mới có thể chấm dứt được. Như
thế có phải là nhờ tha lực hoàn toàn không? Xin thưa với tất cả quý vị là có,
nhưng không phải hoàn toàn nhờ vào tha lực, mà đạo lý nhà Phật nói “cái này có
thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này như thế này thì cái
kia như thế đó”.


đây nhà Phật gọi là nhân duyên chuyển nghiệp, chính vì sợ cạy răng tiếp sẽ bị
khiếm khuyết, mất vẻ đẹp của răng và đau khổ, nên tôi chấm dứt không cạy răng nữa.
Vì nghiệp xấu chiêu cảm quả báo, nên phải chịu trong một thời gian dài. Nay hội
đủ duyên lành cùng cộng nghiệp tốt tôi đã chuyển được thói quen xấu.

Thí
dụ
về cái răng nói trên là tạo nghiệp cảm đau khổ mà còn khó bỏ. Thử hỏi, nếu
chúng ta đã gieo tạo nghiệp cảm luyến ái khoái lạc thì làm sao mà có thể dứt bỏ
được? Quả là “vượt cạn lên bờ được mấy ai”. Từ đó nhà Phật chỉ cho chúng ta
phương pháp ngăn ngừa những điều tội lỗicố gắng duy trì phát sanh những điều
thiện lành tốt đẹp để mình và người được lợi ích. Đó là giới. Giới như mảnh đất
tốt cho muôn hạt giống lành nẩy mầm, sinh sôi, phát triển.

Muốn
trì giớ cho tốt, đầu tiên chúng ta phải tin Phật là con người như tất cả mọi
người
, Ngài có khả năng thành Phật thì chúng ta cũng có khả năng thành Phật. Nếu
chúng ta cố gắng kiên trì, bền bỉ, quyết tâm buông xả những thói hư tật xấu, đồng
thời
biết bố thí cúng dường, an ủi sẻ chia, giúp đỡ mọi người khi có nhân
duyên
.

-Tin
Phật pháp có khả năng giúp cho tất cả chúng sanh vượt qua nỗi khổ niềm đau, để
sống bình yên hạnh phúc.

-Tin
sâu nhân quả nghiệp báo, gieo nhân tốt hưởng quả tốt, gieo nhân xấu chịu quả xấu.

-Tin
tất cả mọi người có khả năng chuyển hóa nghiệp xấu ác thành nghiệp thiện lành tốt
đẹp
.

-Tin
chính mình làm được tất cả những điều thiện lành tốt đẹplợi ích thiết thực
cho tất cả mọi người.

-Phải
biết sám hối, quyết chừa bỏ thói hư tật xấu, làm lại cuộc đời.

-Phát
nguyện lớn vì lợi ích Tam Bảo, vì lợi ích tất cả chúng sanh đời đời kiếp kiếp
đi theo con đường đạo Phật.

Phương
thức thứ ba là hành trì để chuyển hoá.

Phật
ra đời tùy bệnh chúng sinh mà cho thuốc. Chúng sinh có nhiều bệnh thì đạo Phật
có nhiều thuốc. Ai được nhận thuốc thích hợp bệnh mau hết, không có pháp môn
nào cao, không có pháp môn nào thấp.

Thí
dụ
, từ Sài Gòn đi Hà Nội, người đi máy bay, người đi tàu hỏa, người đi xe đò,
người đi xe gắn máy, xe đạp, hoặc đi bộ v.v… Nếu ai chịu đi cũng đều đến đích
tùy theo nhu cầu nhanh chậm mà chọn phương tiện cho thích hợp.

Hơn
nữa, nếu ai siêng năng tinh tấn tu hành đúng phương pháp, không lười mỏi thì kết
quả sẽ càng nhanh hơn.

Nước
trăm sông đều chảy về biển cả. Nói tóm lại, tùy theo sở thích, khả năng mà ta
áp dụng tu hành chuyển hoá. Phương pháp nào của đức Phật chỉ dạy cũng đều số một
cả, tùy theo nghiệp báo sai biệt của mọi người và mức độ phát huy năng lực tu
hành
của chúng ta mà được kết quả sớm hay trễ mà thôi. Cho nên có câu:

Truyền
trao mãi không thôi

Chẳng
bao giờ dứt mất

Chỉ
vì chẳng chịu nhận

Nên
đành chịu khổ đau.

Khả
năng con người, nếu nhịn ăn phải từ 60 ngày đến 120 ngày mới chết. Nếu nhịn uống
phải từ hai tuần đến một tháng mới chết. Còn thở ra mà không hít vào chỉ trong
chừng phút giây là có thể chết ngay.

Đạo
học tập, làm việc và hành trì không thể thiếu trong nhu cầu sự sống của con
người
. Nếu ai biết áp dụng nhuần nhuyễn và tinh cần thì sẽ an lạc, hạnh phúc
ngay tại đây và bay giờ.

ĐÔI LỜI TÂM SỰ

Tôi
sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuộc lớp nghèo thành thị. Cha tôi có nhiều
vợ, tám anh em tôi là dòng thứ hai. Vì vậy mà mẹ tôi phải khổ sở cả đời.

Khi
được sinh ra, tôi đã mang theo thân xác bé nhỏ của mình chứng “đau ban khỉ”. Nếu
chẳng nhờ vào phước đức mẹ và lương y chữa trị thì giờ đây tôi đã là một nấm mồ
hoang xanh rêu, tốt cỏ từ lâu rồi.

Lớn
lên một chút, tập nhiễm những thói hư tật xấu do môi trường sống mang lại. Tôi
đã lao vào cuộc trác táng, tranh đua, danh lợi, ái tình. Tôi bản lĩnh đến nỗi tự
tử mấy lần! Lần đầu nhờ bạn bè cứu sống, lần sau chính nhờ mẹ mà tôi được hoàn
sinh
theo đúng nghĩa của từ này.

Người
ta thường nói: “Ngựa chứng” là ngựa hay, câu nói này chính xác đến độ nào?
Riêng bản thân chúng tôi thì “Ngựa chứng” là “Ngựa chứng” mà thôi.

Tôi
nhớ rất rõ, cái thuở sa đà, tôi thường chửi cha mắng mẹ, xem thường tất cả mọi
người
, làm khổ lụy đến người thân và ân nhân của mình. Hay đâu chẳng thấy, nhìn
lại toàn bộ chỉ là gây tạo nghiệp chướng oan gia.

Cha
tôi bảo:

-Nếu
tao không lo chữa bệnh, thì mày đã chết từ hồi nhỏ rồi.

Tôi
liền trả đũa:

-Tại
ông đam mê nhục dục, mới có tôi, ông phải có trách nhiệm nuôi nấng và lo lắng
cho tôi.

Nghe
vậy, mẹ tôi lại khuyên:

-Con
gia đình rồi phải lo tu tỉnh làm ăn, chứ có đâu tụm năm, tụm ba cờ bạc, rượu
chè, hút xách, giựt dọc hoài của người ta. Coi sao được.

Tôi
lại trả treo:

-Ai
có thân nấy lo, bà khỏi lo cho tôi. Tôi lớn rồi để tôi tự lo.

Tự
lo đâu chẳng thấy, cho đến khi xuất gia đầu Phật, mẹ vẫn mỗi tháng ra Thiền Viện
thăm tôi, còn cho tiền để mua kinh sách và làm các việc phước thiện. Bởi bà sợ
tôi không chịu tu mà bỏ ra ngoài sinh sống.

Ý
tưởng
xuất gia ban đầu của tôi không phải vì mục đích chân chánh, chỉ vì bất đắc
dĩ phải chọn lựa một trong hai là tự tử hay xuất gia.

Thất
chí, bất mãn, buông lung, liều lĩnh, nghiện ngập, si vạy, sống không biết ngày
mai, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình… với quan niệm “chết là hết, sống không
hưởng thụ chết làm ma ngáp ruồi”. Bởi quan niệm sai lầm đó đã giết chết hơn nửa
đời người của tôi. Rồi điều gì đã giúp cho tôi làm mới lại chính mình?

Nhờ
mẹ, tôi biết đường tu

Nếu
không
có mẹ, tôi giờ ra sao?

Tình
thương
của mẹ đối với tôi thật vô cùng cao cả. Tôi không thể nào lấy ngôn ngữ,
bút mực để diễn tả cho hết. Tôi chỉ thầm nhận, hứa nguyện tu hành cho đến nơi,
đến chốn để mong trả công ơn mẹ.

Trong
cuộc đời này, tôi không thể nào tìm được người nào như người mẹ sinh ra tôi bây
giờ. Bà phải rời quê hương Thái Bình vào Nam trong một hoàn cảnh đặc biệt, xa
cha mẹ họ hàng từ tấm bé. Không có điều kiện đến trường nên bà phải chịu thất học,
dốt nát chỉ biết từ làm mướn cho đến mua gánh bán bưng. Lớn lên gặp cha tôi rồi
sinh ra tám mặt con. Từ vai trò người nội trợ, mẹ tôi phải kiêm luôn trụ cột
gia đình kể từ khi cha tôi bị bắt buộc đi lính.

Lúc
này tôi đã sa đà quá mức, bệnh hoạn nghiện ngập, mất phương hướng, nợ nần chồng
chất
không khả năng chi trả, bế tắt đau khổ tột cùng, không còn lối thoát, đến
mức chỉ muốn tự tử. Về thăm mẹ lần cuối, nghe bà khuyên đi tu tôi vẫn quen thói
biện bác hằn học. Tuy nhiên, vật cùng tắt biến, trong phút giây ấy lời của mẹ
như một dòng suối ngọt ngào êm dịu, nhiệm mầu len lỏi vào tâm thức làm cho tôi
xiêu lòng mà không hay.

Để
đánh đổi với cái chết, tôi chấp nhận đi tu. Những tưởng như vậy cho xong chuyện.
Nhưng không ngờ từ đó, nhờ tấm lòng hộ trì của mẹ, sự kiên trì dần dần được bồi
đắp trong tôi. Tôi đã thực hiện thời gian tự tu, tự cai nghiện. Tuy vất vả
nhưng thành công ngoài sức tưởng tượng.

Sau
cơn mưa trời lại sáng. Tôi đã chiến thắng chính mình vượt qua những thói quen
đam mê nghiện ngập và quyết định đầu Phật xuất gia.

Vừa
bước chân vào cổng Thiền viện Thường Chiếu, tự nhiên tôi cảm thấy thân tâm đầy
phúc lạc, thầm phát nguyện phải tu cho đến khi nào thành tựu đạo quả mới thôi.
Dù có ai bù cho tôi hàng triệu cây vàng để ra đời lấy vợ đẹp tôi vẫn cương quyết
từ chối để tu hành. Nhờ vậy, tôi đã đi từng bước vững chắc từ thành công này
cho đến thành công khác.

Thiền
viện
Thường Chiếu là nơi khai sáng tinh thần cho tôi. Với cái nhìn chính chắn,
rõ biết mọi nguyên nhân sai biệt trong cuộc đời. Tất cả đều do chính mình tạo
ra và nhận lấy. Mọi thứ đều có thể tự mình thay đổi và chuyển quá. Nếu nói số
phận đều được sắp đặt cố định, thì giờ đây tôi đã rũ xương trong lao tù nghiện
ngập rồi.

Nếu
không
có được mẹ hiền

Đời
tôi giờ đã ra miền bụi tro.

Nhờ
mẹ đã giúp cho tôi thay đổi cuộc đời từ một người xấu ác để trở thành một người
tu hành. Thế mà gần bảy mươi tuổi, mẹ tôi vẫn còn bán cháo sinh nhai để nuôi
gia đình. Nhớ lại trong Kinh Bổn Sự đức Phật có dạy: “Giả sử có người một vai
cõng cha, một vai cõng mẹ suốt đời không bao giờ dừng nghỉ, lại cung cấp cho
cha mẹ đầy đủ thức ăn, vật dụng, thuốc thang đến trăm ngàn kiếp vẫn chưa đáp đền
được ân đức cha mẹ trọn vẹn”.

Phật
dạy, nếu khuyên cha mẹ quy y Tam bảo gìn giữ năm điều đạo đức thì có thể báo hiếu
cho cha mẹ được trọn vẹn. Vì giữ được giới, thì sẽ an vui hạnh phúc không có vật
chất
nào đánh đổi được. Còn nếu khuyên cha mẹ xuất gia là một cách báo hiếu cao
cả và vẹn toàn nhất.

Nói
đến đây tôi cảm thấy hổ thẹn, bùi ngùi xúc động đối vối công ơn của mẹ. Mãi đến
khi tu học được 9 năm, tôi mới khuyên mẹ xuất gia cùng tu học tại Thiền viện
Thường Chiếu.

Theo
lời dạy của đức Từ Phụ, ai sinh thời không có Phật ra đời, thì cha mẹ là hai vị
Phật hiện liền lúc nào cũng kề cận bên ta. Ơn này không lấy gì có thể đáp đền
trong muôn một, chỉ có cách duy nhấttu hành đến thành Phật mới có thể trả hết
công ơn đã thọ nhận của cha mẹ.

Ơn mẹ

Mới hôm nào còn bé

Giờ con kề năm mươi

Bao lần con mong đợi

Để đền đáp ơn người.

Con tu là nhờ mẹ

Cả cuộc đời thương
con

Không quản ngại thân
gầy

Công ơn này khó đáp.

Mẹ là ánh trăng soi

Xóa tan bao trần lụy

Mẹ cho con tất cả

Bình yên tận cõi
lòng.

Ơn
cha mẹ đã khó đền đáp, lại thêm ơn Thầy, Tổ, bạn lành giúp cho ta biết được điều
hay, lẽ phải, đạo đức làm người. Vì thế: “Cha mẹ làm nên thân, dưỡng nuôi lo vật
chất
, thầy tổ giúp tinh thần, an vui trong tỉnh thức”.

Cha mẹ và Thầy Tổ

Ơn sâu khó đáp đền

Biết ơnđền ơn

Lời Phật dạy xưa nay.

Cha
mẹ
và Thầy Tổ đã giúp cho ta làm mới lại chính mình, để làm người có nhân cách
và phẩm chất tốt đẹp. Thay hình đổi dạng gọi là lột xác, lột bỏ đi những gì cấu
uế
, nhiễm ô, thay thế vào đó những gì trong sạch, để hòa mình vào cộng đồng
hội
, hầu đem lại lợi ích cho tha nhân bằng trái tim yêu thươnghiểu biết.

Lột
xác ở đây chủ yếu là thay đổi tâm thức chuyển mê thành ngộ để sống với tâm Phật
thanh tịnh, sáng suốt và có cách nhìn thông thoáng hơn, cảm thôngtha thứ,
bao dungđộ lượng, giúp đỡ và sẻ chia, hiểu biếtthương yêu, dấn thân và
phục vụ, lợi íchmọi người.

Không thể cầu trời Phật

Hay thần linh thượng
đế

Nếu tự mình vấp ngã

Thì chính mình đứng
lên.

Khi mê thì Phật độ

Khi ngộ thì tự độ

Đó là lý nhiệm mầu

Của tất cả chư Phật.

Do
đó, nói đến lột xác, chúng ta phải hiểu không phải là lột da xẻ thịt mà lột bỏ
những kiến chấp, thành trì cố hữu, thấy biết sai lầm, thiển cậnvô minh che
lấp
. Muốn được như vậy, chúng ta phải có thời gian để quán chiếu, nghiệm xét lại
chính mình. Nhờ đó trí tuệ được phát sanh. Chúng ta sẽ thấy rõ ràng sự vận hành
vũ trụ
theo tiến trình diễn biến của nhân quảcố gắng làm lành lánh dữ với
tinh thần chia vui sớt khổ của Bồ tát Quán Thế Âm.

Rời
xa môi trường đời, tôi sống trong môi trường đạo thì những thói quenlần hồi
được gột tẩy. Tôi gọi quá trình làm mới này là rửa nghiệp lột xác và phát tâm,
phát nguyện chỉ làm những điều có lợi ích thiết thực cho mình và người, nhờ thế thân tâm ngày càng
phúc lạc. Như trong kinh Pháp Cú nói:

Không
làm các việc ác,

Hay
làm các việc lành.

Giữ
tâm không phiền não,


lợi ích
muôn loài.

Tôi
còn nhớ thời gian trước, mỗi lần bị hiếp đáp là tôi tìm mọi cách để trả thù,
sao cho kẻ ấy ít ra cũng bị ê chề như tôi từng gánh chịu. Giờ đây, ý niệm trả
thù
chỉ thoáng qua trong tâm thức. Mỗi lần như thế, tôi thường dùng pháp quán
“báo oán hạnh” để cho ý niệm trả thù trôi theo dòng tâm thức, dần dần mất hút
theo thời gian và tan hoà vào hư không.

“Báo
oán hạnh” là gì? Đó là ta biết chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên, nghịch
cảnh
như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả. Ai gieo nhân nào thì
gặt quả ấy. Trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu, muôn đời không sai
chạy. Nay gặp quả xấu, chuyện chẳng hài lòng, nỗi khổ, niềm đau, buồn, thương,
giận, ghét… Vậy thì bụng làm dạ chịu chứ đổ thừa cho ai. Vui vẻ mà đón nhận khổ
đau, hoan hỷ mà ôm đón nghịch cảnh. Mọi việc rồi cũng sẽ qua nhờ ta biết buông
xả!

Gọi
là “lột xác” cho nó kêu thôi, thật ra là thay đổi tâm mình vậy. Đổi tâm từ trạng
thái
xấu sang trạng thái tốt bằng các phương pháp trong giáo lý nhà Phật. Trong
đó có pháp “báo oán hạnh”.

Lấy
hận thù diệt hận thù

Hận
thù
càng thêm chồng chất

Lấy
tình thương xóa hận thù

Bao
nhiêu oan nghiệt nhiều đời tiêu tan.


THAY LỜI KẾT

Chúng
con cung kính dâng lên thầy

Người
đưa đường chỉ lối cho con

Vượt
qua
khổ luỵ nữa đời

Ngày
nay nhìn lại sáng soi muôn phần.

 Chúng con vô cùng biết ơn sâu sắc đối với
Hoà thượng tôn sư, trụ trì Thiền Viện Thường Chiếu người ta trực tiếp chỉ dạy
và giáo dưỡng cho con thoát khỏi bóng đêm tối tăm với không biết bao mê lầm của
tội lỗi.

 Cùng với công đức cao cả của Hoà thượng
Trúc Lâm, người đã khai sáng và phục hưng dòng Thiền hiện đại Trúc Lâm Yên Tử
Việt Nam với phương châm: “ Học tập, lao động và hành trì.”

 Nơi đây, khung trời Thường Chiếu đã mở
sáng cho tôi từ cách nhìn sai lầm, thiển cận, cho rằng “chết là hết” không có
nhân quả nghiệp báo, không tội cũng không phước. Phật pháp đã cứu đời tôi và chỉ
Phật pháp mới giúp cho nhân loại biết cách làm chủ bản thân để chuyển hoá nỗi
khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc. Giúp cho mọi người thoát khỏi bóng đêm
lầm
của tội lỗi, bằng những lời dạy chân chính, thiết thựcích lợi lâu dài
trong hiện tại và mai sai.

 Đạo Phật là đạo của con người, là đạo của
sự tỉnh thức, là đạo của hiểu biết, vì con ngườiyêu thương đùm bọc giúp đỡ
lẫn nhau trên tinh thần chia vui sớt khổ.

 Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta sống có
trách nhiệm và bổn phận về mọi hành vi tạo tác từ thân, miệng, ý ám làm dám chịu
không đổ thừa cho ai hết. Vì chúng ta biết rõ ràng mọi thành công hay thất bại
trong cuộc đời đều do mình tạo lấy, không ai có quyền xen vô chỗ này.

 Đạo
Phật
đã giúp cho chúng tự tin ở chính mình và tin sâu nhân quả, không ỷ lại hay
nhờ vả vào một đấng thần linh thượng đế hoặc dựa dẫm vào sức mạnh bên ngoài.
Chính bản thân con người cần phải nỗ lực học hỏihành trì bằng hiểu biết
chân chính, đúng đắn thiết thực, lời nói chan hoà, hành động lợi ích vì người
khác.

 Chúng ta vào đời với muôn vàn sự cám dỗ của
tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ ấm… Nó luôn mời gọi quyến
, thôi thúc con người dễ dàng chấp nhận chạy theo, để rồi cuối cùng chuốc hoạ
vào thân làm khổ gia đìnhxã hội, sống một cuộc đời đen tối trong mê lầm tội
lỗi
. Cho nên Tổ Hoàng Bá một Thiền sư nỗi tiếng dạy rằng:

Vượt
khỏi trần lao việc chẳng thường

Nắm
vững đầu dây giữ lập trường

Nếu
chẳng một phen sương thấm lạnh

Hoa
mai đâu dễ ngửi mùi hương.

 Vượt cạn lên bờ được mấy ai? Quả thật là rất
khó, trong cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc để nhận ra Phật tính sáng suốt
nơi chính mình, nhìn lại bao người còn đang gục ngã, để rồi còn lại mình ta bao
nỗi xót xa. Với chút hy vọng trong cuộc chuyển hoá này xin được sẻ chia cùng với
các bạn gần xa, để chúng ta có cơ hội cùng ngồi lại bên nhau hưởng thức hương vị
của hoa mai.

 Chúng con vô cùng biết ơn người mẹ yêu quý
đã sinh ra tám anh em, suốt đời hy sinh, tần tảo sớm hôm, vất vả nhọc nhằn, chịu
khó
, chịu khổ chỉ để mong sau các con khôn lớn trưởng thành.

 Nhưng giờ đây mẹ đã ra đi không sống cùng
với con trẻ nữa, tôi cứ nghĩ mẹ vẫn sống hoài. Nhớ mẹ, chút tâm tình cùng chư
huynh đệ pháp lữ gần xa cho những ai đang còn mẹ mà không biết cung kính hiếu
dưỡng
ngay bây giờ hãy nên suy gẫm lại, để được sống với mẹ bằng trái tim yêu
thương
hiểu biết.

 Nói đến con người là nói đến tình
thương
, là nói đến cái gì thiêng liêng và cao quý nhất, không có gì bằng công
ơn
cha mẹ. Phàm làm người ai cũng từ cha mẹ mà được sinh ra, vì vậy trên thế
gian
này không có công ơn nào bằng công ơn cha mẹ đối với con cái. Nó là mối
dây thâm tình là nguồn năng lực vô biên, là sự kết nối yêu thương bao la hơn trời
biển. Chính chúng tôi cũng nhờ mẹ cứu sống nhiều lần mà ngày nay được an ổn tu
hành
.

 Chúng con vô cùng biết ơn người cha kính
yêu và không quên câu nói nói bất hủ của ông: “ Nếu mày giết người mà làm được
tổng thống thì nên giết, còn không thì thôi.” Thât là diễm phúc cho đời chúng
tôi
đã có được một người cha, người mẹ, người thầy vĩ đại như thế, đã giúp cho
chúng tôi thay đổi cuộc đời tăm tối, làm mới lại chính mình bằng tình yêu
thương
chân thật.

 Chúng tôi vô cùng biết ơn chư huynh đệ pháp
lữ
gần xa, bạn hiền thân hữu đàn na tín thí, cùng với tất cả chúng sinh đã nhiệt
tình trợ duyên và giúp đỡ cho chúng tôithời gian gột rửa lại thân tâm, làm
mới lại chính mình.

 Với lòng biết ơn sâu sắc đó, chúng tôi mạo
muội viết ra những trang sách nhỏ này, mong mỏi được một chút kết nối yêu
thương
, sẻ chia cuộc sống đến với tất cả mọi người với lòng tôn kính vô biên.