Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật

0
32

KINH QUÁN
VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT

Hán dịch :
Lưu Tống, Tam Cương Lương Gia Xá


Việt dịch :
Việt Nam,
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh


(Pháp Hội Quán
Vô Lượng Thọ Phật Thứ 62 Kinh Đại Bảo Tích)

 

Như
vậy, tôi nghe một lúc đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở tại thành Vương Xá
trong núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng đại Tỳ Kheo một ngàn hai trăm năm mươi người
câu hội

Chúng Bồ Tát
có ba vạn hai ngàn, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử đại Bồ Tát làm thượng thủ.

Lúc bấy giờ
thành Vương Xá có một Thái Tử tên là A Xà Thế thuận theo lời bảo của ác hữu
Điều Đạt bắt vua cha Tần Bà Sa La nhốt trong nhà tối bảy từng cửa, cấm các quan
không một ai được vào.

Quốc Thái phu
nhơn tên là Vi Đề Hi cung kính Đại Vương, tắm gội sạch sẽ, lấy tô và mật nhồi
mì sợi rồi trét lên thân, trong hột chuỗi ngọc đeo đựng nước nho, đi vào ngục
thăm Đại Vương kín đáo dân lên.

Đại Vương Tần
Bà Sa La
ăn mì uống nước nho rồi xin nước súc miệng. Súc miệng xong. Đại Vương
chắp tay cung kính hướng về núi Kỳ Xà Quật vói đãnh lễ Thế Tôn mà bạch rằng : “Tôn
gỉa Đại Mục Kiền Liênthân hữu của tôi, nguyện hưng từ bi truyền thọ giới
Bát Quan Trai cho tôi”.

Liền đó Tôn
gỉa Đại Mục Kiền Liên như chim ưng bay mau đến chỗ vua, truyền giới bát Quan
Trai
cho vua.

Ngày ngày đều
như vậy, đến truyền giới cho vua.

Đức Thế Tôn
cũng sai Tôn gỉa Phú Lâu Na đến vì vua mà thuyết pháp.

Thời gian như
vậy trải qua hai mươi mốt ngày, Đại Vương Tần Bà Sa La ăn mì mật, uống nước
nho, lại được thọ giới Bát Quan Trai, được nghe thuyết pháp nên nhan sắc vua
hòa vui.

A Xà Thế hỏi
người giữ cửa ngục rằng : “Hôm nay Phụ Vương ta vẫn còn sống ư ?”.

Người giữ cửa
ngục tâu rằng : “Tâu Đại Vương ! Quốc Thái phu nhơn trên thân trét mì mật,
trong chuỗi ngọc đựng nước nho đem dâng lên vua. Còn có Sa Môn Đại Mục Kiền
Liên
Phú Lâu Na đi từ trên hư không đến vì vua thuyết pháp chẳng thể cấm cản
được”.

A Xà Thế nghe
lời
ấy giận mẹ mình rằng : “Mẹ ta là giặc làm bạn với giặc. Sa Môn ác nhơn
huyễn hoặc chú thuật khiến ác vương ấy nhiều ngày mà chẳng chết”.

A Xà Thế liền
cầm gươm bén muốn giết mẹ.

Lúc ấy có một
đại thần tên là Nguyệt Quang thông minh nhiều trí cùng với Kỳ Bà đến lễ vua A
Xà Thế
mà tâu rằng : “Tâu Đại Vương ! Chúng thần nghe Tỳ Đà Luận kinh nói từ
kiếp sơ đến nay có các ác vương vì tham ngôi vua mà giết hại cha mình đến số
một vạn tám ngàn. Chưa từng nghe nói có kẻ vô đạo hại mẹ. Nay Đại Vương làm sự sát
nghịch nầy ô uế dòng Sát Đế Lợi. Chúng thần chẳng nỡ nghe. Đây là Chiên Đà La.
Chúng tôi chẳng nên còn ở lại nơi đây”.

Hai vị đại
thần tâu rồi lấy tay vỗ lên gươm đeo lui mà ra.

A Xà Thế kinh
sợ hãi hùng bảo Kỳ Bà rằng : “Còn anh cũng chẳng vì ta chăng ?”.

Kỳ Bà tâu
rằng : “Đại Vương cẩn thận chớ có hại mẹ”.

A Xà Thế nghe
lời
ấy sám hối cầu cứu liền bỏ gươm thôi không hại mẹ, truyền lịnh cho nội quan
nhốt mẹ vào thâm cung chẳng cho ra nữa.

Vi Đề Hi bị
giam
nhốt rồi sầu lo tiều tụy vói hướng về núi Kỳ Xà Quật lạy Phật mà nói rằng
: “Ngày trước đức Như Lai Thế Tôn thường sai Tôn gỉa A Nan đến thăm hỏi tôi. Nay
tôi sấu lo, đức Thế Tôn oai trọng không sao được thấy. Duy nguyện đức Thế Tôn
sai các Tôn gỉa Đại Mục Kiền LiênA Nan đến cho tôi được thấy”.

Nói xong, Vi
Đề Hi
buồn khóc lệ rơi như mưa vói hướng lạy Phật, trong khoảng thời gian chưa
cất đầu lên.

Đức Thế Tôn
núi Kỳ Xà Quật biết tâm niệm của Vi Đề Hi liền bảo Đại Mục Kiền LiênA Nan
đi trên hư không. Đức Phật từ núi Kỳ Xà Quật ẩn mất hiện ra nơi vương cung.

Vi Đề hi lạy
rồi ngước đầu lên thấy Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật thân màu tử kim ngồi trên
hoa sen trăm báu. Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên hầu bên tả, Tôn gỉa A Nan hầu bên hữu.
Trong hư không hàng Phạm Vương, Đế Thích, Hộ Thế Tứ Vương mua hoa trời khắp nơi
để cúng dường.

Vi Đề Hi thấy
Phật Thế Tôn liền tự bứt chuỗi ngọc cả thân mình giao xuống đất kêu khóc
hướng Phật mà chạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Xưa tôi tội gì mà sanh đứa ác tử
ấy. Đức Thế Tôn lại có nhơn duyên gì mà cùng làm quyến thuộc với Đề Bà Đạt Đa.
Duy nguyện đức Thế Tôn vì tôi mà nói rộng những xứ không có lo khổ tôi sẽ vãng sanh,
tôi không còn thích cõi Diêm Phù Đề trược ác thế nầy. Xứ trược ác nầy đầy những
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhiều khối bất thiện. Nguyện tôi đời vị lai chẳng
nghe danh từ ác, chẳng thấy người ác. Nay tôi hướng về Thế Tôn năm vóc gieo
xuống đất cầu thương cho tôi sám hối. Duy nguyện Phật Nhựt dạy tôi quán nơi xứ
nghiệp hành thanh tịnh”.

Đức Thế Tôn
phóng ánh sáng giữa hai mày, ánh sáng ấy màu chơn kim chiếu khắp mười phương
lượng
thế giới trở về trụ tại đỉnh đầu Phật hóa làm đài chơn kim lớn như núi Tu
Di
, bao nhiêu quốc độ thanh tịnh vi diệu của mười phương chư Phật đều hiện rõ
trong đài vàng ấy. Hoặc có quốc độ thất bữu hiệp thành. Hoặc có quốc độ thuần là
liên hoa. Lại có quốc độ như tự tại Thiên cung. Lại có quốc độ như gương pha
. Có vô lượng quốc độ chư Phật như vậy trang nghiêm xinh đẹp khiến Vi Đề Hi
được thấy.

Vi Đề Hi bạch
Phật
rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Dầu các Phật độ ấy đều thanh tịnh đều có quang
minh
. Nay tôi thích sanh về Cực Lạc thế giới chỗ của đức Phật A Di Đà.

Duy nguyện
dức Thế Tôn dạy tôi tu duy, dạy tôi chánh thọ”.

Đức Thế
Tôn
liền mĩm cười có ánh sáng ngũ sắc từ miệng Phật phóng ra, mỗi mỗi ánh sáng
chiếu đỉnh đầu vua

Tần Bà Sa La.

Dầu bị giam
cầm ngục tối, tâm nhãn vua không chướng ngại xa thấy đức Thế Tôn, vua đầu mặt
lạy Phật tự nhiên tăng tiến đạo lực thành bực A Na Hàm.

Đức Phật bảo
Vi Đề Hi : “Nay Thái phu nhơn có biết chăng ?

Phật A Di Đà
cách đây chẳng xa, bà nên nhiếp niện quán kỹ cõi nước ấy thì tịnh nghiệp được
thành.

Nay ta sẽ vì
bà mà nói rộng pháp quán, cùng khiến đời vị lai tất cả hàng phàm phu, những
người muốn tu tịnh nghiệp được thọ sanh Tây phương Cực Lạc quốc độ.

Nầy Vi Đề Hi
! Người muốn sang nước Cực Lạc ấy nên tu ba phước:

Một là hiếu
nuôi cha mẹ, kính thờ bực Sư trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập
mười nghiệp lành.

Hai là thọ
trì
tam quy y đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi.

Ba là phát
tâm
Bồ đề sâu kín nhơn quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa và khuyên dạy sách tiến
người tu hành.

Ba sự như vậy
gọi là tịnh nghiệp.

Nầy Vi Đề Hi
! Nay bà có biết chăng ? Ba tịnh nghiệp ấy là chánh nhơn tịnh nghiệp của tam
thế chư Phật
quá khứ, vị lai, hiện tại.

Đức Phật bảo
A NanVi Đề Hi rằng : “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ. Nay Như
Lai
vì tất cả chúng sanh đời vị lai, những kẻ bị giặc phiền não nhiễu hại mà
nói nghiệp thanh tịnh.

Lành thay cho
Vi Đề Hi khéo hỏi được việc ấy.

Nầy A Nan !
Ông nên thọ trì rộng vì đại chúng mà tuyên nói lời Phật.
Hôm nay Phật vì
Vi Đề Hivị lai tất cả chúng sanh quán nơi Tây phương Cực Lạc quốc độ, do
nguyện lực Phật nên sẽ được quốc độ thanh tịnh ấy như cầm gương sáng tự thấy hình
tượng
mặt mình. Thấy những sự vui cùng cực vi diệu của quốc độ ấy nên tâm vui
mừng
liền được Vô sanh pháp nhẫn”.

Đức Phật bảo
Vi Đề Hi : “Bà là phàm phu tâm tưởng yếu kém chưa được thiên nhãn chẳng
thể thấy được xa. Chư Phật Như Laiphương tiện lạ khiến bà được thấy”.

Vi Đề Hi bạch
Phật
rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Như hôm nay tôi nhờ oai lực của đức Phật Thế
Tôn
mà được thấy quốc độ Cực Lạc ấy. Nếu sau khi đức Phật Thế Tôn diệt độ, các
chúng sanh trược ác bất thiện bị ngũ khổ bức ngặt, họ làm thế nào có thể được
thấy A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới ?”.

Đức Phật bảo
Vi Đề Hi : “Bà và chúng sanh nên phải chuyên tâm buộc niệm một chỗ tưởng nơi
phương Tây.

Tưởng niệm
thế nào ?

Tất cả chúng
sanh
những người có mắt sáng mà chẳng phải là kẻ sanh manh thì đầu thấy mặt
nhựt lặn cả.

Phàm người tu
tập
quán tưởng nên phát khởi tưởng niệm, ngồi ngay thẳng hướng về phía Tây quán
kỹ chỗ mặt nhựt sắp lặn khiến tâm niệm trụ vững chuyên tưởng nhớ chẳng đời.
Thấy mặt nhựt sắp lặn đang như mặt trống đồng treo. Đã thấy mặt nhựt rồi, nhắm
mắt mở mắt đều khiến phải sáng tỏ. Đây là nhựt tưởng, gọi là pháp quán ban
đầu
.

Kế đó quán
tưởng
nước. Thấy nước đứng trong, cũng khiến phải sáng tỏ, ý tưởng không phân
tán, đã thấy nước rồi nên quán tưởng băng, thấy băng chói suốt tưởng làm lưu ly.
Tưởng nầy thành rồi thấy đất lưu ly trong ngoài suốt chói, phía dưới có trăng
vàng kim cương thất bữu bưng chống đất lưu ly. Kim tràng ấy tám phương đầy đủ
tám cạnh. Mỗi mỗi phương diện do trăm châu báu làm thành. Mỗi mỗi bửu châu có
ngàn ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có tám vạn bốn ngàn màu chói đất lưu ly sáng
như ức ngàn mặt nhựt chẳng thể thấy đủ hết được.

Trên đất lưu
ly
có dây hoàng kim xen kết lẫn lộn với thất bữu giăng phân ranh giới chừng
ngằn ngang rộng phân minh. Trong mỗi mỗi thất bữu ấy có ánh sáng ngũ sắc. Anh
sáng ấy như đoá hoa lại có như sao như trăng lững lờ trên hư không tụ thành đài
ánh sáng. Có ngàn vạn lầu các do trăm báu hiệp thành. Hai bên đài đều
riêng có trăm ức hoa tràng với vô lượng nhạc khí dùng làm trang nghiêm. Tám thứ
gió mát từ ánh sáng phát ra xao động các nhạc khí ấy vang ra tiếng diễn nói khổ
không
, vô thường, vô ngã.

Đây là thủy
tưởng
gọi là pháp quán thứ hai.

Lúc quán
tưởng
nầy đã thành phải mỗi mỗi sự quán thấy thiệt rất rõ ràng. Lúc nhắm mắt
lúc mở mắt chớ để tan mất, chỉ trừ lúc ăn, thường nhớ sự ấy. Như tưởng quán ấy gọi
là thô thấy đất Cực Lạc quốc độ. Nếu được tam muội thì thấy đất cõi nước Cực
Lạc
tỏ rõ phân minh chẳng thể nói đủ hết. Đây là địa tưởng gọi là pháp quán thứ
ba.

Đức Phật bảo
Tôn giả A Nan : “Nầy A Nan !Ông thọ trì lời Phật vì đời vị lai tất cả đại chúng
những người muốn thoát khổ mà nói pháp quán địa ấy. Nếu người quán địa ấy thì
trừ được tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp, bỏ thân hiện tại, đời khác quyết
định
thọ sanh quốc độ thanh tịnh, tâm được không nghi.

Quán tưởng
đây gọi là chánh quán. Nếu quán tưởng khác thỉ gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo
Tôn giả A NanVi Đề Hi : “Địa quán thành rồi, kế tưởng bửu thọ.

Người quán
cây báu phải quán mỗi mỗi cây. Tưởng bảy lớp hàng cây báu. Mỗi cây báu cao tám
ngàn do tuần. các cây báu ấu đều đầy đủ bông lá bảy báu. Mỗi mỗi bông lá
tưởng màu khác lạ. Trong màu lưu ly phóng ánh sáng màu hoàng kim. Trong màu pha
phóng ánh sáng màu hồng. Trong màu mã não phóng ánh sáng màu xa cừ.
Trong màu xa cừ phóng ánh sáng màu lục chơn châu. San hô hổ phách tất cả các
báu dùng làm chói đẹp. Màn lưới diệu chơn châu giăng che trên cây báu. Trên mỗi
mỗi cây báu có bảy lớp màn lưới. Khoảng mỗi mỗi lưới có năm trăm ức cung điện
xinh đẹp vi diệu như cung Trời Phạm Vương, có các thiên đồng tử tự nhiên
trong ấy. Mỗi mỗi đồng tử có năm trăm ức châu ma ni Thích ca tỳ lăng già dùng
là chuỗi đeo. Anh sáng mỗi châu ma ni ấy chiếu trăm ức do tuần, dường như hòa
hiệp ánh sáng của trăm ức nhựt nguyệt chẳng thể kể hết. Các báu xen lẫn màu sắc
sáng đẹp nhứt trong các màu sắc.

Các cây báu
ấy hàng hàng ngay nhau, lá lá kế nhau. Giữa khoảng các lá sanh những hoa vi
diệu
. Trên hoa tự nhiên có quả thất bửu. Mỗi mỗi lá cây ngang rộng đều hai mươi
lăm do tuần. Lá ấy có ngàn màu trăm thứ lằn vẽ như chuỗi ngọc Trời. Có những
hoa vi diệu màu diêm phù đàn kim như vòng lửa xoay chói sáng uyển chuyển khoảng
giữa lá, vọt sanh những quả như bình báu của Thiên Đế Thích, phóng đại quang
minh
hóa thành tràng phanvô lượng lọng báu. Trong lọng báu ấy chói hiện tất
cả Phật sự trong toàn cõi thế giới, thập phương thế giới chư Phật cũng hiện
bóng trong lọng báu ấy.

Thấy bửu thọ
ấy rồi cũng phải mỗi mỗi quán sát thấy thân cây nhánh lá bông trái đều phải
phân minh.

Đây là thọ
tưởng gọi là pháp quán thứ tư.

Kế nên tưởng
nước.

Người muốn
tưởng nước nên biết Cực Lạc thế giới có ao nước bát công đức. Mỗi mỗi ao nước
bảy báu làm thành. Báu ấy như nhuyến từ như ý châu vương sanh chia làm mười bốn
chi, mỗi mỗi chi làm sắc đẹp bảy báu. Hoàng kim làm lòng ao. Dưới lòng ao có
kim cương nhiều màu làm cát trắng đáy.

Trong nước
mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều
mười hai do tuần. nước ma ni chảy rót trong khoảng lá theo thân cây sen mà lên
xuống phát ra âm thanh vi diệu diễn nói khổ, không, vô thượng, vô ngã, các Ba
la mật
, còn có tiếng tán thán tướng hảo của chư Phật.

Như ý châu
vương phóng ra ánh sáng vi diệu màu hoàng kim. Ánh sáng ấy hóa ra các giống
chim màu trăm báu hòa hót êm nhã thường tán thán niệm Phật, niệm Phật, niệm
Tăng
.

Đây là tưởng
nước bát công đức gọi là pháp quán thứ năm.

Trong quốc độ
Cực Lạc diệu bửu ấy, mỗi mỗi khu vực có năm trăm ức lầu báu. Trong lầu các ấy
vô lượng chư Thiên trỗi thiên kỹ nhạc. Còn có nhạc khí treo ở hư không như bửu
tràng cõi Trời chẳng đánh tự kêu. Trong các âm thanh ấy đều diễn nói niệm Phật,
niệm Phật, niệm Tỳ Kheo Tăng.

Pháp tưởng
nầy thành rồi gọi là thô thấy Cực Lạc thế giới bửu thọ, bửu địa và bửu trì đây
là tổng quán tưởng gọi là pháp quán thứ sáu.

Nếu thấy như
vậy thì trừ vô lượng ức kiếp cực trọng ác nghiệp, sau khi mạng chung quyết định
sanh nước Cực Lạc.

Quán đây gọi
là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo
A nanVi Đề Hi : “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ đó. Ta sẽ vì các
người phân biệt giải thuyết pháp trừ khổ não. Các người ghi nhớ thọ trì rộng vì
đại chúng phân biệt giải thuyết”.

Lúc đức Thích
Ca Mâu Ni
Thế Tôn nói lời ấy, Phật Vô Lượng Thọ hiện đứng trên hư không, Quan
Thế Âm
Bồ Tát đứng hầu bên tả, Đại Thế Chí Bồ Tát đứng hầu bên hữu, ánh sáng
chói rực chẳng thể thấy rõ hết, trăm ngàn lần màu vàng diêm phù đàn kim chẳng
thể sánh được.

Vi Đề Hi thấy
Phật Vô Lượng Thọ rồi tiếp túc lễ lạy.

Lễ lạy xong,
Vi Đề Hi bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi nhơn oai lực Phật mà được
thấy Vô Lượng Thọ Như Lai cùng hai Đại Sĩ Quan Thế Âm Bồ TátĐại Thế Chí Bồ
Tát
. Đời vị lai các chúng sanh sẽ phải thế nào quán thấy Phật Vô Lượng Thọ
hai Bồ Tát ấy ?”.

Đức Phật bảo
Vi Đề Hi : “Người muốn quán Phật Vô Lượng Thọ thì nên hởi tưởng niệm : ở trên
mặt đất thất bửu tưởng có hoa sen, trên mỗi mỗi cánh hoa tưởng màu bá bửu có
tám vạn bốn ngàn đường gân dường như bức họa cõi Trời, mỗi đường gân có tám vạn
bốn ngàn ánh sáng tỏ rõ rành rẽ đều được thấy cả. Cánh hoa nhỏ nhứt ngang rộng
hai trăm năm mươi do tuần, toàn hoa sen ấy có đủ tám vạn bốn ngàn cánh. Khoảng
mỗi cánh hoa có trăm ức ma ni vương ấy phóng ra ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy như
lọng bảy báu hiệp thành che khắp mặt đất. Đài hoa sen ấy bằng báu thích ca tỳ
lăng gìa, có tám vạm kim cương chân thúc ca bửu, phạm ma ni bửu và lưới
diệu chơn châu dùng để nghiêm sức. Ơ trên đài ấy tự nhiên có bốn trụ bửu
tràng, mỗi mỗi bửu tràng cao lớn như trăm ngàn muôn ức núi Tu Di. Trên bửu
tràng có màn báu như Dạ Ma Thiên cung còn có năm trăm ức bửu châu vi diệu để
làm sáng đẹp. Mỗi mỗi bửu châu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng
làm tám vạn bốn ngàn kim sắc nhiều loại lạ khác nhau. Mỗi mỗi kim sắc khắp cả cõi nước Cực Lạc nơi nơi biến hóa đều riêng làm những tướng hình
khác lạ : hoặc làm đài kim cương, hoặc làm lưới chơn châu, hoặc làm mây
nhiều loại hoa, nơi mười phương diện tùy ý biến hiện ra làm Phật sự.

Đây là tưởng
toà ngồi hoa sen, gọi là pháp quán thứ bảy.

Nầy A Nan !
Hoa sen vi diệu như vậy là do bổn nguyện lực của Pháp Tạng Tỳ Kheo, tiền thân
Phật Vô Lượng Thọ cảm thành. Nếu người muốn niện đức Phật ấy thì phải trước
tưởng
hoa tòa ấy. Lúc quán tưởng chẳng được tạp quán. Đều phải quán mỗi mỗi chi
tiết
, mỗi mỗi cánh hoa, mỗi mỗi bửu châu, mỗi mỗi ánh sáng, mỗi mỗi đài, mỗi
mỗi tràng đều phải phân minh, như thấy tượng mặt mình hiện trong gương. Pháp
tưởng nầy thành diệt trừ trăm muôn ức kiếp tội sanh tử, tất định sẽ sa Cực Lạc
thế giới
. Quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo
A NanVi Đề Hi : “Thấy hoa tòa rồi kế nên tưởng Phật. Tại sao vậy ? Vì chư
Phật Như Lai
là thân pháp giới vào khắp trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh,
nên lúc các người tâm tưởng Phật, tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tám mươi tùy
hình hảo
, tâm ấy làm Phật tâm ấy là Phật. Chư Phật Chánh Biến Tri hải từ tâm
tưởng sanh, vì vậy nên nhứt tâm buộc niệm quán kỹ đức Phật ấy, đức Như Lai Ứng
Cúng
Chánh Biến Tri.

Người muốn
tưởng đức Phật ấy trước nên tưởng hình tượng. Thấy một bửu tượng màu như vàng
diêm phù đàn ngồi trên hoa tòa kia. Thấy tượng Phật ngồi rồi tâm nhãn được khai
thông, tỏ rõ phân minh thấy quốc độ Cực Lạc thất bửu trang nghiêm, đất báu, ao
báu, cây báu bày hàng. Màn lưới báu cõi Trời giăng che phía trên, các màn lưới
báu đầy khắp hư không, thấy sự như vậy khiến rất rõ ràng như thấy trong lòng
bàn tay. Thấy sự ấy rồi lại nên tưởng một hoa sen lớn ở bên tả tượng Phật như
trước không khác. Rồi lại tưởng một hoa sen lớn như trước ở bên hữu tượng Phật.
Rồi tưởng một tượng Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi tòa sen bên tả cũng kim sắc như
trước. Rồi tưởng một tượng Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi tòa sen bên hữu. Lúc
pháp tưởng nầy thành rồi tượng Phật và tượng Bồ Tát đều phóng ánh sáng. Anh
sáng ấy kim sắc chiếu những bửu thọ. Dưới mỗi mỗi bửu thọ đều có ba tòa hoa
sen
, tượng Phật và tượng hai Bồ Tát ngồi trên ấy, như vậy khắp cả quốc độ Cực
Lạc
.

Lúc pháp
tưởng nầy đã thành, hành gỉa nên nghe nước chảy, ánh sáng, các bửu thọ, những
chim cưu nhạn uyên ương đều diễn nói diệu pháp, lúc xuất định lúc nhập định
luôn nghe diệu pháp. Pháp được nghe trong định lúc xuất định nhớ giữ chẳng bỏ
phải khế hiệp với lời trong kinh. Nếu chẳng hiệp thì gọi là vọng tưởng. Nếu
hiệp thì gọi là thô tưởng thấy Cực Lạc thế giới.

Đây là tượng
tưởng gọi là pháp quán thứ tám. Quán pháp nầy trừ được vô lượng ức kiếp tội
sanh tử. Nơi thân hiện tại được niệm Phật tam muội”.

Đức Phật bảo
A NanVi Đề Hi : “Kế lại nên quán Phật Vô Lượng Thọ thân tướng quang minh. A
Nan
phải biết Phật Vô Lượng Thọ thân như trăm ngàn muôn ức sắc vàng diêm phù đàn
Trời Dạ Ma, thân Phật cao sáu mươi muôm ức na do tha hàng hà sa do tuần, bạch
hòa giữa hai mày xoay bên hữu uyển chuyển như năm tòa núi Tu Di, mắt Phật như
bốn đại hải xanh biếc và trắng phân minh. Các lỗ lông nơi thân Phật phóng ánh
sáng ra như núi Tu Di. Viên quang của Phật ấy như trăm ức Đại Thiên thế giới.
Trong viên quang ấy có trăm vạn ức na do tha hàng hà sa Hóa Phật. Mỗi mỗi Hoá
Phật
cũng có đông nhiều vô số Hóa Bồ Tát làm thị gỉa. Thân Phật Vô Lượng Thọ
tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi mỗi tướng đều riêng có tám vạn bốn ngàn tùy hình
hảo
. Trong mỗi mỗi hình hảo còn có tám vạn bốn ngàn quang minh, mỗi mỗi quang
minh chiếu
khắp thập phương thế giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ
sót
. Quang minh tướng hảoHóa Phật ấy chẳng thể nói đủ hết, chỉ nên nhớ
tưởng khiến tâm nhãn được thấy. Thấy sự ấy liền thấy thập phương tất cả
chư Phật. Vì thấy chư Phật nên gọi là niệm Phật tam muội.

Quán tưởng
đây gọi là quán thân tất cả Phật, vì quán thân Phật nên cũng thấy tâm Phật .
Phật tâmđại từ bi tâm, dùng từ vô duyên nhiếp thọ các chúng sanh.

Người tu quán
nầy, bỏ thân đới khác sanh trước chư Phật được vô sanh nhẫn. Vì vậy nên người
trí phải buộc niệm quán kỹ Vô Lượng Thọ Phật. Người quán Vô Lượng Thọ Phật từ
một tướng hảo mà vào, chỉ quán lông trắng giữa hai mày khiến tất tỏ rõ. Được
thấy lông trắng rồi thì tâm vạn bốn ngàn tướng hảo tự nhiên sẽ hiện. Thấy Phật
Lượng Thọ
liền thấy vô lượng chư Phật mười phương. Vì thấy vô lượng chư Phật
nên được chư Phật hiện tiền thọ ký.

Đây là khắp
quán tưởng tất cả các sắc thân Phật gọi là pháp quán thứ chín. Quán như đây gọi
là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo
A NanVi Đề Hi : “Đã thấy Vô Lượng Thọ Phật tỏ rõ phân minh rồi kế cũng nên
quán Quán Thế Âm Bồ Tát.

Bồ Tát nầy
thân cao tám mươi vạn ức na do tha do tuần, thân màu tử kim, đỉnh có nhục kế,
cổ có viên quang mỗi phương diện đều trăm ngàn do tuần. trong viên quang có năm
trăm Hoá Phật như Thích Ca Mâu Ni. Mỗi mỗi Hoá Phật có năm trăm Hóa Bồ Tát
vô lượng chư Thiên làm thị giả. Trong ánh sáng toàn thân hiện tất cả sắc tướng
của chúng sanh trong ngũ đạo. Trên đỉnh có thiên quang bằng tỳ lăng gìa ma ni
bửu. Trong thiên quang có một Hóa Phật đứng cao hai mươi lăm do tuần. mặt cúa
Quan Thế Âm Bồ Tát như màu vàng diêm phù đàn. Lông trắng giữa hai mày đủ màu
thất bửu chiếu ra tám vạn bốn ngàn thứ ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có vô lượng
vô số trăm ngàn Hóa Phật. Mỗi mỗi Hóa Phậtvô số hóa Bồ Tát làm thị giả biến
hiện tự tại khắp thập phương thế giới. Cánh tay màu như hoa sen hồng có tám mươi
ức ánh sáng vi diệu làm chuỗi đeo. Trong chuỗi đeo ánh sáng ấy khắp hiện tất cả
trang nghiêm. Bàn tay màu năm trăm ức hoa sen đẹp. Bàn tay mười đầu ngón mỗi
mỗi đầu ngón có tám vạn bốn ngàn lằn dường như ấn văn. Mỗi mỗi lằn có tám vạn
bốn ngàn màu, mỗi mỗi màu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy mềm dịu
chiếu khắp tất cả. Bồ Tát dùng tay báu nầy tiếp dẫn chúng sanh. Lúv Bồ Tát cất
chưn lên, dưới lòng bàn chưn có tướng thiên bức luân tự nhiên hóa thành năm
trăm ức đài quang minh. Lúc để chưn xuống có hoa kim cương ma ni rải rác tất cả
không chỗ nào là chẳng đầy khắp. Các tướng khác nơi thân Bồ Tát đầy đủ những
hình hảo như thân Phật không khác, chỉ có nhục kế trên đỉnh và vô kiến đảnh
tướng chẳng bằng Thế Tôn. Đây là tướng sắc thân chơn thiệt của Quan Thế Âm Bồ
Tát
gọi là quán pháp thứ mười. Nếu người muốn thấy Quan Thế Âm Bồ Tát nên tu
quán
ấy. Tu quán ấy thì chẳng gặp các tai họa, trừ sạch nghiệp chướng, trừ tội sanh
tử
trong vô số kiếp. Quan Thế Âm Bồ Tát ấy chỉ nghe danh hiệu còn được phước
lượng
huống là quán kỹ. Nếu người muốn quán Quan Thế Âm Bồ Tát thì trước quán nhục
kế
sau quán thiên quang. Các tướng khác cũng theo thứ tự mà quán kỹ đều phải tỏ
như nhìn trong bàn tay. Quán như đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì
gọi là tà quán.

Kế đó quán
Đại Thế Chí Bồ Tát.bt nầy thân tượng lớn nhỏ đều đồng như Quan Thế Âm Bồ Tát.
Viên quang mỗi mặt đều một trăm hai mươi lăm do tuần chiếu hai trăm năm mươi do
tuần
. Ánh sáng toàn thân chiếu thập phương quốc độ màu tử kim. Chúng sanh
duyên thảy đều được thấy. Chỉ thấy ánh sáng một lỗ lông của Bồ Tát nầy liền
thấy quang minh tịnh diệu vô lượng chư Phật mười phương, vì vậy nên đặt hiệu Bồ
Tát
nầy là Vô Biên Quang. Dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp tất cả khiến lìa tam
đồ
được vô thượng lực nên Bồ Tát nầy có tên là Đại Thế Chí.

Thiên quang
của Đại Thế Chí Bồ Tát có năm trăm hoa báu, mỗi mỗi hoa báu có năm trăm đài
báu, trong mỗi mỗi đài, tướng dài ngắn của quốc độ thanh tịnh vi diệu chư Phật
mười phương
đều hiện rõ. Nhục kế trên đỉnh như hoa bát đấu ma, trên nhục kế
một bình báu đựng các ánh sáng khắp hiện Phật sự. Các thân tướng khác như Quan
Thế Âm
không khác.

Lúc Đại Thế
Chí Bồ Tát
đi, thập phương thế giới tất cả chấn động. Đương lúc đất động có năm
trăm ức hoa báu, mỗi mỗi hoa báu trang nghiêm cao rõ như Cực Lạc thế giới. Lúc
Bồ Tát nầy ngồi, quốc độ thất bửu đồng thời dao động. Từ hạ phương Kim Quang
Phật thế giới nhẫn đến thượng phương Quang Minh Vương Phật thế giới,
trong khoảng giữa ấy vô lượng vô số phân thân Vô Lượng Thọ Phật, phân thân Quan
Thế Âm
Bồ Tát, phân thân Đại Thế Chí Bồ Tát thảy đều vân tập Cực Lạc thế giới
chật đầy hư không ngồi tòa liên hoa diễn nói diệu pháp độ khổ chúng sanh. Tu
pháp
quán nầy gọi là quán thấy Đại Thế Chí Bồ Tát. Đây là quán thấy tướng sắc
thân
thiệt Đại Thế Chí gọi là pháp quán thứ mười một. Quán Đại Thế Chí Bồ Tát
trừ vô số kiếp vô số tội sanh tử. Người tu quán nầy chẳng còn ở bào thai thường
du hành quốc độ thanh tịnh vi diệu chư Phật.

Pháp quán nầy
thành rồi gọi là đầy đủ quán Quan Thế Âm Bồ TátĐại Thế Chí Bồ Tát.

Lúc thấy sư
ấy rồi nên khởi tư tâm sanh nơi Tây phương Cực Lạc thế giới trong hoa sen ngồi
kiết già
, tưởng hoa sen búp lại, tưởng hoa sen nở ra. Lúc hoa sen nở có ánh
sáng năm trăm màu chiếu đến thân. Tưởng mắt mở ra thấy Phật và Bồ Tát đầy cả
không
, nước chim cây rừng cùng chư Phật phát ra âm thanh đều diễn nói diệu pháp
hiệp với mười hai bộ kinh. Lúc xuất định nhớ giữ không mất. Thấy sự nầy rồi gọi
là thấy Vô Lượng Thọ Phật. Cực Lạc thế giới. Đây là phổ quán tưởng gọi là pháp
quán thứ mười hai. Vô Lượng Thọ Phật hoá thân vô số cùng Quan Thế Âm Bồ Tát Đại
Thế Chí
Bồ Tát thường đến chỗ hành nhơn ấy”.

Đức Phật bảo
A NanVi Đề Hi : “Người muốn chí tâm sanh Cực Lạc thế giới trước nên quán
tượng
Phật Vô Lượng Thọ cao một trượng sáu xích ở trên mặt nước ao báu.

Như trước đã
nói Vô Lượng Thọ Phật thân lượng vô biên chẳng phải tâm lực của phàm phu kịp
được. Nhưng do nguyện lực đời trước của đức Như Lai ấy nên ai có tâm nhớ tưởng thì
ắt được thành tựu. Chỉ tưởng tượng Phật được phước vô lượng, huống là quán đủ
thân tướng của Phật.

A Di Đà Phật
thần thông như ý nơi mười phương quốc độ biến hiện tự tại. Hoặc hiện thân lớn
đầy trong hư không, hoặc hiện thân nhỏ một trượng sáu xích. Thân hình Phật hiện
ra đều màu chơn kim, viên quang Hoá Phậthoa sen báu như đã nói ở trên. Quan
Thế Âm
Bồ TátĐại Thế Chí Bồ Tát ở tất cả xứ thân đồng với chúng sanh. Chỉ
quán
tướng trên đầu biết là là Quan Thế Âm hay Đại Thế Chí. Hai đại Bồ
Tát
ấy trợ Phật A Di Đà khắp hóa độ tất cả. Đây là tạp tưởng quán gọi là pháp
quán thứ mười ba”.

Đức Phật bảo
A NanVi Đề Hi : “Người sanh Cực Lạc thế giới, bực thượng phẩm thượng sanh
ấy. Nếu có chúng sanh nguyện sanh Cực Lạc thế giới phát ba thứ tâm liền được
vãng sanh.

Những gì là
ba tâm ?

Một là chí
thành
tâm. Hai là thâm tâm và ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Người đủ ba tâm
này ắt sanh Cực Lạc thế giới.

Còn có ba
hạng chúng sanh sẽ được vãng sanh.

Những gì là
ba hạng ?

Một là từ tâm
bất sát
đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Ba là
tu hành lực niệm hồi hướng phát nguyện nguyện sanh Cực Lạc.

Người đủ các
công đức nầy từ một ngày đến bảy ngày liền được vãng sanh.

Lúc sanh về
nước ấy, vì người nầy tinh tiến dũng mãnh nên A Di Đà Như Lai cùng Quan Thế Âm,
Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn Tỳ Kheo Thanh Văn đại chúng, vô lượng
chư Thiên
, cung điện bảy báu. Quan Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cương cùng Đại Thế
Chí Bồ Tát
đến trước hành nhơn. A Di Đà Phật phóng đại quang minh chiếu
thân hành giả cùng các Bồ Tát trao tay nghinh tiếp. Quan Thế Âm, Đại Thế Chí
cùng vô số Bồ Tát tán thán hành giả khuyến khích sách tiến tâm hành giả thấy
rồi hoan hỷ dũng dước tự thấy thân mình ngồi đài kim cương đi theo sau Phật.
Như khoảng khảy ngón tay vãng sanh nước Cực Lạc. Sanh nước Cực Lạc rồi thấy sắc
thân
Phật A Di Đà đầy đủ các tướng. Thấy chu Bồ Tát sắc tướng đầy đủ. Quang
minh
cây rừng báu diễn nói diệu p. nghe rồi liền ngộ Vô sanh pháp nhẫn. Trong thời
gian
giây lát đi khắp thập phương thế giới kính thờ chư Phật. Ở trước chư Phật
thứ đệ thọ ký. Trở về bổn quốc được vô lượng trăm ngàn đà la ni. Đây gọi là
người thượng phẩm thượng sanh.

Người thượng
phẩm trung sanh
ấy. Người nầy bất tất thọ trì đọc tụng kinh điển phương đẳng
Đại thừa. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Người có
công hạnh như vậy, lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí ,
vô lượng đại chúng vây quanh cầm đài tử kim đến trước hành giả khen rằng : Nầy
Pháp tử ! Ngươi hành Đại thừa hiểu đệ nhứt nghĩa nên nay ta đến nghinh tiếp
ngươi. Đức Phật A Di Đà cùng ngàn Hóa Phật đồng thời trao tay. Hành giả ấy tự
thấy mình ngồi đài tử kim, chắp tay xếp cánh tán thán chư Phật. Như khoảng một
niệm liền sanh nước Cực Lạc trong ao thất bửu,. Đài tử kim ấy như hoa sen lớn
qua một đêm liền nở. Thân hành giả màu vàng tử ma, dưới chưn cũng có hoa
sen
bảy báu.

Phật và Bồ
Tát
đồng thời phóng quang chiếu thân hành giả mắt liền mở sáng. Nhơn túc tập
trước nên khắp nghe ác âm thanh thuần nói thậm thâm đệ nhứt nghĩa đế. Hành giả
ấy liền xuống kim đài lạy Phật chắp tay tán thán Thế Tôn, qua bảy ngày liền
được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, liền có thể bay đi khắp mười phương
kính thờ chư Phật, ở trước chư Phật tu các tam muội, qua một tiểu kiếp được
sanh nhẫn
hiện tiến thọ ký. Đây gọi là người thượng phẩm trung sanh vậy.

Người thượng
phẩm
hạ sanh ấy. Người nầy cũng tin nhơn quả chẳng hủy báng Đại thừa, chỉ phát
tâm
Vô thượng Bồ đề. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới.

Hành giả ấy
lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và chư Bồ Tát cầm hoa
sen
vàng hóa làm năm trăm Phật đến rước. Năm trăm Hóa Phật đồng thời trao
tay khen rằng : Nầy Pháp tử. Nay ngươi thanh tịnh phát tâm Vô thượng Bồ đề, ta
đến rước ngươi. Hành giả lúc thấy sự ấy liền tự thấy thân mình ngồi kim liên
hoa. Ngồi rồi hoa búp lại theo sau Phật liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới
trong ao thất bửu. Qua một ngày một đêm kim liên hoa mới nở. Qua bảy ngày mới
được thấy Phật. Dầu thấy thân Phật mà chẳng thấy tỏ rõ các tướng hảo. Sau hai
mươi mốt ngày mới thấy rõ hết. Nghe các âm thanh đều diễn diệu pháp, đi khắp
mười phương cúng dường chư Phật. Ở trước chư Phật nghe thậm thâm pháp. Qua ba
tiểu kiếp được bá pháp minh môn trụ bực Hoan hỉ địa. Đây gọi là người thượng
phẩm
hạ sanh vậy.

Đây gọi là
pháp tưởng hàng thượng phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười bốn”.

Đức Phật bảo
A NanVi Đề Hi : “Người trung phẩm thượng sanh ấy.

Nếu có chúng
sanh
thọ trì ngũ giới, trì bát giới trai, tu hành các giới chẳng tạo ngũ nghịch
không có các tội lỗi. Đem thiện căn nầy nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Hành giả
lúc lâm chung, A Nan Di Đà Phật cùng các Tỳ Kheo quyến thuộc vây quanh phóng
ánh sáng kim sắc đến chỗ hành giả diễn nói khổ không vô thường vô ngã tán thán
xuất gia được lìa các sự khổ. Hành giả thấy rồi lòng rất vui mừng tự thấy thân
mình ngồi đài liên hoa quỳ dài chắp tay đảnh lễ Phật, lúc chưa cất đầu lên liền
được vãng sanh Cực Lạc thế giới, liên hoa liền nở. Lúc hoa sen nở nghe các âm
thanh
tán thán tứ đế liền được A La Hán đạo tam minh, lục thông, đủ bát giải
thoát
. Đây gọi là người trung phẩm thượng sanh vậy.

Người trung
phẩm
trung sanh ấy.

Nếu có chúng
sanh
hoặc một ngày một đêm trì bát giới trai, hoặc một ngày một đêm trì giới Sa
di
, hoặc một ngày một đêm trì Cụ Túc giới oai nghi không kém thiếu. Đem công
đức
nầy hồi hướng nguyện cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới.

Do giới hương
huân tu, hành giả nầy lúc lâm chung thấy A Di Đà Phật cùng các quyến thuộc
phóng kim sắc quang cầm bửu liên hoa đến trước hành giả. Hành giả tự nghe
không
có tiếng khen rằng : Nầy thiện nam tử ! Như ngươi hàng thiện nhơn tùy
thuận
lời dạy tam thế chư Phật nên ta đến rước. Hành giả tự thấy thân mình ngồi
trên hoa sen, hoa sen liền búp lại sanh trong ao báu Tây phương Cực Lạc thế
giới
. Qua bảy ngày liên hoa mới nở. Hoa nở rồi mở mắt chắp tay tán thán Thế
Tôn
, nghe pháp hoan hỉ được quả Tu Đà Hoàn. Qua nửa kiếp thành bực A La Hán.
Đây gọi là người trung phẩm trung sanh vậy.

Trung phẩm hạ
sanh ấy.

Nếu có thiện
nam thiện nữ
hiếu dưỡng cha mẹ làm việc nhơn từ thế gian. Người nầy lúc
lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói rộng những sự vui nơi quốc độ Phật A
Di Đà
cũng nói bốn mươi tám nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo, nghe rồi liền chết.
Ví như khoảng thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền được vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày gặp Quan Thế Âm
Đại Thế Chí Bồ Tát, nghe pháp hoan hỷ được quả Tu Đà Hoàn. Qua một tiểu kiếp
thành A La Hán. Đây gọi là người trung phẩm hạ sanh vậy.

Đây gọi là
pháp tưởng hạng trung phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười lăm”.

Đức Phật bảo
A NanVi Đề Hi : “Người hạ phẩm thượng sanh ấy.

Hoặc có chúng
sanh
tạo những nghiệp ác. Người ngu như vậy dầu chẳng hủy báng kinh điển Phương
đẳng
Đại thừa mà tạo nhiều việc ác không có tàm quí. Người nầy lúc lâm chung gặp
thiện tri thức vì họ mà nói mười hai bộ kinh Đại thừa danh tự đầu đề. Do nghe
tên các kinh như vậy dứt trừ ngàn kiếp ác nghiệp cực trọng. Trí giả lại bảo
chắp tay xếp cánh xưng Nam
A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trù năm mươi ức kiếp tội sanh tử.
Lúc ấy Phật A Di Đà liền sai Hóa Phật, hóa Quan Thế Âm, hóa Đại Thế Chí đến
trước hành giả khen rằng : Nầy thiện nam tử ! Vì ngươi xưng danh hiệu Phật các
tội tiêu diệt ta đến rước ngươi. Nghe nói lời ấy rồi, hành giả liền thấy quang
minh
của Hóa Phật chiếu sáng cả nhà. Thấy rồi hoan hỉ mang chung ngồi bửu liên
hoa
theo sau Hoá Phật sanh trong ao báu Cực Lạc thế giới. Qua bốn mươi chín
ngày hoa sen báu mới nở. Đương lúc hoa nở, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ TátĐại Thế
Chí Bồ Tát
phóng đại quang minh đứng trước người ấy, vì người ấy nói thậm thâm
Thập nhị bộ kinh. Người ấy nghe rồi tin hiểu phát vô thượng đạo tâm. Qua mưo82i
tiểu kiếp đủ bá pháp minh môn được nhập bực Sơ địa. Đây gọi là người hạ phẩm
thượng sanh vậy”.

Đức Phật bảo
A NanVi Đề Hi : “Người hạ phẩm trung sanh ấy.

Hoặc có chúng
sanh
hủy phạm ngũ giới bát giớicụ túc giới. Người ngu nầy trộm của vật Tăng
kỳ
, trộm của vật hiện tiền Tăng, bất tịnh thuyết pháp, không có tâm quý, dùng các
ác nghiệp để tụ trang nghiêm. Người tộu như đây do nghiệp ác phải đọa địa ngục,
lúc lâm chung các lửa địa ngục đồng thời hiện đến. Gặp thiện tri thức vì lòng đại
từ bi
vì người ấy mà khen nói thập lục oai đức của đức Phật A Di Đà, rộng khen
quang minh thần lực của đức Phật A Di Đà, cũng tán dương giới, định, huệ, giải thoát,
giải thoát tri kiến. Người ấy nghe rồi trừ tám mươi ức kiếp tội sanh từ. Lửa
mạnh địa ngục biến thành gió mát thổi các thiên hoa bay đến. Trên hoa đều có
Hoá Phật, Hóa Bồ Tát tiếp rước người ấy. Trong khoảng mộ niệm liền được sanh
trong hoa sen nơi ao báu Cực Lạc thế giới. Hoa sáu kiếp hoa sen mới nở. Quan
Thế Âm
Bồ TátĐại Thế Chí Bồ Tát dùng phạm âm thanh an úy người ấy, vì người
ấy mà nói kinh điển Đại thừa thậm thâm. Nghe pháp ấy rồi, người ấy liền phát
tâm
vô thượng đạo. Đây gọi là người hạ phẩm trung sanh vậy”.

Đức Phật bảo
A NanVi Đề Hi : “Người hạ phẩm hạ sanh ấy.

Hoặc có chúng
sanh
tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện. Người ngu như
vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu
ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy
bảo
niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu
ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà,
như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy
: Nam
A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp
tội sanh tử. Lúc mạng chung thấy kim liên hoa dường như mặt nhựt trụ trứơc
người ấy. Như khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa
sen
mãn mười hai đại kiếp hoa sen ấy mới nở. Quan Thế Âm Bồ TátĐại Thế Chí
Bồ Tát
dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thiệt tướng các pháp, nói pháp
trừ diệt tội. Người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền phát tâm Vô thượng Bồ
đề
. Đây gọi là người hạ phẩm hạ sanh.

Đây gọi là
pháp tưởng hạng hạ phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười sáu vậy”.

về mười sáu
pháp quán ấy, liền lúc đó thấy tướng rộng lớn Cực Lạc thế giới. Được thấy sắc
thân
Phật A Di Đà và hai Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, lòng rất hoan hỷ khen
chưa từng có. Vi Đề Hi hoát nhiên đại ngộ được Vô sanh nhẫn. Năm trăm thị nữ
phát tâm Vô thượng Bồ đề nguyện sanh Cực Lạc thế giới. Đức Thế Tôn thọ ký đều sẽ
vãng sanh. Sanh nước Cực Lạc rồi được chư Phật hiện tiền tam muội. Còn có
lượng chư Thiên
phát tâm vô thượng đạo.

Lúc bấy giờ
Tôn gỉa A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Kinh
nầy sẽ gọi tên là gì ? Pháp yếu nầy sẽ thọ trì như thế nào ?”.

Đức Phật nói
: “Nầy A Nan ! kinh nầy tên là Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quan Thế
Âm
Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.

Cũng có tên
là Tịnh trừ nghiệp chướng sanh chư Phật tiền.

Ông nên thọ
trì
như vậy chớ để quên mất.

Người hành
tam muội nầy thì thân hiện đời được thấy Vô Lượng Thọ Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát,
Đại Thế Chí Bồ Tát.

Nếu thiện
nam
, thiện nữ chỉ nghe danh hiệu Phật A Di Đà, nghe danh hiệu Quan Thế Âm Bồ
Tát
, nghe danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát thì trừ vô lượng kiếp tội sanh từ, huống
là nhớ niệm.

Nếu là người
niệm Phật, nên biết người ấy là hoa phân đà lợi trong loài người. Quan Thế Âm
Bồ TátĐại Thế Chí Bồ Tátthắng hữu của người ấy. Người ấy sẽ ngồi đạo
tràng
sanh vào nhà chư Phật”.

Đức Phật bảo Tôn
giả A Nan
: “Nầy A Nan ! Ngươi phải trì lời nầy cho tốt. Người trì lời nầy tức
trì danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật”.

Phật nói kinh
nầy rồi, Tôn giả Mục Kiền Liên, Tôn giả A NanVi Đề Hi cùng thị nữ quyến
thuộc
nghe lời đức Phật dạy tất cả đều rồi vui mừng.

Bấy giờ đức
Thế Tôn
chân đi trên hư không trở về núi Kỳ Xà Quật.

Tôn giả A Nan
đại chúng nói rộng sự ấy. Vô lượng chư Thiên, Bát Bộ nghe lời Phật nói đều
rất vui mừng lạy Phật lui ra.

HẾT

Vi tính: Phật tử: Dương Thị Chính
Pháp danh: Diệu Phẩm