Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 58)

0
33

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 58)



Pháp Sư Tịnh Không


 


PHẨM 4


PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA


(Tiếp theo)


Kinh
văn:


Giả linh cúng dường hằng sa thánh


Bất như kiên dũng cầu chánh giác”.


Đoạn
kinh văn này là nói rõ A Di Đà Phật tu hành phát nguyệnnhân địa. Kinh văn
phân thành sáu đoạn nhỏ. Đoạn nhỏ thứ nhất là “nguyện văn đồng Phật”, đoạn thứ
hai là “huệ siêu bỉ ngạn”, đoạn thứ ba là “như Phật cứu khổ”, đoạn thứ tư là
“tất linh thành Phật”. Những chỗ này chúng tôi đã giới thiệu qua. Trên đây là
đoạn thứ năm “kiên dũng cầu chánh giác”.


Kinh
văn tuy là chỉ có hai câu nhưng ý nghĩa rất sâu, hiện tiền chúng ta phải nên
học tập. Từ trên bề mặt của kinh văn mà thấy, gần như là tu cúng dường không
quan trọng lắm, cầu chánh giác là quan trọng, nhưng trên thực tế thì hai việc
này đều quan trọng như nhau. Tuy là đều như nhau, trong đây vẫn là có phân ra
chủ khách. Câu phía trước là nói tu phước, câu phía sau là nói tu huệ. Phật
pháp
, đặc biệtPhật pháp Đại thừa, Thế Tôn luôn dạy chúng ta phước huệ song
tu, hai việc này đều là ngang nhau, không thể nào chấp trước, phải nên đồng thời
tu học, hỗ tương lẫn nhau mới có thể chứng được quả vị viên mãn. Chúng ta
trong kệ Tam Quy, đọc đến “quy y Phật nhị túc tôn”, chữ “nhị” này chính là tu
phước
tu huệ, hai câu này, hai loại này đều đạt đến cứu cánh viên mãn. Có
thể thấy được Ngài tuyệt nhiên không hề xem nhẹ việc cúng dường. Tại vì sao ở
ngay chỗ này Phật muốn nói hai câu nói này? Hai câu này là hết lòng hết dạ
khuyên bảo chúng ta, tu phước vạn nhất không nên quên đi tu huệ, không có phước
báo
của trí tuệ thì là giả, không phải là thật. Chúng ta bình lặng mà quán sát,
tỉ mỉ mà tư duy, không có phước báo của trí tuệ thì khi hưởng phước không thể
nào không tạo nghiệp, phước hưởng hết rồi phần nhiều là đoạ ba đường, phước báo
đó rất lớn, không phải là phước báo thông thường.


Khoảng
hai tuần trước, có đồng tu đưa cho tôi xem một bản tin tức mới, đó là bản tin
từ báo chí đại lục Trung Quốc. Bản tin nói rằng cuối năm nhà Thanh, có sáu nhân
vật lớn hiện đã biến thành thân heo, trong đó có Viên Thế Khải, Lý Hồng Chương,
đây đều là nhân vật nổi tiếng trên lịch sử. Làm sao biết được họ biến thành
heo? Con heo này khi sanh ra, trên thân heo có tên của họ, thật kỳ lạ! Đây là
nói rõ tu phước không tu huệ. Khi còn ở nhân gian hưởng hết phú quí của nhân
gian
rồi, sau khi chết vẫn chưa đến một thế kỷ đã rơi vào trong cõi súc sanh,
biến thành thân heo. Việc này đã cho chúng ta một cảnh giác cao độ, nói rõ tu
huệ
còn quan trọng hơn tu phước, thế nhưng quyết định không nên hiểu lầm cho
rằng chúng ta không cần tu phước, bạn có cách nghĩ như vậy thì bạn sai rồi. Bồ
Tát Phổ Hiền
trong Hạnh Nguyện Phẩm nói với chúng ta (lời nói này tuy là nói
với Thiện Tài Đồng Tử, Thiện Tài Đồng Tửđại biểu cho chúng ta, nói với Ngài
chính là với chúng ta): “Thiện nam tử, chư cúng dường trung, pháp cúng dường
tối”
, đây là “cúng dường hằng sa thánh”. Hằng sa là nói số lượng, hằng hà
sa số
. Ấn Độ có một con sông lớn là sông Hằng, cát của sông Hằng rất mịn. Tôi
chưa đi qua Ấn Độ, có không ít đồng tu đến Ấn Độ bái thánh mang về cát sông
Hằng
cho tôi xem, đích thực giống như bột mì, không giống như cát bên đây của
chúng ta, cát ở đó mịn hơn cát của chúng ta nhiều. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa
ở đời, thời gian ở hai bên bờ sông Hằng giảng kinh nói pháp rất lâu, cho nên
phàm hễ nói đến số lượng lớn, Phật đều dùng cát sông Hằng để làm thí dụ. Số cát
sông Hằng
bất tận không đếm hết. Đây là nói giả sử bạn đã từng cúng dường thánh
nhân
số lượng nhiều như cát sông Hằng. Thánh nhân ở chỗ này, thông thường là
chỉ Bồ Tát Địa Thượng, cũng chính là từ Sơ Địa trở lên. Cúng dường những thánh
chúng
này, phước báo đó rất lớn rất rộng, ở chỗ này Phật nói trái lại “không
bằng kiên dũng cầu chánh giác”. Phước báo lớn đến như vậy quyết định sẽ không
đoạ ba đường, bạn là chân thật cúng dường thánh hiền thì làm sao có thể đoạ vào
ba đường? Đoạ ba đường phần nhiều là phước báo trời người, phước báo hữu lậu,
nếu như cúng dường Phật Bồ Tát thì quyết định không đến đoạ lạc, thế nhưng
“không bằng kiên dũng cầu chánh giác”. Đạo lý này chúng ta phải tường tận.


Chúng
ta
nói đến cúng dường trước. Ngày nay chúng ta học Phật, tu hành, hoằng pháp
lợi sanh, thực tế ra mà nói là phước báo của chúng ta không đủ, do đó làm bất
cứ việc gì đều có chướng ngại, đều có khó khăn. Những chướng nạn này chính là
nói rõ phước báo của chúng ta rất mỏng, ngay trong đời quá khứ không có tu
phước
, ngay trong đời này cũng xem thường tu phước. Thế nhưng chúng ta hiểu rõ
tường tận, những việc lợi ích tất cả chúng sanh vẫn là phải làm, những sự việc
này đều là thuộc về phía cúng dường tu phước. Tu phước nhất định phải học Phật
Bồ Tát. Phật Bồ Táttrí tuệ cao độ, hoàn toàn không giống như phàm phu chúng
ta
. Phàm phu tu phước luôn luôn là tính toán từng li từng tí, luôn không thể
lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Bố thí tài vật cúng dường, trong
lòng luôn là nghĩ đến là số tiền này có phải họ chân thật đã làm việc tốt hay
không? Thí dụ, ngày trước thế gian này có rất nhiều khu vực xảy ra tai nạn,
nước lụt, hạn hán, cũng có không ít đoàn thể từ thiện ở nơi đây quyên mộ để cứu
tế
. Luôn luôn có một số người suy nghĩ là việc cứu tai là việc tốt, tiền quyên
của tôi có thể đến được tay của người bị nạn hay không? Có khi nào bị họ lạm
dùng hết hay không? Cái ý niệm này vừa khởi thì không dám bố thí, không bằng
lòng cúng dường, lo sợ tiền này không đến được trên tay của người dân bị nạn.
Loại tình huống này có hay không? Có, nếu như mỗi người đều có loại quan niệm
này thì còn ai đi cứu tế? Không phải là để cho những người dân ở nơi đó chịu
khổ chịu nạn hay sao? Bồ Tát cứu người gặp tai nạn không hề suy nghĩ, không hề
lo lắng. Chúng ta quyên góp cho họ, họ lấy đó mà chiếm lợi riêng thì đó là nhân
quả
của họ; chúng ta dùng tâm thanh tịnh bố thíphước báo của chúng ta, ta
được phước, họ chịu nhân quả. Sau khi bạn hiểu rõ đạo lý này, không luận người
khác có đem tiền đó đưa đến tay của những người dân bị nạn hay không, sự việc
này chúng ta đều phải nên làm, không chút lo lắng mà làm, phước báo của bạn là
viên mãn, phước báo của bạn là thanh tịnh. Chỉ cần bạn rơi vào trong phân biệt
chấp trước, bạn xem, cơ hội tu phước sẽ lỡ qua ngay trước mặt bạn.


Singapore
có một vị pháp sư tên là Đàm Thiền, tôi rất tôn kính đối với ông và ông quan hệ
rất tốt với Lý hội trưởng. Tôi đã đến thăm ông rất nhiều lần. Con người này
chính mình tu hànhtu khổ hạnh, ông ở chỉ là một cái phòng nhỏ, quần áo mặc
là vải bố bình thường, ăn cơm chỉ một món, rất đơn giản, nước uống là nước máy.
Chúng tôi đến thăm viếng ông, ông đi mua một bình nước suối, đó là kính ý cao
nhất mà ông tiếp đãi khách. Mua một bình nước khoáng cho tôi, chính ông thì
uống nước máy. Ông giúp đỡ rất lớn đối với Phật pháp đại lục Trung Quốc, Mỹ kim
mà ông gởi đi quyên góp từng trăm ngàn từng trăm ngàn. Sau khi quyên rồi, hỏi
cũng không thèm hỏi. Tiền tôi đã quyên cho anh rồi, anh có đem đi làm việc tốt
hay không là nhân quả của anh, không liên quan gì với tôi, anh chân thật
Phật pháp làm việc thì anh có phước, nếu anh mang đi chính mình hưởng thụ thì
tương lai anh đoạ địa ngục A Tỳ, tôi không biết việc gì. Đây là ở hải ngoại tôi
thấy được một vị pháp sư như vậy. Chân thật là hiếm có, chúng ta không thể sánh
được với ông. Tiền của ông từ đâu mà có? Ông ở trong miếu Thành Hoàng, trông
coi
miếu, cho nên gọi ông là miếu chủ. Ở trong miếu ông bày ra một ít hương,
giấy, đèn sáp. Người ta đến miếu Thành Hoàng để thắp hương, tiền bán hương đèn
sáp, một đồng hai đồng, như vậy mà tích góp lại. Một phân tiền ông cũng không
đem đi hưởng thụ, toàn bộ bố thí làm công đức. Ông là người xuất gia mô phạm
của thời đại chúng ta, hành nghi của ông là Bồ Tát thị hiện. Đời sống của chúng
ta
dư giả hơn nhiều so với ông, bạn xem người ta làm là gì? Chúng ta làm là như
thế nào? Bày hương ra ở nơi đó để bán, từng cắc từng xu, một đồng hai đồng,
chính mình một ngày từ sớm đến tối niệm A Di Đà Phật, tâm không lìa miệng,
miệng không lìa tâm. Bạn xem thấy ông là một người xuất gia rất thông thường,
bạn không biết được là thánh hiền thị hiện. Cho nên nói đây là đáng được cho
chúng ta bắt chước, đáng được cho chúng ta học tập.



tại gia học Phật, Lý Mộc Nguyên là Bồ Tát. Bạn xem, đời sống của ông đơn
giản
đến cỡ nào! Từng xu từng hào ông đều tiết kiệm. Phật dạy chúng ta tích
phước, dạy chúng ta tích lũy công đức, ông chân thật đã làm được, ông không chỉ
nói, ông thật đã làm được. Miệng nói thì có ích gì chứ! Cần phải đem nó thực tiễn.
Những người hiện tại xem thấy đời sống của ông rất thanh khổ, còn chính ông thì
cảm thấy an vui không gì bằng, tiền đồ một mảng sáng lạn, tương lai quyết định
sanh thế giới Cực Lạc, thật có thể nắm lấy cơ hội đến thế giới Cực Lạc để làm
Phật
. Hiện tại tuy là chưa đi, tôi xem thấy ông đã đang làm Phật rồi. Việc ông
làm đều là việc của Phật làm.


Bồ
Tát Phổ Hiền
nói với chúng ta, ngay trong tất cả cúng dường, tài cúng dường
không bằng pháp cúng dường. Thế nhưng người thế gian xem trọng tài, họ có lòng
tham, cho nên tài cúng dườngphương tiện, pháp cúng dườngmục đích. Phật
Bồ Tát giáo hoá chúng sanh, lợi ích chúng sanh, chúng sanh không nhận biết Phật
Bồ Tát, chúng sanh không biết Phật Bồ Tát chân thật lợi ích, nên Phật Bồ Tát
cũng phải tùy thuận chúng sanh, “hằng thuận chúng sanh”, trước dùng tài bố thí
cho bạn. Nhà Phật thường gọi là “tiên dĩ lợi dục khiên”, đến tiếp dẫn, dẫn dắt
bạn; “hậu linh nhập Phật trí”, sau khiến cho vào trí Phật là pháp bố thí, cho
nên tài bố thíphương tiện, sau cùng pháp bố thímục đích, cho bạn lợi
ích
chân thật, cho bạn lợi ích vô tận. Sau đó bạn mới biết được Phật Bồ Tát từ
bi
đến cùng tột, bạn mới chân thật biết được ân đức to lớn của Phật Bồ Tát, mãi
mãi
không thể báo đáp.


Tài
bố thí, các vị đều biết được, Phật nói với chúng ta tất cả chúng sanh thế gian,
không chỉ là địa cầu của chúng ta, mà mười phương ba đời vô lượng vô biên thế
giới
tất cả chúng sanh, có ai mà không muốn có tiền của? Có người nào mà không
muốn chính mình có trí tuệ? Có người nào mà không muốn khoẻ mạnh sống lâu? Đây
là tất cả chúng sanh đều đang mong cầu, đồng tu học Phật mong cầu, tín đồ các
tôn giáo khác cũng mong cầu, bạn có thể cầu được hay không? Đáp án là khẳng
định, thế nhưng trong đó có lý luận, có phương pháp. Đúng lý đúng pháp mà cầu thì
tất cả đều cầu được. Nhà Phật thường nói: “Phật thị môn trung, hữu cầu tắc
ứng”. Bạn xem, bạn cầu làm Phật đều có thể cầu được, huống hồ những danh vọng
lợi dưỡng của thế gian. Theo cách nhìn của nhà Phật, đây chỉ là việc ngoài da,
dễ dàng có được, làm gì mà cầu không được? Bạn cần phải biết phương pháp
luận
. Lý luậnđạo lý nhân quả. Bạn được tiền của, được thông minh, được khỏe
mạnh sống lâu, đó là quả báo. Quả ắt có nhân, nếu bạn tu nhân, bạn mới có thể
được quả báo. Nhân của tiền của là gì vậy? Là tài bố thí. Việc này người thế
gian
không hiểu. Bạn có tài bố thí cho người khác, càng bố thí bạn được tiền
của
càng nhiều. Chúng ta xem thấy thế gian này có rất nhiều người phát tài to,
quyết không phải là vận may của họ, quyết không phải là họ thông minh, quyết
không phải là họ dùng thủ đoạn, mà là đời trước trồng được cái nhân thù thắng,
ngay đời này cho dù họ kinh doanh nghề nghiệp gì họ đều sẽ phát tài. Trong mạng
của họ có tài khố do nhân trồng đời trước, phải hiểu đạo lý này. Vậy đời trước
chúng ta không có trồng nhân thì phải làm sao? Hiện tại trồng vẫn kịp, hiện đời
trồng cũng có thể thu hoạch. Không trồng mà muốn thu hoạch, không có đạo lý
này. Hiện tại mọi người nói đến tình hình kinh tế đang bị ảnh hưởng, nhiều việc
cướp giật, hành hung. Bạn đi ăn trộm thì trong mạng cũng đã có, trong mạng
không có mà đi ăn trộm cũng không thể trộm được. Trong mạng chúng ta không có
mà đi ăn trộm, vẫn chưa trộm được thì đã bị cảnh sát bắt đi rồi. Đồ mà bạn trộm
được vẫn là trong mạng của bạn có, vậy thì bạn hà tất phải đi trộm. Cho nên nhà
Phật nói: “Một ngụm nước một bữa ăn đều do tiền định”. Đó là chân lý,
lời nói này không phải là lời giả dối. Nếu bạn muốn chính mình có được tiền của
thì bạn phải tu tài bố thí, nếu bạn muốn được thông minh trí tuệ thì bạn phải
tu pháp bố thí, nếu bạn muốn khỏe mạnh sống lâu thì bạn nhất định phải tu bố
thí
vô uý.


Tôi
26 tuổi học Phật. Đạo lý này là đại sư Chương Gia truyền cho tôi. Tôi vô cùng
tôn kính đối với lão sư, y giáo phụng hành. Đời trước tôi không có tu tài bố
thí
, cho nên ngay đời này đời sống rất là gian khổ. Đời trước một đời, ba loại
bố thí này, đại khái tôi chỉ tu pháp bố thí, cho nên tôi còn có được thông minh
trí tuệ. Tôi không có phước báo, tôi cũng không có thọ mạng. Ngày trước có rất
nhiều người xem tướng đoán mạng cho tôi, ngay đến Hàn Quán Trưởng cũng đi xem
mạng cho tôi, bà lấy tám chữ của tôi để đưa người đoán mạng. Sau khi đoán rồi
người ta cảm thấy kỳ quái, liền hỏi Quán trưởng là con người này vẫn còn sao?
Vào lúc đó đại khái tôi cũng sắp gần 50 tuổi rồi. Có thể thấy được người đoán
mạng cũng không tệ, đoán xem cũng tương đối chuẩn. Họ hỏi bà là con người này
vẫn còn sao? Bà nói, người này vẫn còn. Người đoán mạng lắc đầu, kỳ lạ, con
người
này vì sao mà vẫn còn được? Kết quả người đoán mạng hỏi là ông ấy làm
những việc gì? Bà nói, ông ấy xuất gia. Oh! Người xuất gia thì miễn bàn rồi.
Hay nói cách khác, nếu không xuất gia thì 45 tuổi chết rồi, điều này không hoài
nghi
.


Người
xuất gia, thực tế mà nói, cũng không bảo đảm được. Cùng xuất gia với tôi, cùng
đồng thời thọ giới, huynh đệ chúng tôi có ba người là tôi, pháp sư Minh Diễn và
pháp sư Pháp Dung. Có thể các vị đều không quen biết, ba người chúng tôi
cùng một tuổi, hơn nữa ba người đều là đoản mạng. Người xem tướng đoán mạng đều
nói ba người chúng tôi đều không thể sống qua được 45 tuổi. Cho nên năm 45 tuổi
đó, khoảng tháng hai, tháng ba thì pháp sư Pháp Dung qua đời, vào tháng năm thì
pháp sư Minh Diễn ra đi, đến tháng bảy thì tôi bị bệnh. Tôi nghĩ tôi cũng phải
đi rồi. Chúng tôi đều không tệ, khi Pháp Sư Minh Diễn ra đi, ông ấy tự mình đi
đến Tổng y viện Dinh Dân để châm cứu, bước vào phòng châm cứu nửa giờ sau thì
ông đi, cho nên ông không có bệnh khổ, chính mình ngồi xe công cộng để đến
phòng châm cứu, bước vào phòng châm cứu nửa giờ sau thì ra đi. Đây đều là tu
hành
vẫn xem là có được chút công phu. Thế nhưng tôi vào năm đó, chính ngay lúc
tôi đang ở Hạ An, ở tại chùa Cơ Long Đại Giác, Lão hoà thượng của chùa Đại Giác
mời tôi giảng kinh Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm rất dài, mười quyển tôi giảng
xong ba quyển thì bị một trận cảm mạo nặng, bệnh hết một tháng. Cả đời tôi đều
không bị bệnh, khi bị bệnh thì nghĩ là thời gian đã đến rồi. Trước đây hai
người đã đi rồi, lần này chắc là đến lượt tôi. Tôi nghĩ, nếu tôi phải chết rồi,
bác sĩ chỉ có thể trị bệnh, không thể trị mạng, tôi hiểu được đạo lý này, cho
nên tôi liền niệm Phật cầu vãng sanh, tôi không đi bác sĩ khám, cũng không uống
thuốc, mỗi ngày ăn một chút cháo lỏng. Vào lúc đó Hàn Quán Trưởng chăm sóc tôi,
đợi để vãng sanh. Như vậy mà qua hết một tháng, sức khỏe dần dần hồi phục lại,
khỏi bệnh. Sau khi khỏi rồi, mãi đến về sau không hề bị bệnh.


Lần
này bị bệnh, nghĩ lại do nguyên nhân gì? Tôi chiếm cứ thời gian của các bạn học
sinh
. Cho nên kinh Hoa Nghiêm không giảng nữa, để thời gian này nhường lại, để
cho các học sinh ở nơi đây luyện tập giảng kinh. Kinh Hoa Nghiêm của tôi dời
đến phòng học nhỏ lầu tám của Tịnh Tông Học Hội để giảng. Bởi vì chúng ta giảng
kinh
, mục đích chủ yếu là làm ra đĩa VCD, tương lai cung cấp cho đài truyền
hình sử dụng. Ý niệm này của tôi vừa khởi lên, bệnh của tôi liền khỏi, không hề
có bệnh gì. Nghĩ lại rất có đạo lý, là do tôi chiếm cứ thời gian của các vị.


Phàm
việc gì đều có nhân quả. Nhân quảchân lý, là định luật, chúng ta phải hiểu
được đạo lý này. Cho nên ba loại bố thí đều tu, ba loại quả báo đều hiện tiền.
Bản thân tôi là hiện thân nói pháp cho các vị. Tôi không có cầu tuổi thọ, tôi
cũng không có cầu phước báo, sau khi xuất gia, tôi liền dạy ở Phật Học Viện,
liền từ nơi công tác hoằng pháp lợi sanh, 40 năm chưa hề gián đoạn. Không cầu
bất cứ thứ gì, thế nhưng phước báo tự nhiên liền hiện tiền. Có một năm Đài Bắc
cử hành pháp hội Nhân Vương Hộ Quốc, tôi giảng kinh Nhân Vương hết hai mươi
ngày. Ngay trong pháp hội gặp được Cam Châu Hoạt Phật, đây là một đại đức Mật
Giáo
Tây Tạng và cũng là bạn cũ rất tốt với tôi. Sau khi gặp mặt rồi, ông nói
với tôi (tuổi tác của ông lớn hơn tôi, đại khái lớn hơn tôi khoảng 10 tuổi): “Pháp
à, ông qua đây
”. Tôi hỏi: “Có việc gì ạ, thưa Phật gia?”. Ông
nói: “Những năm tháng gần đây, công đức giảng kinh nói pháp của ông rất lớn.
Ông vốn dĩ không có phước báo, về sau phước báo của ông rất lớn, không những
phước báo rất lớn, mà thọ mạng rất dài, vốn dĩ ông đoản mạng
”. Tôi nói: “Những
việc này Ngài không nói tôi cũng biết được, tôi cũng thấu hiểu, tôi cũng
ràng
”. Phước báo rất lớn, tuổi thọ rất dài. Tôi cũng không có cầu phước,
cũng không có cầu thọ mạng. Ngạn ngữ Trung Quốc thường nói: “Làm Hoà thượng một
ngày, đánh chuông một ngày”, sống ở thế gian một ngày, vì Phật pháp làm việc
một ngày. Thái độ này của tôi hoàn toàn giống với cư sĩ Lý Mộc Nguyên, sống một
ngày thì vì Phật phápchúng sanh phục vụ một ngày, quyết định không có chính
mình, cho nên chính mình thanh tịnh tự tại. Vì chính mình rất mệt, vì người
khác thì không mệt, sự việc làm thành công rồi thì mọi người có phước, làm
không thành công thì mọi người thiếu phước, thì không còn cách gì. Chính mình
nhất định không có ý niệm được mất, bạn liền sẽ sống được rất tự tại. Đây là ở
ngay trong Phật pháp tiếp nhận giáo huấn của lão sư, đạt được lợi ích chân
thật
.


Tôi
vào cửa Phật là do nghe một câu nói của lão sư, tiên sinh Đông Phương Mỹ nói
với tôi: “Học tập Phật pháp là hưởng thụ cao nhất của nhân sanh”, tôi bị
câu nói này của thầy thức tỉnh. Tôi rất muốn hưởng thụ cái hưởng thụ cao nhất
của nhân sanh, nếu đã có thì tôi đương nhiên phải học, tôi không để lỡ qua nhân
duyên
này. Tu học của 47 năm, tôi chân thật có được, cho nên trong lòng tôi
luôn cảm ân đối với lão sư. Phòng học giảng đường của chúng ta, tôi đều cúng
dường
di ảnh của lão sư, không luận ở bất cứ nơi nào, không luận ở đạo tràng
nào, hình chụp của thầy tôi nhất định cúng ở trong giảng đường, trong Phật
đường
. Mỗi giờ mỗi phút như ở bên lão sư, cho nên cả đời sống ngay trong cảm
ân
, báo ân, hạnh phúc, tự tại an vui không gì bằng, không có được mất, không có
lo lắng, không có vướng bận.



quen biết tôi có thể nói rất lâu, ông luôn nghĩ đến biện pháp để tôi lưu
lại Singapore. Ông biết được giữ tôi không dễ, chỉ cần có một chút không đúng
pháp thì tôi lập tức liền đi. Nếu như ở chỗ này tất cả đúng pháp, tôi có trách
nhiệm
giúp đỡ ông, tôi toàn tâm toàn lực hiệp trợ ông. Nếu như ông làm không
được như pháp, tôi liền rời khỏi, không có thứ tình riêng. Tuyệt đối không thể
nói, ở nơi đây của ông điều kiện vật chất hùng hậu thì tôi sẽ ở nơi đây thêm
vài ngày, không hề có việc này. Điều kiện vật chất có hùng hậu hơn cũng không
lưu giữ được tôi. Ở nơi đây chân thật đang làm đạo, chân thật đang tu hành,
chân thật đang dụng công học tập, thì tôi nhất định ở lại nơi đây, tôi có sứ
mạng
cảm, tôi có trách nhiệm cảm, phải hiệp trợ đại chúng. Nếu như mọi người
đến để tiêu khiển, không phải là nỗ lực tu hành, tôi ở lại nơi đây không chút ý
nghĩa
gì. Tôi giảng kinh 40 năm, năm nay 73 tuổi, cũng phải nên về hưu rồi. Tôi
cũng rất muốn tìm một nơi hoàn cảnh rất tĩnh lặng để chính mình tấn tu. Lần này
đến Úc Châu, ở ngay trong rừng nguyên sinh hết ba ngày, tôi rất hoan hỉ. Nếu
như ở nơi đó dựng lên một cái lều tranh để tấn tu, bạn nói xem tự tại dường
nào! Hoàn toàn cách tuyệt với thế gian, đó là một hoàn cảnh mà cả đời của tôi
mong muốn được ở, tôi mỗi niệm không quên. Nếu như khôngduyên phận hoằng
pháp
, tôi liền sẽ thoái hưu, tôi đến nơi đó để hòa mình với đại tự nhiên. Thế
nhưng ở nơi đây có các đồng tu cố gắng muốn tu học, cố gắng muốn tu hành, tôi
đành phải xả bỏ chính mình, xả bỏ thọ dụng của chính mình, gian khổ thế nào đi
nữa tôi cũng phải giúp đỡ mọi người. Quan niệm của tôi, tác phong của tôi,
Lý biết được rất rõ ràng.


Trong
các thứ cúng dường, pháp cúng dường là đệ nhất. Trong pháp cúng dường, Bồ Tát
Phổ Hiền
đã nói cho chúng ta nghe mấy điều cương lĩnh.


Cương lĩnh thứ nhất, “như thuyết tu hành cúng dường”.


Chúng
ta
có làm được hay không? Trên kinh này Phật dạy chúng ta phải làm, chúng ta
thảy đều làm được, dạy chúng ta không được làm thì chúng ta nhất định không
được trái phạm, đây gọi là “như thuyết tu hành cúng dường”. Tôi thường hay
khuyên bảo mọi người, cũng nói với mọi người, kinh điển Phật đã nói, trên thực
tế
chính là lời của Phật đã nói, người đời sau tôn xưng nó là kinh điển, vì sao
vậy? Ngài nói ra đều là chân lý, vĩnh hằng bất biến, đại đức xưa tôn xưng những
gì Phật đã nói gọi là diệu pháp. Nó rốt cuộc diệu ở chỗ nào vậy? Cổ đức nói rõ
với chúng ta, lời nói này không phải tuỳ tiện mà nói, mỗi một câu, mỗi một chữ
mà Phật đã nói đều là viên mãn, đó gọi là diệu. Cái gọi là viên mãn, bên trong
đó có bốn ý nghĩa, Phật pháp nói bốn phần. Bốn ý nghĩa là Giáo-Lý-Hành-Quả.


Lần
này tôi ở Úc Châu, trước những người lãnh đạo các tôn giáo khác nhau của Tổ
chức Hòa bình Tôn giáo Thế giới đã giới thiệu khái lượt qua, nói rõ nội dung
của Phật phápdiệu pháp. Nếu như chúng ta giảng Giáo-Lý-Hành-Quả thì họ nghe
không hiểu, cho nên tôi liền thay đổi phương thức giới thiệu. Kinh Phật mỗi câu
mỗi chữ đều bao hàm bốn ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là “giáo huấn chân thành”, ý
nghĩa
thứ hai là “đạo lý chân thật”, ý nghĩa thứ ba là “hành vi chí thiện”, ý
nghĩa
thứ tư là “hưởng thọ cao nhất”. Tôi dùng bốn câu này để giải thích
Giáo-Lý-Hành-Quả thì họ nghe hiểu được, nghe rồi đều gật đầu. Mỗi câu mỗi chữ
đều đầy đủ bốn ý này, cho nên gọi là bảo, gọi là diệu pháp.


Chúng
ta
phải dùng thái độ gì để tiếp nhận? Việc thứ nhất, đối với lời giáo huấn chân
thành
của Phật Đà, chúng ta phải tín ngưỡng, tin sâu không hoài nghi. Thứ hai
là đối với đạo lý của Phật đã nói phải lý giải thấu triệt. Thứ ba là hành vi
chí thiện mà Phật đã nói, chúng ta phải chân thật làm đến được. Thứ tư là hưởng
thụ cao nhất chúng ta mới chân thật đạt được. Bạn có thể đạt được hưởng thụ cao
nhất chính là nhà Phật chúng ta gọi là chứng quả, bạn tu hành chứng quả. Chứng
quả
chính là thọ dụng ở ngay trong cuộc sống thường ngày. Lần giới thiệu này,
họ có thể nghe hiểu được, họ cũng có thể tiếp nhận, nghe rồi cũng rất hoan hỉ.
Thế nhưng chúng ta phải ghi nhớ, chúng ta nói được cho họ hoan hỉ, còn phải làm
cho họ hoan hỉ hơn. Càng hoan hỉ là cách nói thế nào vậy? Kinh Phật nói Như
Thị
, kinh điển của các vị lại chẳng phải là Như Thị hay sao? Kinh Phật mỗi câu
diệu pháp, kinh điển đó của các vị mỗi câu cũng là diệu pháp, cho nên tôi
gọi họ đều là Bồ Tát. Khi tôi vừa ra cửa lớn, gặp được một tín đồ Cơ Đốc, là
một đại biểu của Cơ Đốc giáo, rất là lễ kính đối với tôi, đến bắt tay tôi. Ông
nói: “Pháp sư, ông gọi tôi là Bồ Tát, chúng tôi gọi Ngài là thần”. Lập
tức
liền có hồi kính. Cho nên chúng ta cần phải tôn kính người khác. Chúng ta
tốt, người khác cũng tốt. Ở trong Phật pháp, thực tế ra mà nói là chỉ có đệ
nhất, không có đệ nhị, mỗi pháp đều đệ nhất, người người đều đệ nhất, mọi việc
đều đệ nhất, không tìm ra được đệ nhị. Đây gọi là bình đẳng chân pháp giới,
nhất chân pháp giới, chính là pháp giới bình đẳng, mới chân thật có thể thực
tiễn
đa nguyên văn hóa, cùng tồn tại phát triển, cùng sống hoà thuận với nhau.
Hiệu quả của nó là xã hội an định, thế giới hòa bình, mỗi một người đều có thể
trải qua đời sống hạnh phúc mỹ mãn. Đây là tôi hy vọng toàn thế giới, bao gồm
các thầy tôn giáo, bao gồm các thầy truyền giáo, phải nên dốc hết trách nhiệm,
phải nên có sứ mạng như vậy. Bạn trở thành một thầy tôn giáo, truyền giáo sư,
sứ mạng của bạn là cứu độ tất cả chúng sanh khổ nạn, vậy thì hạng người này, ở
trong Phật pháp gọi họ chính là Bồ Tát. Cho nên, tôi gọi họ là Bồ Tát là đúng
với sự thật.


Nhất
định
phải ghi nhớ “như thuyết tu hành”. Chữ “thuyết” này là Phật nói, những gì
Phật nói chúng ta hoàn toàn làm được, đây chính là cúng dường. Không chỉ là
cúng dường chư Phật Như Lai, mà là cúng dường tự tánh của chúng ta, cúng dường
tất cả chúng sanh. Bạn phải hiểu được đạo lý. Hay nói cách khác, tự tánh
được nuôi dưỡng tốt, trí tuệ liền khai mở. Trong tự tánh bao hàm phước đức
tận
, tự nhiên liền hiện tiền. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, tin sâu đạo lý này,
cho nên không có tiền mà dám làm việc. Các vị xem, cư sĩ Lý ngày đêm trù bị,
phải mau xây xong Thôn Di Đà. Mục đích xây Thôn Di Đà là gì? Phải cứu xã hội
này, phải cứu kiếp nạn này, vì việc này mà xây dựng. Niệm Phật, tu hành có thể
tránh được kiếp nạn của thế giới. Ở trong đây có một thiên đạo lý rất sâu, họ
hiểu được.


Cấu
tưởng của Thôn Di Đà mọi người đều biết, yêu cầu ở trong đây có hai sự việc là
ngày ngày nghe kinh và ngày ngày niệm Phật, như thuyết tu hành, chúng ta chỉ
yêu cầu một điều kiện như vậy. Người ở trong đây cơm áo đi đứng đều được cúng
dường
, bạn không cần mang đến đây một xu tiền nào, cúng dường bạn cả đời, mãi
đến đưa bạn vãng sanh, giúp cho bạn làm Phật. Cư sĩ Lý vẫn đang tìm người thiết
kế phục trang, tương lai sau khi bước vào, chúng ta mặc quần áo giống như nhau,
bình đẳng, ăn bình đẳng, mặc cũng bình đẳng, quần áo của bạn không cần phải
mang theo. Thế nhưng các vị thử nghĩ xem, Thôn Di Đà thiết kế của chúng ta
có hơn 400 phòng, mỗi một phòng ở được ba người, có đến 1200 người ở, phí dụng
đời sống cho 1200 từ đâu mà có? Bạn nói Cư sĩ Lý có nhiều tiền đền như vậy
không? Cư sĩ Lý một xu cũng không có, nhưng có cái gan lớn đến như vậy. Cư sĩ
Lý nói, tôi không có tiền, ông chủ của tôi có tiền. Ông chủ là ai vậy? Là A Di
Đà Phật
. A Di Đà Phật có đại phước báo, ngày nay chúng ta làm công cho A Di Đà Phật,
làm việc thay cho Ngài. Bạn xem, tín tâm thành tựu sự nghiệp, không phải nói có
tiền mới làm, không có tiền thì không làm, mà là xem thấy việc này có nên làm
hay không, có cần phải làm hay không, có phải bức thiết cần phải làm không?
Ngày nay đại tai nạn đến bên tai, việc bức thiết cần phải làm, đây chính là Bồ
Tát
phát tâm. Người thế gian không dám làm, họ dám làm, họ có thể làm được
thành công hay không? Chính mình có tràn đầy niềm tin, một chút hoài nghi cũng
không có.


Cho
nên, việc then chốt thứ nhất mọi người phải ghi nhớ, đó là y giáo phụng hành,
thành tựu đức hạnh của chính mình, thành tựu đạo nghiệp của chính mình. Chính
bạn không phải là Bồ Tát chân thật thì bạn không thể lợi ích được chúng sanh,
bạn cũng không thể thành tựu sự nghiệp của Phật pháp, cho nên câu thứ nhất quan
trọng. Chúng ta lại vì tiện lợi cho đồng tu, kinh văn quá dài, sợ bạn không nhớ
nổi, cho nên tôi đem giáo huấn quan trọng nhất trong kinh văn tiết lục ra, tổng
cộng đã tiết được 60 điều, như vậy mọi người sẽ dễ nhớ. Sáu mươi điều này ở
trong Tịnh Tông Tu Hành Thủ Tắc.


Tịnh
Tông
Tu Hành Thủ Tắc là hành kinh của chúng ta. Kinh có bốn loại
Giáo-Lý-Hành-Quả, đó là tu hành, cũng chính là hành vi chí thiện mà tôi thường
nói. Quyển sách nhỏ này để các vị mang theo bên mình, mỗi lúc xem, xem rồi phải
làm được, từng điều phải làm cho được. Trong quyển sách nhỏ này, tổng cộng có
ba bộ phận. Bộ phận phía trước là tiết lục giáo huấn trong năm kinh của Tịnh
Tông
. Bộ phận thứ hai có 60 điều, chính là giáo huấn của kinh Vô Lượng Thọ. Bộ
phận thứ ba đại khái cũng có sáu mươi mấy điều, tiết lục giáo huấn từ trong Di
Lặc Bồ Tát
Sở Vấn kinh đã nói. Những bộ kinh này đều giảng qua ở nơi đây. Bạn
có thể làm được mấy điều này thì bạn chính là Bồ Tát chân thật, bạn là người tu
hành
chân thật, bạn nhất định sẽ được chư Phật hộ niệm, long thiên ủng hộ. Bạn
phát nguyệnPhật pháp, vì chúng sanh, thì làm bất cứ sự nghiệp nào cũng đều
sẽ viên mãn. Có nguyện ắt thành. Chính chúng ta phải chuẩn bị đủ điều kiện này
mới được. Chính mình không đầy đủ điều kiện này, cầu cảm ứng sẽ không cầu được.
Bạn có thể cầu, có cầu ắt có ứng là bản thân bạn chuẩn bị đầy đủ điều kiện tốt.
Việc này mọi người nhất định phải nên hiểu. Chính mình không nỗ lực tu hành thì
quyết định không thể có thành tựu.


Cương lĩnh thứ hai, “lợi ích chúng sanh cúng dường”.


Chỗ
này trong lúc giảng giải chúng ta thường hay nhắc đến, chúng ta tâm tâm niệm
niệm
lợi ích tất cả chúng sanh, tâm lượng phải lớn, quyết không thể nói lợi ích
chúng sanh tôi ưa thích, còn chúng sanh tôi không ưa thích, chúng sanh chán
ghét
thì tôi không lợi ích cho họ. Cách nghĩ này của bạn sai rồi. Lợi ích chúng
sanh
không phân biệt chủng tộc, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt tộc
loại, một mực bình đẳng lợi ích. Trong tất cả lợi ích thì lợi ích lớn nhất là
gì? Ở trên kinh Phật đã nói, giúp đỡ chúng sanh giác ngộlợi ích lớn nhất,
nên gọi là “phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”. Tại vì sao chúng sanh có khổ?
Khổ là do họ mê mà không giác thì họ khổ thôi. Họ có tai, có nạn, có khổ, chúng
ta
ở trên mặt vật chất giúp cho họ một chút là chỉ có thể cứu nhất thời, không
thể cứu cả đời. Cho dù bạn có năng lực giúp đỡ cho họ cả một đời, đến đời sau
thì phải làm sao? Bạn còn có thể chăm sóc được cho họ không? Đời sau lại còn
đời sau nữa. Phật Bồ Tát lợi ích chúng sanh, đời đời kiếp kiếp mãi mãi lợi ích
cho họ, lợi ích chân thật. Bạn thử nghĩ xem, sự việc này chúng ta làm thế nào
thực tiễn?


Thực
tiễn
ở chỗ này chính là giáo dục. Nếu các vị thường hay nghĩ đến, Thích Ca Mâu
Ni Phật
cả đời giảng kinh nói pháp, việc này mọi người đều biết, Thế Tôn năm
xưa ở đời giảng kinh hơn 300 hội, nói pháp 49 năm, giống như Khổng Lão Phu Tử
vậy, cả đời đều làm công tác giáo dục xã hội. Công tác giáo dục này không có
nhận bồi dưỡng, là công tác nghĩa vụ, Phật không hề nhận một xu tiền học phí
nào của người ta. Tiếp nhận cúng dường chẳng qua là một ngày ăn cơm một bữa,
tiếp nhận một bát cơm mà thôi, ba y một bát, không có tâm mong cầu, cả đời giáo
học không biết mệt. Đó là lợi ích chúng sanh cúng dường, chúng ta phải học tập.


Vào
thời xưa giao thông không thuận tiện, phạm vi đời sống nhân dân rất nhỏ hẹp,
đích thực là có người đến già chết mà chưa từng qua lại. Ở ngay trong thôn xóm,
thôn xóm cách bên có thể nhìn thấy được, chỉ có mấy dặm đường thôi, nhưng cả
đời
cũng chưa từng qua đến bên thôn trang đó, đến già chết chưa từng qua lại.
Phạm vi đời sống rất nhỏ, giao thông không thuận tiện. Tình hình như vậy mới
cần xây đạo tràng, cho nên nơi nơi đều có đạo tràng, đều có pháp sư ở nơi đó
giảng kinh nói pháp, giáo hoá chúng sanh. Hiện tại thời đại này thay đổi rồi,
khoa học kỹ thuật phát triển, thông tin phát triển, toàn thế giới bất cứ một
nơi nào, xảy ra một việc nhỏ nào, chúng ta lập tức liền biết được. Giao thông
thuận tiện. Bạn nghĩ xem, vào thời xưa, nếu từ Trung Quốc đi đến nơi đây, đi đến
Nam Dương làm gì mà dễ dàng. Có cơ hội cho bạn đến, bạn cũng e ngại, ngồi
thuyền phải ngồi đến mấy tháng mới có thể đến được. Hiện tại giao thông thuận
tiện
, mấy giờ đồng hồ thì đến rồi. Cho nên tôi ở Úc Châu, ở Tuyết Lê, có một số
đồng tu gặp mặt tôi ở Tuyết Lê, tôi liền nói với họ, Đài Bắc đến Tuyết Lê ở vào
30 năm trước, đại khái ba bốn chục năm trước, từ Đài Bắc đến Cao Hùng phải ngồi
tàu hoả, tàu nhanh là tám giờ, tàu chậm là 12 giờ. Hiện tại từ Tuyết Lê đến Đài
Bắc là 8 giờ đồng hồ, địa cầu nhỏ lại, cho nên gọi là thôn địa cầu. Tham quan
du lịch dường như biến thành việc cần thiết trong cuộc sống của một người,
tuyệt nhiên không phải xa xỉ, mà là biến thành một bộ phận đời sống, đi nghỉ
hè. Thế là chúng ta cùng với thế giới bên ngoài tiếp xúc được nhiều hơn, bạn sẽ
tiếp xúc với những người chủng tộc khác nhau, người quốc gia khác nhau, người
tín ngưỡng khác nhau, người văn hoá khác nhau, người có phương thức đời sống
khác nhau, người tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, bạn phải cùng sinh hoạt chung
với họ, đây gọi là đa nguyên văn hoá. Cho nên phải có quan niệm lợi ích tất cả
chúng sanh, vô số giới hạn thảy đều phải đột phá. Hiện tại địa cầu này biến
thành
một nhà, cái nhà này có lớn hay không? Không lớn, một gia đình rất nhỏ,
so với Phật thì nhỏ hơn rất nhiều. Nhà của Phật thì bao lớn? Tận hư không, khắp
pháp giới, Phật là “lấy pháp giới làm nhà, lấy chúng sanh làm chính mình”. Nếu
như chúng ta muốn làm Phật, nếu bạn không thể thực tiễn được hai câu nói này,
thì bạn không thể làm được Phật. Mọi người niệm Phật đều muốn thành Phật, đều
muốn đi đến thế giới Cực Lạc để thành Phật, trước tiên bạn phải có quan niệm
này, phải thực tiễn quan niệm này. Tất cả chúng sanh là chính mình, hư không
pháp giới là nhà của ta, thì bạn mới có hy vọng làm được Phật. Cho nên, khởi
tâm
động niệm của bạn có thể lợi ích tất cả chúng sanh. Khởi tâm động niệm là
nguyện vọng, nguyện vọng có thể biến thành sự thật hay không lại là một tầng
công phu. Làm thế nào đem nguyện vọng biến thành sự thật, thực tiễn được nguyện
vọng? Bạn phải có hành động.


Lần
này tôi có cơ hội tham gia hội nghị tôn giáo thế giới tổ chức hội nghị hòa bình
ở Paris. Tôi cũng cảm thấy rất kỳ lạ, vì sao họ lại đến tìm tôi? Tôi hoàn toàn
chưa từng qua lại với họ, họ đến tìm tôi, hơn nữa còn rất tôn kính đối với tôi.
Hội nghị này một năm tổ chức hai lần, nửa năm một lần. Tham gia hội nghị này có
hơn 30 tôn giáo, đều là người lãnh đạo của một số giáo phái. Mỗi một giáo phái
đều có phát biểu quan niệm của họ, cách làm của họ, đều có một báo cáo ngắn
gọn. Hội nghị hai giờ đồng hồ, họ để cho tôi nói 30 phút, rất là tôn kính đối
với tôi. Họ mỗi một người phát biểu đại khái chỉ có 5-6 phút, để cho tôi nói 30
phút, rất là đãi ngộ đối với tôi. Sau khi tôi nghe rồi, vốn dĩ tôi cũng có
chuẩn bị, các vị đồng tu đều biết, những thứ đã chuẩn bị đến chỗ đó thì không
dùng được, phát cho họ làm tham khảo. Bởi vì tôi nghe lời của mỗi một người họ
nói, sau khi nghe rồi tôi kiến nghị với họ. Hội nghị này đã có rất nhiều năm
lịch sử. Quan niệm của một số nhà tôn giáo tôi rất là kính phục, có một mục
tiêu
giống nhau là cầu cả xã hội an định, thế giới hòa bình, tất cả chúng sanh
có thể hoà thuận cùng ở với nhau, hợp tác lẫn nhau. Quan niệm này quá tốt, đây
là chỗ mà chúng ta tôn kính. Thế nhưng quan niệm này làm thế nào để thực tiễn?
Vấn đề này thì nghiêm trọng. Hội nghị đã mở ra nhiều năm, một năm mở ra hai lần
vẫn không khởi được tác dụng. Xã hội vẫn là động loạn, thế giới vẫn là không
hòa bình, vẫn là có tranh chấp. Mọi người đều không nghĩ ra được biện pháp, cho
nên tôi đưa ra ý kiến cho họ.


Tôi
nói rõ với họ, nhà Phật trên kinh Hoa Nghiêm nói thế giới Hoa Tạng, đó là thế
giới
của Tỳ Lô Giá Na Phật, đó là một thế giới đa nguyên văn hoá, lớn hơn rất
nhiều so với thế giới của chúng ta. Chúng ta xem thấy ở trên kinh Hoa Nghiêm,
những quần chúng tham gia đại hội này đã có hơn 200 chủng tộc khác nhau. Chủng
tộc
đó quá lớn, số người trong mỗi một chủng tộcvô lượng vô số, thế giới
này của chúng ta có tính được vào đâu? Phạm vi quá nhỏ. Thế giới Cực Lạc cũng
là như vậy. Tại vì sao người của thế giới Hoa Tạng, người của thế giới Cực Lạc,
chủng tộc khác nhau, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau đều có thể hòa thuận cùng
sống? Tại vì sao chúng ta không làm được? Khi tôi vừa nói đến, mọi người đều
tập trung chú ý, chuyên tâm để nghe tôi giảng giải. Tôi nói họ có thể làm được
là do chỉ có một nhân tố, đó là ngày ngày giảng kinh nói pháp. Bạn xem, trên
kinh Hoa Nghiêm, Tỳ Lô Giá Na Phật giảng kinh nói pháp chưa từng gian đoạn bao
giờ, thế giới Cực Lạc A Di Đà Phật giảng kinh nói pháp cũng chưa từng gián đoạn
qua bao giờ. Cho nên giảng kinh nói pháp là giáo học. Chỉ có giáo học mới có
thể đem lý tưởng này thực tiễn. Khi nghe tôi nói rồi họ cũng đồng ý cách nhìn
của tôi, nhất định phải thông qua giáo học. Người xưa Trung Quốc chúng ta
thường nói (đây là nói những người đi học), ba ngày không đọc sách thánh hiền
thì hoàn toàn khác đi, không giống người. Người đều có phiền não, đều có ác tập
khí
, ba ngày không đọc sách thánh hiền thì phiền não tập khí của bạn hiển lộ
nguyên hình, vậy làm gì là người chứ? Như thế nào mới gọi là người? Tuân thủ
năm giới mười thiện mà không có lỗi lầm, vậy mới gọi là người. Năm giới không
giữ, mười thiện không giữ thì bạn là súc sanh, là ma quỷ, không phải là người.
Hiện tại thế gian này, bạn ra bên ngoài xem, toàn yêu ma quỷ quái, không luận
đến bất cứ nơi nào, bạn liền xem thấy những bức vẽ, thậm chí vẽ lên trên áo,
nội dung trong đó đều là yêu ma quỷ quái, người không phải người, quỷ không
phải quỷ. Chúng ta ở bên ngoài xem thấy xe Bus, bên trên xe Bus xem thấy đều là
quỷ quái, đến đâu cũng đều thấy. Cho nên đọc sách thánh hiền là quan trọng,
giảng kinh nói pháp là quan trọng.


Đạo
tràng
này của chúng ta, chúng ta ngày ngày đang giảng kinh. Thời gian này tôi
bị bệnh nên đã gián đoạn hai ba tuần. Sau khi trở về, cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói với
tôi, các đồng tu đã thoái tâm, đã tản mạn rồi. Tôi nghe rồi thì rất lo ngại.
Nếu như tình hình này, Phật Học Viện của chúng ta quyết định không thể thành
lập
, lớp bồi dưỡng cũng phải giải tán, đây là hiện tượng rất đáng lo. Các đồng
tu vẫn không thể tự lập, vẫn không thể tự đối diện một mình, không thể khắc
phục phiền não tập khí của chính mình, vẫn cần phải nhờ chúng tôi đến để phụ
đạo. Tại vì sao có thể tản mạn? Tôi biết rõ nguyên nhân, các vị nhiều người đến
như vậy, ở nơi đây một tuần lễ, thời gian giảng kinh quá ít, thời gian luân lưu
quá ít, hai ba tuần mới luân lưu đến một lần, thậm chí một tháng mới luân lưu
đến một lần, làm sao mà không giải đãi chứ? Cho nên sự việc này khó tránh khỏi.


Cả
đời
tôi không quản người, tôi không hy vọng ràng buộc người, tôi không hy vọng
quản lý người, thực tế mà nói, cả đời tôi cũng không có người quản lý tôi, vậy
rất là tự tại. Cả đời tôi không có người quản tôi, thì tôi không nên đi quản
người. Cả đời tôi sống được rất hạnh phúc, cả đời không quản người, không quản
việc, không quản tiền. Mọi người đều biết được tôi là pháp sư “tam bất quản”.
Đây chính là tôi hưởng phước, không dễ dàng gì hưởng được. Cho nên sau khi trở
về
, tôi nhất định đem thời gian nhường lại cho các đồng tu, tôi một tuần lễ
giảng một lần, vậy thì hy vọng mỗi ngày giảng kinh hai giờ thì hai đồng tu ra
giảng, một người giảng một giờ đồng hồ. Chúng ta viết bản thảo phải viết đủ
mười ngàn chữ, mỗi một tuần lễ viết bản thảo mười ngàn chữ để thực tập trên
giảng đài. Vẫn phải theo phương pháp cũ ngày trước, mỗi một bạn học đều phải
đưa ra lời phê bình đối với người đó, mỗi một bạn học đều phải nộp, giúp cho
người đó cải tiến, giúp cho người đó tiến bộ. Chúng ta học tập như vậy mới
thiết thực, thời gian mới không luống qua, chúng ta cũng không có lỗi với thường
trụ
nơi đây đã quan tâm đối với chúng ta, chăm sóc cho chúng ta, cúng dường cho
chúng ta. Khi hết một học kỳ thì các vị đã viết ra tổng cộng có 200 ngàn đến
300 ngàn chữ, liền viết thành một quyển sách. Đó là thành tích học tập của các
vị ở nơi đây, bạn phải lấy thành tích mới được. Nếu như tương lai phát triển
thành Phật Học Viện, phương pháp dạy học của chúng ta thỉ chung không thay đổi.
Các vị ngay trong quá trình học tập ở nơi đây, các vị cũng cảm nhận được cách
dạy học này có hiệu quả. Một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu. Sau khi Phật Học
Viện
thành lập, chúng ta có thể mở ra nhiều môn, thế nhưng các đồng tu phải
chọn lựa, nhất định phải chọn một môn để chuyên công. Các đồng tu tu học môn
khác chúng ta có thể nghe, chỉ là nghe để cho họ lời phê bình, giúp cho họ cải
chính
, còn chính mình chuyên công khoá trình của chính mình. Vào mỗi một học kỳ
phải hoàn thành một bộ trước tác. Cho nên chúng ta ở nơi đây không cần phải thi
cử, bạn đem trước tác của bạn ra, đó chính là bài thi, cũng giống như luận văn
vậy.



nguyện lợi ích chúng sanh thì phải thực tiễn.


Cương lĩnh thứ ba, “nhiếp thọ chúng sanh cúng dường”.


Phải
hiểu được cái gì gọi là nhiếp thọ chúng sanh? Dùng lời hiện đại mà nói, nhiếp
thọ
chúng sanh chính là cùng với tất cả chúng sanh có duyên. Không chỉ là có
duyên, mà có duyên phận rất sâu, có duyên phận rất mật thiết, có thể khiến tất
cả chúng sanh sanh tâm tôn kính đối với bạn, tâm thương yêu, tâm học tập với
bạn, thì giáo hoá của bạn mới có thể nhận được hiệu quả. Nhiếp thọ chúng sanh
phải nương vào cái gì? Không phải nương vào học vấn. Học vấn tốt, không thấy
được người ta bội phục từ trong nội tâm đối với bạn. Cho nên nhiếp thọ chúng
sanh
đức hạnh, bạn có phẩm đức cao thượng, bạn có hành nghi thương yêu chúng
sanh
, lợi ích chúng sanh, bạn mới có thể nhận được sự ủng hộ của tất cả chúng
sanh
, tất cả chúng sanh mới nồng nhiệt đối với bạn.


Các
vị ở nơi đây phải nên thấy được, chúng ta thăm viếng các tôn giáo khác, chúng
ta
đến thăm hỏi, tuy nhiên đây mới là mở đầu. Giao thừa năm rồi, buổi dạ tiệc
ấm áp của chúng ta, chúng ta mời thỉnh tất cả đoàn thể tôn giáo Singapore đều
đến tham dự, chúng ta đại đoàn viên, chúng ta cùng nhau qua tết âm lịch của
Trung Quốc, đây là nhiếp thọ chúng sanh. Có người đến hỏi tôi, họ nói: “Pháp
sư! Vì sao Ngài phải làm như vậy?
”. Tôi chỉ trả lời họ một câu, Phật dạy
tôi cách làm như vậy, Phật dạy tôi “nhiếp thọ chúng sanh cúng dường”. Đây chính
thực tiễn nhiếp thọ chúng sanh cúng dường, thực tiễn đa nguyên văn hóa,
không phải chỉ nói ở trên miệng mà thôi, mà chúng ta phải làm được. Ngày mùng 9
chúng ta đi thăm viếng Ấn Độ giáo, tiếp theo là Ki Tô giáo, Thiên Chúa giáo thì
đã liên hệ. Mỗi một tôn giáo đều phải đi thăm viếng, bình đẳng. Ngày lễ của các
tôn giáo khác, chúng ta cũng hoan hỉ tham gia. Ngày lễ của chúng ta, chúng ta
rộng mời khách, chúng ta cũng mời họ đến tham gia. Phải thực tiễn. Đây đều là
thuộc về nhiếp thọ chúng sanh.


Cương lĩnh thứ tư, “đại chúng sanh khổ cúng dường”.


Điều
này quan trọng. Thực tế từ trên lý mà nói, chúng sanh khổ không có người nào có
thể thay. Chúng ta rất khổ, Phật rất từ bi, Phật có thể thay chúng ta chịu khổ
hay không? Không thể! Vì sao vậy? Bạn chịu khổ hay hưởng phước là nghiệp báo
của bạn, bạn có trồng cái nhân này thì bạn nhất định phải cảm thụ quả báo này,
không ai có thể thay thế. Cho nên “đại chúng sanh khổ” chỉ là một nguyện vọng
của chúng ta mà thôi, chúng ta bằng lòng chịu khổ thay cho chúng sanh. Trên
thực tế, nếu như chân thật có thể thay thì định luật nhân quả chẳng phải đã bị
lật đổ rồi hay sao? Phật cũng không thể trái với định luật nhân quả. Vậy thì
Phật Bồ Tát làm thế nào thay thế chúng sanh chịu khổ? Chỉ có một phương pháp,
đó là giảm thấp hưởng thụ của chính mình để giúp đỡ chúng sanh nhiều, cho nên ở
trên đời sống vật chất của chính mình nơi nơi tiết kiệm. Một ngày chúng ta
thể tiết kiệm một đồng, hai đồng để dành lại, một đồng hai đồng này liền có thể
giúp người khác. Thật có tâm này, chân thậthành vi này, phải làm cho được.
Cho nên có một số đồng tu thường hay muốn mời tôi ăn cơm, mời ra ngoài ăn cơm
rất lãng phí thời gian, một buổi cơm mất hết mấy giờ đồng hồ, thật lãng phí
thời gian, thế nhưng người ta thật tình hảo ý. Hiện tại tôi nghĩ thông rồi,
khai ngộ rồi, bất cứ người nào mời tôi cũng đều đáp ứng, tôi đều hoan nghênh,
đến chỗ nào để mời khách vậy? Lầu hai Cư Sĩ Lâm. Các vị đem tiền mời khách
quyên tặng cho Thôn Di Đà, tôi sẽ cùng ăn cơm với các vị. Vậy thì tốt, vậy thì
không lãng phí thời gian, cũng không lãng phí tiền của. Thức ăn của Cư Sĩ Lâm
làm được ngon hơn so với tiệm cơm chay thông thường hiện tại, cho nên Cư Sĩ Lâm
cải tiến thêm thì nhiều quán chay phải đóng cửa. Mọi người mời khách đều đến
Lâm, không những mời tôi, tôi đề xướng, tôi hy vọng tất cả những người mời
khách thảy đều đến Cư Sĩ Lâm, đem tiền của bạn quyên cho Thôn Di Đà, làm
lượng
công đức. Vừa làm được công đức, lại mời được khách, lại ăn được thức ăn
ngon đến như vậy, bạn nói xem, tự tại dường nào! Đây là nhất cử tam tiện, cho
nên khuyến khích mọi người mời khách đến Cư Sĩ Lâm. Đây chính là thuộc về thay
chúng sanh khổ cúng dường.


Chúng
ta
ở ngay trong cuộc sống thường ngày tận lượng tiết kiệm, không được lãng phí,
phải tích phước. Tôi ở ngay trong cuộc sống này, ngày trước xem thấy hai vị lão
, một vị là vị hiệu trưởng già ở vào thời kỳ kháng chiến, tiên sinh Châu Bang
Đạo, một vị nữa là lão cư sĩ Lý Bĩnh Nam ở Liên Xã Đài Trung. Tôi theo lão
Lý mười năm. Mỗi tháng sinh hoạt phí của thầy là 60 đồng tiền Đài Loan, nếu
tính theo Mỹ kim là hai đồng phí dụng cho một tháng. Mỗi ngày thầy ăn một bữa
cơm, hơn nữa ăn rất ít. Tôi xem thấy lão cư sĩ Ngài như thế, tôi học theo Ngài,
tôi cũng mỗi ngày ăn một bữa. Thế nhưng một bữa cơm của tôi ăn được nhiều hơn
so với thầy, giống y như thầy thì không chịu được. Một bữa cơm của thầy là hai
cái bánh bao bột, bánh bao nhỏ thì đủ rồi, tôi phải ăn ba cái. Cho nên thầy một
ngày hai đồng phí dụng cho đời sống thì đủ, vào lúc đó tôi ở Đài Trung, một
ngày phải ba đồng phí dụng đời sống. Tôi học theo thầy, tôi học được đến tháng
thứ tám, tôi mới nói với thầy. Thầy liền hỏi tôi: “Vậy ông cảm thấy tinh
thần
thể lực có gì khác nhau không?”.
Tôi nói không có cảm giác gì, bình
thường
. Thầy vỗ bàn một cái, nói: “Tốt, ông cứ như vậy mà làm, cả đời không
mong cầu người”.
Ngạn ngữ chúng ta thường nói: “Nhân đáo vô cầu phẩm tự
cao”. Phí dụng đời sống của chúng ta rất ít, chút ít thì đủ rồi, thì không phải
cầu người. Cầu người là việc rất khổ, nhìn mặt của người rất khó nhìn, cho nên
cả đời tôi, đói chết tôi cũng không cầu người. Tôi có được cái khí chất này.
Cho nên đời sống nhất định phải tiết kiệm, nhất định phải biết tích phước, nhất
định
không nên lãng phí.


Ngày
nay các vị thấy tôi dường như có chút phước báo, rất nhiều người đến cúng
dường
. Tôi không có cầu người cúng dường, tự động đưa đến thì cũng không cách
nào từ chối, thế nhưng đời sống của tôi vẫn là rất ít. Các vị thấy tôi ăn rất
ít, cho nên đồ tặng đến thì mọi người cùng hưởng. Hôm nay còn có người từ Đài
Bắc nấu sẵn hai nồi thức ăn lớn mang đến, thật không dễ dàng. Tôi thấy rồi tôi
rất thích, tôi liền nói với thầy Ngộ Nhẫn mang đến nhà ăn lầu hai. Các vị niệm
Phật
buổi tối hôm nay, buổi tối bụng đói thì có thể dùng. Người ta cúng dường
tôi, tôi cúng dường mọi người. Cúng dường mọi người thì có phước báo. Nhà Phật thường
nói: “Đời này không liễu đạo, mang lông đội sừng để trả”. Người ta cúng
dường
tôi, tôi đều cúng dường cho các vị, nếu tôi không liễu đạo thì các vị mọi
người
thay tôi trả, cho nên lập tức liền chuyển tặng cho người khác. Các vị
cúng dường tiền cho tôi, ngay đến xem tôi cũng không xem, toàn bộ đem đi tặng
cho Thôn Di Đà. Chứng nhận của Thôn Di Đà cho tôi đến hiện tại có thể đem đóng
thành một quyển sách, một đống to. Vì vậy cần phải biết, phước báo chuyển tặng
cho tất cả chúng sanh thì phước báo này là không có cùng tận, càng tích lũy
càng nhiều, càng nhiều càng bố thí, cái phước này sẽ hưởng không cùng tận. Thế
nhưng chính mình phải khắc khổ, quyết định không được lãng phí, dư ra thì nhất
định
cúng dường người thiếu kém, đây chính là “thay chúng sanh khổ cúng dường”.


Lần
trước tại một yến hội, có một vị cư sĩ hỏi tôi: “Pháp sư, Ngài ở nơi đâu
vậy? Đạo tràng của chính Ngài ở đâu vậy?
”. Chính tôi không có đạo tràng,
chính tôi cả đời không có chỗ ở của chính mình, tôi ở nơi đạo tràng của người
khác. Người xuất gia rồi thì chính mình không có nhà. Nếu như vẫn có một cái
nhà thì chẳng phải trở lại rồi sao? Bạn xuất gia rồi, bây giờ lại trở lại nhà.


Lần
này ở Úc Châu, có cư sĩ La rất phát tâm, ông có quan hệ rất tốt với chính phủ
liên bang Úc Châu. Ông đến hỏi tôi là đạo tràng Tịnh Tông Học Hội của chúng ta
cần thiết những vị pháp sư nào thường trụ ở Úc Châu thì ông có thể làm giúp
chúng ta cư ngụ lâu dài, thậm chí nhập quốc tịch. Tôi nói với ông ấy: “Ông
không nên hại người, ông không nên tạo nghiệp
”. Ông nghe rồi ngẩn người ra,
ông hỏi vì sao vậy? Nếu như lo cho pháp sư thủ tục cư ngụ dài lâu ở Úc Châu, vị
pháp sư này đạo tâm liền sẽ không còn, tham-sân-si-mạn, lòng tư riêng của họ
liền khởi lên, đạo tâm liền sẽ không còn. Cho nên tôi nói, ông nên làm việc tốt,
giúp tôi làm thế nào? Cư ngụ một năm, chỉ cho phép họ ở một năm. Một năm ở nơi
đây họ tu hành rất tốt thì năm tới ta lại làm cho họ một năm nữa, luôn luôn làm
được tốt thì mỗi năm ta đều làm cho họ. Nếu họ không đúng pháp thì ta không làm
cho họ, hết một năm thì phải mau đi thôi, vậy thì họ sẽ có đạo tâm.



nơi đây tôi cũng nói với cư sĩ Lý Mộc Nguyên như vậy, chứng nhận công tác của
các vị một năm. Tại vì sao không làm nhiều cho các vị? Khiến cho bạn có đạo
tâm
. Nếu khi làm nhiều hơn, bạn cảm thấy nơi đây có thể ở dài lâu, bạn liền
nghĩ tưởng xằng bậy, bạn liền đến khắp nơi phan duyên, bạn liền sẽ có tâm riêng
tư, tương lai bạn sẽ đọa vào địa ngục, đó chẳng phải là hại chết bạn hay sao?
Cho nên hộ pháp phải hiểu được đạo lý này. Bạn tuy là đã xuất gia, phấn đấu
không ngừng, thật giống như băng kết, như vào đầm sâu, tâm luôn ở đạo. Chỉ cần
bạn có đạo thì chư Phật hộ niệm, long thần ủng hộ, người cúng dường bạn quá
nhiều, bạn còn lo gì chứ? Bạn không có đạo, bạn tạo nghiệp, bạn bại hoại Phật
môn
, tương lai bạn nhất định đọa lạc. Cho nên rất nhiều người hộ pháp mà không
đạo lý, đem pháp sư rất tốt hộ trì họ thẳng đến địa ngục, chính mình còn cho
rằng có công đức, tôi bỏ ra bao nhiêu tiền mua đạo tràng cho pháp sư, vị pháp
đó có quyền sở hữu. Bạn xem, vị pháp sư hảo tâm xuất gia, hiện tại chúng ta
lại cho họ một cái nhà, lại đem họ để vào trong đó, bạn còn cho rằng bạn có
công đức, công đức của bạn ở chỗ nào? Bạn tạo ra là tội nghiệp, không phải là
công đức. Lời của tôi nói không dễ nghe, thế nhưng thật có điều tốt đối với mọi
người
. Cho nên đồng tu xuất gia, bạn không nên cho rằng tôi đang chướng ngại
bạn. Tôi đang thành tựu bạn, tôi quyết không chướng ngại bạn. Các vị chân thật
tu hành làm đạo, nếu như không có nơi ở, tôi sẽ cúng dường bạn. Nếu như bạn không
chân thật làm đạo, bại hoại Phật môn, đó là tội sẽ có báo ứng. Cho nên chính
mình cần phải khắc khổ chịu khó, đối với nhân lực, vật lực, tài lực phải biết
thương tiếc, quyết không lãng phí vật phẩm công cộng. Bạn có thể tiếc phước
chính là bồi phước, bạn có thể tích phước chính là bồi phước, đạo lý này nhất
định
phải hiểu. Đây đều là thuộc về thay chúng sanh chịu khổ.


Cương lĩnh thứ năm, “cần tu thiện căn cúng dường”.


Cái
gì là thiện căn? Việc này mọi người đều biết được, nghe nhiều rồi. Không tham,
không sân, không si là ba thiện căn của thế gian, đây là Phật nói với chúng ta.
Đối với người, với vật, với việc không khởi lòng tham, thuận theo ý riêng mình
không khởi lòng tham, trái với ý của chính mình không khởi lòng sân, tâm của
bạn vĩnh viễn thanh tịnh, vĩnh viễn là bình lặng, vậy thì tự tại. Không si,
không mê, vĩnh viễntỉnh táo, vĩnh viễngiác ngộ. Tất cả thiện pháp của
thế gian đều là từ trong ba điều kiện này mà sanh ra, cho nên gọi nó là ba
thiện căn. Thiện căn của Bồ Tát là từ ba thiện căn này lại nâng cao lên một
tầng, đó là tinh tấn. Tinh tấnthiện căn duy nhất của Bồ Tát. Bồ Tát sẽ
thoái chuyển do nguyên nhân gì? Giải đãi phóng dật thì Bồ Tát liền thoái
chuyển
. Chúng ta xem thấy ở trên kinh, đến lúc nào mới không bị thoái chuyển? Bát
địa
mới không thoái chuyển, Thất địa về trước đều là tiến thoái không ngừng,
chỉ cần giải đãi phóng dật lập tức liền thoái chuyển. Vĩnh viễn giữ lấy tinh
tấn
. Trong sáu nguyên tắc tu hành của Bồ Tát, bạn xem có Bố thí, Trì giới, Nhẫn
nhục
, Tinh tấn. Tinh tấn, tinh là thuần mà không tạp, tấn là tấn bộ. Có thể
thấy được, hai chữ tinh tấn này liền nói rõ “một môn thâm nhập, trường kỳ huân
tu”, đó gọi là tinh tấn. Cần phải tu, quyết định không thể nào giải đãi, phải
chăm chỉ nỗ lực khắc phục phiền não của chính mình, khắc phục tập khí của chính
mình. “Khắc niệm tác thánh”, đây là thánh nhân Trung Quốc chúng ta nói. Bạn có
thể khắc phục vọng niệm của bạn thì bạn chính là thánh nhân. Chữ Thánh này là ý
nghĩa
gì vậy? Nếu dùng lời hiện tại mà nói, thánh nhân chính là người sáng
suốt
, đối với tất cả sự lý của thế gian, tất cả nhân quả đều thông đạt tường
tận thì con người này gọi là thánh nhân. Nếu bạn không khắc phục vọng niệm của
chính bạn thì làm sao được!


Vậy
thì
hiện tại chúng ta dùng phương pháp gì khắc phục vọng niệm của chúng ta? Nhà
Phật giảng phương pháp rất nhiều, nên gọi là tám vạn bốn ngàn pháp môn,
lượng
pháp môn. Pháp là phương pháp, môn là lối đi, phương pháp gì vậy? Phương
pháp
khắc phục vọng niệm. Phương pháp khắc phục vọng niệm mà nhà Phật nói cụ
thể
chính là phương pháp khắc phục vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Phương
pháp
khắc phục vọng tưởng, phân biệt, chấp trước rất nhiều, ngày nay chúng ta
chọn lấy hai thứ. Một thứ là nghiên giáo, thâm nhập nghiên cứu kinh giáo, mỗi
tâm mỗi niệm nghĩ đến đạo lý trong kinh điển thì bạn sẽ không khởi vọng tưởng.
Ngoài ra, một phương pháp nữa là niệm Phật, mỗi niệm tương ưng với A Di Đà
Phật
. Người niệm Phật niệm lâu rồi, vì sao có thể giải đãi? Không hiểu được đạo
niệm Phật thì niệm lâu rồi sẽ giải đãi, cho nên không thể niệm được. Niệm
Phật
là hành môn, hành nhất định phải nương giải. Bạn xem, đại sư Thanh Lương
giảng kinh Hoa Nghiêm cho chúng ta, Ngài đem kinh phân làm bốn phần, trước là
tín giải, sau đó mới có hành chứng. Hành phải nương giải, phải nương tín giải.
Không có tín giải làm nền tảng thì cái hành đó không đáng tin, không thể lâu
dài
. Tín giải thấu triệt rồi thì hành mới có thể được dài lâu, mới có thể không
thay đổi.


Nếu
nói Tịnh tông không cần phải tín giải, hành thì hành rồi. Lời nói này nói ra có
vấn đề. Tin của Tịnh tông không phải không cần tín giải, mà là tín giải cùng
hành có thể đồng thời. Các pháp môn khác nhất định là trước có tín giải, sau đó
hành chứng, Tịnh tông là tín-giải-hành-chứng hoàn toàn đồng thời. Do đó niệm
Phật
không thể không nghe kinh. Không nghe kinh bạn niệm Phật, không phải một
mặt niệm Phật, một mặt nghĩ tưởng xằng bậy, mà chính là một mặt niệm Phật, một
mặt ngủ gật. Có một số người công phu không tệ, đi mà cũng có thể ngủ gật, bạn
thấy họ nhiễu Phật, nhiễu Phật mà cũng ngủ gật. Nhiễu Phật mà đang ngủ gật thì
khi chỉ tịnh, vừa ngồi xuống thì ngáy lên. Việc này chúng ta thường thấy ngay
trong niệm Phật đường. Do nguyên nhân gì? Thiếu kém tín giải. Cho nên ngày nay
chúng ta vì để bổ túc cái không đủ này nên mỗi ngày giảng kinh. Mỗi ngày hai
giờ đồng hồ giảng kinh rất quan trọng. Giảng đến cần tu thiện căn, các vị có
muốn tu thiện căn hay không? Đều muốn. Vậy tôi nói với bạn, nghe tôi giảng kinh
không quan trọng, nghe các vị thực tập giảng kinh là quan trọng, đạo lý này các
vị hiểu không? Pháp sư trẻ giống như một mầm non vậy, cần phải tưới tiêu, cần
phải
vun bồi. Tôi là một cây già rồi, không tưới nước cũng không hề gì, cũng
không thể chết, cái mầm non này thì cần phải chăm sóc kỹ lưỡng. Làm thế nào
chăm sóc? Các vị ngày ngày đến nghe kinh, họ ngồi giảng xem thấy có rất nhiều
người nghe thì họ sẽ rất thú vị giảng kinh, tinh thần của họ liền được nâng
cao
. Vừa xem thấy bên dưới không có mấy người thì họ lắc đầu thở dài, chắc là
do ta giảng không được hay nên người ta bỏ đi hết, lòng tự tin sẽ không còn,
cho nên họ sẽ giảng không được tốt. Không tốt thì càng phải đến nghe, cho họ
thêm sức mạnh, đến ủng hộ cho họ. Họ vừa thấy thì nghĩ mình giảng vẫn không tệ,
vẫn còn nhiều người đến như vậy, đại khái mình vẫn còn được. Như vậy lòng tin
mới có thể sanh khởi, vậy mới là giúp đỡ họ. Cho nên các vị đến nghe họ giảng
kinh
chính là tưới tiêu, chính là vun bồi, vô cùng quan trọng.


Năm
xưa khi chúng tôi học giảng kinh, lão sư Lý đem những thính chúng của ông, tìm
một hai trăm người đến, dặn bảo họ nhất định phải lắng nghe người sơ học giảng
kinh
. Lão sư chính mình thường hay tuần tra ở phía sau, xem coi những người nào
không đến thì nói với họ: “Tôi bảo anh đến nghe họ giảng, vì sao anh lại
không đến?”.
Cho nên chúng tôi giảng kinh luôn có mấy chục người, cũng sắp
gần hơn 100 người, giảng đường không lớn cũng ngồi gần đầy, chúng tôi lên giảng
đài tín tâm liền đầy đủ. Cho nên người sơ học cần được khích lệ, cần phải giúp
đỡ, việc này quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Các vị đến nghe họ giảng kinh cũng
giống như trồng cây vậy. Chúng ta đang trồng cây, tương lai mới có kết trái,
mới có thu hoạch. Bạn không trồng cây mà muốn ăn quả mộng, làm gì có đạo lý
này? Không có đạo lý này. Nếu bạn muốn nghe phápgiảng kinh hay, có thọ
dụng
, bạn không vun bồi pháp sư thì bạn làm sao nghe được pháp sư giảng kinh
cho bạn chứ? Đây là có nhân ắt có quả. Cho nên nghe tôi giảng kinh không có
công đức, nghe các pháp sư trẻ tập giảng kinh thì công đức lớn, mọi người nhất
định
phải hiểu được đạo lý này. Các vị muốn tích lũy công đức, muốn cần tu
thiện căn, thì các vị phải cố gắng đến nghe kinh, nỗ lực đến nghe kinh. Không
những nghe kinh mà còn phải phê bình, nghe đến chỗ nào không hiểu thì nói với
họ là ngay chỗ này tôi không hiểu, họ liền sẽ cải tiến. Nghe đến chỗ nào có
nghi hoặc cũng nói với họ là khi tôi nghe đến chỗ này, tôi có nghi hoặc. Hoặc
giả
là họ giảng sai, hoặc giả họ giảng không được tường tận, giúp cho họ cải
tiến
. Cho nên học trò ở trên giảng đài, thính chúng bên dưới là lão sư, là giám
học, là hộ pháp chân thật, có như vậy chúng ta hộ pháp cùng hoằng pháp có thể
phối hợp. Giải-Hành tương chất thì đạo tràng mới có thể thành tựu, đạo tràng
mới có thể hưng vượng, đạo phong mới có thể xây dựng, người học có lòng tin,
người hộ trì có thu hoạch. Ta hộ trì một vị pháp sư, luôn là muốn giúp họ thành
tựu
, cái tâm huyết khổ cực hộ trì này không đến nỗi uổng phí, chân thật có thu
hoạch. Tương lai họ hoằng pháp lợi sanh chính là bạn chính mình hoằng pháp lợi
sanh
, thành tựu của họ chính là thành tựu của bạn, tại sao không làm công đức
này? Tại sao không làm việc tốt này?


Hôm
nay giảng với các vị hai giờ đồng hồ, câu này vẫn chưa giảng xong. Tôi vốn dĩ
dự định hai giờ đồng hồ giảng xong hai câu này, một câu này cũng giảng chưa
xong. Đây là giảng “cúng dường hằng sa thánh”, câu này vẫn chưa giảng xong. Cho
nên biết được, trên kinh này ý nghĩa của mỗi câu mỗi chữ giảng không hết.


Kinh văn:


Giả linh cúng dường hằng sa thánh


Bất như kiên dũng cầu chánh giác”.


Lần
trước giảng đến đoạn này, ý nghĩa vẫn chưa giảng xong. Hai câu này cũng là kinh
văn quan trọng nhất của kinh Vô Lượng Thọ, cũng là câu kinh tinh túy nhất. Cúng
dường
, phía trước đã từng nói qua với các vị là có tài cúng dường, có pháp cúng
dường
. Thông thường ở trong các kinh Đại thừa gọi là bố thí, tài bố thí, pháp
bố thí
, đến trên hội Hoa Nghiêm thì không thể nói bố thí mà nói là cúng dường,
đạo lý này ở đâu vậy? Hoa NghiêmViên giáo, Đại thừaBiệt giáo. Bồ Tát
của Biệt giáo cùng Bồ Tát của Viên giáo kiến địa không như nhau. Hay nói cách
khác, Bồ Tát Biệt giáo trí tuệ vẫn chưa viên mãn, đối với chân tướng sự thật
vẫn chưa thể thấy được rõ ràng, do đó gọi là bố thí. Đến Bồ Tát Viên giáo kiến
địa
viên mãn, kiến giải tương đồng với chư Phật Như Lai, biết được hư không pháp
giới
tất cả chúng sanh vốn dĩ thành Phật. Chúng ta đối với Phật thì không thể
gọi là bố thí mà phải gọi là cúng dường. Cúng dường là dùng tâm chân thành,
cung kính để tu bố thí. Bồ Tát thông thường, chân thành cung kính chưa đạt đến
được trình độ này thì gọi là bố thí, nếu như trình độ bằng với chư Phật Như Lai
thì gọi là cúng dường. Do đây có thể biết, ai cúng dường tất cả chúng sanh? Là
chư Phật Như Lai. Chỗ này giảng chư Phật Như Lai chính là 41 vị Pháp Thân Đại
mà trên kinh Hoa Nghiêm nói. Các Ngài là Phật thật, không phải Phật giả. Ở
Thiên Thai, trong Lục Tức Phật, 41 vị Pháp Thân Đại Sĩphần chứng tức Phật,
tuy là quả chứng của họ chưa có viên mãn nhưng họ đích thực chứng được một
phần. Phần này chính là chân như tánh, cho nên các Ngài biết được hư không pháp
giới
tất cả chúng sanh vốn dĩ thành Phật, do đó đối với tất cả chúng sanh, các
Ngài xem họ là Phật để cúng dường, bởi vì tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật. Đây
chính là hạnh Phổ Hiền. Không đạt đến được cảnh giới này, còn có Phật, có Bồ
Tát
, có chúng sanh, thì đối với Phật là cúng dường, đối với chúng sanh thì dùng
bố thí, tâm cung kính này đã bị suy kém rất nhiều, không thể giữ được tâm cung
kính
viên mãn. Điểm này rất đáng được chúng ta phản tỉnh, chúng ta phải nên học
tập. Học tập cung kính tất cả gọi là học Phật. Làm đến được cung kính tất cả,
đây gọi là thành Phật. Nếu bạn muốn hỏi lúc nào thì bạn thành Phật? Lúc nào bạn
đối với tất cả chúng sanh, cái tâm chân thành cung kính đó không hề khác nhau
với chư Phật Như Lai thì ngay lúc đó bạn liền thành Phật, bạn liền chứng quả,
bạn liền giống y như chư Phật Như Lai cúng dường tất cả chúng sanh. Đạo lý này
chúng ta không thể không biết, không thể không chăm chỉ nỗ lực học tập. Khác
biệt giữa phàm phu và Phật chính là phàm phuvọng tưởng, phân biệt, chấp
trước
; Phật thì hoàn toàn buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.


Trong
pháp cúng dường, Bồ Tát Phổ Hiền nói cho chúng ta nghe mấy loại, chúng ta ở lần
trước cũng đã từng giới thiệu qua là như thuyết tu hành cúng dường, lợi ích
chúng sanh cúng dường, nhiếp thọ chúng sanh cúng dường, đại chúng sanh khổ cúng
dường
. Chúng ta đã giảng bốn loại. Trong bốn loại này, nhiếp thọ chúng sanh
cùng
quan trọng. Nếu như không thể nhiếp thọ chúng sanh thì bạn làm sao có thể
giúp đỡ chúng sanh? Trong Phật pháp thường gọi là phổ độ chúng sanh, ý nghĩa
của câu nói này chính là phổ biến. Phổ biến chính là không có phân biệt. Độ
chính là giúp đỡ. Phổ biến giúp đỡ tất cả chúng sanh không có phân biệt. Vậy
chúng sanh không tiếp nhận thì làm sao? Bạn đến giúp họ ngay đến ngó họ cũng
không thèm ngó, họ cơ bản không thèm nhận tình của bạn thì bạn phải làm sao?
Cho nên trong cúng dường liền nêu ra có nhiếp thọ chúng sanh cúng dường.


Nhiếp
thọ
chúng sanh, ý nghĩa của câu nói này nếu dùng lợi hiện tại mà nói, chính là
phải làm tốt mối quan hệ của mình và chúng sanh, nhiếp thọ chính là làm tốt
quan hệ. Phật dùng phương pháp gì để làm tốt mối quan hệ với tất cả chúng sanh?
Phật có bốn nguyên tắc, gọi là Tứ Nhiếp Pháp, thù thắng hơn nữa chính là Tứ Tất
Đàn
.


TỨ TẤT ĐÀN


Tất
Đàn
, danh từ này là Hoa-Phạn cùng hợp dịch. Tất là chữ Trung Quốc, Đàn là tiếng
Ấn Độ, Đàn là Đàn Na, chính là bố thí. Chúng ta dùng lời hiện đại mà nói, Tất
Đàn
ý nghĩa chính là bố thí viên mãn, bình đẳng bố thí, phổ biến bố thí. Phật
nói, pháp có bốn loại.


Loại thứ nhất, Thế Giới Tất Đàn. Đây đều là nói nhiếp thọ chúng
sanh
. Bạn lìa khỏi bốn loại phương pháp này thì không làm được nhiếp thọ chúng
sanh
. Đây cũng chính là nói, bạn muốn cùng với tất cả chúng sanh làm tốt mối
quan hệ thì thật là không dễ chút nào. Đặc biệtxã hội hiện tại này, cha con
đã không còn thân ái, vợ chồng cũng không còn nói đạo nghĩa, loại quan hệ giữa
người và người như vậy thì làm sao mà xây dựng? Thế nhưng chúng ta tưởng tượng
xem, phương thức đó của Phật vẫn còn làm được tốt. “Biến thí”, bạn phải chịu bố
thí
. Cho nên bốn điều này, điều thứ nhất chính là khiến tất cả chúng sanh sanh
tâm hoan hỉ, Thế Giới Tất Đàn trước tiên khiến cho tất cả chúng sanh sanh tâm
hoan hỉ. Muốn khiến cho tất cả chúng sanh sanh tâm hoan hỉ thì bạn nhất định
phải biết hằng thuận chúng sanh, tùy hỉ công đức. Bạn không thể hằng thuận
chúng sanh
, mà muốn chúng sanh phải hằng thuận bạn, vậy thì khó rồi. Bạn cần
phải
biết chính mình phải đi hằng thuận chúng sanh.


Loại thứ hai, Vi Nhân Tất Đàn.


Phật
làm ra tấm gương cho chúng ta xem, trước tiên phải khiến cho họ hoan hỉ, tiếp
theo
bước thứ hai mới “Vi Nhân Tất Đàn”. Cái ý này chính là nói, mỗi niệm đều
nghĩ đến lợi ích của họ thì họ đương nhiên hoan hỉ. Mỗi niệm nghĩ đến lợi ích
của chính ta thì bạn sẽ rất khó mà ở chung với người khác, mọi người liền tranh
lợi. Chúng ta có thể buông bỏ, chúng ta có thể xả bỏ, thỏa mãn mong cầu của tất
cả chúng sanh, vì họ, mọi thứ đều vì họ, thời gian lâu dần về sau họ sẽ xem bạn
là người bạn tri âm, xem thấy bạn là người mà ở ngay trong một đời này họ cảm
thấy
rất đáng nương nhờ, khi đó bạn kiến nghị cho họ thì họ liền sẽ nghe theo.
Cho nên đến bước thứ ba mới giúp họ cải đổi tự làm mới, gọi là “Đối Trị Tất
Đàn”.


Loại thứ ba, Đối Trị Tất Đàn


Trong
mối quan hệ thân tình dài lâu này, Bồ Tát mới bắt đầu nói rõ chân tướng của
trụ
nhân sanh, sự thật cùng lý luận của nhân quả báo ứng, khuyên bảo họ cái gì
lợi ích chân thật, cái gì là hại, cái gì là phải, cái gì là trái. Lúc này
phải quấy lợi hại mới có thể nói, làm cho họ dần dần tỉnh ngộ ra, biết được
đoạn ác tu thiện, phùng hung hóa kiết, thông thường người học Phật chúng ta gọi
tiêu tai giải nạn, dạy cho họ đạo lý này. Đó là Phật pháp sơ cấp, đây không
phải là giúp cho họ đạt mục tiêu chân thật.


(Còn tiếp
…)


KINH
ĐẠI THỪA
VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC


Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG


Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ