Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 28)

0
32

KINH
ĐẠI THỪA
VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 28)



Pháp
Tịnh Không


 


“GIÁNG
VƯƠNG CUNG”


Tướng
thành đạo thứ hai là “thác thai”, thông thường người thế tục chúng ta
gọi là đầu thai, xuất sanh, “giáng vương cung”. Thích Ca Mâu Ni Phật
nói, chư Phật Bồ Tát đến thế gian này là thừa nguyện tái lai. Các ngài không
đến do nghiệp tái sanh. Phàm phu chúng ta do nghiệp tái sanh, nghiệp báo đến
thì không có chọn lựa. Chính mình không làm chủ được, tùy nghiệp lưu chuyển, đời
sống
của chúng ta sẽ rất đau khổ. Bồ Tát thừa nguyện tái lai, họ do nguyện lực
mà đến. Họ có thể chọn lựa đi đến một nhà nào đó để đầu thai. Vì sao phải chọn
ở nhà đế vương? Vì để thuận tiện giáo hoá chúng sanh.


Người
thế gian cầu danh vọng lợi dưỡng, trong khi quốc vương đầy đủ danh lợi, những
thứ mà người thế gian ham muốn. Thế nhưng đế vương có thể xả bỏ tất cả. Đó là
cách biểu diễn rất hay để người xem. Nếu ngài sanh ra trong gia đình nghèo cùng
mà lại nói về việc xả bỏ thì người ta sẽ hoài nghi: “Không phải ông muốn làm
quốc vương mà không được nên mới làm tôn giáo? Ông muốn làm lãnh đạo tôn giáo
thống trị mọi người, không phải đó là vì danh lợi hay sao?
Mọi người sẽ
hoài nghi, cho nên nhất định phải chọn lựa ở nhà của đế vương.


Chọn
lựa đầu thai đến nhà quốc vương, dùng thân phận thái tử để xuất hiện, dụng ý
của ngài rất sâu, vì người thế gian có người nào không mong cầu phú quý. Thời
xưa
có câu nói: “quý như thiên tử, giàu như bốn biển”. Bồ Tát liền thị
hiện
: “Tôi đã có những thứ các người mong cầu, nhưng không gì đáng tự hào mà
rất bình thường
”. Hoàng đế cũng phải chết, tạo tác tội nghiệp vẫn phải đọa
ba đường. Việc tốt là việc nên làm, đã làm việc xấu thì phải đọa ba đường. Con
người
sống ở đời không phải vì phú quý. Bồ tát dùng phương thức thị hiện làm
một tấm gương tốt để chúng ta phản tỉnh, giác ngộ.


“KHÍ
VỊ XUẤT GIA”


Vị
là vương vị. Xả bỏ vương vị. Quyền lực quốc vương của một quốc giaquyền lực
lớn nhất. Người tranh quyền đoạt lợi xem thấy Bồ Tát biểu diễn vậy phải sanh
tâm tàm quý. Bồ tát có danh, vị, quyền lực, tiền của nhưng đều xả vì biết những
thứ này không phải là thứ tốt. Kinh Phật nói, “tài, sắc, danh, thực, thùy
là năm điều của địa ngục. Chỉ vướng một điều thì bạn cũng đã không thể thoát
khỏi
sáu cõi luân hồi. Nếu đầy đủ năm điều thì phiền não của bạn sẽ to, cho nên
nhất định phải xả. Người niệm Phật chúng ta mỗi tâm mỗi niệm phải cầu sanh tịnh
độ
, không ở thế giới Ta Bà.


Chúng
ta
có thể đi hay không? đi bằng cách nào? Phải đem thế giới Ta Bà xả bỏ, bạn
mới có thể đi. Chúng ta không thể đem danh vọng lợi dưỡng từ thế giới Ta Bà đến
đó, cho nên phải xả bỏ thế gian này. Xả bỏ năm dục sáu trần, danh vọng lợi
dưỡng
, chúng ta niệm Phật mới được sanh. Không gian đời sống của chúng ta rất
có hạn lượng, làm gì an vui. Chúng ta đem thế gian này thảy đều xả bỏ thì sanh
đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mới được tự tại chân thật. Nơi đây nói dân chủ
mở rộng tự do, toàn bộ đều là giả, không phải thật. Đến thế giới Tây Phương Cực
Lạc
mới thật là dân chủ tự do mở rộng. Ở Thế Giới Tây Phương Cực Lạc không hề
quốc vương, tổng thống, bộ trưởng, thị trưởng.v.v…, vì sao không có? Dân
chủ
. Mỗi người đều là chủ, không ai làm chủ ta. Đó mới thật là dân chủ, thật tự
do
, chân thật mở rộng, tùy lúc tùy nơi muốn đến quốc gia nào, thấy một vị Phật
nào thì liền đi, không chút khó khăn.


Thế
Giới Cực Lạc
đáng được chúng ta đi. Còn thế gian này có tốt hơn, chúng ta cũng
không nên lưu luyến, vì thời gian quá ngắn, không thể hưởng thụ lâu. Cho dù thọ
mạng
của chúng ta dài, sống trên trăm tuổi cũng chẳng hưởng thụ được bao nhiêu.
Thật không đáng, nghĩ lại vẫn phải vãng sanh Thế Giới Cực Lạc. Cho nên tất cả
thọ dụng, danh vọng lợi dưỡng, tất cả oai thế quyền lực thảy đều xả bỏ mà xuất
gia
. Nói như vậy không có nghĩa là bảo mọi người đều xuất gia. Nếu bạn nhìn văn
giải nghĩa thì ba đời chư Phật hàm oan. Phật thị hiện hình dáng xuất gia
khải thị cho chúng ta để chúng ta ở nơi đây giác ngộ phải “xuất gia”.


Ý
nghĩa
của xuất gia là đối với gia nghiệp không có chút lưu luyến nào. Vọng
tưởng
, phân biệt, chấp trước là đại chướng ngại. Nếu bạn không có phân biệt,
chấp trước thì cái nhà đó có hay không không hề khác nhau, vậy thì không chướng
ngại
. Cho nên Phật nói đến xuất gia có bốn loại. Bốn loại này đều là nói đối
với người học Phật, không nói người không học Phật.


Loại
thứ nhất, “Thân xuất, tâm không xuất”


Người
xuất gia hiện tại, thân đã xuất nhưng lòng vẫn còn danh vọng lợi dưỡng, vẫn
tham sân si mạn. Tuy tướng của người xuất gia nhưng những việc làm vẫn là sự
nghiệp
của người tại gia. Vốn dĩ cái nhà không lớn, cha mẹ anh chị em không
đông, vừa xuất gia thì làm chùa to. Ra khỏi nhà nhỏ liền bước vào nhà lớn,
phiền não liền lớn. Nhà nhỏ tạo nghiệp nhỏ, nhà lớn tạo nghiệp lớn. Người xưa
mới nói “Trước cửa địa ngục tăng đạo nhiều”. Ai đọa địa ngục? Thân xuất
gia
nhưng tâm không xuất gia, gần như không thể vượt qua địa ngục. Việc này
chúng ta phải hiểu.


Xuất
gia
phải thật giống Phật Thích Ca Mâu Ni, thân tâm thế giới tất cả buông bỏ,
toàn tâm toàn lựcPhật pháp, vì chúng sanh, đó là công đức vô lượng. Báo của
tội phước ở ngay khoảng một niệm, không thể không đề cao cảnh giác.


Loại
thứ hai, “Thân không xuất gia, tâm xuất gia”


Các
cư sĩ tại gia học Phật, tuy thân ở nhà nhưng tâm xuất gia. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên
tâm
xuất gia mà thân không xuất gia, họ không tạo nghiệp. Thực tế người tại gia
học Phật thành tựu nhiều, vãng sanh tướng lạ hi hữu. Những năm gần đây, chúng
ta
cũng đã xem thấy hay nghe thấy: đứng mà đi, ngồi mà đi, đều là đồng tu tại
gia
, nhất là nữ chúng. Nam chúng tương đối ít, còn xuất gia thì chưa hề nghe nói
qua dù chỉ một người. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ từng rất cảm khái mà nói, thời
xưa
tu hành thành tựu, thứ tự là nam chúng xuất gia thành tựu nhiều nhất; thứ
hai nữ chúng xuất gia, thứ ba là nam chúng tại gia, thứ tư là nữ chúng tại gia.
Hiện tại thảy đều điên đảo, số người nhiều thành tựu nhất lại là nữ chúng tại
gia
, kế đến là nam chúng tại gia, kế đến nữa là nữ chúng xuất gia, rất e ngại
là nam chúng xuất gia. Hiện tại đảo ngược, chúng ta không thể không cảnh giác.
Chân tướng sự thật như vậy không thể phủ nhận, cho nên ý nghĩa của xuất gia
phải hiểu.


Loại
thứ ba, “Thân tâm đều xuất”


Đó
là người xuất gia tốt, thân xuất gia tâm cũng xuất gia, Phật pháp gọi là “đệ
tử
chân thật của Phật
”, có thể gánh vác việc hoằng pháp lợi sanh, kế tục
huệ mạng Phật, kế tục gia nghiệp Như Lai.


Loại
thứ tư “thân tâm đều không xuất”



tại gia thân không xuất, tâm cũng không xuất. Tuy học Phật, nhưng việc học
Phật chỉ là việc phụ, chủ yếu lo danh vọng lợi dưỡng thế gian. Đại khái 99% lo
thế gian pháp, chỉ lo Phật pháp khoảng 1% cũng là rất tốt.


Phật
ở ngay bốn loại này thị hiện nhắc nhở chúng ta. Các đồng tu tại gia, tâm phải
xuất dù thân không xuất. Trong bất cứ nghề nghiệp nào, ở bất cứ công việc nào,
các vị đều phải thị hiện thành chánh giác. Bạn biểu diễn ở trong nghề nghiệp
này, bạn là mô phạm tốt nhất, trải qua đời sống của Bồ Tát. Phàm hễ nếu tâm
xuất gia, cái tâm đó nhất định phải thông minh hơn người, nhất địnhtrí tuệ
hơn người. Nếu bạn buôn bán sẽ kiếm rất nhiều tiền. Thế nhưng Bồ Tát kiếm được
tiền không phải dùng cho chính mình mà để giúp đỡ chúng sanh khổ nạn trong
hội
, đó là một tấm gương tốt nhất cho người có tiền có thế lực xem, để ảnh
hưởng
họ, giáo hoá họ. Hy vọng người phú quý đều quan tâm đến lợi ích của cả
hội
, xã hội này liền an lành, không bị bất cứ ai làm loạn. Được như thế, chính
chúng ta cũng trải qua ngày tháng tốt đẹp, xã hội sẽ vĩnh viễn an định hòa
thuận
, hợp tác lẫn nhau.


Khi
hiểu được ý nghĩa của xuất gia, chúng ta sẽ biết nên làm thế nào tu học. Thực
tế
mà nói, chân thật phát tâm cạo tóc xuất gia không phải dễ, ngược lại rất khó
khăn. Bạn phải chân thật hiểu Phật pháp. Bạn nghĩ mình có thể gánh vác công
việc hoằng pháp lợi sanh kế tục huệ mạng Phật hay không. Trách nhiệm này rất
lớn. Nếu bạn nói “Tôi niệm Phật cầu vãng sanh”, vậy thì không cần phải
cạo đầu. Bạn ở tại gia niệm Phật cũng vãng sanh thượng thượng phẩm. Còn thị
hiện
dáng vẻ như vậy mà làm không đúng pháp, bại hoại Phật môn thì tội nghiệp
của bạn sẽ nặng, vì sao? Vì bạn phá hoại hình tượng của Phật. Phật là thầy của
trời người, khởi tâm động niệm của Phật, lời nói việc làm đều là tấm gương tốt
nhất cho chúng sanh chín pháp giới. Bạn làm tấm gương xấu cho người thì bạn
đang diệt Phật pháp, không phải hưng Phật pháp. Trong tâm còn có tham lam, sân
hận
, ngu si, không giữ giới luật, không giữ pháp, còn phóng túng, vậy sao được!
Cho nên mặc vào tấm y này phải mỗi giờ mỗi lúc nghĩ đến Phật. Ngày ngày nhìn
Phật tượng, ngày ngày mở quyển kinh ra đọc phải nghĩ lại xem ta có giống Phật
hay không? Nếu không giống Phật là đã đánh dấu trong địa ngục, còn có thể trốn
được sao.


Cầu
sanh tịnh độ, tâm ta đối chiếu cùng với tâm của Phật A Di Đà. Tâm của Phật A Di
Đà
Bốn mươi tám nguyện, ta xem nguyện nào cùng với tâm mình tương ưng. Đọc
Bốn mươi tám nguyện thấy tâm mình không tương ưng dù chỉ một điều, như vậy làm
sao có thể vãng sanh. Đó chính là người xưa thường nói: “đau mồm rát họng
chỉ uổng công
”. Nguyện thứ nhất của Phật A Di Đà, mọi người đều rất
ràng
, “nước không ác đạo”. Thế Giới Tây Phương Cực Lạc không có đường
ác, chúng ta đọc nguyện này có cảm tưởng thế nào? Ba đường ác là quả, tham sân
si
mạn là nhân. Nước không ác đạo là quả, chính là không có cái nhân của ác
đạo
. Hay nói cách khác, chúng ta đọc cái nguyện này phải nghĩ rằng, tham sân si
mạn không đoạn không thể được. Nếu bạn không đoạn thì không tương ưng với
nguyện thứ nhất của Phật A Di Đà. Chúng ta không thể nói đến Thế Giới Tây
Phương Cực Lạc
mới đoạn, mà phải đoạn ngay hiện tại, không thể có lòng tham dù
một chút.


Buổi
trưa hôm nay ở Hồng Các, đoàn thể của cư sĩ Thừa Mông Giám cúng trai, chúng tôi
tham gia. Khi đi ông tặng tôi một cái túi, trong túi toàn là bao đỏ, tôi
không biết bao nhiêu tiền. Tôi giao cho Ngộ Hoằng, ông nói, người xuất gia quá
nhiều, ông không thể phát từng người một; trong khi mỗi tín chủ cúng dường số lượng
không như nhau. Tôi liền thay các vị xử phân. Người xuất gia không nên có tâm
tham, tôi đem toàn bộ số tiền này giao cho cư sĩ Lý Mộc Nguyên cúng dường đạo
tràng
. Trong túi có tiền là họa hại, không phải việc tốt. Chúng ta phải làm đến
được, nói được phải làm được, chân thật buông bỏ. Thân xuất gia này tuy từ
trước không tường tận đối với Phật giáo, mơ mơ hồ hồ đi xuất gia, nhưng sau khi
xuất gia cố gắng học tập, từ mơ mơ hồ hồ biến thành một chánh giác xuất gia,
cũng là việc tốt. Nhân duyên cá nhân không giống nhau, nhưng kết quả về sau hy
vọng
giống nhau.


“KHỔ
HẠNH HỌC ĐẠO”


Đời
sống
khổ một chút là tốt. Phật dạy chúng talấy khổ làm thầy”. Thường
hay
chịu đời sống khổ cực thì dễ dàng có tính đề cao cảnh giác, còn đời sống
quá thoải mái sẽ bị đọa lạc. Cư sĩ Lý rất quan tâm đối với tôi, tôi cũng rất
cảm tạ ông. Ông nói, lão pháp sư của Trung Quốc đại lục được người chăm sóc rất
nhiều, ông xem thấy tôi khổ vì không có người chăm sóc. Khổ một chút cũng được,
vì nhờ vậy mà tính cảnh giác của tôi tương đối cao. Ông muốn tìm một số người
đến chăm sóc tôi. Tôi cảm tạ và từ chối, vì sợ rằng khi có nhiều người chăm
sóc, tôi liền sẽ đọa lạc. Tác oai tác phước, vậy không được.


Thầy
của tôi đã làm một tấm gương tốt cho tôi xem. Tôi nhận thân giáo của ông rất
sâu. Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam đến năm chín mươi lăm tuổi vẫn một mình trải qua
ngày tháng không có người hầu hạ, giặt quần áo, nấu cơm. Ông vẫn tự tay làm.
Sau chín mươi lăm tuổi, ông mới chịu nhận học trò chăm sóc. Đến năm chín mươi
bảy tuổi vãng sanh. Không có người chăm sóc sẽ tốt hơn, điều đó giúp thân thể
ta khoẻ mạnh. Nếu có người chăm sóc, đi đâu cũng cần phải có hai người dìu đỡ,
thật phiền phức, thật đáng thương. Cho nên tôi cảm ơn tấm lòng của cư sĩ Lý Mộc
Nguyên, nhưng không nên tìm người hầu tôi thì hơn, để sức khoẻ của tôi được
tốt.


Khổ
hạnh
đối với thân tâm mình đều có sự giúp đỡ, trước nhất là thân thể nhất định
khoẻ mạnh. Cho nên người thế gian có phước mà không thấy thật phước báu. Họ cho
rất nhiều người hầu hạ họ, dần dần thể lực của họ kém xa so với lão nông phu
dưới quê. Những lão nông dưới quê có thể sống đến tám chín mươi tuổi mà không
có người chăm sóc. Chính mình nhất định phải làm mà sống, không làm không thể
sống được.


Các
vị phải biết, ở tuổi trung niên trở lên thì cái gì là chân thật. Khoẻ mạnh là
thật, thứ khác là giả. Thân thể khoẻ mạnh mới là phước báu chân thật. Giả như
rất giàu có nhưng thân thể không khỏe, nằm trên gường bệnh, được ba hộ lý đến
chăm sóc; loại phước đó, tôi cảm thấy không ý nghĩa gì, không bằng người có
thân thể khỏe mạnh như chúng ta, đi đến mọi nơi thoải mái, đời sống hoạt bát.


Thế
gian
này bao gồm tất cả hiện tượng, chúng ta phải tỉ mỉ quan sát, phải hưởng
thụ phước báu chân thật. Khổ hạnh có thể đột phá được mê hoặc chướng nạn, do đó
không cầu hưởng thụ. Có phước để tất cả chúng sanh cùng hưởng. Thế gian còn rất
nhiều người khổ nạn, chúng ta làm thế nào giúp đỡ họ. Giúp đỡ cũng phải tùy
duyên
phận, có duyên nhất định phải giúp. Không có duyên thì trong lòng thường
hay
nghĩ đến, thường phải nhớ lấy. Chỉ có khổ hạnh mới có thể đột phá chướng
nạn
.


Học
đạo
”. Học là học tập, sau khi học phải làm cho được. Đạo là hiểu thực tướng
các pháp, đối với chân tướng của vũ trụ nhân sanh, chân thật giác ngộ, chân
thật
hiểu rõ, đó là đạo. Từ bất cứ sự việc nào đều có thể giác ngộ, từ bất cứ
pháp nào cũng đều có thể giác ngộ. Cho nên Phật nói pháp vô lượng pháp môn, lại
nói “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Mỗi môn đều có thể khế
nhập, đều khiến cho người giác ngộ. Tất cả chúng sanh căn tánh không đồng nhau,
duyên phận không đồng nhau, không định vào lúc nào gặp được nhân vật như thế
nào, nhưng bỗng nhiên giác ngộ. Sự thật này chúng ta thấy rất nhiều trong lịch
sử
Phật giáo Trung Quốc. Người xuất gia khai ngộ minh tâm kiến tánh, người tại
gia
khai ngộ minh tâm kiến tánh cũng không ít, việc này chúng ta phải hiểu.


“TÁC
THỊ HIỆN, THUẬN THẾ GIAN CỐ”


Đó
là nói ý nghĩa của thị hiện. Phật Thích Ca Mâu Ni trên kinh Pháp Hoa nói lời
thành thật, ngài đã thành Phật từ kiếp lâu xa. Kinh Phạm Võng nói, lần này ngài
đến thế gian thị hiện làm Phật, thị hiện tám tướng thành đạo là lần thứ 8000.
Không tínhthế giới phương khác, chỉ riêng đến cõi này là lần thứ 8000. Thế
mà dường như phàm phu không hiểu biết gì. Ngài làm thái tử ra ngoài du ngoạn,
xem thấy tất cả người vật trong xã hội, xem thấy sanh, lão, bệnh, tử, liền xúc
động
tâm tu hành. Ngài giả làm như vậy, đều là diễn kịch cho chúng ta xem.
Chúng ta ngày ngày xem thấy sanh, lão, bệnh, tử, không hề cảm xúc, bất tri bất
giác
liền đến trên thân chúng ta. Khi chính mình bị lão bệnh tử đến, hối hận
không còn kịp. Ngạn ngữ nói “Người không lo xa, ắt có họa gần”, ý nghĩa
của câu nói này rất sâu.


Bạn
có nghĩ đến lúc bạn già hay không? có nghĩ đến lúc bạn bệnh hay không?, có nghĩ
đến lúc bạn chết hay không? Bạn có nghĩ đến đời sau hay không? Nếu con người
biết nghĩ đến việc này mới gọi là lo xa. Chúng ta phải làm thế nào mới có cách
nghĩ chính xác? Nếu chúng ta được dạy, ngay trong một đời này không già, không
bệnh, không chết, đó gọi là chánh tri chánh kiến. Không nên cho rằng tương lai
chúng ta sẽ già, cần phải chuẩn bị một ít tiền, nghĩ ra vài cách để dưỡng già;
tương lai phải có bệnh nên cần phải có một khoản tiền để làm phí thuốc thang;
còn khi chết phải mai táng như thế nào. Nếu bạn có cách nghĩ như vậy, đó không
phải là nghĩ xa lo gần, hoàn toàn sai rồi. Hiện tại bạn chưa già, nhưng bạn đã
chuẩn bị già thì bạn sẽ già rất nhanh; hiện tại bạn không bệnh nhưng bạn đã
chuẩn bị phí thuốc thang chờ bị bệnh thì bạn làm sao không bệnh chứ? Thậm chí
tương lai khi chết, còn phải tìm một nơi phong thuỷ tốt thì bạn sẽ chết rất
nhanh.


Chân
thật
nghĩ đến tương lai là phải mau tu học đại thừa. Phật pháp đại thừa kinh
Lượng Thọ
dạy chúng ta làm thế nào không già, làm thế nào không bệnh, và làm
thế nào không chết. Phật pháp đích thực vì chúng ta giải quyết ba vấn đề lớn
này một cách cứu cánh viên mãn. Vãng sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc không
phải chết, đó là sống mà ra đi.


Trong
những năm gần đây, ở Singapore và Malaysia, người niệm Phật vãng sanh không ít.
Cư sĩ Lý Mộc Nguyên đưa rất nhiều người vãng sanh. E rằng không ai so được với
ông, ông tiễn vãng sanh, chính mắt xem thấy hiện tượng, tướng lạ vãng sanh,
sống mà ra đi, không phải chết rồi mới ra đi. Họ ra đi thấy Phật A Di Đà đến
tiếp dẫn, họ còn nói với người hai bên: “Phật đến rồi, tôi theo ngài đi đây”.
Họ đi theo Phật, không cần túi da này nữa. Trước là buông bỏ tất cả thân tâm
thế giới, đến sau cùng cái túi da này cũng phải buông bỏ, theo Phật A Di Đà đến
Thế Giới Tây Phương Cực Lạc hóa sanh trong hoa sen. Thân tướng đó là thân kim cang
bất hoại, kinh nói “đều là thân sắc vàng tử ma”, tướng mạo đẹp như Phật
A Di Đà, không chỉ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.



sao họ đi được như vậy? bởi vì họ có thể buông bỏ. Họ buông bỏ lúc nào? Ngay
hiện tại buông bỏ, không đợi đến lúc lâm chung mới buông. Bởi vì hiện tại đã
buông bỏ cho nên bạn sẽ không già, sẽ không bệnh. Mộc Nguyên hảo tâm muốn tìm
mấy người đến chăm sóc cho tôi, cho rằng tôi già rồi, nhưng tôi không cần. Học
Phật phải hiểu được đạo lý của Phật pháp, đó là chân lý, cho nên làm ra loại
thị hiện này, thuận theo nhân tình của thế gian, sau đó mới có thể khiến người
thế gian giác ngộ. Tuy kinh văn chỉ có bốn câu mười hai chữ, nhưng quá trình
Phật xuất gia tu hành học đạo đều được hình dung tương đối viên mãn, mỗi câu
mỗi chữ đều hàm nhiếp vô lượng nghĩa.


“DĨ
ĐỊNH HUỆ LỰC, HÀNG PHỤC MA OÁN”


Hàng
ma
” là tướng thứ năm trong tám tướng. “định huệ lực, hàng phục ma oán”,
hai câu nói này vô cùng quan trọng, liên hệ đến cả đời tu học thành bại của
chúng ta. “Ma” “Oán”, trong tất cả nghiệp chướng, hai loại lớn
này rất phiền phức. “Ma” là dày vò, nên gọi là ma vương. Vào thời xưa
dịch kinh, ma là một sự dày vò. Dưới chữ ma có bộ thạch, là sư dày vò. Đem bộ
thạch bỏ đi đổi thành bộ quỷ. Chữ này do Lương Võ Đế phát minh. Lương Võ Đế nói
dày vò quá khổ, còn đáng sợ hơn quỷ, cho nên đổi thành quỷ. Đem bộ thạch đổi
thành bộ quỷ, đó là ma quỷ.


Qan
oan gia, nên gọi là báo oan, đòi nợ, trả nợ. Loại oan gia này gọi là oan gia
trái chủ. Kinh Phật nói, mười thiện là bạn lành, mười ác là oan gia. Mười ác là
gì? Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt, tham,
sân, si, đó là oan gia của chúng ta. Khởi tâm động niệm của chúng ta nếu rơi
vào trong mười điều này thì oan gia hiện tiền, dạy chúng ta tạo nghiệp. Cho nên
Phật giảng mười thiện là bạn lành, bạn cũ thân thiết nhất. Chúng ta phải thân
cận thiện hữu tri thức


Ý
nghĩa
trong đây rất nhiều, oan gia không phải chỉ kết ở một đời một kiếp. Có
oan gia nhiều đời nhiều kiếp. Nếu chúng ta muốn tu hành, những người này liền
đến gây phiền phức, vì sao? họ phải đến báo thù, họ có một ý nguyện báo thù
mãnh liệt, nên khiến chúng ta gặp phải chướng nạn nhất định, phá hoại chúng ta
tu hành. Không nhất định dùng phương thức gì, chúng ta luôn luôn bị thiệt bị
lừa. Yêu ma quỷ quái trong xã hội ngày nay có thể nói quá nhiều. Kinh Lăng
Nghiêm
nói “thời kỳ mạt pháp” chính là nói thời đại hiện tiền của chúng
ta
. Phật Thích Ca Mâu Ni dự ngôn từ ba ngàn năm trước: “tà sư nói pháp như
cát sông Hằng
”, nơi nơi đều có, nói những lời gần giống Phật pháp nhưng
không phải, luôn làm bạn sanh phiền não, không được thanh tịnh.


Chúng
ta
làm thế nào phân biệt những ma oán? lấy đề kinh này làm tiêu chuẩn. Đề kinh
nêu tổng cương lĩnh tu học có năm chữ “thanh tịnh, bình đẳng, giác”.
Chúng ta tiếp xúc tất cả người sự vật, cảm thấy tâm địa thanh tịnh, bình đẳng,
giác ngộ, đó là chánh pháp. Ai nói tốt hơn, nhưng nếu phá hoại tâm thanh tịnh
của chúng ta, phá hoại tâm bình đẳng, làm cho chúng ta mê hoặc điên đảo, thì
pháp này chắc chắntà pháp, không phải chánh pháp. Phật ở chỗ này nói, phải
dùng lực định huệ, hàng phục ma oán”. Bạn có sức định, sức định chính
là chính mình có chủ tể, không thể bị cảnh giới bên ngoài dao động. Sức huệ
chính là bạn thấy rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo; bạn có năng lực phân
biệt
tà chánh, thiện ác. Do đó bạn ở cảnh giới bên ngoài mới không bị mê hoặc.
Cảnh giới hiện tiền, chính mình như như bất động mới có thể hàng phục ma oán.
Trên đạo Bồ Đề, ma chướng oan gia trái chủ quá đông. Bạn không có định huệ làm
sao ngay một đời này thành tựu?


Chính
tôi mỗi niệm cảm kích giáo huấn của thầy giáo. Không nhờ thầy giáo, chúng ta
phàm phu làm sao thành tựu. Cái thiện mà thầy giáo dạy, chúng ta có thể tuân
thủ
. Dù thầy giáo có khiêm tốn, không dám tự xưng mình là thầy, nhưng chúng ta
làm học trò thì phải tôn trọng. Lão sư Lý lần đầu gặp mặt tôi, ông liền nói: “Năng
lực
của tôi chỉ có thể dạy ông năm năm
”, lời nói rất khách sáo. Mục đích
của ông là hy vọng tôi cố gắng nghe ông dạy bảo năm năm. Năm năm không rời khỏi
ông, năm năm tuân thủ qui củ của ông, nghe một mình ông giảng kinh nói pháp,
một môn thâm nhập. Cái gốc này sâu, cái được chính là định huệ. Sau đó, đối với
tất cả người sự vật thay đổi, tôi quan sát đích thực là khác đi với trước. Ba
tháng là đã thấy hiệu quả, chính mình liền thể hội được.


Ban
đầu
lão sư dặn bảo, chúng tôi cũng có chút miễn cưỡng, cảm thấy thái độ này của
thầy giáo dường như quá ngạo mạn, quá tự đại, gần như thế gian này chỉ có mình
ông, người khác đều không thể so sánh. Chúng ta không có trí tuệ nên không hài
lòng
. Cha mẹ ở nhà còn không dạy chúng ta chỉ được nghe một mình họ, ngoài ra
không được nghe bất cứ người nào. Tất cả văn tự không được sự đồng ý của thầy
cũng không được xem. Lại còn một việc nữa, những gì đã học từ trước, ông thảy
đều không thừa nhận, một mực bài trừ, ông bắt phải học lại với ông từ đầu.
Không còn lời gì để nói, chúng tôi cũng xem như vẫn có một chút thiện căn phước
đức
, đành thật chịu nghe lời, thật chịu tiếp nhận, y giáo phụng hành. Thế nhưng
cứ như vậy mà làm qua ba tháng, chính mình liền phát hiện thật có chỗ tốt, đó
tâm thanh tịnh. Ba tháng không đi khắp nơi nghe. Bất cứ người nào nói chuyện
đều không được nghe, bịt tai lại.


Giáo
trình lão sư chỉ định rất có hạn. Ngoài số đó ra, thứ khác không được xem, đóng
bít cái nhìn của bạn. Tất cả pháp không thấy không nghe, dần dần tâm liền định.
Phương pháp này dạy chúng ta tu thiền định. Định có thể khai huệ. Chỉ ba tháng
sau, nghe người khác nói chuyện, nhìn thấy mọi việc, chính mình cảm thấy thông
minh
hơn trước nhiều. Từ trước nghe nói không hiểu ý nghĩa, hiện tại thì hiểu
được, liền có năng lực đoán ý qua lời nói. Sau sáu tháng thì rất rõ ràng. Cho
nên tôi bội phục tận đáy lòng đối với lão sư, mới biết được phương pháp của lão
rất cao minh, chưa từng được thấy qua, cũng chưa từng nghe nói, nên không
biết phương pháp này tuyệt diệu như vậy.


Sau
năm năm, tôi liền nói với thầy: “con xin giữ thêm năm năm nữa”. Lão sư
yêu cầu tôi năm năm, tôi tuân thủ qui củ của ông mười năm. Sau mười năm, tôi
giảng kinh mới thành thạo, tất cả đều trôi chảy. Gốc đã được cắm sâu như vậy,
không giữ qui củ, tự cho mình thông minh thì nhất định thất bại. Đồng học thất
bại rất nhiều. Học trò lão sư dạy có đến vài trăm người, chân thật có được chút
thành tựu, nhưng hiện tại chỉ có ba người. Vậy làm thế nào thành tựu? Giữ qui
củ, nghe lời, thành thật, bạn mới có thể thành tựu. Phàm tự cho mình là đúng,
sau cùng đều thất bại. Cũng giảng kinh nhưng giảng mấy năm không tiến bộ, không
dẫn khởi hứng thú của thính chúng. Thính chúng ngày càng ít thì duyên không còn
nữa. Chính mình cũng không giảng nữa.


Khi
tôi đến Đài Trung, nhiều đồng tu của chúng ta như vậy, mỗi mỗi đều giảng không
tệ. Nhưng vì sao hiện tại, một người giảng kinh cũng không có? Họ mời tôi ăn
cơm. Bạn học cũ còn khoảng năm sáu người, đều không giảng. Cho nên nếu không
thể vâng giữ lời giáo huấn của lão sư, bạn không có sức định, không có hằng
tâm
, không có lòng nhẫn nại thì bạn làm sao có thành tựu? Đó là đại sự nghiệp.


Học
Phật so với bất cứ sự nghiệp thế gian nào đều lớn. Sự nghiệp lớn nhất của thế
gian
xây dựng chính sách quốc gia, mở nước, xây dựng triều đại, xây dựng
quốc gia, nhưng vẫn không thể sánh với Phật pháp. Phật phápsiêu việt ba
cõi
, siêu việt mười pháp giới, thành Phật làm tổ. Sự việc lớn như vậy, nếu bạn
không đến tu học như lý như pháp, nghĩ chính mình sẽ làm cách gì đó. Không sai,
bạn có thể nghĩ, nhưng biện pháp đó của bạn có hiệu quả không? Rất khó nói! Tổ
đại đức truyền dạy phương pháp này từ mấy ngàn năm, đời đời truyền nối nhau,
đều làm theo phương thức này mà thành tựu. Ngày nay chúng ta bỏ đi phương thức
này, lại tìm ra một cách khác, thử xem có thành công hay không? Bạn đi thử
nghiệm, nếu thử nghiệm thất bại thì thật đáng tiếc, vì bạn bỏ mất duyên của đời
này. Còn bạn thử nghiệm thành công thì thật cừ khôi, lại có thêm một phương
pháp
thành công.


Chúng
ta
chính mình không phải là thượng căn lợi trí, đi theo đường cũ mới đáng tin.
Chư Phật Như Lai thị hiệnthế gian vì sao phải dùng tám tướng thành đạo?, vì
sao không tìm ra một qui củ khác, một hình thức khác? Vì sao giữ theo phương
pháp
cũ? Tám tướng thành đạo là thanh qui của tất cả chư Phật độ hoá chúng
sanh
. Chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian đều giữ qui củ. Phật Thích Ca Mâu Ni
giữ lấy qui củ của người xưa, qui củ của cổ Phật. Đại sư Thanh Lương trong “Hoa
Nghiêm
sớ sao
” nói: Phật Thích Ca Mâu Ni có nói pháp cho chúng ta nghe
không? Không. Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói đều là cổ Phật đã nói, “thuật
nhi bất tác
”. Hay nói cách khác, pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói trong
bốn mươi chín năm, không có câu nào do ngài sáng tạo.


Những
thị hiệntác tư thị hiện, thuận thế gian cố”, đều là khải phát chúng
ta
, dạy bảo chúng ta đi theo con đường của cổ thánh tiên hiền thì sẽ không sai.
Không nên tự cho mình thông minh muốn làm mới. Khi làm mới, vấn đề liền xuất
hiện
, nhất là người mới học thì càng không nên. Dù lão tu hành cũng không thể
làm mới. Cứ phương pháp nguyên lý nguyên tắc nhất định không thay đổi, còn hình
thức
có thể tùy theo thời đại mà thay đổi. Giống như giảng đường này của chúng
ta
. Chúng ta hiện đại hoá, nghi qui có thể được tiết chế bớt. Từ trước nghi qui
đại tòa phải làm bốn mươi phút. Người hiện tại công việc bận rộn, làm sao có
thể lãng phí thời gian bốn mươi phút. Cho nên hiện tại chúng ta giảng kinh giản
hoá nghi qui, việc này thì được. Giảng đường của chúng ta hiện đại hoá, việc
này không ảnh hưởng gì. Nếu từ trên lý luận, từ phương pháp lại chế ra một nghi
qui mới, đó mới đặc biệt sai lầm.


Tóm
lại
, ở trên kinh luận, trên nguyên tắc, nhất định phải theo qui củ xưa của cổ
thánh tiên hiền. Cư Sĩ Lâm muốn xây dựng niệm Phật đường, cư sĩ Mộc Nguyên
thương lượng với tôi, niệm Phật đường chọn lấy qui củ xưa của Đại sư Ấn Quang,
không thể sai. Chúng ta không nên làm gì mới. Chúng ta có làm thế nào cũng
không thể hơn được người xưa. Nếu làm sai, nhân quả gánh vác không nổi. Do đó
hoàn toàn mô phỏng theo nghi qui của Linh Nham Sơn. Nếu qui củ này có sai, đại
Ấn Quang chịu trách nhiệm, chúng ta sẽ không sao vì đã có chỗ để đẩy trách
nhiệm
.


(Còn
tiếp …)


KINH
ĐẠI THỪA
VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC


Pháp
: HT. TỊNH KHÔNG


Biên
dịch
: Vọng Tây cư sĩ


Biên
tập
: PT. Giác Minh Duyên