Bụt Hay Phật ?

0
55

BỤT
hay PHẬT ? 

Phan
Mạnh Lương 

buddha-0015buddha-0015Tạp
chí Thế Kỷ 21 số 123 ra hồi tháng 7-1999 đã đăng một bài
tiểu luận viết rất công phu của Nguyễn Trọng Phu với chủ
đề
Bụt hay Phật. Do sự đề xuất vấn đề và các luận
cứ được tác giả nêu ra, bài nầy hẳn lôi cuốn được
sự chú ý của khá đông độc giả nhất là giới Phật tử.
Trước khi trình bày phần quan điểm riêng và đóng góp những
sưu tầm khác liên quan đến vấn đề, chúng tôi xin mạn phép
được tóm tắt lại những điểm chính trong bài viết để
giúp các vị chưa có dịp đọc bài nầy hoặc khó tìm ra tạp
chí Thế Kỷ 21 số 123, có một ý niệm chung và có thể nắm
bắt được nội dung cuộc vận động của tác giả. Dĩ nhiên
chúng tôi chỉ lượt thuật những điểm chủ chốt và điều
tốt nhất đối với độc giả nếu quan tâm đến vấn đề
vẫn là nên tìm đọc toàn văn bài viết nói trên. Những đoạn
có dấu * là những ý chính của tác giả.

Bài
tiểu luận “Bụt hay Phật” của Nguyễn Trọng Phu gồm có 4
phần:


  1. do
    đặt vấn đề 
  2. Định
    nghĩa danh từ Bụt 
  3. Việc
    sử dụng danh từ Bụt qua thời gian 

  4. sao ngày nay chúng ta dùng lại danh từ Bụt? 

Trong
phần 1 nói về Lý do đặt vấn đề là để: giải tỏa
một số hiểu lầm
. Tác giả cho hay “một danh từ mới,
danh từ Bụt, đã xuất hiện trong khoảng 15 năm lại đây
ở một số đạo tràng, tự viện, nhóm tu học, cũng như trong
một số sách báo để tôn xưng bậc giác ngộ mà vẫn thường
được gọi là đức Phật.” Theo tác giả, “từ Bụt thực
ra
đã có từ hồi lập quốc nhưng bị gián đoạn sử dụng
một thời gian nay được đem ra dùng trở lại có thể gây
nên môït số hiểu lầm; đặc biệt là đối với giới lớn
tuổi đã thường quen dùng từ Phật, thì cho rằng Bụt
đối với họ là để chỉ các vị Tiên, Thần và có tính
cách
nôm na bình dân chứ không được hàm xúc thiêng liêng
như danh từ Phật” (*).

Điểm
thứ hai được tác giả nhấn mạnh là “sự hiểu lầm nâỳ
khá sâu rộng không những trong giới bình dân và ngay cả trong
giới trí thức làm công tác văn học giáo dục nữa”
.(*)
Cho nên, với sự giải thích tiếp theo ở phần 2 và 3 tác
giả
muốn giúp cho đông đảo bạn đọc thông suốt ý nghĩa
của từ Bụt, tạo nên “thuận lợi trong việc thay đổi
một tập quán về ngôn ngữ.”
Và một khi được thông
suốt
– theo ý tác giả – thì “tiến trình thay đổi sẽ nhanh
chóng hơn và sẽø tránh bớt được một số sở tri chướng
mà bất kỳ một sự thay đổi lớn nào cũng có thể gây nên.
(*)

Trong
phần II về định nghĩa danh từ Bụt, tác giả đã dùng
đến 4 từ điển để tra cứu. Bốn từ điển ấy là: Việt
Nam
Từ Điển
của Hội Khai Trí Tiến Đức, xb năm 1931,
Từ
Điển Việt Nam
, Khai Trí Saigon, 1971, Từ Điển Tiếng
Việt
, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1988 và Việt Anh
Tự Điển
, NXB Nguyễn Văn Khôn, Sài Gòn, 1972. Điều thú
vị
là ba từ điển đầu đều giải thích Bụt là: ông Phật;
quyển thứ tư giải thích Bụt là: Buddha.

Ngoài
bốn từ điển xuất bản trong thế kỷ XX từ 1931 đến 1988,
tác giả đã ra công tìm tòi thêm một quyển từ điển cổ
khác xuất bản năm 1651 tại La Mã để truy cứu xem người
Việt hồi thế kỷ XVI đã sử dụng từ Bụt để gọi Phật
hay chưa. Đó là quyển Dictionarium Annamitticum, Insitanum et Latinum
của Alexandre de Rhodes hiện còn lưu trử ở La-Mã. Theo từ
điển nầy thì hai danh từ Bụt và Phật đều đã được
dùng để gọi Buddhã (*).

Phần
III nói về việc sử dụng danh từ Bụt qua thời gian.
Đây chính là phần công phu nhất của tác giả. Ông đã tìm
rất nhiều chứng liệu trong ngôn ngữ hằng ngày, trong ca dao
tục ngữ, và nhất là trong sách vở, kinh sách, từ Bụt đã
xuất hiện từ thế kỷ XIII cho đến thế kỷ XX, tính ra là
8 thế kỷ và “đến thế kỷ 20 thì hầu như danh từ Bụt
biến mất trên văn đàn. Ngay cả trong một số lớn chùa chiền,
và kinh sách cũng rất ít dùng danh từ Bụt.”(*)

Về
nguyên nhân của tình trạng danh từ Bụt biến mất trên văn
đàn
, tác giả đỗ lỗi cho “giới sĩ phu đã dồn mọi nỗ
lực
vào việc học chữ Hán để đỗ đạt ra làm quan và
phản ứng của lớp người nầy đối với cuộc đô hộ của
người Pháp và tâm trạng dè bỉu chữ Nôm, cho rằng Nôm na
là cha mách qué” (*)
– mà từ Bụt là một từ Nôm. Lý do
cuối cùng tác giả nêu ra là “vì thời Trịnh Nguyễn phân
tranh, hai bên đều có xu hướng mời các cao tăng từ Trung
Quốc
sang để hoằng hóa nên từ Bụt bị lấn át mất và
dần dần đi vào quên lãng
.”(*).

Để
kết thúc phần III, tác giả đưa ra một tin vui cho độc giả
là “May thay, vào khoảng 15 năm cuối thế kỷ 20 nầy, đã
có một số thiền sư, tăng nitrí thức, đã mạnh dạn
đứng ra gọi Buddhã là Bụt. Hiện nay tại một số đạo
tràng
như Đạo tràng Mai thôn ở Pháp, và các khóa thiền tập
ở khắp nơi trên thế giới, với hàng trăm người tham dự,
người ta gọi Buddhã là Bụt, như hít thở không khí bình
thường
vậy, nhất là đối với thành phần trẻ từ 30, 40
trở xuống, không hề có một phân vân nào. Nhưng như thế
đã đủ chưa?”(*).

Với
câu hỏi chót “Nhưng như thế đã đủ chưa?” tác giả
muốn cuốn hút bạn đọc theo ông xuống phần thứ IV vì sợ
rằng với bao nhiêu dẫn chứng cụ thể từ thế kỷ thứ
XIII đến thế kỷ XX vẫn chưa đủ sức lôi cuốn độc giả
từ bỏ từ Phật để sử dụng lại từ Bụt cũ.


phần IV, tác giả Nguyễn Trọng Phu đã cố gắng trình bày
thêm những điểm có tính thuyết phục mạnh mẽ khác. Ông
đặt ngay câu hỏi: “Vì sao ngày nay chúng ta dùng lại danh từ
Bụt?” và ông đưa ra ba lý do chính yếu:

1)
Danh từ Bụt được dịch hợp lý từ chữ Phạn Buddhã,

vì cùng một âm B với nhau. Ông cho rằng ngay hai thứ tiếng
phổ biến nhất là Anh và Pháp cùng đều dùng âm B để dịch
như thế (Pháp: Boudha, Anh: Buddha); ở nhiều nước Phật giáo
Nam Tông cũng dùng âm B để dịch chữ Buddhã từ tiếng Phạn,
tuy giọng đọc có khác nhau đôi chút. Theo trào lưu chung thống
nhất cách phiên âm thì hiện nay, Phật giáo Bắc phương mà
Trung quốc là tâm điểm, từ lâu vẫn dịch Buddhã là Phật-đà
(

陀) nay vừa mới bắt đầu dùng chữ Bột đà (勃 陀) để
gọi bậc Giác ngộ. Theo Tự điển Phật Học Hán Việt, Phân
viện Nghiên cứu Phật học Hà Nội, xuất bản 1992, mà sách
tham khảoThực Dụng Phật Học Từ Điển của Lô Quán
Cao và Hà Tử Bồi xuất bản ở Thượng Hải, thì: Bột đà
勃 陀 Buddha (Thuật ngữ), còn gọi là Bột đà. Cách gọi
cũ là Phật đà. Gọi tắt là Phật – dịch là Giác (覺). 

Nên
nhớ là các từ điển Hán Việt của Đào duy Anh và Thiều
Chửu đều không có danh từ mới này. (*)

Cách
viết mới chữ Bột (
) rất giống cách viết chữ
Nôm Bụt (
) của ta và đều cùng đọc với âm B.Chúng
ta
rất tri ân Tổ tiên từ thượng cổ của chúng ta đã khéo
léo dịch danh từ Buddhã ra chữ Bụt và lưu truyền lại cho
chúng ta mãi đến ngày nay.
(*)

2)
Làm giàu trở lại ngôn ngữ Việt
. Theo tác giả thì: “…
trong suốt quá trình lịch sử, các Nho sĩ Việt Nam vẫn dùng
song hành danh từ Bụt và Phật, như thế, thì nay chúng ta dùng
cả hai cũng là một điều hợp lý. Có bất hợp lý và kỳ
thị chăng, là một người lại chủ trương chỉ dùng danh
từ Phật mà thôi, với lý do rất đơn giản rằng danh từ
Phật có vẻ linh thiêng hơn, vì từ mấy chục năm qua, tại
các chùa, cũng đều dùng như vậy. (*) 

3)
Bồi đắp gốc rễ tâm linh.
Ở điểm cuối cùng nầy,
tác giả muốn hô hào việc sử dụng từ Bụt trở lại như
là một hành động trở về nguồn, bởi vì ” danh từ Bụt
có vẻ như bị biến dạng, chỉ là một sự kiện nhất thời
và bất bình thường, so với thời gian dài dằng dặc suốt
hơn 7 thế kỷ mà cha ông chúng ta đã sử dụng danh từ ấy.
Hơn thế nữa, dân ta vẫn có tiếng nói riêng trước khi có
chữ viết, có một nền văn hóa riêng khác với văn hóa Trung
quốc
, thì các sinh hoạt về văn hóa tâm linh trải dài trong
khoảng
13 thế kỷ ấy, tạm kể từ thời Hai bà Trưng, nhấtđịnh phải có tiếng Việt riêng để gọi Buddhã chứ không
phải chỉ có một tiếng Phật mượn từ chữ Nho mà thôi”.

Để
hậu thuẩn cho luận điểm của mình, tác giả đã mượn ý
của Thiền sư Nhất Hạnh trong quyển Thiền Sư Tăng Hội,
do An Tiêm Paris xuất bản 1998, cho rằng, vào đầu thế kỷ
III, Thiền tập ở Giao Châu, tên cũ của nước ta, đã rất
phát triển, còn phát triển hơn cả Trung quốc, và “chắc
chắn
hồi ấy dân ta đã gọi Buddhã là Bụt, đã biết đọc
tam quy ngũ giớixưng tán Tam Bảo bằng tiếng Sanskrit, cũng
có thể đã biết tụng đọc bằng tiếng Việt”-

đ
chứng minh thêm là từ Bụt đã có từ xa xưa với
dân Việt, bây giờ bỏ nó đi mà không dùng trở lại thì
Tổ tiên lâu đời của chúng ta, nếu có sống lại
không được nghe cái thứ tiếng xưa kia quý vị đã từng
được nghe, cũng đã từng sử dụng, thì thử hỏi cái buồn
sẽ sâu đậm như thế nào? Như vậy, nếu có hiển linh, nếu
cảm ứng, thì sự hiển linh, sự cảm ứng đối với cả
một dân tộc, tất sẽ sâu xa rộng rãi hơn đối với một
vài người. (*) 

Trong
phần kết luận, để người đọc hết do dự trong việc sử
dụng
lại từ Bụt, tác giả đã đi thêm một đòn tâm lý
tâm linh khá mạnh rằng ” Nếu những thành tựu tốt
đẹp
của tổ tiên tâm linh của chúng ta từ xa xưa mà bị
vứt bỏ không thương tiếc, thì không chừng chúng ta sẽ trở
thành
những cô hồn vất vưởng đâu đó. Cho nên mỗi một
chúng ta trong khi tu tập, nên quán chiếu để tìm mọi cách
bồi đắp gốc rễ tâm linh của mình! (*).
Đây chính
là luận điểm có phần xa lạ đối với người học Phật,
cho nên chúng tôi sẽ bày tỏ quan điểm ở phần cuối bài.

Để
kết thúc bài viết, tác giả đã mượn ý của Nguyễn Công
Trứ để cổ động một lần chót cho việc dùng trở lại
từ Bụt “Cái tiếng Bụt mà ngày hôm nay tôi đang nói đây,
chính là cái tiếng Bụt mà cổ nhân người Việt chúng ta
đã từng nói như vậy trước tôi hàng bao nhiêu thế kỷ rồi.”(*)

* 
* * 

Xuyên
qua
toàn bộ bài viết của Nguyễn Trọng Phu, người đọc
dễ dàng nhận ra ba điểm nổi bật: một là, tác giả đã
bỏ công tìm tòi, lượm lặt nhiều chứng cứ trong thi ca,
ngôn ngữ bình dân, kể cả nhiều từ điển xưa và nay, nhằm
mạnh mẽ hậu thuẩn cho cuộc vận động sử dụng lại từ
Bụt.

Hai
là, ông đã không ngại dùng bút pháp văn chương để khơi
dậy tình tự dân tộc, tinh thần độc lập và cả tín ngưỡng
tâm linh để thúc đẩy một sự chuyển hướng, vì theo ông,
dùng lại từ Bụt được xem như là một hành động trở
về
cội nguồn dân tộc và tô bồi nguồn cội tâm linh.


điểm thứ ba là, tác giả cuối cùng muốn vớt vát, nếu
không
chuyển hết sang dùng từ Bụt thì, ít nhất từ nầy
nay cũng nên được dùng song song với từ Phật.


lẽ do quá chú trọng đến ba điểm trên đây tác giả đã
không lý tới hay bỏ quên không nghiên cứu sự kiện hai từ
Bụt và Phật đã đi vào ngôn ngữ Việt từ thời nào và
như thế nào? Ông chỉ chú trọng đến việc bảo vệ tính
cổ của từ Bụt mà không xem xét đến ý nghĩa tinh túy của
từ Phật, vì theo chúng tôi, chính đây là nguồn gốc phát
sinh tính “tử ” (tử ngữ) của từ Bụt và tính “sinh” (sinh
ngữ) của từ Phật. Hai yếu tố “tử” và “sinh”nầy sẽ giúp
chúng ta thấy rõ được lý do tại sao từ Bụt đã dần dần
biến dạng, mai một trong khi từ Phật vẫn tồn tại và ngày
càng phát triển trong đại chúng. Một bạn đọc ở San Francisco
đã góp ý về điểm nầy trong Thế Kỷ 21 số 124, tháng Tám
1999, nhưng bạn ấy không đi vào chi tiết.

Phần
đóng góp sau đây của chúng tôi nhằm bổ túc cho hai phần
quan trọng mà tác giả Nguyễn Trọng Phu chưa đề cập đến.

 

VÀI
NÉT TỔNG QUÁT THỜI KỲ SƠ KHAI CỦA PHẬT GIÁO 
VIỆT
NAM
VÀ THỜI ĐIỂM XUẤT HIỆN CỦA TỪ BỤT

Nghiên
cứu
thời kỳ sơ khai của Phật giáo Việt Nam sẽ giúp chúng
ta
thấy rõ vấn đề. Dựa vào những nét lớn trong Việt Nam
Phật Giáo
Sử Lược của Hoà Thượng Thích Mật Thể, xuất
bản năm 1943, ta có thể ghi nhận tóm tắt một số đặc điểm
của thời kỳ nầy như sau:

*
Do địa thế của nước ta, Phật Giáo được truyền vào Việt
Nam
qua hai ngả: bằng đường bộ từ Thiên Trúc (Ấn-Độ)
sang Trung Hoa, rồi từ Trung Hoa sang Việt Nam và bằng đường
thủy qua ngả Sri Lanca, Java vào Indonesia và Đông Dương. Trong
hai ngả nói trên thì chủ yếu là từ Trung Hoa.

*
Sau thời đại du nhập, Phật Giáo Việt Nam rất chịu ảnh
hưởng
Phật giáo của Tàu kể cả tôn pháikinh điển
trong các thời thịnh cũng như suy.

*
Phật giáo từ Trung Hoa được truyền sang Giao Châu rất sớm
từ đời nhà Hán tức từ thế kỷ thứ 2 và thứ 3, với
các thiền sư như Ma-Ha Kỳ-Vực (Mâjajivaka hay là Jivaka) (294
sau TL), ngài Khương Tăng Hội (Kҡng teng-Houei (280 sau TL), Chi
Cương Lương (Tche Kiang Leang (266 sau TL) và Mâu Bác (Méou-Pô-165-170
TL) là các vị đã đến truyền pháp đầu tiên ở nước ta.
Trong bốn vị cao tăng này, chỉ có ngài Mâu Bác là người
Tàu, còn ba vị kia đều là người Ấn. Do nhu cầu truyền
giáo
, họ đã dịch từ Sanskrit Buddhã ra thành Bụt và từ
này đã dần dà đi vào ngôn ngữ dân gian, trở thành gần
gũi, phổ thông từ đấy trở về sau. Tuy nhiên, theo sử liệu,
các vị thiền sư đầu tiên nầy đến rồi đi chứ không
ai ở lại Việt Nam truyền đạohệ thống và có truyền
thừa
như ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi sẽ được nói dưới đây.

*
Ngài Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi đến Việt Nam vào thời Hậu Lý Nam
Đế, năm 580 TL (thế kỷ thứ 6) Ngài cũng là người Ấn từ
Thiên Trúc sang Trung Hoa và được Tam Tổ Tăng Xán khuyến cáo
sang nam phương truyền đạo. Nhờ có duyên với Việt Nam ngài
đã truyền dạy Phật pháphệ thống và đã trở thành
Tổ thứ nhất phái Thiền Tôn đầu tiên ở Việt Nam – phái
Thiền Tỳ-Ni Đa-Lưu-Chi..

Tính
theo thời gianđiều kiện phát triển thì từ Bụt đã
xuất hiện trong ngôn ngữ Việt sớm nhất là vào thế kỷ
thứ 2 và muộn nhất là thế kỷ thứ 6 và từ nầy đã do
các thiền sư Ấn đầu tiên dịch ra từ chữ Phạn Buddhã,
có nghĩa là bậc Đại Giác, Đại Trí, bậc Giác Ngộ, Người
Đạt Trí Tuệ Tột Cùng. Vì chẳng có sử liệu nào để lại,
chúng ta không thể biết một cách chính xác là từ Bụt nầy
đã do vị thiền sư Ấn nào chuyển dịch ra tiếng Nôm một
cách tài tình như vậy, vừa gọn, vừa na ná với từ gốc
Buddhã, vừa mang tính rất địa phương.

Tiếp
theo
đây, chúng ta cùng xem xét đến danh từ Phật.

 

TỪ
“PHẬT” XUẤT HIỆN Ở NƯỚC TA VÀO THỜI NÀO ?


Vẫn
theo Việt Nam Phật Giáo Sử Lược thì những kinh điển từ
Thiên Trúc (Ấn Độ) truyền sang Trung Hoa trước Tây Lịch
phần thì bị dịch sai, phần thì mấy lần bị các vua chúa
thiêu hủy, khi chép lại bị nhiều sai sót và phải đợi cho
đến
đời Đường Thái Tôn (khoảng 600 TL) tức là thế kỷ
thứ 6, thì ngài Trần Huyền Trang mới tạo nên một khúc ngoặc
lớn trong lịch sử phát triển Phật giáoTrung Quốc
các nước lân bang trong đó có Việt Nam với công cuộc đi
Ấn Độ thỉnh kinh và dịch kinh của ngài.

Trong
tạp chí Giao Điểm số 31, mùa Thu năm 1998, tác giả Lâm Hồng
Thể với bài “Giày Cỏ Vượt Hy Mã Lạp Sơn” đã giới thiệu
công đức vô lượng của ngài Huyền Trang kể từ khi ngài
từ Ấn Độ trở về Tàu (645 TL) cho đến lúc ngài thị tịch
(664 TL) chỉ trong vòng 20 năm, ngài đã dịch được tất cả
675 cuốn kinh, đưa thêm 24.000 từ mới vào ngôn ngữ Phật
giáo
Trung Hoa. Với kinh điển của ngài dịch ra, người sau
gọi là “Tân dịch” so với những lần dịch trước có phần
khác biệt rất nhiều. Những kinh điển Đại thừa do ngài
Huyền Trang dịch kể từ cuối thế kỷ thứ 6 dần dần được
truyền sang nước ta trong đó chỉ có từ Phật chứ hoàn toàn
không có từ Bụt nào. Và cũng từ thời kỳ nầy trở đi,
những kinh sách in ấn ở Việt Nam đều chỉ có từ Phật
mà thôi; thêm vào đó nhờ sự tụng đọc hằng ngày của
đại chúng đã làm cho từ Phật tự nhiên dần dần lấn át
từ Bụt dẫu cho từ nầy vẫn tồn tại và còn được sử
dụng
trong ngôn ngữ Việt mãi cho đến thế kỷ 20 thì biến
dạng
dần dần.
Ý
NGHĨA
THÂM DIỆU CỦA TỪ PHẬT 
QUA
CÁCH DỊCH CỦA NGÀI HUYỀN TRANG

Từ
Phật là một từ mới trong số 24.000 từ mà ngài Huyền Trang
đã tạo ra cho ngôn ngữ Phật Giáo Trung Hoa từ cuối thế
kỷ thứ 6. Ngài dịch từ Phạn ngữ Buddhã ra là 佛 陀 (Phật
đà
), viết tắt là 佛 (Phật). Hơn 1.300 năm sau, vào gần cuối
thế kỷ thứ 20, hai nhà ngôn ngữ học Trung Hoa ở Thượng
Hải dựa theo phương pháp Tây dịch phiên âm Buddhã ra 勃 陀
Bột đà) mà theo âm ngữ Tây phương thì Bột đà nghe ná ná
như Buddhã vì cùng có âm B và Bột đà có vẽ tân tiến hơn
Phật đà.

Thật
ra, hai vị học giả Trung Hoa Lô Quán Cao và Hà Tử Bồi mà
tác giả Nguyễn Trọng Phu trích thuật ở phần III chắc hẳn
không phải là Phật tử cho nên họ đã không thể hiểu nỗi
ý nghĩa thâm thúy của từ Phật do ngài Huyền Trang sáng tạo
dịch ra. 

Đối
với người Việt chúng ta ngày nay, ngoại trừ lớp cao niên
còn quen thuộc với chữ Hán, nhiều người nhất là lớp trẻ
đã đọc và viết theo vần La-Tinh không biết chữ Phật viết
theo lối chữ Hán như thế nào. Từ Phật (佛) theo cách viết
chữ Hán, gồm có hai vế: bên trái là bộ Nhân (亻), bên phải
là chữ Phất (弗).

Dùng
pháp chiết tự để dẫn giải, bộ Nhân (亻) ở bên trái
có nghĩa là NGƯỜI.

Chữ
Phất (弗) ở vế thứ hai, có nghĩa là KHÔNG, là CHẲNG ĐƯỢC;
theo thuật ngữ Phật giáo đó là TÁNH KHÔNG

Ghép
cả hai vế lại với nhau, Phật (佛) nghĩa là NGƯỜI NGỘ
TÁNH KHÔNG.

Diễn
giải
một cách toàn diện hơn bao gồm cả hai vế, khi nhìn
thấy danh từ 佛 (PHẬT), nó nhắc nhở người Phật tử
hay những ai biết chữ Hán – những điều nhận thức rất
căn cốt và thâm diệu sau đây:

*
Phật là một con người như tất cả mọi người.

*
Vì cũng là con người cho nên Phật với chúng ta đều bình
đẵng.

*
Phật không phải là Tiên, Thánh hay Thần và nhất thiết không
phải là một Thượng Đế “Toàn Năng” (Almighty God) như của
bất kỳ tôn giáo độc thần nào có quyền ban ơn giáng họa
mà người ta gán cho Thượng Đế này.

*
Mỗi người và mọi người đều có khả năng thành Phật,
chứ Phật chẳng dành riêng cho ai.

*
Muốn thành Phật thì phải tu hành và ngộ được Tánh Không,
chưa ngộ Tánh Không thì chưa thành Phật.

*
Tánh Không phải tu và hành mới đạt được chứ không thể
cầu xin hay do ai ban cho.

*
Tánh KhôngPhật Tánh.

Đến
đây quý độc giả có thể đã hết sức khâm phục ngài Huyền
Trang
vì sự uyên thâm Phật pháp, tính sáng tạo và sự liễu
Đạo của ngài, vì chỉ trong một từ với hai vế đơn giản,
ngài đã dạy cho chúng ta không biết bao nhiêu điều bổ ích,
hiểu một cách sâu sắc về đạo Phật và không thể hiểu
lầm
đạo Phật với các tôn giáo khác. Những điều trên
đây cũng tỏ rõ được tính sanh của từ Phật và tánh tử
của từ Bụt trong sự so sánh giá trị về tính biểu tượng
của nó. Nó cũng giải thích tại sao từ Bụt đã dần dần
đi vào mai một và từ Phật vẫn được lưu truyền trong tiến
trình phát triển của Phật giáo Việt Nam

Trong
thực tế ngày nay, khi xem xét đến tính DỤNG của hai từ
nầy thì từ Phật vẫn ở thế phổ thông hơn, thường dùng
hơn và xuôi tai hơn mặc dầu ý nghiã hai từ ấy vẫn chẳng
khác. Ví dụ: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chứ chẳng ai nói
Giáo Hội Bụt Giáo Việt Nam, hay Phật Giáo Thế Giới
chứ chẳng thể là Bụt Giáo Thế Giới, sẽ nghe rất lạ
tai và làm cho nhiều người lầm tưởng là vừa có một tôn
giáo
mới ra đời. Hoặc Phật Tánh chứ không là BụtTánh
hay từ kép thường dùngPhật Tử chứ không thể là Bụt
tử, vì nghe rất “tiếu lâm” nếu không nói là có ý châm biếm.
chúng ta có thể nêu ra vô số ví dụ khác.

Ngay
cả đối với Thiền sư Nhất Hạnh là người hiện đang chủ
trương dùng từ Bụt thì trong nhiều tác phẩm của mình, Thầy
vẫn phải còn dùng từ Phật chứ không thể dứt khoát loại
bỏ
hẳn được.

Đứng
về mặt ngôn ngữ, từ Phật đã được hoàn toàn Việt hoá
cả hơn ngàn năm nay, đã đi vào hồn dân tộc và ngôn ngữ
Việt, chứ chẳng còn ai nghĩ nó là sản phẩm của sự vay
mượn từ chữ Nho, hoặc phải trả lại từ Phật cho người
Tàu vì Việt Nam ta đã có từ Bụt và làm như thế là để
trở lại với cội nguồn dân tộc.

Còn
về mặt tu Thiền, học Phật, chúng ta luôn luôn được nhắc
nhở là phải Phá Chấp – ngay cả Tâm, cả Phật cũng Không
– thì sá gì hai từ Bụt và Phật. Nếu có người hỏi: ” Chúng
tôi
thường nghe thuyết giảngtu Thiền thì phải triệt
để
Phá Chấp nhưng khi thực hành thì chẳng thấy quý vị
Phá Chấp mà còn làm ngược lại. Như vậy, quý vị có tự
mâu thuẫn với mình không? có tách rời Lý Thuyết với Thực
Hành?” Và chúng ta sẽ trả lời như thế nào ?

Cố
vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật
đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm
cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn, sâu hơn
mà chỉ tạo thêm ra sự tranh luận mất thì giờ, chẳng bổ
ích gì cho sự tu học, gây thêm sở tri chướng, tạo thành
hai phe Bụt, Phật, mất tiền bạc in Kinh sách mới, chưa nói
đến những trục trặc, vấp váp khi tụng đọc theo lối mới
mà nhiều người đã từng kinh nghiệm. Dịch Tam Tạng Kinh
Điển
và các Kinh Nhựt Tụng ra tiếng Việt là một nhu cầu
cấp bách và đáng làm nhưng tìm cách đổi từ Phật sang từ
Bụt là một việc làm xa vời với tinh thần Phật pháp.

 

XIN
ĐỪNG NHẦM LẪN GIỮA PHƯƠNG TIỆNCỨU CÁNH


Để
kết thúc, theo chúng tôi nghĩ, không cần phải vận động
thay thế. BỤT hay PHẬT đều cùng một nghĩa. Cứ tùy duyên,
tùy cảnh, tùy thích mà dùng miễn là đừng lạc dẫn, đừng
lầm lạc ý nghĩa Bụt hay Phật là Tiên, Thánh, Thần hay thậm
chí là Thượng Đế “Toàn Năng”. Vả lại, điều mà chúng
ta
cùng nhắc nhở với nhau ở đây là xin đừng và không nên
lầm lẫn giữa Phương TiệnCứu Cánh. Bụt, Phật hay Boudha,
Buddhã hay Bột Đà hay bất cứ từ nào chỉ đấng Giác Ngộ
đều là phương tiện diễn đạt, tự nó không phải là cứu
cánh
. Cứu cánh của người học Phật là tu hành làm sao để
dứt cho được nghiệp quả, thoát khỏi vòng sanh tử luân
hồi
, kiến Tánh thành Phật. Có dùng từ Bụt/Phật hay không,
hay dùng từ này mà bỏ từ kia thì cũng chẳng nhằm nhò, hề
hấn gì và chẳng bao giờ vì vậytrở thành những
hồn
vất vưởng như tác giả Nguyễn Trọng Phu đưa ra ở
đoạn kết luận bài viết của ông đã làm cho người đọc
tưởng chừng như đang nghe lời hù dọa trong một lối truyền
đạo
.

Y
Nghĩa Bất Y Ngữ, điều Y thứ ba trong Tứ YĐức Phật
dạy trong Kinh Đại Niết Bàn giúp làm sáng tỏ thêm vấn đề
và xin được dùng làm lời kết cho bài nầy.

Cuối
tháng 11-1999 
Phan
Mạnh Lương

Source: Giao
Điểm
,