Bồ Tát Hạnh Trong Kink Viên Giác

0
52

BỒ TÁT HẠNH TRONG KINH VIÊN GIÁC

Thích Nguyên Tịnh

Chúng
ta
phải nhận ra, mọi lời thuyết pháp của chư Phật đều
nhằm chỉ thẳng tâm, không nên bám chặt vào tên và lời,
bởi đó chỉ là ngón tay đưa lên, còn đích chúng ta thấy
phải là mặt trăng vằng vặc vượt ra khỏi giới hạn của
ngón tay kia.

1. Ý nghĩa
Bồ-tát:

Bồ-tát
(菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên
âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ;
tát-đỏa dịch là chúng sanh. Bồ-tát là vị đã giác ngộ
nhưng còn trụ lại kiếp chúng sanh để độ đời. Bồ-tát,
từ người mới bắt đầu (sơ phát tâm) cho đến những vị
đã nhiều đời sống theo hạnh Bồ-tát (Đại Bồ-tát) đều
có một hướng đi rõ rệt: nỗ lực sống giải thoátgiác
ngộ
bằng chính cuộc đời mình và dùng cuộc đời đó để
giúp đỡ những người khác giải thoátgiác ngộ. Hơn
thế nữa, chính trong nỗ lực giúp đỡ người khác giải
thoát
giác ngộ mà vị ấy thành tựu giải thoátgiác
ngộ
. Thâu tóm lại, Bồ-tát có hai công việc chính:



sở hoá độ của Bồ-tát
(cũng gọi là Phẩm tính Bồ-tát):
Tự mình giải thoátgiác ngộ. Đây là công việc của
Trí tuệ soi thấy tánh Không hay Vô tự tánh của tất cả
các hiện tượng (vạn pháp), của tất cả không gianthời
gian
. Công việc này được gọi là tích tập trí tuệ.


Phương
pháp
hoá độ của Bồ-tát
(cũng gọi là Lý tưởng
Bồ-tát): Phụng sự chúng sanh (để họ được giải thoát
giác ngộ). Đây là công việc của lòng đại bi. Sở dĩ
gọi là “Đại” vì đó không phải là công việc của một
đời
mà là công việc của một số đời bằng công việc
số đời của tất cả chúng sanh; công việc của một đời
sống “không bỏ chúng sanh” và do đó mà “không sợ sanh
tử luân
hồi”. Phụng sự, làm lợi lạc cho chúng sanh phải
trải qua nhiều đời, trong mọi mặt. Công việc này được
gọi là tích tập phước đức.

Bồ-tát
một đời sống hòa hợp được hai mâu thuẫn: một mặt
giải thoát ra khỏi sanh tử; mặt khác không lìa bỏ sanh
tử
, hay là sự giải thoát sanh tử bằng Tánh Không (sự thật
Vô ngãVô pháp) đồng thời không bỏ sanh tử vì lòng
đại bi. Như thế, trên con đường Bồ-tát cuối cùng, hai
cái mâu thuẩn chừng như mâu thuẫn đó trở thành một, bất
khả phân. Kinh Viên Giác nói lên lý tưởng Bồ-tát dựa trên
tinh thần liễu tri sanh tử. Hành giả tu tập thấy sanh tử
không phải là một thứ gì đáng ghét và ghê gớm như một
đống rác hôi hám nên vứt bỏ càng sớm càng tốt, mà rác
cũng có tính ưu việt của nó, đây là mặt tích cực của
sinh tử trên con đường chứng đắc Phật quả. Cũng nhờ
đó mà chúng ta bảo, Bồ-tát có sự nhớ ơn sâu sắc sanh
tử
chúng sanh.

2. Cơ sở
hoá
độ của Bồ-tát:

Danh
từ Bồ-tát, không biết từ lúc nào đã đi vào lòng người
như một hình ảnh lung linh và điển hình. Chúng ta có thể
bắt gặp Bồ-tát qua những hình ảnh rất quen thuộc như Bồ-tát
Di Lặc, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Phổ Hiền v.v… hoặc
qua hình ảnh chư vị Thánh tăng trọn đời hy sinh cho sự nghiệp
xiển dương chánh pháp, hóa độ chúng sanh. Bên cạnh đó,
vị Bồ-tát còn được biết đến dưới nhiều hình tướng
dung dị tùy cơ nghi phụng sự cõi Ta-bà.

Bồ-tát
đạo là con đường không dễ thực hành trọn vẹn. Nếu tâm
niệm
không kiên định, ý chí không vững bền, không mang trong
mình đại nguyệnThượng cầu Phật đạo, hạ hóa
chúng sanh
” thì hành giả sẽ chẳng bao giờ đi trọn
trên hành trình nhiệm mầu mà lắm gian nan đó cả.


nhiên
, chúng ta không thể nói hết những phẩm tính của Bồ-tát,
bởi trong quá trình thăng tiến qua nhiều kiếp sống, những
đức tính nào con người có thể có, đều được khai triển
một cách hoàn hảo ở nơi một Bồ-tát. Trong bài viết
giới hạn này, chúng ta chỉ đề cập đến những phẩm cách
của Bồ-tát dựa trên tinh thần Kinh Viên Giác mà thôi. Cơ sở hoá độ là kết quả có được của hành giả, hay
có thể hiểu, đó là con đường mà một vị Bồ-tát phải
đi, phải thành tựu dựa trên vô lượng pháp môn tu tập từ
sơ phát tâm đến khi vượt qua Thập địa. Căn cứ vào đó
Viên Giác chia Bồ-tát thành bốn đẳng cấp theo quá trình
tu chứng gồm: phàm phu, trước Thập địa, nhập Thập địa
Phật địa Viên Giác. Tu theo từng cấp độ như thế gọi
tiệm tu, còn tu tậpthành đạo nhanh chóng nhờ thượng
căn
gọi là đốn tu.

Qua
từng phẩm Kinh Viên Giác, chúng ta thấy phẩm cách Bồ-tát
được Thế-tôn dạy rất căn bảncặn kẽ sau mỗi vấn
đề
được đặt ra của các vị Đại Bồ-tát như Văn Thù,
Phổ Hiền, Phổ Nhãn, Kim Cang Tạng, Oai Đức Tự Tại… Phẩm
cách thuộc về phần tự độ, chính là pháp môn tu tập. Và
xuyên suốt cả bổn Kinh, Thế-tôn không dạy gì ngoài giáo
lý căn bản
như Duyên Khởi, Ngũ uẩn, Niệm Xứ, … đó
gọi là Đại Đà-la-ni (大陀羅尼), lưu xuất hết thảy Chân
như
thanh tịnh, Bồ đề, Niết bàn cũng như Ba-la-mật, cũng
gọi là Nhân địa của Như-lai (因地如來) hay Pháp hạnh Nhơn
địa (因地法行). Bồ-tát phải tu tập diệt trừ vô minh
như trừ đi cơn bệnh lâu ngày. Tiếp theo những câu hỏi
của Ngài Văn ThùPhổ Hiền, Ngài Phổ Nhãn đã đặt vấn
đề
cầu xin đức Phật khai thị thật vô cùng thiết thực
trở thành nội dung chuẩn mực thâu tóm toàn bộ bản Kinh:
“Mong Phật vì những chúng Bồ-tát trong hội này và vì tất
cả chúng sanh đời mạt pháp giảng nói các vấn đề thứ
lớp tu hành của Bồ-tát: Làm sao tư duy? Làm sao trú trì? Chúng
sanh
chưa ngộ làm phương tiện gì khiến cho tất cả đều
được khai ngộ?” (云 何 思 惟? 云 何 住 持? 眾 生 未
悟 作 何 方 便 普 令 開 悟 ?) (Phẩm Phổ Nhãn Bồ-tát vấn
Phật, thứ 3).

Câu
hỏi trên cũng tương tự như câu mà Trưởng lão Tu-bồ-đề
đã hỏi đức Phật ở Kinh Kim Cương: “Thế-tôn! Những thiện
nam
thiện nữ muốn phát tâm vô thượng Chánh đẳng giác
thì nên trú tâm vào đâu? Nên điều phục tâm như thế nào?”
(世 尊! 善 男 子, 善 女

人,
發 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 心, 應 云 何 住?


何 降 伏 其 心?) (Kinh Kim Cương, đoạn Thiện Hiện khải
thỉnh
, thứ 2).

Xuyên
suốt bản Kinh với những lời cầu thỉnh về phương pháp
tu tập của chư Đại Bồ-tát, Thế-tôn đã trả lời với
những cách khác nhau nhưng đều y cứ những pháp môn căn bản
dựa trên nền tảng Thiền định. Trong Thiền định, hành
giả
phải liễu đạt rõ ràng bản chất của Vô minh. Chính
vô minh là đầu mối của mọi sanh tử khổ đau và gây không
biết bao nhiêu nhiệt não chông gai cho người hành đạo.


những phẩm đầu tiên, đức Phật đề cập tổng quát về
Vô minh, trong những phẩm tiếp theo, Ngài đã chỉ tận gốc
rễ sự vô minh gây khổ đau là vì tham ái và dục phát sinh
mà không thể chánh niệm tỉnh giác được. Phẩm Di-lặc
Bồ-tát vấn Phật, Như-lai đã dạy rất rõ, sở dĩ chúng
sanh
luân hồi mãi trong bùn lầy tử sinh là do bị tham ái
dục chiếm hữu. Vì thế, Bồ-tát tu tập cần phải thấy
một cách tường tận: vòng xoáy luân hồi, Ái là căn bản.
Do các dục giúp ái tánh phát sinh, nên khiến sanh tử nối
nhau. Dục nương ái sanh, Mạng nương dục mà có. Ái mạng
của chúng sanh lại nương nơi gốc dục. Ái dục là nhân,
Ái mạng là quả.

Nói
như vậy có nghĩa hành giả muốn bước đi trên lộ trình
của Bồ tát phải quán chiếu gốc rễ sanh tử do ái để
từ đó đoạn trừ, tức phải nhìn thấy bản chất của ái,
vị ngọt của ái, sự tập khởi của ái và sự đoạn diệt
của ái một cách triệt để. Điều này không phải dễ dàng
chúng ta có mặt ở cuộc đời này cũng từ tham ái, cần
phải
nỗ lực thắng lướt mọi thói quen, mọi tư duy sai lầm
bằng cách khởi Chánh tri kiến nhằm bỏ Lý chướngquyết
tâm
cắt đứt nguyên nhân sanh tử nhằm bỏ Sự chướng.

Bồ-tát
phải cầu tất cả Chánh tri kiến để định hướng việc
tu tập chuẩn mực, điều này cần đến những tinh tấn trong
thiền định mà phẩm Oai Đức Tự Tại Bồ-tát Vấn Phật
đã sơ lược có ba phương pháp:

Thứ
nhất, tu tập Xa-ma-tha
(奢 摩 他) dần dần khiến tâm
vắng lặng như gương chiếu. Đây cũng gọi là tu Thiền
Chỉ. Thứ hai, tu tập Tam-ma-bát-đề (三 摩 缽 提) dần
dần
nhìn thấy các pháp đều như huyễn như mộng nhằm viễn
ly
tham muốn chấp thủ. Đây cũng gọi là tu Thiền Quán. Thứ ba, tu tập Thiền-na (禪 那) dần dần lặng dứt mọi
tâm niệm như âm thanh im bặt trong đồ vật, không bao giờ
còn cơ hội vọng thanh nữa. Đây cũng gọi là đoạn phân
biệt
nhằm thấy thật tướng.

Vận
dụng ba pháp Thiềp tập này, cũng có nghĩa là chúng ta hành
trì
Thiền Tứ Niệm Xứ:

Niệm
Thân
tức quay lại quán chiếu thân Tứ Đại dựa trên
những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã;

Niệm
Thọ
tức nhìn vào những cảm thọ về khổ, vui, không
khổ không vui dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường,
Vô ngã;

Niệm
Tâm
tức trở lại nhìn vào những chuyển biến của
tâm thức nhằm có thể điều khiển tâm một cách thiện xảo
dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường, Vô ngã;

Niệm
Pháp
tức nhìn vào những hiện tượng hiện hữu giữa
cuộc đời dựa trên những đặc tính Khổ, Vô thường,
ngã
.

Đó
chính là những pháp tu truyền thống mà bất kì Kinh điển
nào chúng ta cũng có thể thấy được, và Kinh Viên Giác cũng
không nằm ngoài trường hợp ấy. Bên cạnh đó, có một điều
mà Bồ-tát luôn luôn khắc ghi trong từng tâm niệm, đó chính
vấn đề giữ giới. Ngài Phổ Nhãn sau khi hỏi pháp
tu tập cho Bồ-tát đã được Thế-tôn dạy, muốn cầu tâm
thanh tịnh
viên giác của chư Như-lai, phải nên chánh niệm
xa lìa các huyễn, trước y theo hạnh Xa-ma-tha của Như-lai,
giữ kỹ cấm giới, xử an đồ chúng… (欲 求 如 來 淨 圓
覺 心, 應 當 正 念, 遠 離 諸 幻, 先 依 如 來 奢 藦 他
行, 肩 持 禁 戒, 安 處 徒 眾…). Giới là pháp hành
không thể thiếu với một đệ tử Phật xuất gia cũng như
tại gia. Giới là chánh thuận với căn bản của Giải thoát,
nhờ giới mà Thiền định được thành tựu, và Trí tuệ
nương đây mà được quán triệt. Trong các chúng hội, giới
luật
nào cũng được đặt nền tảng dựa vào Ngũ giới,
những giới sau đều khai triển từ đây mà thành.

Bồ-tát
lòng từ bi, giới luật trở thành phục sức tốt đẹp
nhất trên bước đường tu tập và hoằng hoá. Giới là hiện
thân
của Tánh giác. Khi chưa thấy Tánh, một người chìm
đắm
trong mê mờ sanh tử cùng những ràng buộc nhỏ hẹp,
tự giết chết tâm Phật của mình, đây là tội giết người
nặng nhất trong những tội giết người. Khi những tư tưởng
mê lầm tiếo tục sanh khởi và kéo dài, ta tự huỷ báng kho
tàng Phật pháp, làm hư hao công đức, đó là lúc ta trở thành
tên cướp giựt nguy hiểm.

Khi
những mê lầm sanh khởitiếp tục được nuôi dưỡng,
ta sẽ mãi tạo thêm nghiệp bất thiện, mãi bắt tay mê mờ
theo những thói quen đau khổ, đó là lúc ta mắc tội tà hạnh. Khi mù quáng với những tư tưởng sai lầm, ta dù diễn nói
pháp tới đâu cũng rơi vào tội đại vọng ngữ chứ có ích
gì. Khi bị cô lập trong tư tưởng sai lầm, trí tuệ không
thể phát sinh, mọi thấy biết đều mập mờ, đó là lúc
tâm trí ta không khác gì một gã say rượu. Ngược lại với
những điều trên là một hành giả được mệnh danh giữ
giới
thanh tịnh, không có chút tỳ vết, hàng được bậc
Thánh ca ngợi. Một vị Bồ-tát phải nhìn giới luật
trên bình diện đó nhằm thăng tiến hơn đạo hạnh, để
biết rằng, giữ giới chân thậtcon đường giác ngộ
nhanh nhất trong việc thấy bộ mặt rõ ràng của bản tánh.

Khi
những phẩm cách Bồ-tát đã thành tựu thì lại bước qua
địa vị khác-địa vị Bồ tát thượng thủ, “Bồ-tát
chẳng cầu pháp trói buộc, chẳng cầu pháp cởi mở, chẳng
ưa Niết-bàn, chẳng kỉnh người trì giới, chẳng ghét người
phá giới, chẳng trọng kẻ quen lâu, chẳng khinh người mới
học, vì tất cả đều là giác tánh
” (不 與 法 缚, 不
求 法 脫 , 不 厭 生 死 , 不 愛 涅 槃, 不 敬 持 戒, 不 憎
毀 禁, 不 重 久 習, 不 輕 初 學, 何以 故? 一 切 覺 故!)
(Phẩm Phổ Nhãn Bồ-tát vấn Phật, thứ 3).


thế, theo Kinh Viên Giác, Bồ-tát được định nghĩa là người
xa lìa cấu huyễn (對 離 幻 垢, 說 名 菩 薩), cũng đồng
với nghĩa “Tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời mạt pháp
trước hết phải dứt hết vô thỉ cội rễ luân hồi

(一 切 菩 薩, 及 未 世 眾 生 先 斷 無 始 輪 回 根 本)
(Phẩm Kim Cang Tạng Bồ-tát vấn Phật, thứ 4).

Ngay
đây đã thiết lập một niềm tin lớn để hành giả nỗ
lực
tu tập nhằm đoạn tận mọi tham ái chấp trước – vốn
căn bản luân hồi. Niềm tin hễ đã lớn mạnh thì
vạn pháp rất chóng thành tựu. Lời dạy đã đầy đủ cho
một vị Bồ-tát, chúng ta chỉ còn việc lên đường, dấn
thân mới mong thể nhập được vào chân lý thù thắng được.

3. Phương
tiện hoá độ
của Bồ-tát:

Bồ-tát
vào cuộc đờinguyện lực từ bi hoá độ vô sô chúng
sanh
chứ không phải do nghiệp lực luân hồi như bao loại
khác.
Trong và sau khi hành trì chánh pháp, Bồ-tát luôn
giữ trong mình những lý tưởng cao quý. Tất cả những
tưởng
đó không nằm ngoài mục đích tự độ và độ tha
dựa vào các tác nhân Trí tuệTừ bi.

Nhờ
Trí tuệTừ bi soi rọi mà Bồ-tát nhận chân được thế
nào là con đường sáng, thế nào là hạnh phúc tối thượng,
thế nào là con đường đem hạnh phúc tối thượng đó ban
trải cho hết thảy chúng sanh một cách thù thắng. Tất
nhiên, lý tưởng độ tha của Bồ-tát phải song hành cùng
tinh thần tự độ như sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nước
với sữa không thể tách rời. Hạnh phúc tự độ được
nhắc nhở khá rõ ràngbài kệ Phẩm Phổ Nhãn:


眼 汝 當 知


切 諸 眾 生


心 皆 如 幻


相 屬 四 大


性 歸 六 塵


大 體 各 離


為 和 合 者


是 漸 修 行


切 悉 清 淨


切 佛 世 界


如 虚 空 崋


世 悉 平 等


竟 無 來 去


發 心 菩 薩


未 世 眾 生


求 入 佛 道


如 是 修 習

“Phổ
Nhãn ông nên biết

Tất
cả các chúng sanh

Thân
tâm
đều như huyễn

Thân
tướng
thuộc bốn đại

Tâm
tánh
thuộc sáu trần

Thể
bốn đại đều lìa

Cái
gì là hoà hợp?

Thứ
lớp tu như vậy

Tất
cả đều thanh tịnh




Hết
thảy thế giới Phật

Cũng
như hoa hư không

Ba
đời
đều bình đẳng

Rốt
ráo
không lai khứ

Bồ
tát
mới phát tâm

Cùng
chúng sanh đời mạt

Muốn
cầu vào Phật đạo

Phải
tu tập như thế.”

Từ
việc ý thức tự độ như thế, Trí tuệ phát khởi khiến
Bồ-tát tự nhiên nuôi dưỡng lớn mạnh và thành tựu hạnh
Từ bi, tức hạnh nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh. Cả
bản Kinh Viên Giác đều thể hiện mục đích Độ tha rất
rõ ràngthiết thực. Mỗi phẩm Kinh đều được bắt đầu
với những câu hỏi của chư Đại Bồ-tát, cụ thể từ phương
pháp
hành trì (Trí tuệ), đến hạnh nguyện hoằng hoá (Từ
bi
). Thật ra, khi chúng ta biết trau dồi phẩm hạnh cho
mình thì từ bi hay nói cách khác, ánh mắt nhìn chúng sanh cũng
sẽ rộng rãibao dung hơn. Không thể tìm thấy lòng yêu
thương
đích thực ở một người chẳng bao giờ biết chăm
sóc tâm linh cho chính mình. Vì thế, ở Kinh Viên Giác, tất
cả những câu hỏi của chư Bồ-tát đặt ra đều thành tựu
hai mặt Cơ sở và Phương tiện hoá độ, tức thành tựuThượng
cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sanh
”. Bồ-tát
tu tập thấy rõ lý Duyên Sinh, không một pháp nào tồn tại
độc lập, Sự Lý viên dungtương tức tương nhập, dù
tất cả đều hiện hữu như Hư Không hoa nhưng phải khởi
từ bi tâm quảng đại để biến cõi Ta-bà thành Hoa Tạng
Thế Giới
Hải, như Kinh Lăng Già có dạy:


間 離 生 滅


如 虚 空 華


不 得 有 無


興 大 悲 心

Thế
gian
ly sanh diệt


Do
như hư không hoa


Trí
bất đắc hữu vô


Nhi
hưng đại bi tâm
”.

Mười
hai vị Bồ-tát đặt mười hai câu hỏi thiết thực trên lộ
trình giải thoát. Mỗi câu hỏi mở ra một phương trời sáng
cho chúng ta nhuyền nhuyễn trong lý tưởng thanh cao. “Bồ-tát
trở vào trần lao độ các chúng sanh phải lập bao nhiêu phương
tiện
giáo hoá?” (迴 入 塵 勞, 當 設 幾 種 教 化 方 便
度 諸 眾 生?) (Phẩm Di-lặc Bồ-tát vấn Phật, thứ 5). Câu hỏi trên của Ngài Di-lặc cùng tất cả những câu hỏi
tương tự vậy đều thiết lập niềm tin cho mỗi hành giả,
giúp hành giả có cơ hội nhập vào hàng Thánh chúng. Lý tưởng
Bồ-tát nhờ đây được thành mãn. Nhờ có Chánh Tri Kiến
(điều mà Thế-tôn đã dạy đi dạy lại nhiều lần trong
bản Kinh), Bồ-tát tu hành như thế, thứ lớp như thế,
duy
như thế, trụ trì như thế, phương tiện như thế, khai
ngộ
như thế, cầu pháp như thế, thấy năng sở đều không,
chẳng cầu cảnh chứng. Và nhờ vào niềm tin kiên lập,
Bồ-tát vào đời hoá độ chúng sanh không biết mệt mõi,
chỉ mong chúng sanh thành tựu đạo nghiệp nhằm viễn ly mọi
ràng buộc của ác pháp.

Như
mũi tên bắn ngang đường chim bay khiến nó đoạn mạng, cũng
như thế, Bồ-tát vào đời với tâm từ bi, dùng mọi phương
tiện thiện xảo
đoạn tận nghiệp chướng cho chúng sanh,
khiến tất cả đều được thâu nhiếp trong căn bản của
Pháp. Đây chính là lý tưởng tột vời mà hành giả cần
định hướng và tinh tấn tu tập.

Bồ-tát
khi trở lại suy xét chính mình thì cũng trong lúc ấy thấy
được những tâm tánhchúng sanh. Sở dĩ như vậy vì tâm
chúng sanh không ngoài tâm hành giả, cùng đeo mang những cảnh
nghiệp, cùng chung nguyên nhân luân hồi, do đây tâm từ bi
thêm lan toả trùm phủ lên người thân kẻ sơ, người nhanh
kẻ lụt. Dần dần, khi tâm từ câu hữu lên khắp mọi
đối tượng thì khái niệm về Ngã tướng, Nhơn tướng, Chúng
sanh tướng
, Thọ giả tướng sẽ nhanh chóng được đoạn
tận, như một người nhìn thấy huyễn pháp thì huyễn pháp
tự
trừ, biết được huyễn thuật sư đang biểu diễn thì
những cảnh tượng mê hoặc được tạo ra không làm ta chướng
ngại
nữa. Cầu tất cả chánh tri kiến thì chánh tri kiến
đó chính là thiện hữu, nhờ đó bốn thứ bệnh về Tác
(làm), Nhậm (mặc), Chỉ (ngăn), Diệt (đứt) lập tức tiêu
trừ
và không còn cơ hội trở lại hại Thánh chủng của
ta nữa.

Tất
cả điều này sẽ thành tựu khi nào hành giả vào đời dùng
tâm từ bi làm phương tiện mở bày những người chưa ngộ
(菩 薩 唯 以 大 悲 方 便, 入 諸 世 間 開 發 未 悟). “Tâm
đại bi (mahàkarumà) vốn là tinh thể của tam muội (samàdhi)
bi tâmthân thể (saria), là cửa ngõ (mukha), là tiền
đạo
(Purvangama) của nó và là phương tiện tự hiện thân
khắp vũ trụ. Nếu khônglòng từ bi, Tam muội của Phật
dù có siêu nhập thế nào sẽ không có giá trị trong cuộc
diễn xuất của một Kịch trường tâm linh vĩ đại. Đây
quả là chỗ sai biệt giữa Đại thừa và tất cả các giáo
thuyết đã có trước trong lịch sử đạo Phật.
..”
(Thiền luận, Suzuki tập hạ, trích dẫn theo HT. Đức Thanh,
Giáo trình Viên Giác, HVPGVN tai Huế 2007, tr 34). Đó được
gọi là y cứ nguyện lực từ vô thỉ mà tâm thanh tịnh trong
mỗi chúng ta đều viên chiếu tròn đầy.

Cuộc
sống dù thế nào đi nữa, việc tu tập dù gặp bao nhiêu trắc
trở
đi nữa, hành giả cũng phải một lòng thương tưởng
đến các chúng sanh đời mạt pháp, phải làm sao khiến tất
cả đều an trú trong chánh pháp tuyệt đối mà chư Phật trong
mười phương ba đời luôn tán thán. Tâm từ bình đẳng như
hư không chẳng luận gò đồi hay vực thẳm, được Kinh Viên
Giác
gọi là “Bất xả vô giá đại bi” (不 捨 無 这 大
悲). Đạo quả này được thành tựu nhờ Bồ-tát đã quán
triệt
tâm mình và quán triệt tâm tha nhân, thấy rõ Tứ đế,
Duyên khởi, Vô ngã y như cảm nhận được hơi thở của mình. Khi đã giác ngộ hay đang tiến dần trên con đường giác ngộ,
Bồ-tát không bao giờ để rơi chúng sanh để an vui trong Niết-bàn.
Mười hai vị Đại Bồ-tát trong Kinh Viên Giác chắc chắn
đã thâm đạt giáo lý Như-lai, các Ngài phương tiện đặt
câu hỏi trước đức Phật chỉ nhằm mục đích khiến các
chúng sanh khác nương nơi đây mà biết được pháp môn tu
tập
, bởi trí tuệ phàm phu làm sao có thể hiểu được chân
biểu hiện như thế nào mà thỉnh cầu. Chừng đó thôi,
cũng đủ để thấy được lý tưởng Bồ-tát thâm sâu
đáng thực tập đến chừng nào.

Để
kết thúc một vài nhận định về lý tưởng Bồ-tát trong
Kinh Viên Giác, xin trích lời dạy vô cùng rõ ràngđức
Phật
đã thuyết giảng ở Phẩm Phổ Giác Bồ-tát vấn Phật:
Trong đời mạt, chúng sanh muốn cầu Viên giác, nên
phát tâm mà nói lên rằng, tất cả chúng sanh tận cõi
không
, ta đều khiến vào hết trong Viên Giác rốt ráo

(末 世 眾 生, 欲 求 圓 覺, 應 當 發 心 作 如 是 言: 盡
於 虚 空, 一 切 眾 生, 我 皆 令 入 究 竟 圓 覺).

Nhận
định
kết luận:

Này
các Tỷ-kheo, Ta đã được giải thoát khỏi tất cả bẫy
sập ở Thiên giớiNhân giới. Này các Tỷ-kheo, các Ông
cũng được giải thoát khỏi tất cả bẫy sập ở Thiên giới
Nhân giới. Này các Tỷ-kheo, hãy du hànhhạnh phúc
cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên
loài Người. Chớ có đi hai người một chỗ. Này
các Tỷ-kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện,
có nghĩa, có văn. Hãy tuyên thuyết Phạm hạnh hoàn toàn viên
mãn
thanh tịnh. Có các chúng sanh sanh ra ít nhiễm bụi đời,
nếu không được nghe pháp sẽ đi đến hoại diệt. Họ sẽ
trở thành những vị thâm hiểu Chánh pháp. Này các Tỷ-kheo,
Ta sẽ đi đến Uruvelà, thị trấn Senà để thuyết pháp.
..”
(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, Tương Ưng Ác Ma, Phẩm thứ I, Bẫy
Sập, tr234-235).

Đây
được xem như lời nói nhân bản đầu tiên bắt đầu cho
cuộc hoằng dương chánh pháp với sự góp mặt của các đại
đệ tử
đức Phật, và việc làm lợi ích cho số đông này
vẫn mãi được duy trì cho đến ngày nay. Có thể khẳng định,
rằng, tư tưởng Bồ-tát đạo đã được manh nha và phát
triển trong những ngày đầu từ lúc Thế-tôn thành tựu
thượng Chánh Đẳng Giác
, bởi tinh thần sống của Tăng chúng
không phải hưởng thụ những lợi ích riêng mình, không phải
khổ hạnh mong xa lìa nghiệp cảm, mà vì hạnh phúc cho cả
cộng đồng những nơi các Ngài có mặt. Các Tỷ-kheo đã bắt
đầu hành Như Lai sự với tinh thần dấn thân; đi khất thực;
tùy duyên giáo hóa; đem đời sống xuất ly ươm mầm trong
tâm thức tha nhân; chỉ cho mọi người thấy được đâu là
con đường sáng để thành tựu phạm hạnh, đâu là ngõ cụt
có thể đưa đến thối đọa. Giáo đoàn hầu như đã thiết
lập
lại một trật tự sống phát xuất từ nội tâm cho tất
cả các tầng lớp thời bấy giờ, bằng những lời dạy hết
sức
bình thường mà bất kì ai, thuộc tầng lớp giai cấp
nào cũng có thể hành trì được.

Thế-tôn
đã khẳng định, Ngài thuyết pháp không vì tranh chấp, tranh
cãi, chiến tranh, luận tranh, mà vì mục đích giải thoát,
cho nên, những gì bậc trí tán thán, Ngài cũng tán thán; những
gì bậc chân nhân không chấp nhận, Ngài cũng không chấp nhận
(Xem Tương Ưng Bộ III, Phẩm V, Bông Hoa, Tu Thư Phật Học Vạn
Hạnh
, 1982, tr 165-166).

Chúng
sanh
có tám vạn bốn ngàn căn bệnh khó chữa gói gọn trong
tham-sân-si thì giáo lý Phật-đà có đến tám vạn bốn ngàn
pháp môn đối trịdiệt trừ tận gốc mọi căn bệnh
đó.

Giáo
mỗi nơi phô diễn mỗi cách khác nhau, theo mỗi ngôn ngữ
khác nhau, theo

một
trình độ nhận thức khác nhau tuỳ vào căn cơ đối tượng,
đôi khi nó được ám chỉ là Pháp Độc Nhất và Kỳ Diệu;
đôi khi là Viên Giác; đôi khi là Tổng trì (Đà-la-ni); đôi
khi là Cõi Giới, đôi khi là Tịnh Độ; có nơi là Pháp Giới
của Hoa Nghiêm; có nơi là Như-lai Tạng; có nơi là Phật Hương
Tích
, A Di Đà, Dược Sư, Phổ Hiền, Văn Thù, Di Lặc, Biện
Âm,… Tất cả tên này đều chỉ rõ Nhất Tâm. Bản tánh
của tâm này là bản nguyên chư Phật, nó là tên của tất
cả các Kinh. Kinh Viên Giác cũng nằm trong nghĩa thâm mật đó.

Chúng
ta
phải nhận ra, mọi lời thuyết pháp của chư Phật đều
nhằm chỉ thẳng tâm, không nên bám chặt vào tên và lời,
bởi đó chỉ là ngón tay đưa lên, còn đích chúng ta thấy
phải là mặt trăng vằng vặc vượt ra khỏi giới hạn của
ngón tay kia. Nếu không như vậy, tất cả pháp ấy sẽ trở
thành
thuốc độc, hành giả sẽ phải thừa tự, sẽ phải
là chủ nhân của ác nghiệp. Bất kỳ ở thời pháp và bản
Kinh
nào, chúng ta cũng phải dùng trí tuệ soi rọi, thấy được
cốt yếu nội dung không ra ngoài Cơ sở hoá độ (Phẩm Cách
tu tập) và Phương pháp hoá độ (Lý tưởng hoá độ chúng
sanh
).

Hai nội dung này đan xen vào nhau không thể tách rời, một
nội dung thành tựu thì nội dung còn lại cũng dựa vào đó
để viên mãn. Sở dĩ phải phân chia bố cục như trên
chỉ để chúng ta thấu hiểu được dễ dàng mà thôi, chứ
thật ra, chỉ cần đọc, hoặc là Cơ sở hoá độ của Bồ-tát,
hoặc là Phương pháp hoá độ của Bồ-tát, thì chúng ta
thể hiểu được chi phần còn lại. Kinh Viên Giác đã trình
bày rất cụ thể hai nội dung trên từ phẩm đầu tiên cho
đến
phẩm cuối cùng.

Điểm
then chốt trong mỗi từ mỗi ngữ nhằm giúp chúng sanh Kiến
tánh để không phụ lòng với lời dạy, Giáo pháp của Như-lai
là đến để mà thấy chứ không phải để chiêm ngưỡng
như một triết lý mông lung. Giáo lý ấy thật dễ hiểu, gói
gọn hoàn toàn vào hai từ “Trí Tuệ” và “Từ Bi”, nhưng
chứng đạt được thì điều không phải dễ dàng. Và đó
là chân trời mênh mông mà mỗi chúng ta đều có quyền lựa
chọn
và dấn thân!

Bồ-tát
phát nguyện hoá độ tất cả chúng sanh vào Niết-bàn (Hạ
hoá chúng sanhlý tưởng độ tha) mà thật ra không thấy
chúng sanh nào chân thật được độ (Thượng cầu Phật đạo
– phẩm cách tự độ) (善 男 子, 善 女 人, 發 阿 耨 多 羅
三 藐 三 菩 提 心 者, 當 生 如 是 心: 我 應 滅 度 一 切
眾 生 已 而 無 有 一 眾 生 實 滅 度 者) (Kinh Kim Cương,
đoạn 17, Cứu cánh Vô ngã), đó là tư tưởng cốt yếu của
tất cả những bản Kinh Phật giáo.

Kinh
Viên Giác với cái nhìn như thật đang là của các pháp cũng
mở ra phương trời rất mới, ở đó chúng ta thấy được
đường đi của chư Bồ-tát cũng như nền tảng hoá độ chúng
sanh
của các Ngài. Sự thông biện giáo pháp, tâm từ bi bình
đẳng
luôn là những gì được đề cao và được đức Phật
nhắc đi nhắc lại, tạo thành chuẩn mực sống của đệ
tử
Như-lai trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.

Viên
Giác
, tựa đề bản Kinh cũng đã cho ta thấy được phần
nào diệu dụng của bản Kinh, muốn hết thảy chúng sanh thực
hành
Bồ-tát đạo và đều được an trú trong sự nhiệm mầu
này nhờ thành mãn Vô ngã, Vô nhơn, Vô chúng sanh, Vô thọ
giả. Chúng sanh bệnh là Bồ-tát bệnh, vì thế, Bồ-tát phải
nỗ lực tìm cầu diệu dược cứu độ cho mình và cứu độ
cho chúng sanh. Những căn bệnh do Vô minh, Tham ái, Dục vọng,
Chấp thủ… hễ còn hoành hành là Bồ-tát còn hiện thân
chữa trị cứu độ, có nghĩa là tinh thần Viên Giác vẫn
còn lưu bố rộng khắp.

Chúng
ta
, những hành giả đang đi trên con đường thiêng liêng cao
quý đó, cũng phải tinh tấn lòng dặn lòng nuôi dưỡng tâm
từ
cùng tăng trưởng trí tuệ, tự mình vượt qua bộc lưu
và giúp người khác vượt qua bộc lưu. Đó chính là
sự tri ân Tam bảo đúng nghĩa và thiết thực nhất, cũng là
mục đích mà Kinh Viên Giác muốn trao truyền.

THAM
KHẢO
:

1.
Lăng già a bạt đa la bảo kinh

楞伽阿跋多羅寶經.
Lưu Tống, Cầu Na Bạt Đà La dịch, ĐTK 16, 479. Số hiệu 670.

2.
Đại thừa nhập lăng già kinh

大乘入楞伽經.
Đường, Thật Xoa Nan Đà dịch, ĐTK 16, 587. Số hiệu 672.

3.
Kim cương bát nhã ba la mật kinh 金剛般若波羅蜜經. Diêu
Tần Tam

Tạng
Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch, ĐTK 8, 78. Số hiệu: 235.

4.
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm

Kinh
Nhập Pháp Giới Phẩm 大方廣佛華嚴經入法界品. Đường
Địa Bà Ha La dịch. ĐTK số hiệu 295.

5.
Kinh Viên Giác. Thích Viên Đức dịch.Saigon: Bản in Ronéo.