Nguyệt Xứng (c. 570 – c. 650)
Bản dịch Anh: Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. The Essential Chapters from the Prasannapada of Candrakirti. Translated from the Sanskrit by Mervyn Sprung in collaboration with T.R.V. Murti and U.S. Vyas. Routledge, 1979. (pp180-182) Ông có thể phản đối rằng, mặc dầu ‘Bản chất của sự vật chẳng sinh khởi chẳng hoại diệt, cũng như niết bàn chẳng sinh khởi chẳng hoại diệt’, và rằng chẳng thể sử dụng ngôn ngữ xác định (Skt.vac) và tâm trí khi quan tâm tới nó, tuy nhiên chân lí này chắc chắn không thể được nhận biết nếu nó không được biện luận một cách có giáo dục về phương diện đạo đức. Khi đem chân lí này tới những kẻ cần hướng dẫn, tất nhiên có những lúc cần đến một giáo pháp phân chia theo nhóm (anupurvi; graduated) được truyền đạt trên phương diện đời sống hàng ngày, kinh nghiệm phi tỉnh giác và do thế chân lý sẽ được giảng giải trong chi tiết. Chúng tôi trả lời. Giáo pháp phân chia theo nhóm của chư Phật thâm nhập như tính của sự vật nên được nhận thấy rất là đơn giản : XVIII. 8 Mỗi sự vật trong thế giới này có thể xem là thật hoặc không thật; hoặc thật và không thật; hoặc chẳng thật, hoặc chẳng không thật. Đây là giáo pháp của Đức Phật. Nay đan cử: ‘Bất kì cái gì quen thuộc nhất với một cá nhân thì hữu hiệu nhất cho cá nhân một cách tự nhiên. Nếu một cá nhân bị bối rối thì làm cách nào họ có thể tiếp nhận chân lí? Vì chỉ có thể làm cho một người ngoại quốc thông hiểu bằng cách dùng một ngôn ngữ của họ, do thế chỉ có thể làm cho những người chưa tỉnh giác (loka; thế giới) thông hiểu bằng các phương pháp hữu hiệu của đời sống hàng ngày (Hoặc, chỉ có thể thông hiểu Thế Giới theo cách của chính nó). Như đức Phật đã nói: ‘Kẻ chưa tỉnh giác thì bất đồng với tôi ; tôi không bất đồng với kẻ chưa tỉnh giác. Cái gì kẻ chưa tỉnh giác chấp nhận, tôi cũng chấp nhận; cái gì kẻ chưa tỉnh giác không chấp nhận, tôi cũng không chấp nhận.’ Bản kinh nói như vậy. Đức Phật luôn luôn đối xử với các uẩn, các giác quan và các đối tượng của chúng và các loại thức là thật (tathyam) . Những cái này đều được nghĩ là thật khi được tri nhận bởi những kẻ được hướng dẫn — những kẻ vì căn bản vô minh nên có khiếm khuyết khi nhìn sự vật — nơi những kẻ đã được đánh thức lòng ham muốn học hỏi về các bản chất của các sự vật thường được xem chung là thật. Và sự hướng dẫn này đi chung với một quan tâm vào chân lí tối hậu (paramartha) và với một tri kiến để đánh thức chính tín của kẻ bình thường nơi chính mình. ‘Vị thánh giả này thì nhận biết sáng tỏ về mọi hiện tượng mới đây trong thế giới, ngài có nhất thiết trí và thấy tất cả; ngài sở hữu trí tuệ về thế giới vô tri từ tính vô tận của hư không tới giòng chuyển của gió và ngài nhận biết, theo cách người khác bất khả tranh biện, các giới hạn khả hữu nhất của thế giới hữu tình; ngài biết nhiều loại nguồn gốc, hiện hữu và mục đích, cái gì là nguyên nhân, cái gì là hiệu quả, cái gì là lạc thú, cái gì là đau thương.’ Do thế, sau khi những kẻ được hướng dẫn đã nhận thức được nhất thiết trí của đức Phật, vào một thời gian về sau, sự giải thích rằng mỗi sự vật là không thật cũng là do chân thật xem xét (as naïve taken). Ở thời điểm này cái gì là thật là cái gì không thay đổi . Nhưng tất cả các sự vật hữu vi (do tạo tác kết hợp) thay đổi trong thực tế bởi vì chúng hoại diệt theo mỗi sát na. Thế nên, bởi vì sự kiện thay đổi này, chúng cũng chẳng là thật. Từ ngữ ‘hoặc’có nghĩa ‘và’ (The word ‘or’ means ‘and’). (kệ tụng XVIII.8) ; nó được xem là nối kết hai tri kiến. Đó là: ‘Mỗi sự vật trong thế giới này có thể được xem là thật và là không thật’. Với một số người, họ được giải thích rằng mỗi sự vật trong thế giới là thật và không thật vào cùng một thời điểm. Với những kẻ chưa tỉnh giác mỗi sự vật trong thế giới là thật; với những kẻ đã khởi hành trên phong cách xem mỗi sự vật là dối gạt (false) bởi vì đã không tri nhận trong tính thật tại của nó (evam anupalambha; không tri nhận như thị). Tuy nhiên có những kẻ, từ tu tập lâu dài, thấy thật tướng của sự vật , những kẻ đã xoá sạch các chướng ngại (avarana) một cách gần như hoàn toàn, giống như xoá sạch các gốc rễ của cây; với họ, họ được giải thích rằng mỗi sự vật trong thế giới là chẳng thật , và chẳng không thật. Để làm mất đi các các tàn dư của các chướng ngại, cả hai chọn lựa thay thế (chẳng thật, và chẳng không thật) đều bị bác bỏ, cũng như khi một kẻ bác bỏ các phát biểu về chủ từ (predicates) tỉ dụ đen và trắng đối với đứa con của người đàn bà vô sinh . Đây là giáo pháp của chư Phật. Nó đưa dẫn con người thoát khỏi các con đường mờ tối khó thấy và an lập họ trên con đường chân chính. Trong các lợi ích của các chỉ giáo theo thứ bậc và của sự thích nghi với những kẻ được hướng dẫn, giáo pháp thì uyển chuyển linh động. Tất cả các giáo pháp của chư Phật, chư vị sở hữu đại bi phổ quát, trí tuệ siêu việt và phương tiện thiện xảo (upaya), đều được xem là các phương pháp hữu hiệu để thâm nhập (avatara) như thị tính. Chư Phật không thốt ra một lời nào mà trong thực tế không là một phương pháp hữu ích để thâm nhập vào thật tướng của sự vật. Các ngài vận dụng thuốc men thích hợp với các bệnh .Các ngài có sự thúc bách cứu giúp những kẻ đang cần sự hướng dẫn và các ngài giảng dạy họ chân lý một cách thuận hợp với họ. Bốn trăm tụng : ‘Các sự vật đều là thật, các sự vật đều là không thật, các sự vật đều là thật và không thật: tất cả điều này thì được nói nhiều cách khác nhau. Thật ra, tất cả các sự chữa trị lành bệnh như thế đều là các chữa trị lành bệnh cho một dục tham chuyên biệt.’ —– Candrakirti The nature of the teaching of the Buddhas You may object that, even though, ‘The true nature of things neither arises nor perishes, as nirvana does not’, and that there can be no assertive use of speech (Skt. vac) nor any discursive thought (citta) with respect to it, none the less this truth can certainly not be known if it is not didactically argued. In bringing this truth to those need guidance there must necessarily be recourse at times to a graduated (anupurvi) teaching given in terms of everyday, unlightened experience and so the truth will be expounded. We reply. It should be realized that this graduated teaching of the illustrious Buddhas which penetrates to the way things are eternally is simply: XVIII.8 Everything in this world can be taken as real or not real; or both real and not real; or neither real nor not real. This is the Buddha’s teaching. To quote: ‘Whatever to be most familiar to one is most effective for him naturally. If one is bewildered how can one receive the truth? As it is not possible to make a foreigner understand by a language not his own, so the unenlightened person (loka) cannot be made to comprehend except by means of the everyday (Or, the World cannot be made to comprehend except in its own way) As the illustrious one said: ‘The unenlightened person is at variance with me; I am not in variance with the unenlightened person. What is accepted by the unenlightened person is accepted by me; what is not accepted by the unenlightened is not accepted by me.’ Thus the scripture. The illustrious one always treated the elements of personal existence, the senses, and their objects, and the types of consciousness as ‘real’(tathyam). These are thought to be real when perceived by those who are to be guided — those suffering from the optical defect of primal ignorance — in whom has been aroused the desire to learn about the various nature of things generally accepted as real. And this with an eye on the higher truth and with a view to arousing the faith of the ordinary man in himself. This holy man is aware of every last happening in the world, he is omniscient and all – seeing; he possesses the knowledge of the inanimate world from the infinity of space to the coursing of the winds and he knows the uttermost limits of the world of beings; he knows incontrovertibly the many kinds of origin, existence and end, what is cause, what is effect, what is pleasurable, what is painful.’ So, after those who are to be guided have realized the omniscience of the illustrious one, at a later time it is explained that everything is not real (na tathyam) as naively taken. At this point what is real is what does not change. But all compounded things change in fact because they perish by the moment. Therefore, because of this fact of change, they are not real either. The word ‘or’ means ‘and’ (verse XVIII.8); it is to be taken as joining the two views. That is: ‘Everything in this world can be taken as real and as not real.’ For some it is explained that everything in the world is both real and not real at the same time. For the enlightened everything in the world is real; for those who have started on the way everything is false because not perceived in its naïve reality (evam anupalamgbha). There are those however who, from long practice, see things the way they really are, who have eradicated obstructions (avarana) virtually completely like the roots of a tree; for them it is explained that everything in the world is neither real nor not real. In order to remove what remains of the obstructions, both alternative are rejected even as one rejects predicates like black and white for the son of a barren woman. This is the teaching of the illustrious Buddhas. It leads men from byways and establishes them on the right way. In the interests of gradual instruction and of adapting to those who are to be led, the teaching is flexible. All the teaching of the illustrious Buddhas, who are possessed of universal compassion, ultimate insight and practical wisdom, are intended to be a means of penetrating (avatara) to the eternal way of things (tattvamrta). The perfectly realized ones have not uttered one word which was not in fact a means of penetrating to the eternal way way of things. They administer medicine suited to the illness. They have the urge to succor those who need guidance and they teach the truth accordingly. To quote from the Four Hundred Verses ‘Things are real, things are not real, things are both real and not real: all this is said variously. Indeed all cures as such are cures for a specific desire’. ——- Chú thích elements of personal existence: các uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) higher truth: paramartha; ultimate truth: chân lí tối hậu ultimate insight: trí tuệ siêu việt practical wisdom : Skt. upaya : phương tiện thiện xảo means: phương pháp hữu hiệu 1. naïve: có nhiều nghĩa, nhưng trong ngữ cảnh bản văn này: as naïve taken = là vì chân thật xem xét ; naïve reality: tính như thị ; lí do : “ For those who have started on the way everything is false because not perceiving in its naïve reality (evam anupalambha) “. “ Với những kẻ đã khởi hành trên phong cách xem mỗi sự vật là dối gạt (false) bởi vì không tri nhận tính như thị (evam anupalambha) ” anupalambha: having no sense of ; not perceiving (Glossary của bản Anh) evam: như thị 2. “ none the less this truth can certainly not be known if it is not didactically argued ” “tuy nhiên chân lý này chắc chắn không thể được nhận biết nếu nó không được biện luận một cách có giáo dục về phương diện đạo đức” didactic: adj. (formal) educational especially morally: a didactic speech about truth. (L.A. Hill. Penguin English Student’s Dictionary, 1991). 3. Bài “ Bản chất của giáo pháp của chư Phật ” chỉ là một tiểu đề giảng về kệ tụng XVIII.8 trong Chương “ Ngã và Thật tướng của các sự vật ” Phụ Bản 1
Kim Cương Thủ. Giải thích về Tâm Yếu của Kinh Trí Tuệ Siêu Việt của Đức Cát Tường/ Thế Tôn / Bạt Già Phạm. Ngọn Đèn Chiếu Sáng Diệu Nghĩa. Vajrapani. Commentary on the Bhagavati Heart of the Perfection of Wisdom Sutra, Lamp of the Meaning. I bow down again and again with faith and respect to the mother of the conquerors of three times, the equality of mundane existence and peace, to the jewel-like nature of the texts, teaching the skillful methods for bringing bliss to transmigrators.
Phụ Bản 2: Shakespeare và Duyên Hội, Tính Không, Trung Đạo Sau ngài Nguyệt Xứng một ngàn năm, nhân vật Macbeth của Shakespeare đã đi tìm như tính của vạn hữu, và đã tìm thấy Duyên khởi cũng là Tính Không cũng là Trung Đạo, và giữa lòng cuộc đời đã biện luận về chân lý theo phong cách có giáo dục về phương diện đạo đức, khác với ngôn ngữ hàng ngày của ‘âm thanh và cuồng nộ’ (‘sound and fury’) . *Duyên hội 1 Xin tạm dịch : Macbeth muốn nói với phu nhân Macbeth về như như, duyên khởi, duyên hội, pháp tính, thật tướng, về ngu si, si, vô minh, phi hiện quán, hôn muội, hắc ám ; về chân như, về tình yêu, tự do, chân không diệu hữu — như như chính là emptiness, openness, love, freedom, dependent arising, suchness. * Đang trong căn nhà hữu danh, mà lại sống nơi quê hương tuyệt ngôn, tịch chiếu rỗng thông. Tăng Triệu (378 – 414 ) Như như, chân như, thật tướng, duyên hội, pháp tánh, tính không, đều cùng một nghĩa (Tăng Triệu)… Thế nên câu trên có thể dịch là Đời sống là biểu trưng nhân và duyên; biểu trưng duyên hội. * Diễn viên đó vênh váo bước đi (như trong diễn hành chiến thắng) và vẫn thầm lo sợ (cái gì duyên hội sắp xảy ra) trong thời gian có hạn trên sân khấu That struts and frets his hour upon the stage Thế nên, tuy vênh váo bước đi trong diễn hành chiến thắng mà trong lòng vẫn lo sợ những gì sẽ duyên hội xảy ra, có vênh váo là có lo sợ, và có lo sợ cho những âm mưu dự định là sẽ có ngày vênh váo. Osho có kể chuyện các tướng lãnh La Mã diễn hành chiến thắng đều cho một nô lệ đứng sau nhắc nhở — ngài chớ tin vào những lời hoan hô của dân chúng. *Duyên hội 2 Macduff: Stands Scotland where it did? **** Tính Không/ Chân không diệu hữu/ Emptiness/ Openness của các hiện tượng / biến cố nội tâm/ ngoại giới có tính rỗng thông/ chân không diệu hữu (empty/open) mở ra muôn vàn khả thể cho các biến hiện — Emptiness/ Openness is open for possibilities for manifestation. Từ đó ta có thể thực hiện thiện hạnh / ác hạnh và đóng góp vào sự thay đổi đất nước và xã hội. *Duyên hội 3 Ngài Nguyệt Xứng nói về Ngã và Thật tướng của sự vật (p.185) Khi giảng kệ tụng XVIII.10, ngài Nguyệt Xứng kết luận : “ Và do thế, nói ‘Bất kì sự vật gì tuỳ thuộc vào một nguyên nhân trở thành một hiệu quả’ thì không có nghĩa là ‘ nguyên nhân trở thành hiệu quả’. Lại cũng không có nghĩa là hiệu quả là hoàn toàn khác với nguyên nhân. Thế nên có thể kết luận ‘ nguyên nhân thì chẳng hoai diệt cũng chẳng thường hằng’. Như ngài Thánh Thiên có nói : ‘Từ sự kiện rằng các sự vật vận hành nên chúng không là phi sự vật; từ sự kiện chúng chấm dứt vận hành chúng không là thường hằng. Kinh Phổ Diệu (Lalitavistara) có nói : ‘ Nếu có một hạt giống thì có một mầm, mặc dầu hạt giống không là mầm, mà hạt giống cũng không hoàn toàn là một cái khác. Đây là tại sao bản chất của sự vật là chẳng tàn tạ hoại diệt chẳng thường hằng thường tại”. Candrakirti on Self and the way things really are (p.185) As Aryadeva says: ‘ From the fact that things function they are not nothing; from the fact that things cease functioning they are not eternal’. It is said in Lalitavistara: ‘ If there is a seed there is a sprout, though the seed is not the sprout, nor is it wholly other. This is why the nature of the things is neither perishable nor eternal ‘. Phụ Bản 3 Kinh Phổ Diệu và Minh cú luận Chẳng thường hằng, chẳng đoạn diệt * * It is said in the Lalitavistara: * Top of Form Bottom of Form Phụ Bản 4 Duyên Khởi Kinh Duy Ma Cật –Nói về Duyên khởi Đặng Hữu Phúc dịch theo bản Anh do Robert Thurman 1976 dịch từ Tạng ngữ : Bảo Tích nói : Tất cả các sự-sự vật-vật này đều duyên khởi, từ các nguyên nhân, ——————- 1. Bản Duy Ma Cật Sở Thuyết Thuyết pháp bất hữu diệc bất vô Nói pháp chẳng có cũng chẳng không, 2. Kinh Vô Cấu Xưng Nói pháp mầu khôn lường Không, Có Tích tập Phúc Đức và Trí Tuệ Chúng ta là người Việt, đang theo học giáo pháp của Đức Phật, và được ngài Long Thọ, ngài Nguyệt Xứng giải thích; chúng ta hãy cố gắng xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn là vì “ nguyên nhân của tình cảnh xã hội Việt Nam thì chẳng tàn tạ hoại diệt, chẳng thường hằng thường tại” . Đức Đạt Lai Lạt Ma nói trong “Trung Đạo. Chính tín căn cứ trong Suy lí”: “ Chúng ta tích tập phúc đức trên căn bản của phương diện hiển hiện của duyên khởi và tích tập trí tuệ trên căn bản của phương diện chân không diệu hữu / rỗng thông (empty aspect) của duyên khởi” . Thưa các bạn, phúc đức có tính hiển hiện nơi ta, nơi kẻ khác và nơi xã hội. Chúng ta hãy tích tập phúc đức và trí tuệ. Bài đọc thêm: |