Thiên Mệnh, Định Mệnh, Số Mệnh Hay Nghiệp Quả?

0
32

THIÊN MỆNH, ĐỊNH MỆNH, SỐ MỆNH
HAY NGHIỆP QUẢ?
Lê Sỹ Minh Tùng

ta_dang_lam_gi_doi_tata_dang_lam_gi_doi_ta1)Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng
Tử
thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng
trong triết lý của đạo Nho. Trong đó, Không Tử quan niệm rằng tất cả sự biến
chuyển
của Trời, Đất cho đến sự sống chết của các loài
từ con người đến các loài cầm thú thì Ngọc Hoàng Thượng đế nắm toàn quyền sinh
sát
trong tay. Đó là mệnh lệnh của ông Trời nên được gọi là Thiên mệnh. Nói cách khác Ngọc Hoàng thương người nào thì
ban phúc cho người đó. Ngược lại, Ngọc Hoàng muống giáng họa cho ai thì kẻ đó bắt buộc phải chết. Vì thế trong xã hội
phong kiến, nhà vua tự xưng là con của Ngọc Hoàng Thượng đế nên gọi là Thiên tử
cho nên mệnh lệnh của nhà vua là tuyệt đối. Do vậy vào thời Hán Vũ Đế, một nho
gia
tên là Đổng Trọng Thư dựa theo tư tưởng Khổng Tử đã nói:”Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Phụ
xử tử vong, tử bất vong, bất hiếu
” nghĩa là vua xử tôi thần chết, tôi thần
không chết là không trung thành. Cha xử con chết, con không chết là con bất hiếu.
Chúng ta đang sống trong thế kỷ thứ 21 cho nên chế độ phong kiến, trên đội dưới
đạp, quân xử thần tử , phụ xử tử vong không còn thích hợp với xã hội dân chủ, tự
do
, bình đẳng, văn minh khoa học, tiến bộ của loài người nữa. Chẳng những thế,
ngày nay từ Tổng thống, Thủ tướng cho đến Chủ tịch vẫn bị cách chức hay vào tù
vì tội lạm quyền, tham nhũng, hành xử bất chánh đi ngược lại với công lý.

Thuyết Thiên mệnh của Khổng tử có bốn
yếu tố chính:

-Tri mệnh: Biết mệnh Trời mà tuân
theo
, không nên chống cải.

-Phối mệnh: Phải luôn luôn trau dồi
đức hạnh để luôn xứng đáng là con của trời.

-Sĩ mệnh: Không nên than van, trách
cứ mà nên an nhiên chờ đợi mệnh Trời.

-Úy mệnh: Phải kính sợ mệnh Trời, chớ
cải lại.

2)Định mệnhsố mệnh của con người
đã được an bài trước từ khi mới chào đời cho đến lúc mạng chung nghĩa là một
người sinh ra thì định mệnh của họ gắn liền với giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh
và năm sinh đó. Vào đời nhà Tống bên Trung Hoa, Trần Đoàn, danh hiệu là Hi Di
Lão Tổ, là người phát minh là khoa Tử Vi. Ông ta lý luận rằng có
hơn 100 ngôi sao sắp xếp quanh 12 cung và sự phối hợp của các ngôi sao nói lên
tính chất đặc biệt của mỗi cá nhân. Thí dụ nếu sao Thiên Quý đóng tại cung Sửu,
Mùi thì người đó sẽ là anh hùng trong thiên hạ…. Thật ra ngày nay khoa tử vi
không còn được xem là khoa học huyền bí nữa vì nó không thể giải thích từng trường
hợp
của mỗi người một cách suông sẻ và hợp lý. Thí dụ trên thế giới hiện giờ
trên 6,7 tỷ người, mà nếu dựa vào một ngày, giờ, tháng, năm sanh nhất định thì có được 512,000 lá số tử vi cho tất cả
mọi người. Nếu sinh cùng giờ thìn, tháng thìn, năm thìn thì có biết bao người
trùng lá tử vi, nhưng có người thì sung sướng sao có kẻ lại
khổ đau?

Để giải thích sự sai lệch nầy, các
nhà tử vi lý luận rằng ngoài ngày, giờ, tháng,
năm sanh, lá tử vi còn tùy thuộc
vào phước đức của họ và của gia đình họ. Thế thì nói đi nói lại, mọi sự tiên đoán của tử vi cũng chỉ dựa vào Luật Nghiệp Quả
của nhà Phật mà thôi. Thậm chí một số nhà tử vi, chiêm tinh, bói toán cho rằng số
mạng con người còn tùy thuộc vào sửa cái giường theo hướng đông hay tây, sửa
cái bếp theo hướng nam hay bắc hay sửa chữ ký theo đường này hay hướng khác. Cuộc
đời
có thay đổi, có thăng hoa chỉ khi nào con người biết phục thiện, biết làm
lành lánh dữ
, biết bố thí giúp đở kẻ thế cô. Nói cách khác khi con người sống
trong đạo đức nhân bản thì cuộc sống chắc chắn sẽ bình yên, gia đình trên thuận
dưới hòa mà không cần sửa giường, sửa bếp, hay chữ ký chi cả. Nếu sửa giường, sửa
bếp hay sửa chữ ký mà thay đổi được cuộc sống thì mấy ông, bà thầy bói đã giàu
sang
, phú quý hết rồi chớ đâu có lanh thang, thất thểu như vậy. Ở Hoa Kỳ, có những
tay bói toán rất nổi tiếng như Sylvia Browne (Tự xưng là Spiritual Teacher and
Psychic tuy nhiên có người cho bà ta là Psychic or Con Artist?) xuất bản rất
nhiều sách và xuất hiện trên nhiều chương trình TV. Không phải bà ta làm giàu
hay nổi tiếng vì tài tiên đoán xuất quỷ nhập thần hay thần cơ diệu toán gì cả
mà chỉ là lợi dụng sự mê tín của người nghe hay người đọc để bán sách thế thôi.
Những tiên đoán của bà ta thuộc loại vô thưởng, vô phạt, không thể kiểm chứng, chỉ
nói cho vừa lòng người nghe. Nếu thực sự các nhà tiên tri, ngoại cảm có thật
tài thì tại sao không ai vì lòng nhân ái đứng ra tình nguyện giúp cho hảng hàng
không Mã Lai Á tìm chiếc máy bay MH370 với 239 sinh linh bị rớt mấy tháng trước?
Ngày nay trong cuộc sống gia đình đôi khi vợ chồng, con cái, cha mẹ hay anh em
có những lúc bất hòa đưa đến cải vả làm mất hòa khí. Có người tin vào chuyện kỵ
tuổi chẳng hạn như dần, thân, tỵ, hợi tứ hành xung khắc hay thân, tý, thìn là
tam hạp…Khắc khẩu không phải là do kỵ tuổi gì cả bởi vì người Tây phương đâu có
biết thân, tỵ gì đâu mà họ vẫn sống phây phây trong khi đó người Trung Hoa cái
nghèo, cái khó sao cứ mãi đeo trên lưng? Khắc khẩu là tại vì bất đồng tư tưởng,
mỗi người có tư tưởng hay đường hướng về cuộc sống khác nhau. Nhưng thay vì tôn
trọng
hay lắng nghe để dung hòa thì họ sống quá nặng theo bản ngã của mình mà
cho rằng tôi nghĩ là đúng, tôi nói là hay. Bây giờ nghe lời Phật dạy, bớt bản
ngã
xuống một chút, tôn trọng ý kiến của mọi người thì cuộc sống gia đình sẽ trở
lại
an bình như trước chớ có dính dấp gì đến dần, thân, tỵ, hợi đâu. Biết bao
người tuổi thân, tý, thìn hằng ngày đưa nhau ra tòa ly dị vì thế một trong những
điều cấm kỵ của Đức Phật đối với các vị Tỳ kheobói toán

3)Số mệnh bây giờ là một hàm số rất
phức tạp bao gồm rất nhiều tư tưởng của Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Tuân Tử…Đó
là:

Số mệnh = Thiên mệnh + Địa Mệnh +
Nhân mệnh

Dựa vào hàm số này thì số mệnh của
con người 70% tùy thuộc vào định mệnh và 30% còn lại tùy thuộc vào hành động của
con người để chuyển hóa số mệnh của mình nghĩa là “Tận nhân lực, tri thiên mệnh”.
Vì thế tuy con ngườicố gắng, sửa sai, phục thiện thì số mệnh của mình vẫn
còn nằm trong tay của Trời, Đất.

4)Luật Nghiệp Quả: Khác với thuyết Thiên
Mệnh
của Khổng Tử, Định mệnh của Trần Đoàn hay ngay cả Số mệnh của
sự tổng hợp các luồng tư tưởng khác của các triết gia Trung Hoa, luật nghiệp quả của Phật giáo rất khác biệt và uyển
chuyển. Tại sao? Bởi vì luật nghiệp quả là do con người hoàn toàn quyết định cuộc đời của mình chớ không tùy thuộc vào bất cứ một quyền năng nào ở ngoài nghĩa là dựa theo tinh thần Phật giáo, không có ông
Trời, bà đất hay Hi Di Lão tổ nào có thể quyết định hay thay đổi số mệnh của
mình mà phải do chính tự tay mình tác tạo và thọ lãnh.

Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ),
Đức Phật dạy rằng:”Con người là chủ
nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người
được sinh ra; nghiệp là quyến thuộc, là nơi nương tựa”
. Như thế, sự hiện hữu của
mỗi con người trên thế gian này là sự hiện hữu của nghiệp thiện và bất thiện của họ từ (vô lượng) kiếp quá khứ. Thật vậy,
nghiệp tức là chủ động tạo điều kiện để tái sinh trong kiếp hiện tại và cho những
kiếp tương lai. Vì thế tất cả mọi khổ vui, thành công, thất bại, tướng diện đẹp xấu, thông minh hay
khờ dại…của con người trong kiếp sống này là sự thọ lãnh những quả nghiệp do
chính họ tự tạo tác từ những đời quá khứ, chớ không do bất cứ sự thưởng, phạt
nào của bất cứ ai. Chỉ khi nào thật sự thấu hiểu tường tận về giáo lý Nghiệp thì
lúc đó nghiệp sẽ không còn chi phối cuộc sống của chúng ta. Đó là khi gặp nghịch
cảnh
đau thương thì chúng ta không than Trời, oán Phật và khi thuận duyên hạnh
phúc
đến thì chúng ta cũng chẳng hân hoan reo mừng bởi vì đó đều là những vận
hành
của Nghiệp, do chính ta tác tạo. Bây giờ, nếu chỉ nhìn nghiệp bằng một góc độ nhỏ của nhân quả thì luật nghiệp quả của đạo Phật có vẻ như là một số mệnh sắp
đặt
sẵn bắt buộc con người phải nhắm mắt, xuôi tay chấp nhận. Nhưng sự huyền diệu của luật nghiệp quả không dừng lại
ở đây mà nghiệp có thể chuyển được. Nếu nghiệp không chuyển được thì không ai tu để làm gì? Vì ta là chủ nhân của
Nghiệp thì ta có thể sai khiến Nghiệp của mình chớ không phải là nô lệ để Nghiệp
sai khiến. Nói cách khác, vì nghiệp có thể chuyển
cho nên con người mới có thể chuyển từ phàm sang Thánh hoặc từ phàm biến thành ra ác quỷ. Luật nhân quả đã xác định rõ ràng rằng: ”nhân + duyên =quả” cho nên nhân tác tạo
trong đời quá khứ nếu không kết với những duyên bất thiện hiện tại thì sẽ không
tạo thành quả dữ để đưa con người vào cảnh khổ. Do vậy, con người hằng ngày trong cuộc sống, chính mình có thể làm chủ số mệnh của
mình bằng cách tạo nhiều thiện duyên và tránh xa duyên ác
thì những quả phước thiện đó sẽ đè nén tất cả quả bất thiện khác hoặc nếu quả xấu có hiện
hành
đi
chăng nữa thì nó cũng trở thành nhỏ, không đáng kể, không nguy hại. Thí dụ vì bận rộn,
chúng ta không có thì giờ chăm sóc sân cỏ ở trước nhà nên nó trở thành khô
khan, vàng úa nghĩa là nhân không tốt. Nếu dựa theo thuyết số mạng thì đám cỏ sẽ
chết. Ngược lại, dựa theo lý nhân duyên của đạo Phật là tuy nhân không được tốt,
nhưng nếu bây giờ chúng ta bắt đầu vun phân, tưới nước cho nhiều nghĩa là tạo
duyên lành thì tuần sau đám cỏ sẽ xanh trở lại tức là có kết quả tốt. Cuộc sống
con người thì cũng thế. Hiện tại chúng ta cảm nhận rất nhiều nghịch cảnh, đau
thương
nghĩa là kết quả của những nhân bất thiện từ đời quá khứ nay đã thành quả.
Nếu sống tiêu cực thì chúng ta chỉ than Trời, trách đất rồi những quả đau
thương
khác vẫn cứ tiếp tục đến khiến cho cuộc sống thêm khổ đau, chẳng có lợi
ích
gì. Bây giờ nếu thấu hiểu giáo lý Nghiệp thì bắt đầu chuyển cuộc sống từ
tiêu cực sang tích cực nghĩa là chính ta phải tác động chống lại chớ không chịu
chấp nhận an phận thủ thường. Nói thế có nghĩa là từ nay con người phải nhận thức
sự tai hạitốt đẹp của nghiệp và nghiệp quả để vun bồi, tác tạo thêm nhiều
thiện duyên thì chắc chắn cuộc sống của mình sẽ thăng hoa, hạnh phúc. Nghiệp bất
thiện
ví cũng như viên thuốc độc, nếu uống vào thì chắc chắn chúng ta sẽ chết. Nhưng
nếu bây giờ chúng ta gầy dựng thật nhiều thiện nghiệp ví cũng như tự mình đào một
hồ nước rộng, cho dù có bỏ viên thuốc độc đó vào hồ nước rồi múc nước kia uống
thì vẫn không hề hấn gì.

Nên nhớ: “Cuộc sống này có vay sẽ có trả

 Luật nhân quả không bỏ sót một ai!”

Tóm lại, dựa theo tinh thần Phật
giáo
, con người tự mình có thể làm chủ mạng sống của mình, chính mình ban vui
hay giáng họa cho mình chớ Phật trời không can dự vào căn nghiệp của mình được.
Cao hơn nữa, muốn có hạnh phúc, an vui, tự tại con người chỉ cần sống đời đạo hạnh, giữ tròn năm giới nghĩa là không được sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Nếu thực hành được như thế là
chính họ trở về sống với đời sống đạo đức nhân bản, gia đình sẽ hạnh phúc, ấm êm, trên thuận dưới hòa. Đức Phật dạy giáo lý Nghiệp với mục đích
khuyến khích con người thực hành các Nghiệp lành để trang nghiêm cho kiếp sống
hiện tại và thăng hoa lý tưởng giải thoát cho những kiếp tương lai.

Lê Sỹ Minh Tùng