Vay Trả Trả Vay (Tâm Lý Học Siêu Hình Của Phật Giáo)

0
33
VAY TRẢ TRẢ VAY
(TÂM LÝ HỌC SIÊU HÌNH CỦA PHẬT GIÁO)

Thích Kiên Định

“Vay
trả, trả vay” là công năng, hoạt dụng và địa vị của
thức (năng-hoạt-vị thức) biến chuyển khiến vòng saṃsāra
(luân hồi) luôn tiếp diễn. Có lẽ chúng ta chẳng ngỡ ngàng
gì với nghi vấn: “Sau khi chết là hết?” hay “sau khi chết,
con người sẽ đi về đâu?”, mà nó đã quá xa xưa và cổ
hủ
đối với người phương Đông nói chung và người Việt-nam
xưa và nay nói riêng.

Vẫn
biết: “Năng lượng không tự nhiên sinh ra, cũng không tự
nhiên
mất đi mà nó chỉ biến từ dạng này sang dạng khác”;
rõ ràng Định luật Bảo toàn năng lượng này giúp chúng ta
hiểu một cách nom na về qui luật Hetuphalam (Nhân Quả, Causes
and Effects). Xét mệnh đề đầu “Năng lượng không tự nhiên
sinh ra, cũng không tự nhiên mất đi”, tuy nó không nói đến
sự có mặt của các pháp là do “chúng tập họp duyên”
như chủ trương của Phật giáo, nhưng nó nhấn mạnh đến
qui luật Hetuphalam, chứ không phải do ‘tự nhiên’ sanh. Trong
cụm từ kế tiếp “chỉ biến từ dạng này sang dạng khác”,
chữ “dạng” ở đây tức là hình dạng, vóc dáng hoặc
tướng trạng của saṃskṛta (pháp hữu vi). Đối với các
pháp hữu vi, sự biến tháituần hoàn của loài vô tình,
như: nước (biển) gặp nóng bốc hơi thành mây, mây gặp lạnh
tụ lại thành mưa, rồi mưa xuống thành nước; hoặc của
loài hữu tình, như: ếch/nhái đẻ ra trứng, trứng nở thành
nòng nọc (có đuôi), nòng nọc lớn dần rụng đuôi, rồi
biến thành ếch/nhái. Đặc biệt, cả cụm từ “chỉ biến
từ dạng này sang dạng khác” có thể được hiểu theo nghĩa
của Saddharmpuṇḍarīka-sūtra (kinh Pháp Hoa), như đức Phật
dạy: “Như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như
thị
lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như
thị
quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh bình
đẳng“. Vì sao? Vì đó là “Thị pháp trụ pháp vị, thế
gian
tướng thường trụ”. Như vậy, cả Định luật ấy
và Saddharmpuṇḍarīka-sūtra cho thấy các pháp diệt rồi nhưng
không phải là mất hẳn, mà chỉ biến đổi hoặc thay hình
đổi dạng khác, ở một nơi khác, tức là từ dạng tướng,
đến tánh, đến thể, lực, … quả, báo của các pháp đều
bình đẳng như thế. Sự giải thích này cho thấy ‘diệt
mất nhưng không phải là hết’, hoặc ‘sau khi chết không
phải là hết’, mà vẫn còn lưu chuyển trong vòng saṁsāra
(luân-hồi), hoặc tridhātu, triloka (tam giới, ba cõi): karmadhātu/karmaloka
(Dục giới-Desire-world/element/realm, Existence world), rūpadhātu/rūpaloka
(Sắc giới-Form-element/realm) và arūpadhātu (Vô sắc giới
Formlessness-element). Sau khi chết, theo Jünjiro Takakusu, không phải
là hết, mà nó là sự bắt đầu đi xuyên qua một quá trình
sinh-diệt tương tự ở một cảnh giới khác và vòng sống
cứ lập đi lập lại mãi như thế (1). Lại nữa,
cụm từ “biến từ dạng này sang dạng khác”, theo Tâm lý
học Phật giáo, có thể hiểu qua câu: “Khứ thệ lai tiên
tác chủ ông” (đi sau, đến trước, làm ông chủ) trong Bát
Thức
Qui Củ Tụng. Nếu phi “thức”, vậy cái gì đi sau
và cái gì đến trước để trở thành ông chủ (?). ‘Thức’
(vijñāna, Consciousness) thuật ngữ này đã được giải thích
rất nhiều trong các Kinh và Luận của Phật giáo Đại thừa
(2).

Thuật
ngữ
“thức”, theo Prakaraṇarayavācā-śāstra (luận Hiển
Dương
Thánh Giáo), gồm có tám loại: A-lại-gia thức, nhãn
thức
, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý và
ý thức. Thức A-lại-gia, theo Luận này, tức là nghiệp phiền
não
do đời trước tạo tác tăng trưởng làm duyên, do sự
huân tập hý luận làm nhân, và từ nhân duyên ấy sanh ra tất
cả chủng tử (hạt giống) dị thục khác nhau làm thể. Thức
này có khả năng làm nơi nương tựachấp thọ của hết
thảy các căn, sắc căn và sự huân tập hý luận. Trong tất
cả thời, tuy mỗi chủng tử lúc sanh hay diệt đều không
thể rõ biết, nhưng nó lại có khả năng giữ gìn hết thảy
cảnh giới bên ngoài và cùng tương ưng với bất khổ bất
lạc
thọ. Thức A-lại-gia thuần một hướng vô phú vô ký
cùng với thức chuyển, v. v… tác thành nghiệp; vì sự chuyển
biến
của Thức A-lại-gia có thể gây tổn giảm đến sự
thanh tịnh, cho nên tác thành nghiệp. Làm thế nào để biết
rằng có thức A-lại-gia này?(3) Đức Phật dạy: “Do
vô minh che lấp cùng với kiết sử tham ái trói buộc, cho nên
hàng phàm phu chiêu cảmthành thân của nghiệp thức”
(4). Lời dạy này cho thấy rằng có thức A-lại-gia
của nghiệp dị thục. Lại nói rằng có năm loại chủng tử,
mà chúng là những chủng tử của thức có chấp thủ. Điều
này cho thấy rằng thức A-lại-gia có tất cả các chủng tử;
vì trong Sandhinirmocara sūtra (kinh Giải Thâm Mật), đức Phật
dạy: “A-đà-na thức thậm thâm tế, nhất thiết chủng tử
như bộc lưu, Ngã ư phàm ngu bất khai diễn, khủng bỉ phân
biệt
chấp vi ngã” (5). (Nghĩa là: Thức A-đà-na
rất cực nhỏ, hết thảy hạt giống như thác dốc; đối
với người ngu, Ta không nói; ngại họ phân biệt, chấp làm
ngã). Lại nữa, “thức” thường gọi chung của một trong
ba danh xưng: tâm, ý và thức (6).

Nhãn
thức
, theo Luận này, là từ nơi chủng tử của thức A-lại-gia
sanh, lại nương vào nhãn căn cùng với chủng tử của thức
A-lại-gia kia đồng thời chuyển biến và duyên vào cảnh giới
liễu biệt của sắc làm tánh. Đức Phật dạy: “Cõi bên
trong của mắt không làm hoại cảnh giới của các sắc bên
ngoài; đối cảnh trước mắt do sự tác ý kia sanh khởi như
thế, cho nên nhãn thức sanh”. Ngài lại dạy: “Do mắt và
sắc làm duyên, cho nên nhãn thức sanh khởi. Nhãn thức cho
đến
thân thức cũng nên biết như vậy”. Trong những thức
(nhĩ, tỷ, thiệt, thân) ấy, sự khác nhau ở chỗ: mỗi thức
nương tựa nơi căn và cảnh của nó và phân biệt rõ biết
tất cả sự dẫn dắt đều tương hợp (7). Ngoài
ra
, nhãn thức sanh khởi là do sự giao thoa của ba yếu tố:
căn, trần và chủng tử của thức A-lại-gia. Như trong Sandhinirmocara
sūtra, đức Thế Tôn dạy: “Vì thức A-đà-na là nơi nương
tựa
, là chỗ kiến lập. Sự chuyển biến của sáu thức thân
có nghĩa là nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý thức;
trong sự chuyển biến này có thức. Mắt và sắc làm duyên,
sanh ra nhãn thức. Nhãn thức đều tuỳ vào cảnh giới
thời điểm để hoạt động, có sự chuyển biến của ý
thức
phân biệt” (8). Đối với nhãn thức, nếu
cứ vào ý nghĩa: “Cõi bên trong của mắt không làm hoại
cảnh giới của các sắc bên ngoài; đối cảnh trước mắt
do sự tác ý kia sanh khởi như thế, cho nên nhãn thức sanh”,
thì về lãnh vực tâm lý có vẻ dễ hiểu hơn; vì “nội
nhãn xứ” tức “cõi bên trong của mắt” đang duy trì các
chủng
tử trong thức A-lại-gia, hoặc trong tathāgata-gārbha
(Như Lai tạng). Trong tám thức, như Prakaraṇarayavācā-śāstra
đã vừa nói, trừ thức A-lại-gia, ý và ý thức, năm thức
khác còn lại cũng nên hiểu tương tợ như nhãn thức vậy.
Thế nhưng, ngoài mắt và sắc làm duyên sanh ra nhãn thức;
sự sanh khởi của nhãn thức cần phải hội đủ 9 duyên:
căn (sense-organ), cảnh (object), không gian (space), ánh sáng (light),
chủng tử (seed), nhiễm tịnh căn (Manas, thức thứ 7, Mạt-na
thức
), căn bản y (ālayavijñāna, thức thứ 8, A-lại-gia thức),
phân biệt y (Manovijñāna, thức thứ 6) và sự tác ý (attention).
Sự sanh khởi của nhĩ thức, trừ ánh sáng trong 9 duyên; còn
sự sanh khởi của tỉ, thiệt và thân thức chỉ lệ thuộc
7 duyên, tức là trong 9 duyên ấy, trừ ánh sáng và không gian.
Chín duyên này, cho thấy “nhãn thức” đóng vai trò rất
quan trọng trong tiền ngũ thức.

Nói
nhãn thức chứ không phải là Thiên nhãn, như ngài A-na-luật
đã chứng (9), và như trong bốn Thầy trò của Đường
Tăng
trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, phi Tôn Ngộ Không, người
Thiên nhãn, thì không ai có thể thấy được yêu quái.
Đặc biệt, Tôn Ngộ Không là sự biểu hiện của “thức”,
thoạt hiện, thoạt biến; như trong khoảnh khắc Ngộ Không
đã có mặt ở Thiên cung, rồi thoáng chốc cũng có thể xuất
hiện
Long cung. Lại nữa, vì danh xưng là “Ngộ Không”
biểu hiện cho vô tướng; vì vô tướng cho nên Ngộ Không
thể hiện bất kỳ tướng nào. Cũng vậy, khi chưa chứng
được Thiên nhãn, thì không thể thấy được năng-dụng-vị
thức vi tế hoặc các cảnh giới siêu hình, mà nhất là lãnh
vực
“khứ thệ, lai tiên tác chủ ông”, cũng không thể
thấy được “thần thức” đi đâu và về đâu sau khi chết.
Nhưng tính hiếu kỳ của phàm phu là muốn tìm hiểu con người
sau khi chết sẽ đi về đâu, hay sau khi chết là mất hẳn?
Vậy “thần thức” sẽ đi đâu, hoặc đến chốn nào? Tựu
trung, nghi vấn này liên quan đến vấn đề nhân quả. Nếu
tu nhơn tích đức bằng cách hành thiện và trì tịnh giới,
thì sau khi chết sẽ được sanh Thiên giới; trái lại, nếu
tạo ác sẽ theo nghiệp dẫn dắt, hoặc tái sanh làm người,
hoặc trong tam đồ (địa ngục, ngạ quỷsúc sanh). Đối
với qui luật nhân quả, không ai có thể tránh được; vì
tạo thiện hay ác suốt thời sinh tiền đều do nghiệp dẫn
dắt tái sanh.

Như
đối với người sắp lâm chung, nếu ai để ý thì sẽ thấy
trước khi trút hơi thở cuối cùng người sắp chết thường
biểu hiện bằng thao tác ‘hạ thổ’ (10). Nếu
lúc ấy mắt còn mở, thì người thân nhẹ tay vuốt cho mắt
của người chết nhắm nghiền. Kế đó người thân nhẹ tay
sờ vào trán hoặc chân, cốt xem thử chỗ nào ấm hay lạnh.
Nếu có cảm giác ở trán người chết còn ấm tức là được
sanh thiên hoặc làm người; còn nếu sờ thấy chân ấm thì
ngầm biết sẽ thác sanh vào cõi dữ, ác thú. Thoáng nghe qua,
có vẻ như mê tín, nhưng điều này ngài Vô Trước (Āsaṅga)
cũng đã đề cập trong Nhiếp Luận như vầy: “Hựu tương
một thời tạo thiện tạo ác, hoặc hạ, hoặc thượng, sở
y
tiệm lãnh” (11). Đến khi hơi ấm không còn, toàn
thân
lạnh cứng, tức là lúc thần thức đã lìa khỏi thân,
và ngay lúc ấy gọi là “khứ thệ” (thần thức lìa thân
cũ ở những giây khắc sau cùng). Nhưng cũng có vài trường
hợp
đặc biệt là khi toàn thân lạnh cứng không còn hơi
ấm nữa, mà thần thức dường như vẫn không rời bỏ hẳn
thân ấy. Lắm khi thân đã được an táng, hoặc đã được
thiêu rồi, nhưng có lúc thần thức vẫn còn lai vãng; vì có
lẽ thần thức chưa tìm được nơi để đầu thai (thọ thân
mới); hoặc sự cách ly giữa thần thức và xác thân vô hồnấy, nơi vô hình trung vẫn còn một sự liên đới thiêng liêng
không rời. Khi hơi/hương ấm (thần thức) rời thân, thì được
gọi là ‘khứ thệ’; còn nếu tìm được nơi và đến để
thọ thân mới, thì được gọi là ‘lai tiên’. Khi đã đủ
duyên để tác thành một thân mới mà có đầy đủ cả danh
và sắc đang còn trong thai mẹ thì vẫn được gọi là ‘tác
chủ ông’. Nói ‘tác chủ ông’ ở đây, tức là khi hài
nhi ra khỏi thai mẹ, đủ duyên cho một cuộc sống mới. Chính
vì những yếu tố này, cho nên Bát Thức Quy Củ gọi là “khứ
thệ lai tiên tác chủ ông”.

Chú
thích




1.
Xem Takakusu, Jünjiro, The Essentials of Buddhist Philosophy, Motilal
Banarsidass, 1998, Delhi, tr. 24.




2.
không gian có hạn, ở đây sẽ không bàn đến “Ba thức
năng biến”. Ba thức này là: Đệ nhất năng biến-ālayavijñāna
(Store-consciousness), biểu tượng bản thể, tức thế giới
quan (World outlook); Đệ nhị năng biến-manasvijñāna, the Seventh
Consciousness, biểu tượng hành tướng, tức nhân sinh quan (Outlook
on life); và Đệ tam năng biến-Pravṛttivijñāna, biểu tượng
hoạt dụng, tức tri thức luận (logical knowledge), mà ngài Vasubandhu
(Thế Thân) đã trình bày trong Triṁsikā vijñaptikārikā (luận
Tam Thập Tụng).




3.
Xem thêm chi tiết, HT. Thích Thiện Siêu, Luận Thành Duy Thức,
VNCPHVN, 1996, tr. 128-138.




4.
Đại Chính 1602, tr. 480c3.




5.
Kệ này trong Sandhinirmocara sūtra (kinh Giải Thâm Mật_Đại
Chính 676, tr. 692c22), đã được ngài Āsaṅga (Vô-trước) viện
dẫn
để minh hoạ cho quan điểm của mình. Tương tự ý này,
chúng ta cũng có thể tìm thấy trong Sūraṁgama sūtra (kinh Lăng-nghiêm),
đức Phật dạy: “Đà-na vi tế thức, tập khí thành bộc
lưu
, chơn phi chơn khủng mê, Ngã thường bất khai diễn”.
(Nghĩa là: Thức Đà-na cực nhỏ, tập khí thành thác dốc;
chơn, chẳng chơn, sợ mê, Ta thường chẳng khai diễn) Đại
Chính 945, tr. 124c22.




6.
Nhưng “thức” ở đây là chỉ cho thức A-lại-gia, còn được
gọi là A-đà-na, như đã đề cập trong Sandhinirmocara sūtra
(kinh Giải Thâm Mật) và Mahāyāna-saṃparigraha-śāstra (luận
Nhiếp Đại thừa
); có khi thức A-lại-gia còn được gọi
là “tâm”, một trong ba danh xưng: tâm, ý và thức, như đã
nêu trong Prakaraṇarayavācā-śāstra (luận Hiển Dương Thánh
Giáo
). Xem Đại Chính 676, tr. 692a27 & b; và xem Đại Chính
1602, tr. 480b26; cũng xem chi tiết trong Đại Chính 1594, tr. 133c5.




7. Đại Chính 1602, tr. 480c16.



8.
Đại Chính 676, tr. 692b19.




9.
Đại Chính 475, tr. 541a23.




10.
Tức là người sắp chết như thể dồn hết sức mình bằng
trạng thái có vẻ đau đớn hay quằn quại; hoặc giật nẩy
mạnh người lên, hoặc ưởn người lên, rồi tay với xuống
phía dưới đất, trông rất mệt mỏi và khổ đau trước
lúc vĩnh biệt. Trái lại, người xuất gia trước lúc lâm
chung
thì thao tác nhẹ nhàng hơn, hoặc vị ấy hít một hơi
vừa để lấy trớn, rồi hít tiếp một hơi thật sâu vào
rồi thở thật mạnh ra cho đến khi hơi thở yếu dần và
từ bỏ báo thân.




11.
Đại Chính 1594, tr. 136b3. “Lại nữa, khi chết thì tuỳ điều
thiện hay điều ác đã làm mà cái thân sở y, hoặc bắt đầu
từ dưới trở lên, hoặc bắt đầu từ trên sắp xuống,
dần dần phát lạnh”. HT. Trí Quang dịch, Nhiếp Luận, 1994,
tr. 114.

Thực
tế
, chết không phải là hết, mà nó khởi đầu cho một cuộc
sống khác; đó là lúc sau khi thần thức rời thân cũ, để
mượn thân khác cho cuộc sống mới. Tuỳ vào nghiệp lực
dẫn dắt để đi tìm, vay hay nhận một thân mới, trong suốt
thời gian ấy nó được gọi là Thân trung ấm.

“Thân
trung ấm” là một trong những danh xưng để trỏ cho năng-hoạt-vị
của thức A-lại-gia. Việc đi thọ thân, dĩ nhiên tuỳ vào
nghiệp đã tạo trong suốt thời sinh tiền, nặng hay nhẹ mà
được thọ sanh trong tứ sanh, lục đạo; và do nghiệp khác
nhau, cho nên việc thọ thân cũng khác nhau, mà kết quả thọ
thân cho thấy rằng người đẹp đẻ, kẻ thô xấu, người
giàu sang, kẻ bất hạnh, người đầy đủ căn cơ, kẻ đui
điếc câm ngọng. v, v…(1) Đây là trỏ những loài hữu
tình
còn bị lưu chuyển trong vòng sinh-diệt-và-tái-sanh. “Thân
trung ấm” là bước đầu lìa thân cũ tìm thân mới; hay trả
thân cũ, để vay thân mới. Trong mối tương hệ thiêng liêng
giữa người còn và kẻ mất, người còn (tạng chủ) vì muốn
cho kẻ mất (hương linh) của mình sớm siêu thoát, cho nên
đã thỉnh chư Tăng Ni làm lễ “Kỳ siêu”, rồi kế đó
cúng tuần; do đó, có thông lệ ‘cúng thất’; từ tuần
thứ nhất đến cuối tuần thứ bảy được gọi là ‘lễ
chung thất’, mà nó thường được tổ chức lớn và trọng
thể
hơn. Trải qua 49 ngày, thần thức kia tuỳ vào nghiệp
dẫn hoặc nhanh hay chậm, sớm hay muộn, phải đi đầu thai
hoặc thọ thân khác ở cõi khác; và cũng tuỳ thuộc vào một
phần công đức hồi hướng của người còn đối với kẻ
mất, mà nghiệp của hương linh giảm và được sanh Thiên,
như ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ. Nếu trong 49 ngày mà thần
thức
chưa được siêu thoát; vì chưa đủ duyên để đi thọ
thân mới khác, thì nó vẫn tiếp tục lai vãng để tìm nơi
đầu thai. Như Nhiếp Luận nói: “Khô tang do năng dẫn, nhậm
vận
hậu diệt cố” (2). Thế nhưng, sau 49 ngày,
thần thức vẫn chưa đầu thai thì sự kiện này rất hiếm
xảy ra. Tựu trung, “thân trung ấm” cũng là một trong những
tên gọi của thức A-lại-gia.

Nói
“lai tiên” có nghĩa là đến trước nhất, đi trước/đầu
tiên. Giai đoạn này là chỉ cho “thân trung ấm” sau khi đã
bỏ thân cũ và nhận thân mới, mà tuỳ vào nghiệp cũ dẫn
dắt hoặc tái sinh trong tứ sanh lục đạo. “Thân trung ấm”
ngay khi lìa thân, nó được gọi là “thức” hoặc “thần
thức”, mà thế gian gọi là ‘thần hồn’ (3), hay ‘hương
hồn’, Phật giáo gọi là ‘hương linh’, ‘chơn linh’,
hay ‘giác linh’, chứ không gọi là ‘linh hồn’. Những giây phút ban đầu khi thần thức tìm được nơi để
thọ thân mới thì ngay thời gian ấy là “lai tiên”, đi đến
trước; còn thần thức bấy giờ hoà nhập vào mẫu thai, tuỳ
vào nghiệp mà thọ thân khác với hình dáng mới và tái sanh
vào một cõi khác.

Tuỳ
nghiệp dẫn cho đến khi nào thần thức tìm được nơi để
đầu thai, thì bấy giờ phải hội đủ ba yếu tố: tinh cha,
huyết mẹ và thần thức. Cả ba đều có mặt và cùng hoà
hợp
, tức có khả năng phát triển thành thân người; trong
thời gian này nó được gọi là ‘hoà hợp thức’ (hay Kalala
thức). “Hoà hợp thức” có nguồn gốc từ chữ Kalala và
được phiên âm là ‘Yết-la-lam’. Nhiếp Đại thừa luận
cũng gọi là ‘Yết-la-lam’; còn śūraṅgama-sūtra (kinh Lăng
Nghiêm
) gọi nó là Yết-la-lam xu-bồ-đàm (4). Nhiếp
Luận cho rằng “Khi ý thức ô nhiễm trong thân trung hữu diệt,
thì tướng của thức Yết-la-lam ở trong thai mẹ mới hoà
hợp” (5). ‘Yết-la-lam’ là sự tạp nhiễm, tức
là trỏ sự hoà hợp của tinh cha (bach) và huyết mẹ (xích),
trạng thái như ‘ngưng tô’ (sự hoà hợp và đông đặc),
là tên gọi của nó suốt 7 ngày đầu trong thai (6) . “Kalala”
cũng còn được gọi là Ca-la-la, Yết-thích-lam, v. v… đều
có nghĩa là phôi thai. Yết-la-lam, Tàu dịch ý, là si ngại,
hoà hơp, tạp uế, bào thai. Có lẽ vì những thuật ngữ này
chúng ta có thể thấy trong Kīrtigarbha sūtra (kinh Địa Tạng)
có đoạn đã mô tả về các địa ngục, như: địa ngục
Kalala, địa ngục Ababa, địa ngục Atratra, địa ngục Abàbà…
Phải chăng do ba duyên tố hoà hợp này mà hình dạng của
nó như ‘huyết đọng’, như đã nói kinh Báo Ân, “tháng
thứ nhất như huyết đọng” (?). “Hoà hợp thức” là một
trong những danh xưng của thức A-lại-gia và cũng là thời
kỳ
đầu của phôi thai.

Khi
đủ duyên để thức Yết-la-lam (Hoà hợp thức) này tiếp
tục
phát triển, thì bấy giờ nó được gọi là ‘tương
tục thức’. Giai đoạn này là từ khi thức vào thai, hoà
với tinh huyết cha mẹ, trải qua chừng hai tháng, thì nó có
hình dạng như ván sữa; như kinh Báo Ân nói: “tháng thứ
hai như ván sữa”. “Tương tục thức” cũng được gọi
là Yết-la-lam (Kalala). Khi nó có đủ khả năng phát triển
thành danh sắc, thì bấy giờ nó được gọi là “thân trung
hữu”. “Tương tục thức” là một trong những danh xưng
của A-lại-gia, thời kỳ đầu của phôi thai; còn “thân trung
hữu” có khả năng trở thành thai nhi. Thế nhưng, không phải
lúc nào ‘thức’, hoặc ‘thần thức’ vào thai mẹ cũng
thành thai nhi, mà nó còn đòi hỏi các yếu tố khác. Như đoạn
vấn đáp giữa đức Thế Tôntôn giả A-nan mô tả:

– Này
A-nan, nhơn thức có danh sắc là nghĩa thế nào? Là giả sử
thức không nhập vào thai mẹ thì có danh sắc không? A-nan đáp:

+ Dạ
không. Bạch Thế Tôn.

– Nếu
thức nhập vào thai mẹ nhưng không xuất thai thì liệu có
danh sắc không?

+ Dạ
thưa, không.

– Nếu
thức ra khỏi thai mà đứa hài nhi hư hỏng (bị sẩy thai)
thì liệu danh sắctăng trưởng không?

+ Dạ
thưa, không.

– Này
A-nan, nếu không có thức thì có danh sắc không?

+ Dạ
không. Bạch Thế Tôn.

– Thế
nên, này A-nan, vì lẽ đó mà Ta biết danh sắc do thức, nhân
nơi thức mà có danh sắc. Nghĩa Ta nói là ở đó”. (7)

Đoạn
văn này cho thấy rằng chỉ khi nào thức vào thai mẹ và ra
khỏi thai mẹ mà hội đủ các duyên khác thì mới thành thai
nhi
; trái lại, thì không thể.

Sở
nhấn mạnh đến ‘thức’ và ‘danh sắc’ ở đây là
cứ vào 12 nhân duyên để nói, chứ riêng ‘danh sắc’ đã
đủ hai yếu tố quan trọng: danh/tâm (tinh thần) và sắc/vật
(vật chất); vì con người gồm có hai phần: vật chất
tinh thần. Vả lại, cả danh và sắc hàm tàng năm uẩn: sắc
uẩn
, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn; trong
đó, sắc uẩn thuộc về vật chất, bốn uẩn còn lại thuộc
về danh/tâm (tinh thần). Năm uẩn này là năm sự chứa nhóm,
tích tụ, tổng hợp tất cả các pháp (8). Bởi vì
năm uẩn này là nền tảng, là cơ sở có thể phát sanh ra
12 xứ (6 căn và 6 trần) và 18 giới (6 căn, 6 trần và 6 thức);
năm uẩn đầy đủ cả nội năm uẩn và ngoại năm uẩn,
tức là sự bao quát cả con ngườithế giới. Nếu A-lại-gia
dung chứa toàn thể nhân sinhvũ trụ, thế và xuất thế
gian
, thì năm uẩn này cũng là hình ảnh thu nhỏ của con người
toàn thể vũ trụ. Ở đây thông qua phần giải thích chi
tiết
năm uẩntiếp tục tìm hiểu đến ‘năng-hoạt-vị’
của thức chuyển.

Khi
phôi thai theo thời gian biến thành danh sắc và thành thai nhi,
thì bản năng của thức có mặt. Bản năng này cũng như khi
thai nhi ra khỏi bào thai. Đứa trẻ từ khi lọt lòng cho đến
lúc bắt đầu biết bò lết; dù chưa tự đi được, mà hệ
thống
thức đã có mặt, dù chưa có sự phân biệt; vì hệ
thống
thức đang còn trong tình trạng tiềm ẩn. Mọi thao tác
của đứa hài nhi ấy đều là những phản xạ vô điều kiện,
vô phân biệt, hệ thống thức đang ngủ ngầm bên trong, những
hạt giống thức đang tiềm ẩn nơi tạng thức A-lại-gia.

Lúc
đứa trẻ biết phân biệt tức là lúc hệ thống thức đang
đi vào hoạt động. Hệ thống thức của đứa trẻ này biết
phân biệt mẹ, vú nuôi, người đỡ đầu bồng bế. Từ lúc
nhỏ cho đến lúc khoảng 5 hoặc 6 tuổi thì hệ thống thức
trong thời kỳ thuần hoá, vô tư, thơ ngây. Trước kia, Thái
Tử
Tất-đạt-đa vừa mới 6, 7 tuổi đã được vua cha Suddhodhana
(vua Tịnh-phạn) cho đi dự “Lễ Cày”, mà lúc ấy Ngài ngồi
dưới bóng cây Tất-bát-la để xem quang cảnh trong buổi lễ
ấy. Đây cũng là chìa khoá chính thức cho Ngài đi vào
thiền
, sau sự thất vọng của 6 năm tu khổ hạnh, mà chính
Ngài đã từng tuyên bố rằng ‘trong quá khứ, nếu có chư
Phật tu khổ hạnh, thì cũng không vượt quá sự khổ hạnh
mà Ngài đã hành’; do đó, Ngài tu tập quán chiếu, rồi nhớ
lại tuổi thơ thủa xưa ngồi dưới cây Tất-bát-la…. Cũng
từ đây, Ngài đi vào Nhị, Tam, Tứ thiền nơi cội Bồ-đề
ở Bodhgaya (Bồ-đề Đạo Tràng) thuộc bang Bihar của Ấn độ
hiện nay.

Nhìn
chung, A-lại-gia thức thường được gọi là: “tâm, ý và
thức”; Nhiếp Luận cũng gọi như vậy. Cả ba thuật ngữ
này dị danh nhưng đồng nghĩa, chỉ có khác nhau ở địa vị
chức năng cũng như sự hoạt dụng xuyên qua tính chất
và cường độ, thô hay tế, liệt hay thắng của nó mà thôi.
Nhưng những danh xưng trên chỉ hạn cuộc từ lúc thần thức
từ bỏ thân cũ và thọ thân mới cho đến lúc 5 hoặc 6 tuổi.
Ngoài ra, A-lại-gia thức còn được gọi nhiều tên khác nhau
(9), đó là lúc đứa trẻ trở thành tuổi thanh thiếu
niên
, với những sự huân tập hý luận hay tập khí khác nhau,
như biết phân biệt tình cảm, thân sơ…. A-lại-gia thức
phàm phu được gọi là “kiết sanh thức”, hay saṃsāra-koṭinisthaskandha
(cùng sanh tử uẩn). Sự đam mê A-lại-gia và ý niệm luân
hồi
của hàng phàm phu được đức Phật mô tả trong kinh
Tăng Nhất A-hàm như sau: “Chúng sanh ở đời đam mê A-lại-gia,
ưa thích A-lại-gia, hân hoan A-lại-gia, vui vẻ A-lại-gia. Vì
để đoạn trừ A-lại-gia như thế, cho nên khi đức Thế Tôn
thuyết chánh pháp, phải tỏ lòng cung kính nhiếp niệm, an
trú
, tìm hiểu, tâm tuỳ thuận pháp và tuỳ pháp hành”. Vì
lý do đó, Saddharmapuṇḍrīkasūtra (kinh Pháp Hoa) dạy: “Như
Lai xuất hiện ở đời chỉ vì một nhân duyên duy nhất
khai thị cho chúng sanh chứng ngộthể nhập tri kiến của
Phật”.

Trên
tất cả, ngoài những danh xưng như tâm, ý, thức và A-đà-na,
chúng ta có thể ngầm mường tượng một tiến trình phát
triển kể từ lúc “khứ thệ” với thân trung ấm, thần
thức
, cho đến khi “lai tiên”, tức thức chuyển và hợp
thành hoà hợp thức, tương tục thức, thân trung hữu, cũng
là lúc nó trở thành danh sắc, thành thai nhi, hoặc lúc thân
năm uẩn ra khỏi mẫu thai; đây là một tiến trình xảy ra
liên tục. Nhưng vì hàng phàm phuNhị thừa không thể thấy
được, ngoại trừ hàng Bồ-tát thượng căn thượng trí mới
có thể thấy và am tường. Vậy, sự chuyển biến của thức
từ lúc “khứ thệ” tiếp tục khả năng tác thành theo từng
địa vị và danh xưng của nó, cho đến khi “lai tiên” và
sau khi ra khỏi mẫu thai, thai nhi vẫn duy trì và phát triển
như một con người, tức là “tác chủ ông”, là một tiến
trình năng-dụng-vị thức thuộc lãnh vực tâm lý mang tính
siêu hình. Còn đối với những tên gọi “tâm, ý và thức”
của thức A-lại-gia, đôi khi nó được gọi là “tâm”,
có khi nó được gọi là “ý”, như hai bài kệ đầu của
Dharmapadasūtra (kinh Pháp Cú) nói: “Tâm/ý dẫn đầu các pháp,
tâm/ý làm chủ tâm/ý tạo. Nếu với tâm/ý ô nhiễm, nói
lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe chân vật
kéo”. Ngược lại, “Tâm/ý dẫn đầu các pháp, tâm/ý làm
chủ tâm/ý tạo. Nếu với ý thanh tịnh, nói lên hay hành động,
an lạc bước theo sau, như bóng không rời hình”. Tâm hoặc
ý nếu bất như lý tác ý, thì trong từng niệm trú, trong từng
sát-na đều có chuyên tải chủng tử ác, mà nó là mầm móng
của sự luân hồi; còn chủng tử thiện là nền tảng dẫn
đến sự giải thoát. Khi đã am tường năng-dụng-vị thức
thuộc phạm trù tâm lý học mang tính siêu hình của Phật
giáo
, thì mỗi chúng ta phải tự sách tấn, trong từng niệm
phải đúng như lý tác ý, nhằm triệt tiêu mầm móng và gốc
rễ của nhân sanh tử luân hồi, vậy lo gì phải đi tìm Niết-bàn
ở đâu; vì śūraṅgama-sūtra (kinh Lăng Nghiêm) dạy: “thập
phương Bạc-già-phạm, nhất lộ Niết-bàn môn”(10).

T.
K. Đ

Chú
Thích

1.
Tất cả đều tuỳ vào hạnh nghiệp của con người, mà đức
Thế Tôn
đã kể lại, chúng ta có thể thấy rải rác trong
các kinh; sau khi Ngài chứng Thiên nhãn, một trong Tam minh (Thiên
nhãn
, Túc mạngLậu tận minh).

2.
Sđd. , tr. 135b3. Tạm dịch: “Thân khô chết, vẫn còn năng
dẫn, đợi hợp thời, sau mới diệt vong”. Thân đã khô cằn
thần thức vẫn còn vãng lai. Khi thần thức đã thật sự
đi đầu thai và thọ thân khác; hoặc vay mượn hình hài mới
khác, thì đó là lúc hợp thời, tức là lúc thân dần dần
tan rã, tứ đại trở về với nguồn gốc của tứ đại.

3.
Thần thức/hồn cũng là một trong những tên gọi của thức
A-lại-gia. Phật giáo ít khi gọi thần thức là ‘linh hồn;
như là Suzuki; vì ông ta mượn thuật ngữ ‘linh hồn’ (soul)
để giảng cho những sinh viên theo đạo: Thiên chúa, Cơ Đốc,
hoặc Tin Lành, cốt để giúp họ dễ hiểu giáo pháp Phật
đà
. ‘Linh hồn’ là thuật ngữ phổ biến của Thiên chúa
giáo
.

4.
Đại Chính 945, tr. 120b1.


5.
Đại Chính 1594, tr. 135c28-9.


6.
Thái Hư Đại Sư (Sách mới), Tập 8, tr. 563.

7.
Kinh Trường A-hàm, quyển 1, Nxb Tôn Giáo, Đại Tạng Kinh VN,
2. 000, tr. 482-3; cũng xem Kinh Trường Bộ, quyển 1, Viện Nghiên
Cứu
Phật Học VN, Đại Tạng Kinh VN, 1991, tr. 523-4.

8.
Xem chi tiết HT. Thích Thiện Siêu, Ngũ Uẩn Vô Ngã, Nxb Tôn
giáo
, Hà-nội, 1999, tr. 51-152.

9.
Ngoài những tên gọi vừa nêu, A-lại-gia còn rất nhiều danh
xưng khác, như: Căn bản thức, Cùng sanh tử uẩn, Hữu phần
thức
, Chủng tử thức, Sở tri y, Dị thục thức, Vô cấu
thức
, Chơn Như, Phật tánhNhư Lai tạng, nhưng ở đây
xin khỏi giải thích chi tiết rườm rà.

10.
Đại Chính 945, tr. 124c29.