Tìm Hiểu Phước Bố Thí

0
59


TÌM
HIỂU
PHƯỚC BỐ THÍ

Dhammarakkhita
Bhikkhu
(Tỳ khưu Hộ Pháp)

Namo
tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Bậc A-ra-hán, Bậc Chánh Đẳng
Giác

Đức
Phật
dạy:

Annado
balado hoti,
Vatthado hoti vaṇṇado.
Yānado sukhado hoti,
Dīpado hoti cakkhudo.
So ca sabbadado hoti.
Yo dadati upassayaṃ,
Amataṃdado ca so hoti,
Yo dhammamānusāsati”.

[Bộ
Saṃyuttanikāya – Sāgathavagga, kinh Kiṃ Dadasutta.]

Đức
Phật
trả lời câu hỏi của chư thiên trong bài kinh Kiṃ Dadasutta,
như sau__

“Bố
thí những vật thực,
bố thí sức mạnh.
Bố thí những y phục,
bố thí sắc đẹp.
Thí phương tiện đi lại,
Là thí sự an lạc.
Bố thí đèn thắp sáng,
bố thí đôi mắt.
Người bố thí chỗ ở,
bố thí tất cả.
Bậc giảng dạy chánh pháp,
thí pháp bất tử”.
Con hết lòng thành kính
Đảnh lễ ngôi Tam bảo:
Phật bảo, Pháp, Tăng bảo
Cùng các bậc Thầy Tổ.

Con biên soạn

tập sách:
“Tìm Hiểu Phước Bố Thí”.

-ooOoo-


Lời Nói Đầu


Đức
Phật
thí dụ về phước bố thí:

Một
căn nhà bị cháy, chủ nhân đem ra được khỏi nhà đồ vật nào, đồ vật ấy hữu dụng
đối với chủ nhân; những đồ vật còn lại trong nhà bị thiêu hủy, chẳng ích lợi
cho chủ nhân cả. Cũng như vậy, sắc thân này cũng ví như một căn nhà luôn
luôn bị thiêu hủy do bởi 11 thứ lửa[1]
 không ngừng nghỉ, bậc Thiện
trí
biết vậy, nên sử dụng của cải nào đem ra bố thí, của cải ấy là nhân tạo nên
phước thiện, thuộc của riêng mình, hỗ trợ cho thí chủ được sự an lạc
trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai. Nếu phước thiện bố thí ấy trở thành
pháp hạnh bố thí ba la mật, thì hỗ trợ cho các ba la mật khác được thành tựu,
để dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh ĐạoThánh Quả
cuối cùng đạt đến cứu cánh Niết Bàn, giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba
giới bốn loài, nhờ pháp hạnh bố thí ba la mật làm nền tảng.

Thật
ra, tất cả của cải trong thế gian này đều là của chung, song người nào
có phước, thì người ấy được thừa hưởng một phần của cải ấy; đó là thừa hưởng quả
của phước thiện mà chính mình đã tạo trong kiếp hiện tại và những kiếp quá khứ;
thời gian được thừa hưởng lâu hay mau hoàn toàn tùy thuộc vào nhân phước
thiện
. Bậc Thiện trí hiểu biết rõ, của cải mà mình đang thừa hưởngtính chất
tạm thời, không bền vững, nếu sử dụng cho mình thì hết, để lâu ngày thì bị hư.
Cho nên, bậc Thiện trí sử dụng của cải ấy đem bố thí để tạo nên phước thiện
là thứ báu vật của riêng mình, không một ai có thể chiếm đoạt được, có
tính chất bền vững lâu dài, theo mình như bóng theo hình, mọi nơi, mọi kiếp cho
quả báu an lạc.

Tạo
phước thiện bố thí được thuận lợi chỉ có con người ở cõi Nam thiện bộ châu
(trái đất) này; còn con người ở 3 châu khác[2],
hoặc các hạng chư thiêncõi trời dục giới, chư phạm thiêncõi trời sắc
giới
, cõi trời vô sắc giới đang hưởng quả an lạc của thiện nghiệp do mình đã
tạo, nên không có cơ hội tạo phước thiện bố thí; và các chúng sinh trong 4 cõi
ác
giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) đang chịu khổ cực của ác nghiệp do
mình đã tạo, lại càng không có cơ hội tạo phước thiện bố thí.

Con
người
chúng ta có nhiều cơ hội tạo mọi phước thiện nhất là phước bố thí, không
những đem lại sự lợi ích cho mình, mà còn hồi hướng đến cho thân bằng quyến
thuộc
: ông bà, cha mẹ, thầy tổ, bà con, bạn bè… cùng các chúng sinh đang sống
trong cảnh khổ, họ đang mong đợi, trông chờ phần phước thiệnbà con mình hồi
hướng
. Khi họ hoan hỉ phần phước thiện ấy, ngay tức khắc, giải thoát khỏi cảnh
khổ, được tái sanh cảnh thiện giới: cõi người, cõi trời dục giới, hưởng mọi sự
an lạc.

Như
vậy, con người chúng ta chớ nên bỏ lỡ cơ hội làm phước bố thí, bởi vì phước bố
thí
thí chủ đã tạo xong rồi, sẽ cho quả an lạc trong kiếp hiện tại và nhiều
kiếp vị lai, dầu tái sanh kiếp nào, là người hoặc chư thiên cũng hưởng được quả
báu
của phước bố thí ấy, được an lạc lâu dài. Thậm chí, dầu tái sanh làm loài
súc sanh, thì loài súc sanh ấy cũng hưởng được quả báu ấy, kiếp súc sanh được
an lạc hơn hẳn các loài súc sanh khác. Như chúng ta thường thấy có những con
chó, con mèo, con ngựa, con voi… chúng được săn sóc chu đáo, có đầy đủ vật
thực ngon lành, còn được trang sức đẹp đẽ nữa. Đó là do quả báu của phước bố
thí
tiền kiếp mà chúng đã tạo.

Con
người
chúng ta không nên dể duôi, nếu có cơ hội làm phước bố thí, thì đừng bỏ
lỡ cơ hội tốt ấy.

Nên
hiểu biết rõ rằng không phải bố thí lúc nào cũng được phước thiện cả đâu! Nếu
không
hiểu biết cách bố thí, thì không được phước. Cũng như người nông dân
không hiểu biết về cách trồng trọt, gieo giống, mùa màng, thời tiết… gieo hạt
giống
trên đất khô, cằn cỗi, hạt giống không sao nảy mầm được, còn làm cho hạt
giống
bị hư, cây không mọc, thì mong gì có hoa và quả!


vậy
, thí chủ cần phải học cách bố thí thế nào để cho phát sanh phước thiện. Khi
có được phước thiện, biết sử dụng để đem lại sự lợi ích cho mình và cho người
khác, chúng sinh khác.

Tập
sách nhỏ này giúp cho quý độc giả, chư vị thí chủ tìm hiểu về sự bố thí để phát
sanh mọi phước thiện nhiều hoặc ít, bậc cao hoặc bậc thấp v.v….

Tập
sách “Tìm Hiểu Phước Bố Thí” này, bần sư đã sưu tầm các tài
liệu
, trích dịch từ trong Tam tạng, Chú giải để giúp cho quý độc giả tìm hiểu
về bố thí để tạo nên phước thiện.

Nhờ
sự đóng góp của các đệ tử Vĩnh Cường đánh máy bản thảo, Rakkhitasìla antevàsika
trình bày dàn trang và chư thí chủđức tin trong sạch nơi Tam bảo, tin
nghiệp và quả của nghiệp, nên làm phước bố thí tịnh tài để lo việc ấn hành tập
sách này; nhất là gia đình Trần Văn Cảnh – Trần Kim Duyên, gia đình
Dhammanandā,….

Bần
sư rất hoan hỉ sự đóng góp công và tịnh tài của quý vị để cho tập sách này được
ra đời. Bần sư cầu nguyện ân đức Tam bảo cùng phước thiện pháp thí thanh cao
này, hộ trì cho quý vị và toàn thể thân bằng quyến thuộc của quý vị được giàu
sang
phú quý, thân tâm thường an lạc, tiến hóa trong mọi thiện pháp để tạo
duyên lành trên con đường giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn
loài
; đồng thời hồi hướng đến những người ân nhân đã quá vãng, cầu mong cho họ
hoan hỉ pháp thí này, để được giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Xin
hồi hướng phần phước pháp thí này đến tất cả chúng sinh, mong cho tất cả chúng
sinh
hoan hỉ phần phước thiện này để được giải thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc
lâu dài.

Bần
sư đã cố gắng hết sức mình để biên soạn tập sách này, song với khả năng có hạn,
nên khó tránh khỏi những sai sót, kính mong chư bậc Thiện trí từ bi chỉ giáo,
bần sư kính cẩn chấp nhận những lời phê bình xây dựng và xin chân thành tri ân
sâu xa quý Ngài.

Núi
rừng
Viên Không,

Phật lịch 2545/2001
Soạn giả : Sư Hộ Pháp


[1] 11 thứ lửa: lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa sanh, lửa già,
lửa chết, lửa sầu não, lửa than khóc, lửa khổ thân, lửa khổ tâm, lửa thống khổ.

[2] 3 châu khác: Đông thắng thần châu, Tây ngưu hoá châu, Bắc
câu lưu châu.

 

PHƯỚC
THIỆN
(PUÑÑAKUSALA)

Trong tam giới,
con người nói riêng, tất cả chúng sinh nói chung, thân tâm được an lạc đó là
quả của phước thiện.

Người có nhiều
phước thiện cho quả, trong đời sống được nhiều an lạc, có ít khổ cực.

Người có ít phước
thiện
cho quả, trong đời sống được ít an lạc, có nhiều khổ cực.

Phước thiện thuộc
về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất,
nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết
người nào có phước thiện.

Trong đời này, có
số người được giàu sang phú quý, có chức cao quyền lớn…, người ta thường gọi:
“người ấy có phước lớn”; nên hiểu rằng đó là cách gọi theo quả
phước thiện,
không phải gọi theo nhân phước thiện. Nếu
muốn gọi cho đúng và chính xác thì nên gọi: “người ấy hưởng quả phước
lớn”. Như bà Visākhā gọi ông phú hộ Migara, cha chồng của bà “dùng đồ
cũ”, có nghĩa là hưởng quả của phước thiện bố thí từ kiếp
trước
; trong kiếp hiện tại không tạo nhân phước thiện bố thí.

Trong bộ
Petavatthu: Tích ngạ quỷ, có những ngạ quỷ tiền kiếp đã từng là phú hộ.

Cho nên, kiếp hiện
tại
, người nào được giàu sang phú quý,… kiếp vị lai người ấy không chắc được
giàu sang phú quý… như vậy. Bởi vì, sự giàu sang phú quý… là quả của phước
thiện
bố thí; khi hưởng quả giàu có, mà không tạo thêm nhân
phước thiện bố thí,
có tâm keo kiệt bỏn xẻn trong của cải ấy, sau khi
chết
do năng lực ác nghiệp cho quả tái sanh vào hàng ngạ quỷ, chịu cảnh đói
khát
, khổ cực; dầu do thiện nghiệp nào đó cho quả được tái sanh làm người, thì
cũng là người nghèo đói, thiếu thốn khổ cực. Vậy, chỉ có phước thiện cho quả
mới hỗ trợ cho chúng sinh được an lạc mà thôi.

Phước Thiện
Gì?

Theo Phật giáo:
Danh từ Phước dịch ra từ Pāḷi là Puñña. Danh từ Thiện
dịch ra từ Pāḷi là Kusala.

Puñña: phước: có nghĩa là trạng thái làm cho tâm của mình được
trong sạch khỏi phiền não. Ngược với phước là tội (pāpa)
trạng thái làm cho tâm bị ô nhiễm bởi phiền não.

Quả báu của phước
là sự an lạc thân – tâm.

Kusala:
thiện:
có nghĩa là trạng thái
tiêu diệt ác pháp. Ngược với thiện là bất thiện (akusala)
chính là ác pháp.

Quả báu của thiện
là sự an lạc thân – tâm.

Cho nên, phước
thiện đồng nghĩa với nhau.

Phước (puñña)
thường thấy trong Kinh tạng, có nghĩa hẹp.

Thiện (kusala)
thường thấy trong Vi diệu pháp tạng, có nghĩa rộng.

Phước sanh lên do
bởi
nhiều nhân duyên, trong Puññakiriyāvatthu: Hành động tạo nên phước
thiện
,
có 10 pháp:

1- Bố thí (dāna).
2- Giữ giới (sīla).
3- Hành thiền (bhāvanā).
4- Cung kính (apacāyana).
5- Giúp đỡ trong việc thiện (veyyāvacca).
6- Hồi hướng – chia phước (pattidāna).
7- Hoan hỉ với phước của người khác hồi hướng (pattānumodanā).
8- Thuyết pháp (dhammadesanā).
9- Nghe pháp (dhammassavanā).
10- Chánh kiến (diṭṭhijukamma).

Đó là 10 pháp để
phát sanh, tạo nên phước thiện.

Tập sách nhỏ này
đề cập đến phước thiện bố thí.

PHƯỚC
THIỆN
BỐ THÍ (DĀNAKUSALA)

Bố
thí
để tạo phước thiệnthí chủ sử dụng của cải tiền bạc… và cả sự hiểu
biết
của mình đem ban bố cho người khác với thiện tâm tế độ, mong mỏi sự lợi
ích
, sự tiến hoá, sự an lạc đến cho người khác, chúng sinh khác. Sự bố thí như
vậy gọi là phước thiện bố thí.

Sự
bố thí để trở thành dục giới thiện nghiệp, thí chủ cần phảitác ý
thiện tâm
(kusalacetanā) trong sạch, không bị tham, sân, si…
làm ô nhiễm.

Nếu
sự bố thí này thuộc về dục giới thiện nghiệp, thì cho quả báu
trong cõi dục giới như giàu sang, phú quý, có nhiều của cải, tiền bạc, có quyền
cao
chức trọng… đời sống sung túc, được an lạc, song vẫn còn quanh quẩn trong
cảnh khổ tử sanh luân hồi.

Nếu
sự bố thí này trở thành bố thí ba la mật là 1 trong 10 pháp hạnh
ba la mật, thì hỗ trợ cho các ba la mật khác, dẫn đến sự thành tựu siêu
tam giới thiện pháp,
đó là sự chứng đắc 4 Thánh Đạo liền
cho quả là 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Bố
thí
để trở thành pháp hạnh bố thí ba la mật, khi thí chủ bố thí, với thiện tâm
hoàn toàn trong sạch, không bị ô nhiễm bởi tà kiến, tham ái, ngã mạn
hợp với tâm bi, đức tin, trí tuệ phát nguyện chỉ mong chứng ngộ
Niết Bàn
, mong trở thành bậc Chánh Đẳng Giác, hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc
Thánh Thanh Văn Giác trong hạng nào đó mà thôi. Ngoài ra không cầu mong trở
thành
phú hộ, vua chúa, chư thiên, vua trời…. Như vậy, sự bố thí ấy mới trở
thành
pháp hạnh bố thí ba la mật.

Nguyên
nhân
không bố thí

Những
hạng phàm nhân sanh ra trong đời này vốn có đầy đủ 12 bất thiện tâm: 8 tham tâm
+ 2 sân tâm + 2 si tâm; 108 loại tham ái; 1.500 loại phiền não; họ không có duyên
lành gặp được bậc Thiện trí, không được lắng nghe, học hỏi chánh pháp của bậc
Thiện trí, nên không hiểu biết thế nào là thiện pháp, ác pháp, phước, tội,
chánh, tà, v.v… nên không có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp.

Những
hạng phàm nhân nào vốn có tâm si mê cố hữu, thêm vào tâm
keo kiệt bỏn xẻn
trong của cải, trong sự hiểu biết của mình; nên không
muốn đem ban bố cho người khác, chúng sinh khác. Đó là nguyên nhân không bố thí
được.

Người
tham thường nghĩ rằng: “Cho hết, lấy gì để dùng!”.

Bậc
trí thường dạy rằng: “Dùng hết, lấy gì để bố thí!”,
không làm phước bố thí, thì do đâu sanh được nhiều của cải. Cũng như, có bao
nhiêu hạt giống ăn hết, thì mong gì sanh được nhiều quả khác!

Suy
xét
làm phước thiện bố thí

Những
tiền kiếp Đức Bồ Tát đã từng tạo nhiều phước thiện bố thí, do thiện nghiệp ấy
cho quả thường tái sanh trong dòng vua chúa, hoặc gia đình phú hộ có nhiều của
cải
. Khi cha mẹ qua đời, Đức Bồ Tát được thừa hưởng toàn bộ gia tài của cha mẹ
để lại.

Ngài
xuy xét rằng: “Toàn bộ của cải này, ông bà cha mẹ để lại, không có một
ai mang theo được một thứ nào cả, đến phiên ta, chắc chắn ta cũng chẳng mang
theo
được. Điều tốt hơn hết, ta nên sử dụng của cải này đem làm phước bố thí,
như vậy, không những về phần ta có được phước thiện, đem lại sự lợi ích, sự
tiến hóa, sự an lạc ở kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai lâu dài, mà ta còn có
thể hồi hướng phước thiện ấy đến cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến
thuộc
của ta nói riêng và tất cả chúng sinh nói chung. Nếu họ hay biết hoan hỉ
phần phước bố thí thanh cao này, chắc chắn họ sẽ thoát khỏi cảnh khổ, được tái
sanh
cảnh thiện giới (sugati), hưởng được sự an lạc lâu dài; nếu họ đang hưởng
an lạc ở cảnh thiện giới nào rồi, họ hoan hỉ phần phước thiện này, thì sự an
lạc
càng thêm tăng trưởng đối với họ.

Suy
xét
rằng: mọi thứ của cải này liên quan đến 5 tai nạn:

Tai
nạn
do lửa cháy thiêu hủy.
Tai nạn do nước ngập lụt cuốn trôi.
Tai nạn do trộm cướp chiếm đoạt, sát hại chủ nhân.
Tai nạn do Đức Vua tịch thu.
Tai nạn do người không ưa thích chiếm đoạt….

Như
vậy, mọi thứ của cải trong đời, không chắc chắn thuộc về của riêng ai cả, chỉ
của chung cho tất cả mọi người; hễ ai có phước thì được hưởng. Nay ta
là người đang thừa hưởng, là chủ nhân của cải này, nếu ta sử dụng của cải này
đem làm phước thiện bố thí, giúp đỡ những người khác, để tạo được phước thiện
thuộc của riêng mình trở thành một thứ của báu được bền vững lâu dài,
chắc chắn không có tai nạn nào làm hư hại, không có một ai chiếm đoạt được.

Suy
xét
rằng: sự thật, tất cả mọi thứ của cải này, không có tính chất bền vững
lâu dài, cuối cùng chắc chắn phải bị hư hoại, tan nát không còn nữa. Nhưng nếu
ta sử dụng của cải này đem làm phước bố thí, thì sẽ trở thành thiện nghiệp của
riêng
ta, có tính chất bền vững lâu dài, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an
laïc trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai nữa. Nếu được làm phước bố thí
đến những bậc có giới đức trong sạch, sẽ cho quả báu vô lượng kiếp, lại còn tạo
duyên lành trên con đường giải thoát khỏi tử sanh luân hồi, trong ba giới bốn
loài
nữa”.

Đức
Bồ Tát thí dụ rằng:

Ngôi
nhà bị cháy, người chủ nhà đem được đồ vật nào ra khỏi nhà, đồ vật ấy có ích
lợi
cho họ, những đồ vật còn lại trong nhà bị thiêu hủy hết, chẳng có ích lợi
gì cho chủ nhà cả. Cũng như vậy, sắc thân này ví như ngôi nhà, luôn luôn bị
cháy, bị thiêu hủy bởi 11 thứ lửa: lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa sanh, lửa
già, lửa chết, lửa sầu não, lửa than khóc, lửa khổ thân, lửa khổ tâm, lửa thống
khổ
….
Biết sử dụng của cải đem ra làm phước thiện, thì trở thành thiện
nghiệp
là nơi nương nhờ an lành cho chủ nhân trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp
vị lai.

Do
sự suy xét đúng đắn như vậy, cho nên Đức Bồ Tát sẵn sàng sử dụng của cải của
mình đem làm phước thiện bố thí một cách dễ dàng, không có tâm keo kiệt bỏn xẻn
nào có thể ngăn cản việc bố thí.

Dầu
Đức Bồ Tát tái sanh trong gia đình nghèo khổ, thiếu thốn, chịu cảnh đói khổ,
Ngài cũng suy xét rằng: sở dĩ ta sống trong cảnh nghèo khổ, cơm không đủ no,
áo không đủ ấm, chịu cảnh thiếu thốn kiếp hiện tại này, là vì kiếp trước ta ít
tạo phước bố thí. Nay kiếp hiện tại này, nếu ta không hoan hỉ tạo phước bố thí,
thì kiếp sau ắt phải chịu khổ hơn kiếp này nữa.

Do
sự suy xét đúng đắn ấy, bậc Thiện trí hoan hỉ làm phước bố thí đến những bậc có
giới đức đáng kính, có ít, thì làm phước bố thí ít, theo khả năng của mình.
Thật ra, phước thiện bố thí được nhiều hay ít hoàn toàn không tùy thuộc vào vật
bố thí, mà tùy thuộc vào tác ý thiện tâm trước khi bố thí, đang khi bố thí
sau khi đã bố thí xong.

Nếu
cả ba thời tác ý thiện tâm trong sạch, hoan hỉ trong việc bố thí, thì chắc chắn
phước thiện bố thí được nhiều vô lượng.

Trong
vòng
tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài, mỗi chúng sinh chỉ là một
người khách lữ hành tạm trú
nơi này, cõi khác một thời gian ngắn hay
dài, tuỳ theo tuổi thọ của mỗi chúng sinh, không có một ai có quyền thường
trú
lâu dài theo ý của mình được, dầu phạm thiêncõi trời vô sắc giới
Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên, là cõi trời tột bậc của tam giới có tuổi thọ
dài nhất là 84.000 đại kiếp [đại kiếp là khoảng thời gian trải qua 4 a tăng kỳ
thành-trụ-hoại-không của kiếp trái đất, thời gian lâu dài không thể tính bằng
số lượng được], đến khi hết tuổi thọ ở cõi trời này cũng phải tái sanh xuống
cõi thiện dục giới.

Chúng
sinh
sống trong tam giới gồm có 31 cõi là:


Phạm thiên sống trong 4 cõi trời vô sắc giới, đang hưởng quả an lạc trong bậc
thiền sở đắc của mình, nên không có cơ hội nào làm phước thiện bố thí.


Phạm thiên sống trong 16 cõi trời sắc giới, đang hưởng quả an lạc trong bậc
thiền sở đắc của mình, nên không có cơ hội nào làm phước thiện bố thí.


Chư thiên sống trong 6 cõi trời dục giới, đang hưởng đầy đủ sự an lạc trong ngũ
trần
của mỗi cõi, nên không có cơ hội nào làm phước thiện bố thí. Nếu vị chư
thiên
nào muốn làm phước thiện bố thí, vị chư thiên ấy cần phải hiện xuống cõi
người
để tìm cơ hội làm phước thiện bố thí.


Chúng sinh sống trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh đang
chịu quả khổ do ác nghiệp của mình đã tạo, nên không có cơ hội nào làm phước
thiện
bố thí.


Con người trong cõi Nam thiện bộ châu, trên địa cầu mà chúng ta đang
sống, có nhiều cơ hội làm phước thiện bố thí; còn con người ở 3 châu khác: Đông
thắng thần châu
, Tây ngưu hoá châu, Bắc câu lưu châu,
không có cơ hội, hoặc
ít có cơ hội làm phước thiện bố thí.

Thật
vậy, con người chúng ta ở cõi Nam thiện bộ châu này có nhiều điểm ưu việt hơn
các hàng chúng sinh ở những cõi khác, đó là:


Có thể xuất gia hành phạm hạnh cao thượng.


Có thể tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba la mật, hoặc 20 pháp hạnh ba la mật, hoặc 30
pháp hạnh ba la mật, để trở thành bậc Thánh Thanh Văn Giác, hoặc Đức Phật Độc
Giác
, hoặc Đức Phật Toàn Giác ngay ở cõi người này.

Tuy
nhiên
, con người chúng ta ở cõi Nam thiện bộ châu này cũng có những tính chất
đặc biệt nữa là:


Có thể tạo mọi thiện nghiệp đầy đủ 30 pháp hạnh ba la mật, để trở thành Đức
Chánh Đẳng Giác
vô thượng trong 10 ngàn thế giới chúng sinh.


Có thể tạo mọi ác trọng nghiệp gọi là ngũ vô gián nghiệp: giết cha,
giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm cho Đức Phật bầm máu, chia rẽ Tăng;

đó là những ác nghiệp nặng nhất, mà các hàng chúng sinh trong cõi khác không
thể tạo được.

Như
vậy,


Khi con người tạo thiện pháp có khả năng đạt đến mức cực thiện,
trở thành đức Chánh Đẳng Giác.


Khi con người tạo ác pháp, có khả năng đạt đến mức cực ác: giết
cha, giết mẹ…, chắc chắn sa vào đại địa ngục Avīci do ác trọng nghiệp của
mình đã tạo.

Mặc
dầu
vậy, con người vẫn có quyền tối thượng: quyền chọn lựa tạo thiện pháp, hoặc
tạo ác pháp. Cho nên, tái sanh làm người trong cõi Nam thiện bộ châu này có
nhiều điều thuận lợi để tạo mọi thiện pháp.

Đức
Phật
dạy: “Manussattabhāvo dullabho: Được tái sanh làm người là điều
khó”.

Trong
kinh sách thường đề cập đến Đức Bồ Tát tạo mọi thiện nghiệpcõi người, đến
khi hết tuổi thọ, sau khi chết, do năng lực cho quả tái sanh là vị thiên nam
trong cõi trời dục giới. Vị thiên nam Bồ Tát này không muốn hưởng sự an lạc
trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, mà phát nguyện chấm dứt sanh mạng (trước
khi hết tuổi thọ)
để được tái sanh làm người cõi Nam thiện bộ châu này, nơi
có nhiều cơ hội thuận lợi tiếp tục công việc bồi bổ pháp hạnh ba la mật cho sớm
được đầy đủ; để trở thành bậc Thánh Thanh Văn, hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc Đức
Phật
Toàn Giác, rồi đạt đến mục đích cứu cánh cuối cùngtịch diệt Niết
Bàn
, chấm dứt tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nay
kiếp này, chúng tadiễm phúc đã được tái sanh làm người rồi, chúng ta nên cố
gắng
tạo mọi thiện pháp, để nâng đỡ mình trở nên cao thượng. Thật vậy, con
người
được gọi là cao thượng do nhờ thiện pháp, chỉ có thiện pháp mới nâng đỡ
con người trở nên cao thượng như:

Dục giới
thiện pháp nâng đỡ tái sanh làm người hoặc chư thiên cõi trời dục giới.
Sắc giới thiện pháp nâng đỡ tái sanh làm phạm thiên cõi trời sắc giới.
Vô sắc giới thiện pháp nâng đỡ tái sanh làm phạm thiên cõi trời vô sắc giới.
Siêu tam giới thiện pháp nâng đỡ trở thành bậc Thánh nhân trong Phật giáo.

Trong
Phật giáo có 4 bậc Thánh nhân:


Bậc Thánh Nhập Lưu.
– Bậc Thánh Nhất Lai.
– Bậc Thánh Bất Lai.
– Bậc Thánh A-ra-hán.

Trong
mọi thiện pháp, phước thiện bố thíthiện pháp làm nền tảng cho tất caû mọi
thiện pháp, dānaṃ sabbatthasādhakaṃ: phước thiện bố thí có thể hỗ trợ cho sựthành tựu tất caû mọi thiện pháp, từ tam giới thiện pháp cho đến siêu tam giới
thiện pháp.

Vai
trò
hạnh bố thí trong các pháp

Bố thí có trong 3 hoặc 10 pháp puññakiriyā-vatthu:
pháp tạo nên phước thiện.

Bố thí có trong 4 pháp saṅgaha: pháp
tế độ.

Bố thí có trong 4 pháp để trở thành
Đức Vua.

Bố thí có trong 10 pháp hành của Đức
Vua.

Bố thí có trong 10 pháp hạnh ba la
mật
.

Bố thí có trong 38 pháp maṅgala: pháp
an
lành.

Bố thí là pháp dễ kết bạn thân thiết với mọi chúng sinh.
Trong câu hỏi của Āḷavakayakkha…. V.v….

Phước
Thiện
Bố Thí

Phước
thiện
bố thí được thành tựu do hội đủ nhân duyên kết hợp như:

1-
Tác ý thiện tâm bố thí (cetanādāna).

2-
Vật bố thí (dānavatthu).

3-
Người thọ thí (paṭiggāhaka).

Một
khi hội đủ 3 nhân duyên này, mới thành tựu phước thiện bố thí.

1-
Tác Ý Thiện Tâm Bố Thí

Thí
chủ
tác ý thiện tâm (kusalacetanā) sử dụng những vaät bố thí ấy đem
ban bố, phân phát đến cho những người khác, chúng sinh khác.

Thông
thường tác ý thiện tâm bố thí diễn tiến, trải qua 3 thời kỳ:

1- Tác ý
thiện tâm trước khi bố thí (pubbacetanā).
2- Tác ý thiện tâm đang khi bố thí (muñcacetanā).
3- Tác ý thiện tâm sau khi đã bố thí (aparacetanā).

1-
Tác ý thiện tâm trước khi bố thí như thế nào?

Thí
chủ
nhìn thấy, hoặc nghe thấy, hoặc suy tư về một phước thiện nào đó, phát sanh
đức tin trong sạch, có tâm từ bi muốn làm phước bố thí để tế độ, giúp đỡ mọi
người
, mọi chúng sinh, nên tìm cơ hội tốt để tạo nên phước thiện ấy. Thời kỳ
tác ý thiện tâm muốn làm phước bố thí này có thể phaùt sanh trước nhiều năm,
nhiều tháng, nhiều ngày hoặc ngay trước khi bố thí không lâu, đó là thời gian
chuẩn bị để làm phước thiện bố thí. Suốt thời gian này, gọi là tác ý
thiện tâm trước khi bố thí,
dù chưa thành tựu phước thiện bố thí, song
tác ý thiện tâm này cũng gọi là thiện nghiệp.

2-
Tác ý thiện tâm đang khi bố thí như thế nào?

Thí
chủ
tác ý thiện tâm trước khi bố thí từ trước, nay đến lúc, đến thời thí chủ
sử dụng vật bố thí, đó là của cải, tiền bạc, đồ đạc, vật thực… hoặc sự hiểu
biết
của mình đem ban bố, phân phát đến người khác, với tâm từ bi tế độ và được
người khác đang thọ nhận những vật bố thí hoặc sự hiểu biết của mình ban cho.

Thời
gian
ngắn ngủi diễn ra giữa người thí chủ trao vật thí và người thọ thí tiếp
nhận
vật thí ấy, gọi là thời kỳ tác ý thiện tâm đang khi bố thí,
đồng thời phước thiện bố thí được thành tựu ngay khi ấy.

3-
Tác ý thiện tâm sau khi đã bố thí như thế nào?

Sau
khi thí chủ đã có tác ý thiện tâm bố thí xong, phước thiện bố thí đã thành tựu
rồi, kể từ thời gian đó về sau, mỗi khi thí chủ nhớ tưởng, niệm tưởng đến phước
thiện
bố thí ấy, đồng thời tác ý thiện tâm sau khi đã bố thí phát
sanh, thì thiện nghiệp bố thí tăng trưởng. Ở thời kỳ này, thời gian không hạn
định, có thể nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, nhiều kiếp sau… mỗi khi nhớ
tưởng, niệm tưởng đến phước thiện bố thí ấy, đồng thời tác ý thiện tâm phát
sanh, có sự bố thí làm đối tượng, nên thiện nghiệp bố thí lại tăng
trưởng
.

Cho
nên, trong 40 đề mục thiền định, có đề mục gọi là “cāgānussati: đề mục
niệm tưởng đến phước thiện bố thí của mình đã tạo trước đây”
. Hành giả
tiến hành đề mục thiền định này có thể đạt đến cận định mà thôi,
hỉ lạc phát sanh đến hành giả; đề mục thiền định này không thể đạt đến an
định
,
bởi vì, đề mục thiền định này quá rộng lớn bao la, không rõ ràng,
không thể làm cho ấn chứng thô ảnh tương tựấn chứng quang ảnh
trong sáng
phát sanh, nên không chứng đắc bậc thiền nào.

2-
Vật Bố Thí

Vật
bố thí để tạo nên phước thiện, Đức Phật dạy có nhiều loại:

Trong
Luật tạng, Đức Phật dạy có 4 loại vật bố thí để tạo nên phước
thiện
, gọi là tứ vật dụng (catupaccaya) cần thiết cho cuộc sống hằng
ngày
của tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng; nhất là đối với bậc
xuất gia, Sa di, Tỳ khưu trong Phật giáo.

Đức
Phật
cho phép Tỳ khưu, Sa di thọ nhận tứ vật dụng của thí chủ dâng cúng là:

1-
Y phục (cīvara): y phục của Tỳ khưu, Sa di mặc che kín sắc
thân
đáng hổ thẹn, ngăn ngừa nóng lạnh, muỗi mòng, rắn rít…, gồm có 3 tấm y:

– Y 2 lớp
đắp khi trời lạnh.
Y nội mặc che kín từ lỗ rún xuống quá đầu gối 8 ngón tay, vòng quanh trước
sau đều đặn.
Y vai trái mặc choàng kín quanh toàn thân mình, từ cổ xuống quá đầu gối 4
ngón tay, vòng quanh trước sau đều đặn.

2-
Vật thực (piṇṇapāta): vật thực của Tỳ khưu, Sa di kiếm
được bằng cách đi khất thực (xin ăn) từ nhà này sang nhà khác, dầu ít
hay nhiều để vào bát vừa đủ ăn một bữa, thọ thực không được quá ngọ (12 giờ
trưa)
.

3-
Chỗ ở (senāsana): chỗ ở của Tỳ khưu, Sa di thường ở dưới
gốc cây
, hang động…. Nếu có phước đặc biệt, Tỳ khưu, Sa di có thể thọ lãnh
chỗ ở do thí chủ xây cất như cốc, chùa…….

4-
Thuốc trị bệnh
(gilānabhesajja): thuốc trị bệnh của Tỳ khưu, Sa
di
thường là nước tiểu bò, hoặc nước tiểu ngâm loại trái cây làm thuốc [Đức
Phật
cho phép dùng 2 loại trái cây làm thuốc: agadāmalaka và agadaharītaka]
…. Nếu có phước đặc biệt Tỳ khưu, Sa di có thể thọ nhận các loại thuốc
do thí chủ dâng cúng để trị bệnh, ngừa bệnh….

Trong
Vi diệu pháp tạng, Đức Phật thuyết về chân nghĩa pháp (paramatthadhamma),
dạy vật thí có 6 loại:

1- Sắc thí
(rūpadāna): bố thí các hình dạng, màu sắc, nhìn thấy bằng nhãn thức tâm.
2- Thanh thí (saddadāna): bố thí các âm thanh, nghe được bằng nhĩ thức
tâm.
3- Hương thí (gandhadāna): bố thí các mùi, ngửi được bằng tỷ thức tâm.
4- Vị thí (rasadāna): bố thí các vị, nếm được bằng thiệt thức tâm.
5- Xúc thí (phoṭṭhabbadāna): bố thí các loại xúc, tiếp xúc được bằng
thân thức tâm.
6- Pháp thí (dhammadāna): bố thí các pháp, biết được bằng ý thức tâm.

Trong
Kinh tạng Đức Phật thuyết dạy vật bố thí có 10 loại:

1- Bố thí
vật thực (annadāna): bố thí các loại thức ăn.
2- Bố thí nước uống (pānadāna): bố thí các loại nước uống.
3- Bố thí vải (vatthadāna): bố thí các loại vải.
4- Bố thí xe cộ (yānadāna): bố thí các loại xe cộ phương tiện đi lại.
5- Bố thí bông hoa (mālādāna): bố thí các loại bông hoa.
6- Bố thí vật thơm (gandhadāna): bố thí các loại mùi thơm.
7- Bố thí vật thoa (vilepanadāna): bố thí các loại vật thoa.
8- Bố thí chỗ nằm (seyyādāna): bố thí các chỗ nằm như: giường, ghế, đồ
trải nằm.
9- Bố thí chỗ ở (āvasathagharadāna): bố thí chỗ ở như: chùa, nhà,
cốc….
10- Bố thí đèn (padīpeyyadāna): bố thí đèn phát sanh ánh sáng.

Mười
loại vật thí này là những vật thường dùng trong đời sống. Ngoài ra, trong đời
còn có nhiều vật thí khác đem lại sự lợi ích, thuận lợi trong cuộc sống, không
đem lại sự tai hại cho kiếp hiện tại lẫn kiếp vị lai, có thể dùng làm vật bố
thí
để tạo phước thiện.

3-
Người Thọ Thí

Người
thọ thí đóng vai trò quan trọng để thành tựu phước thiện bố thí. Trường hợp thí
chủ
tác ý thiện tâm bố thí, có vật bố thí, mà không có người thọ thí thì
không thành tựu phước thiện bố thí của thí chủ.

Người
thọ thí còn quan trọng là thành tựu được quả báu của phước thiện bố thí nhiều
hoặc ít.

Trong
kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta [Majjhimanikāya, Uparipaṇṇāsa,
Dakkhiṇavibhaṅgasutta], Đức Phật có dạy hai hạng thọ thí:

1- Cá nhân
thọ thí (paṭipuggalikadāna).
2- Chư Tỳ khưu Tăng thí (Saṃghadāna).


Cá nhân thọ thí như thế nào?


nhân
thọ thí là thí chủ làm phước thiện bố thí đến mỗi cá nhân, có tính cách
riêng biệt dầu một vị hay nhiều vị.


nhân
thọ thí được phân chia có 14 hạng, từ bậc cao nhất đến hạng thấp nhất:

1- Làm
phước thiện bố thí cúng dường đến Đức Chánh Đẳng Giác.
2- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến Đức Phật Độc Giác.
3- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh A-ra-hán.
4- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai hành giả đang tiến
hành thiền tuệ, để chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán.
5- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai.
6- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai hành giả đang tiến
hành thiền tuệ, để chứng đắc bậc Thánh Bất Lai.
7- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai.
8- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu hành giả đang tiến
hành thiền tuệ, để chứng đắc bậc Thánh Nhất Lai.
9- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu.
10- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến hành giả đang tiến hành thiền tuệ, để
chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.
11- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến hành giả ngoài Phật giáo chứng đắc
thiền, có thần thông.
12- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến hạng phàm nhân (Tỳ khưu, Sa di, cận
sự nam
, cận sự nữ) có giới đức trong sạch.
13- Làm phước thiện bố thí đến hạng phàm nhân phạm giới, không có giới.
14- Làm phước thiện bố thí đến loài súc sanh.

Đó
là 14 hạng cá nhân thọ thí.

Quả
báu
cá nhân thọ thí

Trong
14 hạng cá nhân thọ thí này, thí chủ làm phước thiện bố thí đến hạng nào cũng
được 5 quả báu: Sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh trí tuệ.

Thí
chủ
làm phước thiện bố thí đến loài súc sanh như chim, cá,… sẽ hưởng
được 5 quả báu suốt 100 kiếp.

Thí
chủ
làm phước thiện bố thí đến hạng phàm nhân phạm giới, không có giới,
sẽ được hưởng 5 quả báu suốt 1.000 kiếp.

Thí
chủ
làm phước thiện bố thí đến hạng phàm nhângiới đức trong sạch, sẽ
được hưởng 5 quả báu suốt 100.000 kiếp.

Thí
chủ
làm phước thiện bố thí đến hạng phàm nhân ngoài Phật giáo chứng đắc
thiền và thần thông, sẽ hưởng được 5 quả báu suốt triệu triệu kiếp hoặc một
ngàn tỷ kiếp (1012).

Thí
chủ
làm phước thiện bố thí đến hành giả đang tiến hành thiền tuệ để chứng đắc
bậc Thánh Nhập Lưu, sẽ hưởng được 5 quả báu vô lượng kiếp.

Thí
chủ
làm phước thiện bố thí đến bậc Thánh Nhập Lưu, sẽ hưởng được 5 quả báu
lượng kiếp
nhiều hơn nữa.

Thí
chủ
làm phước thiện bố thí đến bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh
A-ra-hán, Đức Phật Độc Giác, Đức Chánh Đẳng Giác sẽ được hưởng quả báu
lượng
, vô lượng kiếp không sao kể xiết được.

Về
cá nhân thọ thí, bậc thọ thí có đầy đủ 5 đức: giới – định – tuệ – giải thoát
giải thoát tri kiến hoàn toàn chừng nào thì quả báu vô lượng, vô lượng chừng
ấy.


như
người nông dân tài giỏi, có hạt giống tốt, gieo trên thửa ruộng tốt mầu mỡ,
thì chắc chắn sẽ thu hoạch được bội phần. Cũng như vậy, thí chủđức tin
trong sạch nơi Tam bảo, có tác ý thiện tâm trong sạch đầy đủ 3 thời kỳ, hoan hỉ
làm phước bố thí những vật bố thí hợp pháp, đến bậc thọ thí có đầy đủ 5 đức:
giới – định – tuệ – giải thoátgiải thoát tri kiến hoàn toàn chừng nào, chắc
chắn
quả báu vô lượng, vô lượng kiếp kể từ thuở ấu niên, trung niên cho đến lão
niên đầy đủ chứng ấy.


Chư Tỳ khưu Tăng thọ thí như thế
nào?

Chư
Tỳ khưu Tăng thí là làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng có
tính cách chung, là một vị Tăng hoặc nhiều vị Tăng. Điều quan trọng, tâm của
thí chủ hướng đến cúng dường chư Tăng, không phải hướng đến một cá nhân thọ thí
nào. Thí chủ bạch với vị Đại Đức quản Tăng rằng: “Kính bạch Đại Đức,
con xin kính thỉnh 1 vị Tỳ khưu Tăng”.
Vị Đại Đức quản Tăng chỉ định vị
Tỳ khưu nào, vị Tỳ khưu ấy đại diện chư Tăng thọ thí, như vậy gọi là Tỳ
khưu Tăng thọ thí, không phải cá nhân thí.

Tỳ
khưu Tăng thọ thí phân chia có 7 nhóm:

1- Thí chủ
làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ khưu ni Tăng,
Đức Phật chủ trì.
2- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ
khưu ni Tăng, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
3- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng.
4- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu ni Tăng.
5- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng và một số
Tỳ khưu ni Tăng, (mỗi bên có một số vị đại diện, bất luận ít hay nhiều).
6- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng (có một
vị hoặc một số Tỳ khưu đại diện Tăng).

7- Thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường đến một số Tỳ khưu ni Tăng (có
một vị hoặc một số Tỳ khưu ni đại diện Tăng).

Đó
là 7 nhóm chư Tỳ khưu Tăng thọ thí, trong thời hiện tại này chỉ còn hai hạng
chư Tăng thọ thí là:

Thí
chủ
làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng.

Thí
chủ
làm phước thiện bố thí cúng dường đến một số Tỳ khưu Tăng (có một vị
hoặc một số Tỳ khưu đại diện Tăng).

Đức
Phật
dạy Đại Đức Ānanda rằng:

“Này
Ānanda, trong thời vị lai sẽ có hạng người gọi tên Tỳ khưu “Bhikkhu”
còn mảnh y quấn cổ, là người phạm giới, hành ác pháp. Những người thí chủ
đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tác ý thiện tâm làm phước thiện bố thí cúng
dường
đến chư Tỳ khưu Tăng dầu trong số Tỳ khưu phạm giới ấy.

Này
Ānanda, sự làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng trong thời vị
lai
ấy, Như Lai dạy rằng: vẫn có quả báu vô lượng không sao kể xiết được. Như
Lai
không hề dạy trực tiếp hoặc gián tiếp rằng: làm phước thiện bố thí đến
nhân
thọ thí hưởng quả báu nhiều hơn làm phước thiện bố thí đến chư Tỳ khưu
Tăng thọ thí” [Majjhimanikāya, Uparipaṇṇāsa, Dakkhiṇavibhaṅgasutta.]

Qua
đoạn kinh trên, Đức Phật dạy cho người Phật tử nên biết rõ khi tác ý thiện tâm
nghĩ đến chư Tỳ khưu Tăng là nghĩ đến ngôi Tăng bảo,phước điền cao
thượng của tất cả chúng sinh. Bởi vì chỉ có cá nhân Tỳ khưu phạm giới (bhikkhu
dussīla),
còn ngôi Tăng bảo là những bậc Thánh Tăng hoàn toàn trong
sạch
, thanh tịnh, cao thượng; cho nên làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư
Tỳ khưu Tăng, phải nên liên tưởng đến chư bậc Thánh Tăng chắc chắn phước thiện
bố thí vô lượng, không sao kể xiết.

Do
đó, thí chủ nên có “tác ý thiện tâm trong sạch nơi Đức Tăng, tâm không
nên nghĩ đến cá nhân vị Sa di, Tỳ khưu, vị Đại Đức nào”.


dụ:
Người thí chủ muốn làm phước thiện
bố thí cúng dường đến “Tỳ khưu Tăng” 1 vị, 2 vị,… người ấy đến bạch
với vị Tỳ khưu quản Tăng rằng:


Kính bạch Ngài Đại Đức, con xin thỉnh Tăng 1 vị (hoặc 2 – 3… vị), xin Ngài
chỉ định cho con 1 vị Tăng (hoặc 2-3…. vị).

Khi
Ngài Đại Đức quản Tăng chỉ định vị nào, thí chủ hoan hỉ đón rước vị ấy, một
cách cung kính như cung kính với chư bậc Thánh Tăng. Như vậy, gọi là làm phước
thiện
bố thí cúng dường đến “Tỳ khưu Tăng thọ thí”.

Nhưng
nếu Ngài Đại Đức quản Tăng chỉ định một vị Sa di hoặc một vị Tỳ khưu phạm giới,
hoặc một vị Đại Đứcgiới hạnh trang nghiêm…. Nếu người thí chủ nghĩ rằng “ta
thỉnh được một vị Sa di, hoặc vị Tỳ khưu phạm giới, hoặc vị Đại Đứcgiới
hạnh
trang nghiêm”.
Như vậy, không gọi là làm phước thiện bố thí đến
Tỳ khưu Tăng thọ thí, mà trở thành cá nhân thọ thí.

Trong
Chú giải bài kinh trên, có tích nói về phước thiện bố thí cúng dường đến Tỳ
khưu Tăng, được tóm tắt như sau:

Người
cận sự nam thiện tríthí chủ xây cất một ngôi chùa dâng cúng đến chư Tăng.
Một hôm, ông đến chùa thỉnh “Tỳ khưu Tăng” 1 vị về nhà làm phước
thiện
bố thí cúng dường vật thực, Ngài Đại Đức quản Tăng kiểm Tỳ khưu, lần này
đến phiên một vị Tỳ khưu có giới hạnh không trong sạch, không trang nghiêm,
được chỉ định đại diện “Tỳ khưu Tăng” đến nhà người cận sự nam này.

Buổi
sáng vị Tỳ khưu mặc y mang bát đến nhà, người cận sự nam đón rước cung kính như
một vị Đại Đức cao Tăng, như là rữa chân, lau hai bàn chân, thỉnh mời ngồi chỗ
cao quý, tự tay mình dâng cúng những món vật thực ngon lành với tâm hoan hỉ
kính trọng “Tỳ khưu Tăng”. Vị Tỳ khưu ấy sau khi độ vật thực xong trở
về
chùa, người cận sự nam tiễn đưa về đến chùa cũng với tâm hoan hỉkính
trọng
“Tỳ khưu Tăng”.

Buổi
chiều vị Tỳ khưu ấy đến nhà người cận sự nam này mượn đồ dùng để làm việc
riêng, người cận sự nam này dùng chân đẩy món đồ dùng ra cho mượn không một
chút kính trọng, rồi bảo rằng: “Hãy đem đi!”.

Một
người bên cạnh theo dõi hành vi cử chỉ người cận sự nam này từ sáng đến chiều
hoàn toàn trái ngược nhau, không hiểu tại sao? Muốn tìm hiểu, nên hỏi người cận
sự nam
này rằng:


Thưa anh, tôi nhìn thấy sáng nay anh tỏ ra kính trọng với vị Tỳ khưu giới hạnh
không trong sạch ấy, như một vị Đại Đức cao Tăng, mà chiều nay anh lại đối xứ
với vị Tỳ khưu ấy không có chút nào kính trọng cả. Tại sao như vậy? Thưa anh.

Người
cận sự nam thí chủ thưa rằng:


Sáng nay, tôi hết lòng cung kính, vì thiện tâm của tôi hươùng đến “Tỳ khưu
Tăng”, hoàn toàn không phải hướng đến cá nhân vị Tỳ khưu ấy.

Chiều
nay, tôi tỏ ra không kính trọng đến cá nhân vị Tỳ khưu ấy, bởi vì tôi thấy rõ
vị Tỳ khưu ấy có giới hạnh không trong sạch, thân và khẩu không trang nghiêm,
không thu thúc lục căn thanh tịnh, cho nên, tôi không cung kính đến cá nhân vị
Tỳ khưu ấy, hoàn toàn không liên quan đến Tỳ khưu Tăng.

Qua
tích trên, người cận sự nam thí chủtrí tuệ, hiểu biết cách làm phước bố thí
cúng dường một cách cung kính đến Tỳ khưu Tăng (dầu gặp vị Tỳ khưu có giới
không
trong sạch).
Việc làm phước bố thí cúng dường đến Tỳ khưu Tăng này có
được phước thiện vô lượng, có quả báu vô lượng, suốt vô lượng kiếp.

Người
Bố Thí – Người Thọ Thí (Dāyaka – Paṭiggāhaka)

Trong
kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta [Majjhimanikāya, Uparipaṇṇāsa,
Dakkhiṇavibhaṅgasutta], Đức Phật dạy Đại Đức Ānanda rằng:

“Này
Ānanda, sự trong sạch đối với người bố thí và người thọ thí có 4 trường hợp:

1-
Người bố thíthiện tâm trong sạch, còn người thọ thí không có tâm trong
sạch
.
2- Người bố thí không có tâm trong sạch, còn người thọ thí có thiện tâm trong
sạch
.
3- Người bố thí lẫn người thọ thí đều có tâm không trong sạch.
4- Người bố thí và người thọ thí đều có thiện tâm trong sạch.


Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thíthiện tâm trong sạch; còn người
thọ thí không có tâm trong sạch?

Trường
hợp
này, người bố thí là người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp, còn
người thọ thí là người phạm giới, hành ác pháp.

Như
vậy, gọi là người bố thíthiện tâm trong sạch; còn người thọ thí không có
tâm trong sạch.


Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí không có tâm trong sạch; còn người
thọ thí có thiện tâm trong sạch?

Trường
hợp
này, người bố thí là người phạm giới, hành ác pháp, còn người thọ thí là
người có giới đức trong sạch, hành thiện pháp.

Như
vậy, gọi là người bố thí không có tâm trong sạch; còn người thọ thí có thiện
tâm
trong sạch


Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí lẫn người thọ thí đều có tâm không
trong sạch?

Trường
hợp
này, cả người bố thí lẫn người thọ thí đều là những người phạm giới, hành
ác pháp.

Như
vậy, gọi là người bố thí lẫn người thọ thí đều có tâm không trong sạch.


Này Ānanda, thế nào gọi là người bố thí lẫn người thọ thí đều có tâm trong
sạch?

Trường
hợp
này, cả người bố thí lẫn người thọ thí đều là những người có giới đức trong
sạch
, hành thiện pháp.

Như
vậy, gọi là người bố thí lẫn người thọ thí đều có tâm trong sạch”.

Giải
thích
4 trường hợp:

1-
Trường hợp thí chủ là người có giới hạnh trong sạch, có thiện pháp; còn người
thọ thí là người có giới không trong sạch, có ác pháp, phước thiện bố thí này
cho quả báu không được hoàn toàn một trăm phần trăm. Ví dụ:

Như
trường hợp Đức Bồ Tát Vessantara làm phước thiện bố thí con cho Bà la môn ăn
xin Jūjaka có giới không trong sạch, thế mà do năng lực phước thiện của Đức Bồ
Tát
cũng có thể làm cho mặt đất rung chuyển.

2-
Trường hợp thí chủ là người có giới không trong sạch, có ác pháp; còn người thọ
thí có giới trong sạch, có thiện pháp, phước thiện bố thí này cho quả báu kém
hơn trường hợp trên. Ví dụ:

Như
trường hợp người dân chài làm phước thiện bố thí để bát 3 lần đến Ngài Đại Đức
Dīghasoma. Khi gần chết, phước thiện bố thí để bát hiện lên cho quả tái sanh
làm chư thiêncõi trời dục giới.

3-
Trường hợp thí chủ là người có giới không trong sạch, có ác pháp; người thọ thí
cũng có giới không trong sạch, có ác pháp, phước thiện bố thí này cho quả không
đáng kể. Ví dụ:

Như
trường hợp người thợ săn thú rừng làm phước thiện bố thí 3 lần đến vị Tỳ khưu
giới không trong sạch, có ác pháp; rồi hồi hướng đến thân quyến loài ngạ
quỷ
; loài ngạ quỷ ấy hoan hỷ phước thiện ấy không đáng kể, không thể thoát khỏi
cảnh khổ của ngạ quỷ, nên than rằng: Tỳ khưu không có giới kia phá hoại
phước thiện của ta rồi!

Về
sau, loài ngạ quỷ hiện ra báo cho người thợ săn ấy biết rõ như vậy, lần này
người thọ săn làm phước thiện bố thí cúng dường để bát chỉ 1 lần đến vị Tỳ khưu
có giới, có thiện pháp, rồi hồi hướng đến thân quyến loài ngạ quỷ. Lần này,
ngaï quỷ hoan hỉ thọ nhận được phước thiện bố thí ấy, nên thoát khỏi cảnh khổ
loài ngạ quỷ, được tái sanh nơi thiện giới.

4-
Trường hợp thí chủ là người có giới hạnh trong sạch, có thiện pháp; còn người
thọ thí cũng có giới trong sạch, có thiện pháp, phước thiện bố thí này cho quả
báu
hoàn toàn một trăm phần trăm, quả báu vô lượng không sao kể xiết.

Trong
4 trường hợp này, trường hợp thứ tư cả người bố thí lẫn người thọ thí đều có
thiện tâm trong sạch, dĩ nhiên sẽ có phước thiện bố thí vô lượng, sẽ hưởng quả
báu
suốt vô lượng kiếp.

Nếu
không
được như vậy, người bố thí là bậc Thiện trí, có giới hạnh trong sạch, có
thiện pháp phát triển, tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ việc làm phước thiện
bố thí, thì phước thiện cũng được phát triển, sẽ hưởng được quả báu nhiều.


dụ:
Một nông dân tài giỏi, có được hạt
giống
tốt dầu gieo ở đất hoặc thửa ruộng không tốt, nhưng nhờ người nông dân ấy
biết săn sóc tưới nước khi cần nước, biết phân bón khi cần phân bón, biết làm
cỏ lúa,… chắc chắn người nông dân ấy sẽ thu hoạch không ít.

Quả
Báu
Riêng Biệt Của Mỗi Vật Thí

Quả
báu
chung của bố thí có 5:

1- Tuổi
thọ sống lâu.
2- Sắc thân xinh đẹp.
3- Thân, tâm an lạc.
4- Thân tâmsức mạnh.
5- Có trí tuệ nhanh nhẹn, hoặc có quyền cao chức trọng.

Mỗi vật thíquả báu riêng biệt
của nó, được sưu tập từ các bộ trong Tam tạng như sau:

Bố thí cơm nước được 10 quả
báu
:

1- Sống
lâu.
2- Sắc thân xinh đẹp.
3- Thân và tâm an lạc.
4- Thân tâmsức mạnh.
5- Có định tâm mau lẹ.
6- Có trí tuệ sáng suốt.
7- Có nhiều bạn bè (tùy tùng).
8- Có tâm dũng cảm.
9- Có cơm đầy đủ (không thiếu ăn).
10- Có nước uống đầy đủ.

Bố thí cháo được 10 quả báu:
[Vinayapiṭaka, Mahāvagga, phần Bhesajjakkhandhaka]

1- Sự sống
lâu.
2- Sắc thân xinh đẹp.
3- Thân tâm an lạc.
4- Thân tâmsức mạnh.
5- Trí tuệ nhanh nhẹn.
6- Giảm sự đói.
7- Giảm sự khát.
8- Làm cho chất gió lưu thông.
9- Rửa đường ruột.
10- Tiêu hoá vật thực.

Hoặc bố thí cháo được 10 quả báu:

1- Được
tái sanh cõi Tam thập tam thiên.
2- Có lâu đài bằng ngọc, có nhiều thiên nữ hầu hạ, hưởng sự an lạc cõi trời.
3- Được 33 lần làm vua cõi Tam thập tam thiên.
4- Được 30 lần làm đức Chuyển luân thánh vương.
5- Làm vua nước lớn không kể xiết.
6- Kiếp chót xuất gia, khi cạo tóc đồng thời chứng đắc Thánh ĐạoThánh Quả.
7- Kiếp chót ấy, chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh
A-ra-hán, trước khi thọ Tam quythọ giới.
8- Không buồn rầu, khóc than.
9- Ít bệnh hoạn ốm đau.
10- Chứng ngộ Niết Bàn.

Bố thí nước được 10 quả báu:

1- Sắc
thân
sạch sẽ, sáng sủa.
2- Thân tâm nhẹ nhàng, nhanh nhẹn.
3- Có nhiều bạn bè, tùy tùng.
4- Có tiếng tốt lan rộng khắp mọi nơi.
5- Không bị khát nước.
6- Tuổi thọ sống lâu.
7- Sắc thân xinh đẹp.
8- Thân, tâm an lạc.
9- Thân, tâm có sức mạnh.
10- Có trí tuệ sáng suốt.

Bố thí thuốc trị bệnh được 10
quả báu:

1- Tuổi
thọ sống lâu.
2- Sắc thân xinh đẹp.
3- Thân, tâm có sức mạnh.
4- Có nhiều trí tuệ.
5- Có nhiều bạn bè, có tiếng tốt lan rộng.
6- Ít khổ, được nhiều an lạc.
7- Ít bệnh hoạn ốm đau.
8- Tránh khỏi mọi tai họa.
9- Được chư thiên nhân loại kính mến.
10- Thường được gần gũi với người thân yêu.

Bố thí hộp nhỏ được 10 quả báu:

1- Tránh
khỏi
mọi tai họa.
2- Thân tâm an lạc.
3- Có nhiều bạn bè.
4- Không tái sanh cảnh ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh).
5- Cử chỉ nói năng nhã nhặn, vi tế.
6- Không nghèo khổ.
7- Có tiếng tốt lan rộng khắp mọi nơi.
8- Có hai bàn tay bằng phẳng.
9- Không kinh sợ.
10- Có những hộp bằng vàng, bạc, ngọc, thủy tinh và có ngựa quý, voi quý; những
vật quý không bị mất.

Bố thí cầu bắc qua sông, rạch
được 10 quả báu:

1- Nếu bị
rơi từ trên cây cao, núi cao, xuống hố sâu, vực thẳm… sẽ có một vật cản trở
không nguy hiểm, nếu bị chết sẽ tái sanh cõi thiện giới.
2- Những kẻ thù không làm hại được.
3- Kẻ trộm cướp không chiếm đoạt được của cải của mình.
4- Đức Vua không coi thường.
5- Thoát khỏi mọi tai họa.
6- Ở ngoài trời nắng không cảm thấy khó chịu.
7- Ở cõi người hoặc cõi trời, khi cần xe, voi sẽ hiện ra.
8- Được xe ngựa quý Sindho chạy nhanh như gió.
9- Có voi quý bay trên hư không.
10- Chứng đắc A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạt tuyệt phiền
naõo trầm luân, tịch diệt Niết Bàn.

Bố thí dù che được 8 quả báu:

1- Thân
không bị lạnh hoặc nóng.
2- Thân không bị dính bụi dơ.
3- Tránh khỏi mọi tai họa.
4- Ít bệnh hoạn, không bị hành phạt.
5- Sắc thânda thịt mềm mại.
6- Được chư thiên, nhân loại kính trọng.
7- Tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não.
8- Nếu cần, có cả trăm ngàn cây dù.

Bố thí bát được 8 quả báu:

1- Dùng
chén bát bằng vàng, bạc, ngọc….
2- Tránh khỏi mọi tai họa.
3- Ít bệnh hoạn ốm đau.
4- Có nhiều của cải tài sản.
5- Của cải được bền vững lâu dài.
6- Được chư thiên, nhân loại kính trọng.
7- Tâm dễ an định.
8- Phiền não ít phát sanh, tâm mong muốn pháp cao thượng.

Bố thí thuốc nhỏ mắt được 8 quả
báu
:

1- Có đôi
mắt tròn đẹp.
2- Con mắt chỗ trắng thì trắng.
3- Con mắt chỗ vàng thì vàng.
4- Con mắt chỗ đen thì đen.
5- Con mắt trong sáng xinh đẹp.
6- Tránh khỏi bệnh đau mắt.
7- Con mắt như mắt của chư thiên.
8- Có thể chứng đắc pháp nhãn.

Bố thí vải, y phục được 6 quả
báu
:

1- Kiếp
nào, sắc thân cũng có da màu vàng, đẹp đẽ.
2- Sạch sẽ, không dơ bẩn.
3- Sắc thân phát ra ánh sáng.
4- Sắc thânda thịt mềm mại.
5- Nếu cần, y phục có cả ngàn.
6- Vải lụa, vải nhung, gấm,…… muốn bao nhiêu cũng được.

Bố thí khăn lau được 6 quả báu:

1- Sắc
thân
phát ra ánh sáng.
2- Không dơ dáy bẩn thỉu.
3- Nước da màu vàng óng ánh.
4- Sắc thânda thịt mềm mại.
5- Bụi dơ không dính vào thân.
6- Có nhiều oai lực.

Bố thí gối nằm được 6 quả báu:

 1- Có được những gối trầm thơm, gối ướp hương
sen, gối lông cừu….
2- Thu thúc thân khẩu, thu thúc lục căn thanh tịnh. Có thể chứng đắc các bậc
thiền hữu sắc với đề mục tứ vô lượng tâm.
3- Hiểu biết pháp hành giới, định, tuệ.
4- Tinh tấn tiến hành thiền tuệ dẫn đến hoàn thành 37 pháp Chứng đắc Thánh Đạo.
5- Chứng đắc Thánh ĐạoThánh Quả.
6- Hưởng sự an lạc trong Thánh Quả A-ra-hán.

Bố thí giày dép được 4 quả báu:

1- Có xe,
ngựa, kiệu, phương tiện đi lại đầy đủ.
2- Mỗi bước đi như đạp trên tấm thảm nhung.
3- Có chánh niệm tiến hành theo con đường giải thoát khổ.
4- Có chánh niệm, có lục căn thanh tịnh.

Trên
đây trích quả báu của một số vật thí làm tiêu biểu, để hiểu rõ moãi vật thí
quả báu riêng biệt của nó, cũng như mỗi loại giống có mỗi loại quả của chính
nó. Tất cả mọi quả báu này nhiều hay ít, hoàn toàn tùy thuộc vào đức tin
trong sạch
tác ý thiện tâm (cetanā) cả 3 giai đoạn:

Giai đoạn
trước khi bố thí.
Giai đoạn đang khi bố thí.
Giai đoạn sau khi đã bố thí.

Cả
3 giai đoạn đều có đại thiện tâm trong sạch hoan hỉ đến sự bố thí ấy (vật thí
dầu ít hay nhiều), chắc chắn phước thiện bố thí vô lượng; thì quả báu của phước
thiện
bố thí ấy cũng vô lượng.

Phân
Loại Bố Thí

Do
những nhân duyên: tác ý thiện tâm bố thí, người thọ thí và vật bố thí khác
nhau, nên phân loại ra thành nhiều nhóm, mỗi nhóm có 2 – 3 … loại phước thiện
bố thí.

Nhóm
bố thí có hai loại


dụ:
Āmisadāna – Dhammadāna.


Āmisadāna: vật thí là những vật như: y phục, vật thực, đồ uống,
đồ dùng, chỗ ở, thuốc trị bệnh….
Dhammadāna: pháp thíthuyết giảng chánh pháp, dạy đạo, chỉ
dẫn
hành thiền….

Trong
hai loại bố thí này, pháp thí là cao thượng hơn cả.

Cũng
như vậy, trong hai loại cúng dường:


Āmisapūjā: cúng dường bằng những vật như: hoa, quả, vật thơm….
Dhammapūjā: cúng dường bằng cách thực hành theo chánh pháp.

Trong
hai cách cúng dường này, cúng dường bằng cách hành theo chánh pháp là cao
thượng hơn cả.

Vaṭṭanissitadāna
– Vivaṭṭanissitādāna.


Vaṭṭanissitadāna: bố thí cầu mong hưởng sự an lạc đời đời, kiếp kiếp
trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới.
Vivaṭṭanissitadāna: bố thí chỉ cầu mong chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát
khổ trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới.

Thật
ra, sự bố thí cầu mong hưởng sự an lạc trong kiếp tử sinh luân hồi trong tam
giới
, thí chủ được thành tựu quả báu trong cõi người (manussasampatti),
như giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng, được hưởng sự an lạc cõi người;
và được thành tựu quả báu trong cõi trời (devasampatti), được hưởng
sự an lạc cõi trời. Dầu ở cõi nào thí chủ cũng hài lòng, say đắm trong cõi ấy,
không muốn từ bỏ. Nhưng đến khi hết tuổi thọ, phải từ bỏ cõi ấy, tâm thường bị
ô nhiễm, luyến tiếc của cải và những người thân yêu.

Còn
bố thí cầu mong chứng ngộ Niết Bàn giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam
giới
, khi thí chủ chưa chứng đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, vẫn còn trong
vòng
tử sanh luân hồi, thì vẫn được giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng; và
vẫn hưởng được sự an lạc cõi người, cõi trời. Song tâm không dính mắc nơi của
cải
, tài sản, sự nghiệp ấy; sẵn sàng sử dụng của cải, tài sản bố thí đến người
khác một cách dễ dàng; thậm chí dễ dàng từ bỏ nhà, đi xuất gia hành phạm hạnh,
để mong chứng ngộ Niết Bàn, theo năng lực lời phát nguyện trong kiếp quá khứ.

Như
vậy, đối với hạng người bố thí cầu mong chứng ngộ Niết Bàn họ sẽ được thành
tựu
: quả báu cõi người (manussasampatti), quả báu cõi trời (devasampatti),
và còn kết quả chứng ngộ Niết Bàn (Nibbānasampatti) nữa.

Thí
chủ
cầu mong chứng ngộ Niết Bàn, cần phải phát nguyện rằng:

“Idaṃ
me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu”.

“Cầu
mong phước thiện bố thí của con, làm duyên lành dẫn dắt con đến sự chứng ngộ
Niết Bàn
, chứng đắc A-ra-hán Thánh Đaïo, A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt
tất cả mọi phiền não trầm luân”.

Sāhatthikadāna
– āṇattikadāna.


Sāhatthikadāna: tự thí: tự tay mình đem những vật thí dâng cúng,
ban bố, phân phát đến người khác.
Aṇattikadāna: sai khiến người thí: không tự tay mình bố thí, mà
sai khiến người đem những vật thí của mình ban bố, phân phát đến người khác.

Tự
thí có quả báu giàu sang phú quý, có nhiều người thân yêu quý mến, giúp đỡ, hầu
hạ.

Sai
khiến
người thí có quả báu giàu có, song sống cô đơn, ít người thân yêu, hầu
hạ.

Như
trường hợp cậu Uttara là nô bộc của ông Tỉnh trưởng Pāyāsi, được ông sai bảo
hằng ngày phân phát bố thí của cải của ông đến người khác. Cậu Uttara sau khi
chết
, do phước thiện bố thí cho quả tái sanh làm chư thiên cõi Tam thập tam
thiên
, có lâu đài nguy nga tráng lệ, có nhiều thiên nam, thiên nữ, bạn thân,
hầu hạ…; còn ông Tỉnh trưởng Pāyāsi sau khi chết, được tái sanh làm chư thiên
cô đơn nơi cõi trời Tứ đại thiên vương, trong một lâu đài hoang vắng, không có
thiên nam, thiên nữ hầu hạ.

Sakkaccadāna
– Asakkaccadāna.


Sakkaccadāna: cung kính thí: tự mình đem những đồ vật bố thí,
cúng dường đến Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, Tam bảo, hoặc đến người khác một
cách cung kính.
Asakkaccadāna: bất kính thí: tự mình đem những đồ vật bố thí,
cúng dường đến Tam bảo, hoặc đến người khác một cách không cung kính, xem
thường
.

Ñāṇasampāyuttadāna
– Ñāṇavippāyuttadāna.


Ñāṇasampāyuttadāna: bố thí hợp với trí: thí chủtrí tuệ hiểu
biết
rõ nghiệp và quả của nghiệp trong khi đang đem vật thí bố thí, cúng dường
đến người khác.
Ñāṇavippāyuttadāna: bố thí không hợp với trí: thí chủ không có
trí tuệ hiểu biết về nghiệp và quả của nghiệp trong khi đang đem vật thí bố
thí
, cúng dường đến người khác.

Sasaṅkhārikadāna
– Asaṅkhārikadāna.


Sasaṅkhārikadāna: bố thí do người khác động viên khuyến khích: còn tự
mình không nghĩ đến việc bố thí. Người khác đến động viên khuyến khích mình bố
thí
, khi ấy mới phát sanh đức tin làm phước thiện bố thí.
Asaṅkhārikadāna: bố thí do tự mình nghĩ: không có người nào
động viên, khuyến khích. Tự mình nghĩ đến việc bố thí, rồi phát sanh đức tin
trong sạch làm phước thiện bố thí.

Trong
hai loại phước thiện bố thí này Asaṅkāri-kadāna có năng lực phước thiện bố thí
mạnh hơn Sasaṅkhārikadāna.

Somanassadāna
– Upekkhādāna:


Somanassadāna: bố thí đồng sanh với hỉ: bố thí bằng đức tin trong sạch,
nên đại thiện tâm đồng sanh với tâm hoan hỉ trong việc phước thiện bố thí ấy,
cảm thấy hài lòng nơi người thọ thí và vật thí của mình.
Upekkhādāna: bố thí đồng sanh với xả: bố thí bằng đức tin, song đại
thiện tâm
đồng sanh với xả, vì không cảm thấy hài lòng nơi người thọ thí, hoặc
vật thí của mình.

Trong
hai loại bố thí này, nếu dục giới thiện nghiệp, thì somanassadāna có năng lực
phước thiện bố thí mạnh hơn upekkhādāna; còn trong sắc giới thiện nghiệp thì
upekkhādāna có năng lực phước thiện bố thí mạnh hơn somanassadāna.

Dhammiyadāna
– Adhammiyadāna.


Dhammiyadāna: bố thí những vật thí hợp pháp: của cải phát sanh một cách
hợp pháp, đem làm phước thiện bố thí, phước thiện này trong sạch, không bị ô
nhiễm
bởi ác pháp.
Adhammiyadāna: bố thí những vật thí phi pháp: của cải phát sanh một
cách phi pháp, như trộm cắp, lường gạt… đem làm phước thiện bố thí, phước
thiện
này không hoàn toàn trong sạch, bị ô nhiễm bởi ác pháp.

Kāladāna
– Akāladāna.


Kāladāna: bố thí đúng thời, đúng lúc, đúng thời gian quy định như:

*
Vassikasātikadāna: bố thí dâng y tắm mưa: Đức Phật cho phép Tỳ
khưu nhận y tắm mưa kể từ ngày 01 tháng 6 đến ngày 15 tháng 6 (AL) là hết hạn.
Trong khoảng thời gian 15 ngày ấy, chư Tỳ khưu chỉ có thể nhận y tắm mưa 1 lần
trong một ngày nào đó mà thôi. Vì vậy, thí chủ cũng chỉ có thể bố thí dâng y
tắm mưa trong khoảng thời gian 15 ngày.

*
Kathinadāna: bố thí dâng y kathina: Đức Phật cho phép Tỳ khưu Tăng sau
khi đã an cư suốt ba tháng mùa mưa, tại một nơi nào rồi, được phép nhận lãnh y
kathina, kể từ ngày 16 tháng 9 đến ngày 15 tháng 10 (AL). Trong khoảng thời
gian
một tháng ấy, chư Tỳ khưu Tăng chỉ có thể thọ lãnh y kathina 1 lần trong
một ngày nào đó mà thôi, còn lại các ngày khác, không thể thọ lãnh y kathina
được nữa.

*
Gilānabhatta: bố thí vật thực đến Tỳ khưu trong thời gian đang lâm bệnh.

*
Āgantukabhatta: bố thí vật thực đến Tỳ khưu khách từ xa mới đến.

*
Gamikabhatta: bố thí vật thực đến Tỳ khưu sắp đi xa….

Những
sự bố thí này đúng thời đúng lúc.


Akāladāna: bố thí không quy định thời gian.

Thí
chủ
bố thí bất cứ lúc nào, đến bất cứ người nào khi muốn bố thí.

Trong
hai loại phước thiện bố thí này, kaladāna có quả báu của phước thiện bố thí rất
đặc biệt hơn akāladāna như: cho quả báu tốt lành từ thuở ấu niên, được giàu
sang
phú quý, có những gì mà người khác khó có, được những gì mà người khác khó
được, khi cần thứ nào có ngay thứ ấy, đúng lúc đúng thời.

Trong
phần kāladāna, kathinadāna: bố thí dâng y kathina có quả báu đặc biệt. Thông
thường, các loại phước thiện bố thí, quả báu chỉ có thể phát sanh đến thí chủ
mà thôi. Song kathinadāna: phước thiện bố thí dâng y kathina, quả báu đặc biệt
phát sanh không những cho thí chủ, mà còn có quả báu đặc biệt phát sanh đến cho
chư Tỳ khưu Tăng thọ thí nữa.

Đức
Phật
cho phép chư Tỳ khưu Tăng, sau khi đã an cư nhập hạ một nơi suốt 3 tháng
mùa mưa, không bị đứt hạ, chư Tỳ khưu Tăng có thể thọ nhận y kathina, trong
thời gian hạn định chỉ một tháng kể từ ngày 16 tháng 9 đến 15 tháng 10 âm lịch.

Như
vậy, trong một năm có 12 tháng, chỉ có 1 tháng (kể từ ngày 16 tháng 9 đến 15
tháng 10 âm lịch) làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng; còn 11 tháng khác
không làm lễ dâng y kathina được. Trong 1 tháng có 30 ngày, chư Tỳ khưu Tăng ở
trong một ngôi chùa (hoặc một nơi nào) chỉ có thể thọ nhận y kathina một lần
trong một ngày nào đó mà thôi, còn lại 29 ngày khác không thể thọ nhận y
kathina được.

Cho
nên, thí chủ có cơ hội làm phước dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng có được
nhiều phước thiện, có nhiều quả báu đặc biệt hơn các sự bố thí khác.

Nhóm
bố thí có ba loại:


dụ:

Hīnadāna
– Majjhimadāna – Paṇītadāna.


Hīnadāna: bố thí bậc thấp: trong khi bố thí thiện tâm hợp với 4 pháp là:

*
Chanda: tâm hài lòng trong việc bố thí,

*
Vīriya: tinh tấn trong việc bố thí,

*
Citta: quyết tâm trong việc bố thí,

*
Vimanisa: trí tuệ hiểu biết rõ nghiệp và quả của nghiệp,


tính chất thấp kém, nên gọi bố thí bậc thấp, có quả báu bậc thấp.


Majjhimadāna: bố thí bậc trung: trong khi bố thí, thiện tâm hợp với 4
pháp: hài lòng, tinh tấn, quyết tâm, trí tuệ, có tính chất trung bình, nên gọi
bố thí bậc trung, có quả báu bậc trung.


Paṇītadāna: bố thí bậc cao quý: trong khi bố thí, thiện tâm hợp
với 4 pháp: hài lòng, tinh tấn, quyết tâm, trí tuệtính chất cao quý, nên
gọi bố thí bậc cao quý, có quả báu bậc cao quý.

Dānadāsi
– Dānasahāya – Dānasāmi.


Dānadāsi: bố thí như cho đến kẻ tôi tớ: thí chủ thường dùng những đồ
tốt, còn đem những đồ xấu bố thí đến người khác. Ví như người chủ dùng đồ tốt,
còn cho đồ xấu đến kẻ tôi tớ.


Dānasahāya: bố thí như tặng đến bạn thân: thí chủ dùng những đồ vật nhưthế nào, bố thí đến người khác những đồ vật như thế ấy. Ví như thí chủ dùng
những đồ vật như thế nào, tặng cho bạn thân những đồ vật cũng như thế ấy.


Dānasāmi: bố thí như biếu đến người chủ: thí chủ thường dùng những đồ
vật xấu, còn đem những đồ vật tốt, quý giá bố thí cúng dường đến người khác.
như
người nhỏ kính biếu những đồ vật quý giá đến người lớn, bậc đáng kính
trọng.

Mỗi
loại phước thiện bố thí đều có quả báu thấp, trung, cao khác nhau. v.v….

Bậc
Thiện trí bố thí có 5 chi

1-
Saddhadāna
: bậc Thiện trí bố thíđức tin
trong sạch nơi nghiệp và quả của nghiệp.

Bố
thí
bằng đức tin này có quả báu giàu sang phú quý, và đặc biệt nhất là có sắc
thân
xinh đẹp, đáng chiêm ngưỡng.

2-
Sakkaccadāna
: bậc Thiện trí bố thí bằng sự cung
kính
, và vật thí phát sanh một cách trong sạch.

Bố
thí
bằng sự cung kínhquả báu giàu sang phú quý, và đặc biệt nhất là toàn
thể
gia đình vợ con, tôi tớ, bà con, bạn bè, thuộc hạ… cả thảy đều ngoan
ngoãn
vâng lời, dễ dạy.

3-
Kāladāna:
bậc Thiện trí bố thí đúng thời, đúng
lúc
như trong các lễ dâng y tắm mưa, dâng y kathina, bố thí đến Tỳ khưu khách,
Tỳ khưu đi xa, Tỳ khưu bệnh, người bệnh, người đang đói khát….

Bố
thí
cúng dường đúng thời, đúng lúc, có quả báu giàu sang phú quý; và đặc biệt
nhất là có quả báu tốt lành từ thuở ấu niên cho đến lão niên, có những vật mà
người khác khó có, được những vật mà người khác khó được….

4-
Anuggahadāna
: bậc Thiện trí bố thí với tâm tế độ
người thọ thí.

Bố
thí
với tâm tế độ, có quả báu giàu sang phú quý, và đặc biệt nhất là quan tâm
đến sự hưởng thụ của cải cho được an lạc.

5-
Anupahaccadāna:
bậc Thiện trí bố thí không làm khổ
mình, không làm khổ người.

Bố
thí
không làm khổ mình, không làm khổ người có quả báu giàu sang phú quý, và
đặc biệt nhất là tất cả của cải không bị thiệt hại do bởi lửa thiêu hủy, không
bị nước ngập lụt cuốn trôi, không bị kẻ trộm cướp chiếm đoạt, không bị Đức Vua
tịch thu, không bị người không ưa thích tranh giành.

Như
trong kinh Sappurisadānasutta [Aṅguttaranikāya, phần 5 chi, kinh
Sappurisadānasutta], Đức Phật dạy:

Này
chư Tỳ khưu, bậc Thiện trí làm phước thiện bố thí bằng đức tin trong sạch sẽ
được quả báu nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đặc biệt là người có sắc thân
rất xinh đẹp, có màu da mịn màng trắng trẻo sạch sẽ, đáng để cho mọi người
ngưỡng mộ.

Bậc
Thiện trí làm phước thiện bố thí bằng sự cung kính sẽ được quả báu nhiều tiền của,
giàu sang phú quý và đặc biệt vợ con tôi tớ, người làm công, bè bạn, v.v… đều
lắng nghe và cung kính vâng lời làm theo lời khuyên dạy.

Bậc
Thiện trí làm phước thiện bố thí hợp thời, hợp lúc, sẽ được quả báu nhiều tiền
của
giàu sang phú quý và đặc biệt khi cần được thứ gì sẽ có được thứ ấy theo sự
mong muốn của mình.

Bậc
Thiện trí làm phước thiện bố thí với tâm tế độ người thọ thí, sẽ được quả báu
nhiều tiền của, giàu sang phú quý và đaëc biệt là người ấy thường quan tâm đến
sự thọ hưởng của cải, đầy đủ sung túc ngũ trần.

Bậc
Thiện trí làm phước thiện bố thí không làm khổ đến mình và người sẽ được quả
báu
nhiều tiền của, giàu sang phú quý, và đặc biệt tất cả của cải tài sản không
bị thiệt hại bởi lửa cháy, nước lụt, trộm cướp, vua chiếm đoạt và kẻ không ưa
thích
phá hoại.

Này
các Tỳ khưu đó là 5 cách phước thiện bố thí của bậc Thiện tríquả báu của
nó.

Hạng
người thiểu trí bố thí có 5 chi

1-
Asaddhadāna:
người thiểu trí bố thí không có đức
tin
trong sạch nơi nghiệp và quả của nghiệp.

Bố
thí
không có đức tin này cũng có quả báu giàu có, nhưng có sắc thân xấu xí
không đáng ngưỡng mộ.

2-
Asakkaccadana:
người thiểu trí bố thí không cung
kính
, vật thí phát sanh không trong sạch.

Bố
thí
không cung kính cũng cho quả báu giàu có, nhưng lời nói bị coi thường, những
người trong gia đình cũng như người khác không vâng lời làm theo.

3-
Akāladāna:
người thiểu trí bố thí cúng dường
không đúng thời, không đúng lúc.

Bố
thí
không đúng thời, không đúng lúc cũng có quả báu giàu có, nhưng khi cần đến
vật gì, không được vật ấy như ý.

4-
Anuggahadāna:
người thiểu trí bố thí không có tâm
tế độ.

Bố
thí
không có tâm tế độ cũng có quả báu giàu có, nhưng tâm không nghĩ đến sự
hưởng thụ của cải cho được an lạc.

5-
Upahaccadāna:
người thiểu trí bố thí làm khổ mình,
khổ người.

Bố
thí
làm khổ mình, khổ người cũng có quả báu giàu có, nhưng của cải dễ bị thiệt
hại
do bởi lửa thiêu hủy, nước ngập lụt cuốn trôi, bị kẻ trộm cướp chiếm đoạt,
Đức Vua tịch thu, người không ưa thích phá hoại.

5
đại thí (mahādāna)

1-
Không sát sanh gọi là đại thí.

Bởi vì người không sát sanh là người bố thí sự an toàn tánh mạng cho tất cả
chúng sinh, dầu nhỏ hay lớn; là bố thí sự không tai hại, không oan trái; là bố
thí
sự an lạc đến tất cả chúng sinh.

2-
Không trộm cắp gọi là đại thí.

Bởi vì người không trộm cắp là người bố thí sự an toàn của cải riêng của mọi
người
, lẫn của chung của xã hội, của quốc gia dân tộc; là bố thí sự không tai
hại
, không oan trái; là bố thí sự an lạc đến tất cả mọi người.

3-
Không tà dâm gọi là đại thí.
Bởi
vì người không tà dâm với vợ chồng của người khác, là người bố thí sự an toàn,
tôn trọng hạnh phúc gia đình của người khác; là bố thí sự không tai hại, không
oan trái; là bố thí sự an lạc đến tất cả mọi người.

4-
Không nói dối gọi là đại thí.

Bởi vì người không nói dối người khác là người bố thí lời chân thật, đem lại
niềm tin đối với mọi người; là bố thí sự không tai hại, không oan trái; là bố
thí
sự an lạc đến tất cả mọi người.

5-
Không uống rượu và chất say, nhân sanh dể duôi quên mình gọi là đại thí.
Bởi vì người không uống rượu và chất say, là người có trí
nhớ
, trí tuệ, biết mình không làm những điều tội ác như: sát sanh, trộm cắp,
dâm
, nói dối… là người bố thí sự an toàn cho tất cả chúng sinh; là bố thí sự
không tai hại, không oan trái; là bố thí sự an lạc đến tất cả chúng sinh.

Năm
đại thí này có quả báu lớn là được vẹn toàn tất cả như: không bị tai hại, không
bị oan trái, không ai làm khổ mình….

Trường
Cửu
Thí (thāvaradāna)

Trường
cửu
thí:
bố thí những vật có tính chất
bền vững lâu dài theo thời giankhông gian, thì phước thiện bố thí cũng tăng
trưởng
theo thời giankhông gian ấy. Nghĩa là, vật thí còn tồn tại chừng
nào
, thì phước thiện ngày đêm cũng tăng trưởng chừng ấy.

Trường
cửu
thí (thāvaradāna) có 6 loại:

1-
Ārāmaropadāna:
làm phước thiện bố thí trồng những
cây ăn quả, những cây cho bóng mát ở trong vườn.

2-
Vanaropadāna:
làm phước thiện bố thí trồng cây gỗ
quý như: cẩm lai, cây sao… thành rừng cây.

3-
Setukārakadāna:
làm phước thiện bố thí xây cầu nối
liền hai bên bờ sông để người qua lại được thuận lợi ngày đêm.

4-
Papadāna:
làm phước thiện bố thí hũ nước uống
đặt bên đường để cho người qua, kẻ lại uống đỡ khát nước.

5-
Udapānadāna:
làm phước thiện bố thí đào giếng
lấy nước dùng, nước uống cho mọi người.

6-
Upassayadāna:
làm phước bố thí xây cất nhà nghỉ,
nhà trọ, chùa, chỗ ở dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng từ bốn phương.

Những
vật thí này có tính chất bền vững lâu dài theo thời giankhông gian, gọi là
trường cửu thí, đem lại sự lợi ích, sự an lạc cho mọi người. Cho nên, phước
thiện
của thí chủ được tăng trưởng suốt ngày đêm không ngừng nghỉ.

Quả
Báu
Bố Thí

Trong
kinh Dānānisaṃsasutta [Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, kinh Dānānisaṃsāsutta]
dạy:

Thí
chủ
làm phước thiện bố thí có được 5 quả báu kiếp hiện tại và kiếp vị lai như
sau:

1- Thí chủ
được nhiều người hài lòng kính mến.
2- Bậc Thiện trí thường gần gũi tế độ thí chủ.
3- Tiếng lành, tiếng tốt của thí chủ được lan truyền.
4- Thí chủ không sao nhãng việc hành pháp của người tại gia.
5- Thí chủ sau khi chết, do thiện nghiệp này cho quả được tái sanh nơi cõi trời
dục giới
, hưởng sự an lạc trong cõi trời.

Quả
báu
phước thiện bố thí vật thực

Trong
kinh Bhojanadānasutta [Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, kinh Bhojanadānasutta]
dạy:

Thí
chủ
làm phước thiện bố thí vật thực, gọi là bố thí 5 pháp đến cho người thọ thí.

1-
Bố thí sự sống lâu:
nhờ vật thực nên duy trì được mạng
sống.
2- Bố thí sắc đẹp:

nhờ vật thực nên mặt mày tươi tỉnh, sắc thân hồng hào
xinh đẹp.
3- Bố thí sự an lạc:

nhờ vật thực nên thân tâm có được sự an lạc.
4- Bố thí sức mạnh:

nhờ vật thực nên có được sức mạnh của thân, tâm.
5- Bố thí trí tuệ:

nhờ vật thực nên tâm được an tịnh, trí tuệ sáng suốt.

Khi
thí chủ bố thí sự sống lâu rồi, sẽ có được tuổi thọ sống lâu trong cõi người
tuổi thọ trong cõi trời.

Khi
bố thí sắc đẹp rồi, sẽ có được sắc đẹp trong cõi người và sắc đẹp trong cõi
trời
.

Khi
bố thí sự an lạc rồi, sẽ có được thân tâm an lạc trong cõi ngườian lạc
trong cõi trời.

Khi
bố thí sức mạnh rồi, sẽ có được sức mạnh của thân tâm trong cõi ngườisức
mạnh
của thân tâm trong cõi trời.

Khi
bố thí trí tuệ rồi, sẽ có được trí tuệ, có tài ứng đối nhanh, khiến cho người
nghe kính phục.

Quả
báu
bố thí trong kiếp hiện tại

Kinh
Sīhasenāpatisutta [Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, kinh Sīhasenāpatisutta] dạy:

Một
thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa trong khu rừng lớn gần thành Vesāli. Khi
ấy, vị thừa tướng Sīha đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn bèn bạch rằng:

Kính
bạch Đức Thế Tôn, Ngài có thể thuyết giảng cho con thấy được quả báu của sự bố
thí
ngay trong kiếp hiện tại không?


Đức Phật dạy rằng: Có thể được!

Này
thừa tướng Sīha, thí chủ là người được phần đông mọi người thương yêu kính mến.
Đó là quả báu của phước bố thí hưởng trong kiếp hiện tại.

Này
thừa tướng Sīha, chư bậc Thiện trí thường đến tế độ thí chủ. Đó là quả báu của
phước bố thí hưởng trong kiếp hiện tại.

Này
thừa tướng Sīha, danh thơm tiếng tốt của thí chủ được lan truyền khắp mọi nơi.
Đó là quả báu của phước bố thí hưởng trong kiếp hiện tại.

Này
thừa tướng Sīha, thí chủ đi vào hội đoàn nào như Vua chúa, Sa môn, Bà la môn,
cư sĩ có tâm dũng cảm, không rụt rè. Đó là quả báu của phước bố thí hưởng trong
kiếp hiện tại.

Này
thừa tướng Sīha, thí chủ sau khi chết, do phước bố thí cho quả được tái sanh
cõi thiện giới, cõi trời dục giới. Đó là quả báu của phước bố thí hưởng trong
những kiếp sau.

Nghe
Đức Thế Tôn thuyết giảng như vậy, vị thừa tướng Sīha bạch rằng:

Kính
bạch Đức Thế Tôn, Ngài thuyết giảng quả báu bốn điều trước, không phải con tin,
mà chính con đã thấy rằng: con là thí chủ được phần đông mọi người thương yêu
kính mến, chư bậc Thiện trí thường đến tế độ con, danh thơm tiếng tốt của con
được lan truyền khắp mọi nơi rằng: “Thừa tướng Sīha là thí chủ thường cúng
dường
đến chư Đại Đức Tăng…”, con đi vào hội đoàn Vua chúa, Sa môn,
la môn
, cư sĩ với tâm dũng cảm, không rụt rè.

Kính
bạch Đức Thế Tôn, bốn quả báu của phước bố thí mà con đã thấy rõ trong kiếp
hiện tại này, đúng như những điều mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng. Và điều thứ
năm mà Ngài thuyết giảng: “Thí chủ sau khi chết, do phước bố thí cho quả
được tái sanh cõi thiện giới, cõi trời dục giới”, điều ấy con chưa thấy,
nhưng con có đức tin theo Đức Thế Tôn.

Đức
Phật
khẳng định lại một lần nữa rằng:

Đúng
như vậy! Này thừa tướng Sīha.

Đúng
như vậy! Này thừa tướng Sīha, thí chủ sau khi chết, do phước bố thí cho quả
được tái sanh cõi thiện giới, cõi trời dục giới,….

Những
Đại Thí Chủ Xuất Sắc về Hạnh Bố Thí

TÍCH ÔNG PHÚ HỘ
ANĀTHAPIṆḌIKA

Tiền thân của ông
phú hộ Anāthapiṇṇika là một cận sự nam trong thời Đức Phật Padumuttara [thời kỳ
Đức Phật Padumuttara thời gian cách Đức Phật Gotama 100 ngàn đại kiếp, trải qua
14 Đức Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian] xuất hiện trên thế gian. Một hôm,
ông ngồi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp; nhân dịp ấy, Đức Phật tuyên dương công
đức
một cận sự namthí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, trong hàng
cận sự nam thí chủ đệ tử của Ngài. Nghe thấy xong, ông vô cùng hoan hỉ, có
nguyện vọng muốn trở thành người cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan
hỉ
bố thí, trong hàng cận sự nam của một Đức Phật trong thời vị lai.

Người cận sự nam (tiền
thân
của ông phú hộ Anāthapiṇṇika)
ấy, kính thỉnh Đức Phật Padumuttara cùng
chư Đại Đức Tăng làm phước thiện bố thí, ông phát nguyện muốn trở thành người
cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí, như người cận sự nam
thí chủ của Ngài. Đức Phật Padumuttara dùng Phật nhãn thấy rõ kiếp vị lai của
người cận sự nam này nên thọ ký rằng:

Thời vị lai,
Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, người cận sự nam này sẽ trở thành
cận sự nam thí chủ suất sắc nhất về hạnh hoan hỉ
bố thí, trong hàng cận sự nam của Đức Phật Gotama.

Người cận sự nam
ấy vô cùng hoan hỉ tạo mọi phước thiện bố thí cho đến trọn đời.

Từ thời kỳ Đức
Phật
Padumuttara cho đến Đức Phật Gotama thời gian cách 100 ngàn đại kiếp trái
đất, trải qua 14 Đức Phật, người cận sự nam ấy, trong vòng tử sanh luân hồi, do
phước thiện cùng nguyện lực thường được tái sanh làm thiên nam trong cõi trời,
hoặc người nam cõi người, trong gia đình phú hộ, có đức tin trong sạch, thường
hoan hỉ trong việc làm phước thiện bố thí.

Kiếp hiện tại, tái
sanh
làm con trai trong gia đình phú hộ Sumana, cha mẹ đặt tên Sudatta. Cậu
Sudatta, con phú hộ, lập ra một trại bố thí, hằng ngày phân phát vật thực cho
những người cô độc không nơi nương tựa. Do đó, người đời tặng ông cái tên mới
Anāthapiṇṇika, về sau, phần đông mọi người biết đến tên mới này, còn tên cũ do
cha mẹ đặt ít ai biết đến.

Một lần, phú hộ
Anāthapiṇṇika dẫn đầu 500 cỗ xe chở hàng đến kinh thành Rājagaha, bán cho phú
hộ
trong kinh thành ấy, vốn là anh em rể với nhau.

Trong dịp ấy, phú
hộ
Anāthapiṇṇika được nghe tin lành “Buddho” Đức Phật
đã xuất hiện trên thế gian, vừa nghe danh hiệu “Buddho”
ông phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nghĩ rằng: “trong thế gian này nghe
được
danh hiệu “Buddho” hiếm có lắm, khó lắm!”.
Ông
muốn đến hầu Đức Phật ngay, nhưng vì ban đêm không tiện, nên nằm chờ đến sáng.
Trong lúc nằm ông chỉ niệm tưởng đến Ân Đức Phật “Buddho”,
nên tâm phát sanh ánh sáng, ông tưởng đã gần sáng liền thức dậy, ông đi đến hầu
Đức Phật vào canh chót đêm.

Đức Phật biết rõ
ông Anāthapiṇṇika sắp đến, Ngài đi kinh hành xong ngồi chờ ông. Ông vừa đến
gần
, Đức Phật gọi:

– Ehi
Sudatta!
Này Sudatta, con hãy
lại đây!

Nghe Đức Phật gọi
đích danh Sudatta, ông vô cùng hoan hỉ, bởi từ lâu mọi người chỉ biết ông với
cái tên Anāthapiṇṇika mà thôi; còn tên thật của ông do cha mẹ đặt, mọi người
không ai nhắc đến. Nay, nghe Đức Phật gọi tên thật của mình, nên ông liền phát
sanh đức tin trong sạch, hết lòng tôn kính Đức Phật, đến hầu đảnh lễ dưới hai
bàn chân của Ngài.

Khi ấy, Đức Phật
thuyết pháp tế độ ông, ông lắng nghe, thực hành theo liền chứng ngộ chân lý Tứ
thánh đế
, chứng đắc Nhập Lưu Thánh ĐạoNhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc
Thánh Nhập Lưu, ông tán dương ca tụng Đức Phật rằng:

Kính bạch Đức
Thế Tôn
, con thật vô cùng hoan hỉ!

Kính bạch Đức
Thế Tôn
, con thật vô cùng hoan hỉ!

Đức Thế Tôn
thuyết pháp bằng nhiều phương pháp khác nhau, ví như lật ngửa ra vật bị che
đậy
, hoặc mở ra vật bị đóng chặt, hoặc chỉ đường cho người đang lạc đường, hoặc
rọi đèn soi sáng vào nơi tăm tối cho người có đôi mắt sáng được nhìn thấy tất
cả mọi vật hiện hữu.

Con xin nguyện
hết lòng thành kính xin quy y nương nhờ nơi Đức Thế Tôn, nơi Đức Pháp, nơi Đức
Tăng
.

Kính xin Đức
Thế Tôn
chấp thuận con là người cận sự nam đã quy y Tam bảo kể từ nay cho đến
trọn đời.

Ông Anāthapiṇṇika
đã quy theo cách siêu tam giới quy y (lokuttarasaraṇagamana).

Ông kính thỉnh Đức
Phật
cùng 1.000 chư Đại Đức Tăng cúng dường vật thực vào hôm sau. Nhân dịp ấy,
ông kính thỉnh Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng ngự đến kinh thành Sāvatthi để tế
độ
dân chúng nơi đó. Đức Phật nhận lời bằng cách làm thinh.

Từ kinh thành
Rājagaha đến kinh thành Sāvatthi cách xa 45 do tuần [1 do tuần khoảng 20.482,56
mét hoặc 12,72 miles]. Mỗi do tuần ông bỏ ra số tiền 100 ngàn kahāpana (tiền
Ấn) nhờ những người bạn thân xây cất một ngôi chùa, để Đức Phật cùng chư Đại
Đức
Tăng nghỉ chân. Khi ông về đến kinh thành Sāvatthi, ông chọn khu vườn của
ông hoàng Jeta, rồi mua khoảng đất ấy, bằng cách lót vàng trên mặt đất, ông đã
xuất kho vàng trị giá khoảng 180 triệu đồng vàng để mua đất, 180 triệu để xây
cất ngôi chùa, đặt tên chùa Jetavana, và chi phí thêm số tiền 180 triệu để tổ
chức lễ khánh thành dâng ngôi chùa ấy đến chư Tăng tứ phương, có Đức Phật chủ
trì chứng minh và làm phước bố thí kéo dài suốt 3 tháng.

Như vậy, đại thí
chủ
Anāthapiṇṇika hiến dâng tổng số tiền 540 triệu làm phước bố thí: mua đất,
cho xây cất chùa Jetavana và tổ chức lễ khánh thành, làm phước bố thí.

Trong tư thất của
ông thường có làm các loại bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng như:

Hằng ngày dâng vật
thực bằng thẻ có 500 vị.
Hằng tháng dâng vật thực 2 kỳ có 500 vị, vào ngày rằm và cuối tháng.
Hằng ngày dâng cháo sáng bằng thẻ có 500 vị.
Hằng tháng dâng cháo sáng 2 kỳ có 500 vị, vào ngày rằm và cuối tháng.
Hằng ngày dâng vật thực đến 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu khách mới đến 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu sắp đi xa 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu bệnh 500 vị.
Dâng vật thực cho Tỳ khưu nuôi Tỳ khưu bệnh 500 vị.

Như vậy, trong tư
thất phú hộ Anāthapiṇṇika luôn luôn sửa soạn sẵn 500 chỗ ngồi để đón tiếp chư
Tỳ khưu.

Trong dịp chư Tăng
hội họp, Đức Phật tuyên dương công đức ông phú hộ Anāthapiṇṇika:

“Etadaggaṃ
bhikkhave, mama sāvakānaṃ upāsakānaṃ dāyakānaṃ yadidaṃ Sudatto gahapati
Anāthapiṇṇiko”.

“Này chư
Tỳ khưu, trong hàng nam Thanh Văn cận sự nam của Như Lai, Anāthapiṇṇika tên
thật
Sudatta là người cận sự nam thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố
thí”.

Phú hộ
Anāthapiṇṇika, mỗi ngày 2-3 lần đến chùa Jetavana hầu Đức Phật hoặc thăm viếng
chư Đại Đức, Tỳ khưu, Sa di, nếu có bận rộn nhiều công việc, thì ít nhất cũng
một lần, không có ngày nào mà ông không đến chùa, thành thói quen thường ngày
của ông. Mỗi lần đến chùa, ông phú hộ thường mang theo những vật dụng cần thiết
dâng cúng đến Đức Phật, hoặc chư Tỳ khưu, Sa di.

Đến ngày cuối cùng
cuộc đời ông phú hộ Anāthapiṇṇika đang lâm bệnh nặng, nằm trên giường, không
thể đến chùa được, ông nhờ một người thân tín bảo rằng:

Này con, con
hãy đến chùa, đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn bạch rằng: “Ông Anāthapiṇṇika
đang lâm bệnh nặng, sắc thân thọ khổ, nhờ con thay ông đến đảnh lễ dưới chân
Ngài.

Và con đến đảnh
lễ
dưới chân Ngài Đại Đức Sāriputta bạch rằng: “Ông Anāthapiṇṇika đang lâm
bệnh
nặng, sắc thân thọ khổ, nhờ con thay ông đảnh lễ dưới chân Ngài, kính
thỉnh Ngài đến nhà ông với tâm bi tế độ ông”.

Ngài Sāriputta
nhận lời bằng cách làm thinh, rồi gọi Đại Đức Ānanda cùng đi theo đến nơi biệt
thự của ông Anāthapiṇṇika, thăm hỏi bệnh tình của ông, Ngài Sāriputta thuyết
pháp
tế độ ông. Ông vô cùng hoan hỉ theo lời dạy của Ngài Đại Đức Sāriputta.

Phú hộ
Anāthapiṇṇika vô cùng cảm kích trước tấm lòng bi mẫn của Ngài Đại Đức
Sāriputta, đã đến thuyết pháp tế độ ông trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời.

Ngài Đại Đức
Sāriputta với Ngài Đại Đức Ānanda từ giã ông phú hộ Anāthapiṇṇika không lâu,
thì ông phú hộ Anāthapiṇṇika từ giã cuộc đời. Sau khi chết, do thiện nghiệp cho
quả tái sanh làm thiên nam ở cõi trời Tusita (Đâu suất đà thiên),sắc
thân
hào quang sáng ngời, trong lâu đài nguy nga tráng lệ đặc biệt hơn các
thiên nam khác.

Vào canh chót đêm
hôm ấy, thiên nam Anātha-piṇṇika từ cõi trời Tusita hiện xuống chùa Jetavana
với ánh hào quang sáng ngời, đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, đứng một nơi hợp lẽ,
tán dương Ân Đức Phật, Ân Đức Pháp, Ân Đức Tăng, tán dương ân đức Ngài Đại Đức
Sāriputta, rồi đảnh lễ Đức Thế Tôn xin phép trở về cõi Tusita.

Sáng hôm sau, Đức
Phật
dạy chư Tỳ khưu rằng:

– Này chư Tỳ khưu,
canh chót đêm qua, có vị thiên nam đến hầu đảnh lễ Như Lai, đứng một nơi hợp
lẽ, tán dương Ân Đức Phật, Ân Đức Pháp, Ân Đức Tăng, tán dương ân đức
Sāriputta, rồi đảnh lễ Như Lai xin phép trở về cõi trời Tusita.

Ngài Đại Đức
Ānanda đoán biết vị thiên nam ấy là ai, nên bạch Đức Thế Tôn rằng:

– Kính bạch Đức
Thế Tôn
, có phải vị thiên nam ấy là vị thiện nam Anāthapiṇṇika không? Bạch
Ngài.

Đức Thế Tôn dạy:

– Đúng vậy Ānanda!
Vị thiên nam ấy chính là Anāthapiṇṇika.

Vị thiên nam
Anāthapiṇṇika là 1 trong 7 vị Thánh Nhập Lưu đặc biệt, có lời phát nguyện xin
thọ hưởng sự an lạc tuần tự các tầng trời dục giới cho đến các tầng trời sắc
giới
tột cùng, cõi Sắc cứu cánh thiên, sẽ tịch diệt Niết Bàn nơi cõi này. Do
đó, vị thiên nam Anāthapiṇṇika, khi tái sanh đến cõi Tha hoá tự tại thiên, tầng
trời thứ 6 tột cùng của cõi trời dục giới, vị thiên nam ấy tiến hành thiền định
chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, cho quả tái sanh làm phạm thiên cõi trời sắc
giới
Phạm chúng thiên (Brahmaparisajjā); tiếp tục tiến hành thiền định
chứng đắc đệ nhị thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ nhị
thiền
; chứng đắc đệ tam thiền sắc giới, cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới
đệ tam thiền; và tiếp tục chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới đồng thời chứng đắc
Nhất Lai Thánh ĐạoNhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh ĐạoBất Lai Thánh Quả
trở thành bậc Thánh Bất Lai được tái sanh lên tầng trời sắc giới Tịnh cư thiên (Suddhavāsa)
có 5 tầng trời theo tuần tự Vô phiền thiênVô nhiệt thiênThiện hiện
thiên
Thiện kiến thiên và đến tầng Sắc cứu cánh thiên (Akaniṭṭhā) tột
cùng cõi trời sắc giới, sẽ chứng đắc A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả
trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hưởng hết tuổi thọ 16.000 đại kiếp rồi tịch diệt
Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới.

TÍCH BÀ ĐẠI THÍ
CHỦ
VISĀKHĀ

thời kỳ Đức Phật
Padumuttara, tiền kiếpcận sự nữ Visākhā đã từng phát nguyện mong trở thành
cận sự nữ đại thí chủ, xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí trong hàng cận sự
nữ
của một Đức Phật trong thời vị lai. Bà được Đức Phật Padumuttara thọ ký.

Từ kiếp đó về sau,
trong vòng tử sanh luân hồi suốt 100 ngàn đại kiếp, do thiện nghiệp cho quả
thường tái sanh làm thiên nữ cao quý cõi trời hoặc cõi người là con gái trong
gia đình phú hộ, bà có đức tính hoan hỉ trong việc bố thí.

Kiếp hiện tại, tái
sanh
làm con gái của phú hộ Dhanañjaya tại kinh thành Bhaddiya, xứ Aṅga, đặt
tên là Visākhā. Cô Visākhā mới lên bảy tuổi đi cùng với ông nội, phú hộ
Meṇṇaka, đến nghe Đức Phật thuyết pháp xong, cô cùng với 500 cô bạn gái đều
chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, ông phú hộ Meṇṇaka cũng chứng đắc thành bậc
Thánh Nhập Lưu cùng lúc ấy.

Theo sự yêu cầu
của đức vua Pasenadikosala xứ Sāvatthi, toàn thể gia đình của cô Visākhā di
chuyển
đến xứ Sāvatthi, tạo lập thành phố Sāketa sinh sống.

Cô Visākhā trưởng
thành
kết hôn cùng với cậu Puṇṇavaṇṇhana con trai của phú hộ Migāra trong xứ
Sāvatthi.

Cô về làm dâu
trong gia đình Migāra, là gia đình theo phái ngoại đạo loã thể, không có đức
tin
nơi Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng.

Một hôm, chư Đại
Đức
đi khất thực đứng trước ngôi biệt thự cha chồng, cha chồng vẫn ngồi dùng
vật thực ngon lành không hề quan tâm đến vị Đại Đức khất thực, nàng Visākhā
nhìn thấy vậy nên bạch rằng:

– Aticchatha Bhante, mayhaṃ sasuro purāṇam
khādati
[Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Visākhāvatthura].

Kính bạch Ngài,
kính thỉnh Ngài hoan hỉ sang nhà khác, cha chồng của con dùng đồ cũ.

Ông phú hộ Migāra
nghe con dâu của mình nói “Purāṇam khādati: dùng đồ cũ”, ông hiểu ý
nghĩa là “Asucikhādakaṃ: dùng đồ dơ”. Ông tức giận quyết định đuổi
nàng dâu ra khỏi nhà. Nhưng không dễ dàng như ông nghĩ, vì khi cô Visākhā về
nhà chồng, thân phụ của cô gởi theo 8 vị luật sư. Mỗi khi xảy ra chuyện gì có 8
vị luật sư xét xử cô có tội hay vô tội.

Ông phú hộ Migāra
mời 8 vị luật sư xét hỏi về điều cô nói “Purāṇam khādati” có ý nghĩa
gì?

Cô Visākhā giải
thích
rằng:

– Mayhaṃ sasuro
imasmiṃ attabhāve puññaṃ na karoti, purāṇapuññameva khādati
[Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Visākhāvatthura].

“Cha chồng
của con, kiếp hiện tại này không làm phước thiện bố thí, chỉ hưởng quả của
phước thiện bố thí cũ mà thôi.”,
hoàn
toàn
không có ý “dùng đồ dơ” như ông hiểu lầm. Như vậy, các luật sư
phán xét cô hoàn toàn vô tội. Ông Migāra trình bày những lỗi khác của nàng dâu;
những luật sư xét xử cô đều vô tội, chẳng qua là sự hiểu lầm của phú hộ
thôi.

Cô Visākhā thưa
rằng:

– Kính thưa quý
vị luật sư, trước đây, cha chồng của con hiểu lầm rằng con có tội, đuổi con ra
khỏi nhà. Qua sự xét xử, con là người hoàn toàn vô tội, nay con xin từ giã ngôi
biệt thự này, trở về nhà cha mẹ của con.

Ông phú hộ Migāra
khẩn khoản xin con dâu miễn chấp rằng:

– Này con, cha
đã hiểu lầm, nên bắt tội con, nay cha đã biết mình có lỗi đối với con, xin con
miễn chấp lỗi cho cha.

Nàng Visākhā thưa
với cha chồng rằng:

– Thưa cha, con
sẵn sàng miễn chấp lỗi của cha, xin cha cho con một đặc ân: con là người cận sự
nữ
đã quy y Tam bảo, có đức tin vững chắc nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Cho
nên, con không thể sống thiếu Đức Phật, thiếu nghe pháp, và thiếu tạo phước
thiện
bố thí cúng dường đến chư Đại Đức Tăng. Nếu cha muốn con ở lại đây, xin
cha cho phép con được chiêm bái Đức Phật, nghe pháp, làm phước thiện bố thí
cúng dường đến chư Đại Đức Tăng. Nếu không con sẽ rời khỏi nơi đây.

– Này con, cha
chấp thuận theo yêu cầu của con, con được chiêm bái Đức Phật, nghe pháp
thỉnh chư Đại Đức Tăng về nhà làm phước.
– Ông phú hộ Migāra bảo.

Hôm sau, nàng
Visākhā thỉnh Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng đến nhà dâng cúng vật thực. Khi
thọ thực xong, nàng Visākhā cho người mời cha chồng đến nghe Đức Phật thuyết
pháp
. Ông sửa soạn đi, thì vị Đạo Sư phái ngoại đạo loã thể ngăn lại. Mặc dầu
vậy, Đức Phật thuyết pháp ông vẫn nghe rõ ràng từng tiếng, từng câu. Khi Đức
Phật
thuyết pháp xong, ông liền chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập
Lưu
Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu ngay khi ấy.

Ông phú hộ Migāra
đến hầu Đức Phật, đảnh lễ dưới hai bàn chân Ngài bạch rằng:

– Kính bạch Đức
Thế Tôn
, con là Migāra! Bạch Ngài.
Kính bạch Đức Thế Tôn, con là Migāra! Bạch Ngài.

Trước sự hiện diện
của Đức Phật, ông thưa với nàng dâu rằng:

– Này con, kể từ
nay con ở ngôi vị là mẹ của ta.

Từ đó nàng Visākhā
thêm vào tên là Visākhā Migāramātā: nàng Visākhā mẹ phú hộ Migāra.

Bà Visākhā
Migāramātā có 20 đứa con: 10 con trai và 10 con gái. Mỗi đứa con trai, mỗi đứa
con gái có 20 người con: 10 con trai và 10 con gái. Mỗi cháu trai, mỗi cháu gái
lại có 20 người con: 10 con trai, 10 con gái. Như vậy, bà Visākhā Migāramātā có
20 người con, 400 người cháu và 8.000 người chắt.

Bà Visākhā Migāramātā
thường hoan hỉ trong mọi phước thiện bố thí.

Một thuở nọ, bà
đến đảnh lễ Đức Phật xin phép 8 đặc ân:

1- Xin dâng y tắm
mưa đến chư Tỳ khưu trọn đời.
2- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu khách mới đến.
3- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu sắp đi xa.
4- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu lâm bệnh.
5- Xin dâng vật thực đến chư Tỳ khưu nuôi Tỳ khưu bị bệnh.
6- Xin dâng thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu mắc bệnh.
7- Hằng ngày xin dâng cháo buổi sáng đến chư Tỳ khưu.
8- Xin dâng y tắm đến chư Tỳ khưu ni Tăng.

Tám đặc ân này
được Đức Phật cho phép, bà Visākhā vô cùng hoan hỉ trong mọi việc làm phước
thiện
bố thí này.

Một dịp nọ, đến
chùa nghe Đức Phật thuyết pháp, bà Visākhā mang theo một tấm choàng mahālatā
kết bằng những viên ngọc quý. Bà cởi trao cho đứa tớ gái, vào đảnh lễ Đức Thế
Tôn
, ngồi nghe pháp, nghe xong, bà đảnh lễ Đức Thế Tôn xin phép đi về, cô tớ
gái đi về theo, để quên lại tấm choàng mahālatā tại giảng đường. Sau khi tất cả
mọi người đi về hết, Ngài Đại Đức Ānanda nhìn thấy tấm choàng của bà Visākhā để
quên lại, bạch Đức Thế Tôn rằng:

– Kính bạch Đức
Thế Tôn
, bà Visākhā đã về, để quên tấm choàng lại. Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn dạy
rằng:

– Này Ānanda con
nên để một nơi hợp lẽ.

Bà Visākhā đi thăm
viếng
Tỳ khưu bệnh, Tỳ khưu trẻ, Sa di…. Bà bảo đứa tớ gái mang tấm choàng
trở về. Cô tớ gái đã để quên tấm choàng lại trong giảng đường nên thưa:

– Thưa bà chủ, con
đã để quên tấm choàng.

Bà Visākhā dạy
rằng:

– Này con, con đi
đến chùa lấy tấm choàng đem về, nhưng nếu Ngài Đại Đức Ānanda đã đem tấm choàng
cất, thì con không nên lấy lại, ta xin dâng Ngài Ānanda tấm choàng ấy, nghe
con!

Ngài Đại Đức
Ānanda nhìn thấy cô tớ gái liền hỏi rằng:

– Này con, con đến
đây để làm gì?

– Bạch Ngài Đại
Đức
, con để quên tấm choàng của bà chủ, nên trở lại đây để lấy. – Cô tớ gái
thưa.

– Này con, bần
tăng
đã đem treo ở chỗ kia, con hãy đến lấy đem về.

– Kính bạch Ngài
Đại Đức, bà chủ con dặn rằng: nếu Ngài Đại Đức đã đụng chạm vào tấm choàng ấy
rồi, thì bà xin dâng Ngài tấm choàng ấy.

Cô tớ gái trở về,
không mang theo tấm choàng, thưa lại với bà chủ sự việc trên.

Bà Visākhā dạy cô
tớ gái rằng:

– Này con, tấm
choàng ấy Ngài Đại Đức đã đụng chạm, ta đã dâng đến Ngài rồi, như vậy, Ngài
phải giữ gìn nó là một điều vất vả. Vì vậy, con hãy đến đem tấm choàng ấy về
đây bán nó, để sắm những vật dụng cần thiết dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.

Nghe theo lời dạy
của bà Visākhā, cô tớ gái đến chùa đem tấm choàng ấy về trao lại cho bà.

Bà Visākhā đem bán
tấm choàng mahālatā kết bằng những viên ngọc quý với giá 90 triệu 100 ngàn đồng
vàng. Với giá ấy, không có một nhà phú hộ nào có khả năng mua nổi tấm choàng
ấy. Cuối cùng, chính bà Visākhā mua lại nó với giá 90 triệu 100 ngàn đồng vàng,
bà đến bạch Đức Thế Tôn rằng:

– Kính bạch Đức
Thế Tôn
, Ngài Đại Đức Ānanda dùng tay đụng tấm choàng của con, để cất giữ, nên
con không dám lấy lại; con xin xả tấm choàng ấy bằng cách bán nó, để sắm những
vật dụng hợp pháp cần thiết dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.

Kính bạch Đức Thế
Tôn
, ngoài con ra, không có một ai mua nổi với giá 90 triệu 100 ngàn đồng vàng.
Vậy chính con mua lại tấm choàng ấy với giá đó. Bạch Ngài.

Kính bạch Đức Thế
Tôn
, trong bốn thứ vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc trị bệnh, thứ nào
cần thiết nhất? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn dạy:

– Này Visākhā con!
Vậy con nên xây cất một ngôi chùa gần phía Đông cửa thành Sāvatthī, để dâng
cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.

Vô cùng hoan hỉ,
vâng theo lời dạy của Đức Thế Tôn, bà mua đất giá 90 triệu đồng vàng, cho xây
cất ngôi chùa “Pubbārāma”. Dưới sự chỉ dẫn của Ngài Đại Đức
Mahāmogallāna, công trình xây dựng suốt 9 tháng mới hoàn thành chi phí thêm 90
triệu đồng vàng; và tổ chức lễ khánh thành dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng tứ
phướng có Đức Phật chủ trì, rồi làm phước bố thí kéo dài suốt 4 tháng, chi phí
thêm 90 triệu nữa.

Như vậy, bà đại
thí chủ
Visākhā Migāramātā đã hiến dâng tổng số tiền 270 triệu làm phước bố
thí
: mua đất, xây cất ngôi chùa Pubbārāma và làm lễ khánh thành.

Tại tư thất của bà
Visākhā Migāramātā cũng như tư thất của phú hộ Anāthapiṇṇika, hằng ngày buổi
sáng dâng cúng cháo đến chư Tỳ khưu, buổi trưa dâng vật thực đến chư Tỳ khưu,
buổi chiều bà đem nước trái cây, thuốc trị bệnh đến dâng cúng đến chư Tỳ khưu
bị bệnh v.v….

Đức Phật tán dương
bà là người cận sự nữ đại thí chủ, xuất sắc nhất về hạnh bố thí trong hàng cận
sự nữ
đệ tử của Ngài như sau:

Etadaggaṃ
bhikkhave, mama sāvikānaṃ upāsikānaṃ dāyikānaṃ yadidaṃ Visākhā Migāramātā.

Này chư Tỳ
khưu, trong hàng nữ Thanh Văn cận sự nữ của Như Lai, Visākhā Migāramātā là cận
sự nữ
thí chủ xuất sắc nhất về hạnh hoan hỉ bố thí.

Bà Visākhā có tuổi
thọ sống lâu 120 tuổi, cuộc đời của bà từ thuở ấu niên, trung niên cho đến lão
niên đều hưởng sự an lạc, sống trong cảnh giàu sang phú quý; đó là quả của mọi
phước thiện, nhất là phước thiện bố thí. Cho nên, trong suốt cuộc đời của bà
không phải gặp cảnh khổ cực thiếu thốn về vật chất. Bà có nhiều tài sản của
cải
, lại càng hoan hỉ tạo nhiều phước thiện bố thí cho đến ngày cuối cùng cuộc
đời
của bà. Sau khi bà từ giả cõi người, do năng lực thiện nghiệp cho quả tái
sanh
làm thiên nữ trong cõi Hoá lạc thiên, cõi trời dục giới thứ 5, trở thành
chánh cung hoàng hậu của đức vua trời Sunimmita, hưởng sự an lạc trong cõi trời
này cho đến hết tuổi thọ 80.000 năm (so với cõi người 2.304 triệu năm, bởi
vì 1 ngày 1 đêm nơi cõi trời này bằng 800 năm cõi người).

Bà là 1 trong 7 vị
Thánh Nhập Lưu đặc biệt, có lời phát nguyện xin thọ hưởng sự an lạc tuần tầng
trời dục giới cho đến các tầng trời sắc giới tột cùng, cõi Sắc cứu cánh thiên,
sẽ tịch diệt Niết Bàn trong cõi này. Do đó, khi tái sanh làm thiên nữ cõi Tha
hoá tự tại thiên
, tầng trời thứ 6 tột cùng của cõi trời dục giới, thiên nữ
Visākhā tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhất thiền sắc giới, cho quả tái sanh
làm phạm thiên (không còn nữ tính) cõi trời sắc giới Phạm chúng thiên;
tiếp tục tiến hành thiền định chứng đắc đệ nhị thiền sắc giới, cho quả tái sanh
lên cõi trời sắc giới đệ nhị thiền; chứng đắc đệ tam thiền sắc giới, cho quả
tái sanh lên cõi trời sắc giới đệ tam thiền; và tiếp tục chứng đắc đệ tứ thiền
sắc giới đồng thời chứng đắc Nhất Lai Thánh ĐạoNhất Lai Thánh Quả, Bất Lai
Thánh ĐạoBất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Bất Lai được tái sanh lên
tầng trời sắc giới Tinh cư thiên có 5 tầng theo tuần tự cho đến tầng Sắc cứu
cánh thiên
(Akaniṭṭhā) tột cùng cõi trời sắc giới, sẽ chứng đắc A-ra-hán
Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hưởng hết tuổi thọ
16.000 đại kiếp rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam
giới
.

TÍCH ĐỨC VUA
ASOKA

Sau khi Đức Phật
tịch diệt Niết Bàn, Phật lịch 218, đức vua Asoka là một đấng minh quân trị vì
cõi Nam thiện bộ châu, có nhiều oai lực đặc biệt như thần thông, Đức Vua có đức
tin
trong sạch nơi Tam bảo.

Một hôm, đức vua
Asoka nhìn thấy Đại Đức Sa di Nirodha mới lên bảy tuổi, là bậc Thánh A-ra-hán
đang đi khất thực, Đức Vua phát sanh đức tin đặc biệt nơi vị Đại Đức Sa di
Nirodha (Đại Đức Nirodha kiếp trước đã từng là anh của Đức Vua). Đức Vua
truyền lệnh các quan thỉnh mời Đại Đức Sa di Nirodha vào cung điện, thỉnh ngoài
trên ngai vàng cao quý, tự tay Đức Vua để bát bằng những món vật thực của Đức
Vua dùng hằng ngày. Khi vị Đại Đức Sa di thọ thực xong, Đức Vua bèn thỉnh Ngài
thuyết pháp.

Vị Đại Đức Sa di
Nirodha thuyết dạy bài kệ trong Pháp cú:

“Appamādo
amatapadaṃ,
Pamādo maccuno padaṃ…”.

“Không dể
duôi, có chánh niệm,
là đường bất tử Niết Bàn,
Dể duôi là con đường tử…”.

Đức vua Asoka nghe
pháp
xong, càng tăng thêm đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng
gấp bội.

Hằng ngày Đức Vua
cúng dường vật thực đến chư Tỳ khưu Tăng gồm có 600.000 vị tại cung điện của
Đức Vua, bởi do đức tin trong sạch nơi vị Đại Đức Sa di Nirodha.

Một hôm Đức Vua dự
lễ bố thí tứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng 600.000 vị, Đức Vua bèn bạch chư Tỳ
khưu Tăng rằng:

– Kính bạch chư
Đại Đức Tăng, chánh phápĐức Phật thuyết giảng có bao nhiêu pháp môn? Bạch
quý Ngài.

Chư Đại Đức thưa:

– Thưa Đại Vương!
Chánh phápĐức Phật thuyết giảng có 84.000 pháp môn.

Đức Vua phát sanh
đức tin trong sạch nơi 84.000 pháp môn, nên Đức Vua truyền lệnh cho các quan ở
khắp mọi nơi trong nước rằng:

– Trẫm muốn
cúng dường mỗi pháp môn bằng một ngôi chùa và một bảo tháp, vậy Trẫm muốn xây
cất 84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp trên toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, các
khanh hãy đến mỗi tỉnh xây cất một ngôi chùa để cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng
và ngôi bảo tháp để tôn thờ Xá Lợi của Đức Phật.

Đức vua Asoka xuất
ra số tiền gồm có 960 triệu kahāpana để lo xây cất 84.000 ngôi chùa và 84.000
bảo tháp. Ngôi chùa trung tâm tại thủ đô đặt tên Asokārāma.

Việc xây cất
84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp suốt 3 năm mới hoàn thành.

Các quan ở mỗi
tỉnh đến chầu Đức Vua cùng một ngày, tâu lên Đức Vua rõ, những ngôi chùa và
những ngôi bảo tháp đã hoàn thành rồi.

Đức Vua truyền
chiếu chỉ trong toàn cõi Nam thiện bộ châu biết rằng: “còn 7 ngày nữa
sẽ làm đại lễ khánh thành những ngôi chùa và những ngôi bảo tháp ở từng nơi,
tất cả mọi thần dân trong nước đều thọ trì bát giới, sửa soạn làm đại lễ khánh
thành tất cả các ngôi chùa và ngôi bảo tháp, để cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng
từ kinh thành đến các tỉnh thành”.

Ngày đại lễ khánh
thành chùa và bảo tháp, trong kinh thành cũng như các tỉnh thành trang hoàng
đẹp đẽ như cõi trời, Đức Vua cùng các quan cũng như dân chúng trang điểm đẹp đẽ
trang nghiêm, đi dự đại lễ khánh thành chùa và tháp bảo.

Đức Vua ngự đến
ngôi chùa Asokārāma ở trung tâm chính tại kinh đô, kính thỉnh chư Tỳ khưu Tăng
toàn cõi Nam thiện bộ châu đến dự đại lễ khánh thành và thọ nhận 84.000 ngôi
chùa cùng bảo tháp ở mỗi nơi, có khoảng 800 triệu vị Tỳ khưu Tăng và 9.600.000
vị Tỳ khưu ni Tăng. Trong số đó có 100.000 bậc Thánh A-ra-hán.

Chư bậc Thánh A-ra-hán
suy tư rằng: “Nếu đức vua Asoka được nhìn thấy rõ việc đại bố thí
84.000 ngôi chùa và 84.000 bảo tháp, mà Đức Vua đã truyền lệnh xây cất, nay làm
lễ khánh thành dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng, sẽ làm cho Đức Vua vô cùng hoan
hỉ
, càng tăng thêm đức tin trong sạch nơi Tam bảo”.

Khi ấy, một vị
Thánh A-ra-hán liền hóa phép thần thông “Mở thế gian” (Lokavivaraṇa),
Đức Vua nhìn thấy mọi nơi không có gì che khuất cả. Dầu Đức Vua đang đứng tại
ngôi chùa Asokārāma trung tâm, mà có thể nhìn thấy rõ bốn hướng toàn cõi Nam
Thiện Bộ Châu, thấy rõ 84.000 ngôi chùa và 84.000 ngôi bảo tháp tôn thờ Xá Lợi
Đức Phật.

Thật vậy, đức vua
Asoka vô cùng hoan hỉ hơn bao giờ hết, Đức Vua suy tư rằng: sự việc đại bố
thí
như thế này, không biết đã có ai từng làm chưa?

Vì vậy Đức Vua bèn
bạch hỏi chư Đại Đức Tăng:

– Kính bạch chư
Đại Đức Tăng, trong giáo pháp Đức Thế Tôn của chúng ta, có thí chủ nào làm
phước đại bố thí như thế này không?

Chư Đại Đức Tăng
kính thỉnh Đại Đức Moggali-puttatissatthera trả lời câu hỏi của Đức Vua.

Đại Đức
Moggaliputtatissatthera trả lời rằng:

– Thưa Đại Vương,
trong Phật giáo, việc đại bố thí của Đại Vương như thế này, dầu khi Đức Thế Tôn
còn hiện tiền cho đến nay, chưa có một ai làm được như vậy. Chỉ có Đại Vương
đại thí chủ làm lễ đại bố thí lớn lao nhất từ trước cho đến nay mà thôi.

Đức Vua lắng nghe
câu trả lời của Ngài Đại Đức Moggaliputtatissatthera rồi phát sanh hỉ lạc chưa
từng có, rồi suy tư rằng: “Từ trước cho đến nay, chưa có thí chủ nào
làm phước đại bố thí như ta, ta là một đại thí chủ bố thí 4 thứ vật dụng lớn
lao như thế này, chắc có lẽ ta là thân quyến kế thừa Phật giáo (Dāyādo
sāsanassa) có phải không?”.

Do đó, Đức Vua bèn
bạch hỏi Đại Đức Moggali-puttatissatthera rằng:

– Kính bạch Ngài
Đại Đức, con đã làm đại bố thí bốn thứ vật dụng lớn lao như thế này, vậy, con
có phải là “Thân quyến kế thừa của Phật giáo” hay
không?

Ngài Đại Đức
Moggaliputtatissatthera quán xét về ba la mật của thái tử Mahinda và Công chúa
Saṃghamittā con của Đức Vua như thế nào. Ngài biết rõ Thái tửCông chúa xuất
gia
sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ giúp cho Phật giáo phát triển tốt đẹp
sau này. Cho nên Ngài đáp rằng:

– Thưa Đại vương,
người trở thành thân quyến kế thừa Phật giáo không phải do nhân
đại bố thí. Dầu người đại thí chủ bố thí bốn thứ vật dụng nhiều đến bao nhiêu
đi nữa, cũng chỉ gọi là: paccayadāyaka: đại thí chủ bố thí 4 thứ vật
dụng
,
hoặc gọi là: upaṭṭhāka: người hộ độ mà thôi….

Thưa Đại vương, sự
thật
, người nào dầu bố thí bốn thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng chất chồng từ
mặt đất cao đến cõi trời, người ấy không thể gọi là thân quyến kế thừa
của Phật giáo.

Lắng nghe lời dạy
của Ngài Đại Đức Moggali-puttatissatthera như vậy, nên đức vua Asoka cống hiến
vị hoàng thái tử Mahinda yêu quý nhất, cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu,
thay vì truyền ngôi báu, và công chúa Sanghamitta xuất gia trở thành Tỳ khưu ni
trong Phật giáo.

Đức vua Asoka
không chỉ là một đại thí chủ chưa từng có từ trước cho đến nay,
mà còn là một thân quyến kế thừa của Phật giáo, bởi vì Đức vua đã
cống hiến, cho phép 2 người con xuất gia trong Phật giáo, Người có công đức lớn
gởi các phái đoàn Đại Đức Tăng sang truyền bá Phật giáo ở đảo quốc Srilankā và
vùng Suvaṇṇabhūmi gồm các nước Indonesia, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và
Việt Nam.

Trên đây là những
nhân vật đại thí chủ xuất sắc nhất về phước hạnh bố thí trong thời kỳ Đức Phật
còn hiện tiền, và sau thời kỳ Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn.

NHỮNG
TÍCH BỐ THÍ

Những tích bố thí dưới đây, được
trích dịch tóm tắt từ các bộ Apādāna, bộ Vimānavatthu, bộ Chú giải
Dhammapadaṭṭhakathā, bộ Chú giải Aṅguttaranikāya, v.v….

Tích Bố Thí Những Vật Dụng

Vào thời kỳ Đức Phật Padumuttara
xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ngài Đại Đức Pilindavaccha [Bộ chú giải
Aṅguttaranikāya, phần Etadaggavagga] là một cận sự namđức tin trong sạch nơi
Đức Phật Padumuttara.

Một hôm, người cận sự nam này đến
nghe thuyết pháp, nhìn thấy Đức Phật tuyên dương một Tỳ khưu xuất sắc đệ nhất
trong hàng Thanh Văn đệ tử về đức hạnh, làm cho chư thiên yêu mến. Người cận sự
nam
này có nguyện vọng mong muốn được địa vị như vị Tỳ khưu ấy, nên làm phước
bố thí cúng dường Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng những vật dụng như y phục, vật
thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh; và được Đức Phật Padumuttara thọ ký rằng: “Trong
tương lai, còn 100 ngàn đại kiếp nữa, đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện
trên thế gian, người cận sự nam này sẽ xuất gia trở thành Tỳ khưu, rồi sẽ được
địa vị xuất sắc đệ nhất đức hạnh, làm cho chư thiên yêu mến, như vị Tỳ khưu đệ
tử
của Như Lai”.

Người cận sự nam ấy, sau khi chết,
do phước thiện bố thí những vật dụng cho quả, khi thì tái sanh làm chư thiên
cõi trời dục giới hưởng đầy đủ mọi sự an lạc trên cõi trời ấy; khi thì tái sanh
làm người trong gia đình giàu sang phú quý, đầy đủ những món vật dụng quý báu
trong cõi người, kiếp nào cũng như vậy, suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất không
hề sa đọa trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh); chỉ tái
sanh
những cõi thiện giới: cõi người, cõi trời mà thôi.

Đến kiếp chót, được tái sanh làm
người trong gia đình Bà la môn dòng dõi cao quý, đặt tên Pilindavaccha. Vào
thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Ngài đến nghe pháp rồi phát
sanh đức tin trong sạch nơi Đức Phật, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu, tiến hành
thiền địnhthiền tuệ, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh ĐạoNhập Lưu Thánh Quả
cho đến A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả cùng với Tứ tuệ phân tích và
Lục thông.

Đức Phật tuyên dương Ngài Đại Đức
Pilinda-vaccha rằng:

“Etadaggaṃ bhikkhave, mama
sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ devatānaṃ piyamanāpānaṃ yadidaṃ Pilindavaccho”.

“Này chư Tỳ khưu, trong hàng Tỳ
khưu Thanh Văn đệ tử của Như Lai, Pilindavaccha là Tỳ khưu cao quý nhất về đức
hạnh
, làm cho chư thiên yêu mến”.

Như vậy, sự việc đã thành tựu đúng
theo nguyện vọng của Ngài và đúng theo lời thọ ký của Đức Phật Padumuttara
trong quá khứ.

Tích Bố Thí Thuốc

Tiền thân của Ngài Đại Đức Bākula
được tóm lược như sau__

Thời kỳ Đức Phật Anomadassī xuất
hiện
trên thế gian, tiền thân Ngài Bākula là một vị đạochứng đắc 8 bậc
thiền, có ngũ thông, đến hầu Đức Phật nghe pháp, xin thọ Tam quy nơi Đức Phật.

[Bộ Chú giải Aṅguttaranikāya, phần
Etadaggavagga; Thời kỳ Đức Phật Anomadassī đến Đức Phật Padumuttara cách 1 a
tăng kỳ
]

Một thời nọ, Đức Phật Anomadassī bị
lâm bệnh phong hàn, vị đạo(tiền thân Ngài Đại Đức Bākula) đi tìm
thuốc đem về làm phước bố thí cúng dường đến Đức Phật. Nhờ uống thuốc ấy, Đức
Phật
khỏi bệnh.

Vị đạocầu nguyện rằng: do nhờ
phước thiện bố thí thuốc, trị khỏi bệnh của Đức Phật, kiếp nào con cũng có sắc
thân
không bệnh hoạn ốm đau.

Vị đạo sĩ ấy sau khi chết, do năng
lực
bậc thiền sở đắc của mình được tái sanh lên cõi trời phạm thiên, những kiếp
kế tiếp suốt 1 a tăng kỳ tái sanh làm người hoặc chư thiên, phạm thiên.

Đến thời kỳ Đức Phật Padumuttara
[*], tiền thân Ngài Bākula sanh trong gia đình quý tộc, thường đến nghe Đức
Phật
thuyết pháp. Một hôm, Ngài nhìn thấy Đức Phật tuyên dương một vị Tỳ khưu
xuất sắc nhất về đức hạnh ít bệnh hoạn ốm đau. Ngài rất hoan hỉ có nguyện vọng
muốn được địa vị xuất sắc nhất ấy, Ngài cố gắng tạo mọi phước thiện bố thí cúng
dường
đến Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng, nhất là bố thí cúng dường thuốc trị
bệnh. Ngài được Đức Phật Padumuttara thọ ký, trong vị lai, vào thời kỳ Đức Phật
Gotama, Ngài sẽ là bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama xuất sắc nhất
về đức hạnh ít bệnh hoạn ốm đau. Ngài vô cùng hoan hỉ tạo mọi phước thiện đến
trọn kiếp, do thiện nghiệp ấy cho quả chỉ tái sanh làm người hoặc chư thiên nơi
cõi trời mà thôi.

Đến thời kỳ Đức Phật Vipassī [*]
xuất hiện trên thế gian, tiền thân Ngài Đại Đức Bākula sanh trong dòng dõi
la môn
cao quý. Khi trưởng thành Ngài xuất gia trở thành đạo sĩ chứng đắc các
bậc thiền, thường đến hầu Đức Phật nghe pháp, thọ Tam quy nơi Đức Phật. Vị đạo
sĩ thường đến hộ độ Đức Phật.

[*]
Thời kỳ Đức Phật Padumuttara cách trái đất của chúng ta 100 ngàn đại kiếp trái
đất. Thời kỳ Đức Phật Vipassī cách trái đất của chúng ta 91 đại kiếp trái đất.

Một lần nọ, có một số Tỳ khưu bị
bệnh, vị đạo sĩ đi tìm thuốc về làm phước bố thí chữa trị cho những vị Tỳ khưu
ấy đều khỏi bệnh. Đến khi vị đạo sĩ hết tuổi thọ, do năng lực sắc giới thiện
nghiệp
cho quả tái sanh lên cõi phạm thiên. Suốt 91 đại kiếp chỉ tái sanh làm
người hoặc chư thiên nơi cõi trời mà thôi.

Đến thời kỳ Đức Phật Kassapa xuất
hiện
trên thế gian, tiền kiếp Ngài Đại Đức Bākula sanh trong gia đình giàu sang
phú quý; Ngài đã xây cất chánh điện, trai đường, nhà bếp, nhà vệ sinh, nhà
thương dâng cúng đến chư Tăng, đặc biệt thích làm phước bố thí thuốc trị bệnh
đến chư Tỳ khưu Tăng. Khi hết tuổi thọ, do phước thiện ấy cho quả được tái sanh
cõi trờicõi người, không hề sa đọa trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula,
ngạ quỷ, súc sanh).

Kiếp hiện tại, cũng là kiếp chót,
Ngài sanh trong gia đình phú hộ xứ Kosambī. Ngài sanh ra đời đến ngày thứ năm,
theo tục lệ, những người vú nuôi bồng ẵm Ngài xuống dòng sông Yāmunā để tắm cho
khỏi bệnh. Một con cá lớn nhìn thấy đứa trẻ tưởng là miếng mồi, bơi đến nuốt
chửng Ngài vào bụng. Dầu Ngài nằm trong bụng con cá vẫn cảm thấy an lạc. Do
năng lực phước thiện của Ngài, làm cho con cá cảm thấy nóng nảy bơi suốt 3 do
tuần
đến xứ Bārāṇasi thì bị mắc lưới của dân chài xứ ấy. Dân chài bắt con cá
đem bán cho gia đình phú hộ Bārāṇasī không có con. Do năng lực phước thiện của
Ngài, khiến cho bà phu nhân phú hộ tự tay mình mổ bụng con cá phát hiện một đứa
trẻ nằm trong bụng con cá, bà vô cùng vui mừng, hạnh phúc được một đứa trẻ, bà
reo lên “tôi được một đứa con trong bụng cá”. Tiếng
lành phi thường lan rộng, ông bà phú hộ Kosambī đến nhìn nhận là đứa con trai
của chính mình cưu mang đủ 10 tháng sinh ra, đứa bé bị con cá nuốt vào bụng.
Như vậy, đứa bé này đúng là con của họ, không phải con của gia đình ông bà phú
hộ
xứ Bārāṇasī. Hai gia đình phú hộ tranh chấp, không bên nào nhường bên nào.
Họ đem sự việc trình Đức vua phán xử. Đức vua phán rằng: đứa bé này là
con chung của hai gia đình phú hộ:
phú hộ xứ Kosambī và phú hộ
Bārāṇasī. Do đó, đặt tên Ngài là Bākulakumāra có nghĩa là đứa bé của hai gia
đình
.
Ngài được hai gia đình nuôi dưỡng, mỗi gia đình 4 tháng. Ngài ở gia
đình
bên này suốt 4 tháng rồi đến gia đình bên kia 4 tháng, và cứ thế thay
phiên như vậy.

Cuộc đời Ngài hưởng sự an lạc của
hai gia đình phú hộ suốt 80 năm.

Trong thời kỳ Đức Phật Gotama, một
thuở nọ, Đức Phật ngự đến xứ Kosambī, Ngài Bākula đến hầu Đức Phật lắng nghe
chánh pháp, nhàm chán đời sống tại gia, xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành
Tỳ khưu. Sau khi đã trở thành Tỳ khưu được 7 ngày, qua đến sáng ngày thứ 8 Ngài
tiến hành thiền tuệ, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh ĐạoNhập Lưu Thánh Quả cho
đến
A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả cùng với Tứ tuệ phân tích, hoàn
thành
xong phận sự của bậc xuất gia.

Đức Phật tán dương Ngài Đại Đức
Bākula rằng:

“Etadaggaṃ bhikkhave, mama
sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ appābādhānaṃ yadidaṃ Bākulo”.

“Này chư Tỳ khưu, trong hàng
Thanh Văn đệ tử của Như Lai, Bākula xuất sắc nhất về đức hạnh ít bệnh hoạn ốm
đau”.

Những quả báu đều bắt nguồn từ phước
thiện bố thí thuốc trị bệnh đến Đức Phật Anomadassī.

Ngài Đại Đức Bākula ít bệnh hoạn ốm
đau nhất, xuất gia trở thành Tỳ khưu được 80 hạ. Ngài tịch diệt Niết Bàn lúc
tròn 160 tuổi, là người có tuổi thọ, sống lâu nhất trong giáo pháp của Đức Phật
Gotama.

Tích Bố Thí Đèn

Tiền thân của Ngài Đại Đức
Pañcadīpaka là một cận sự nam trong thời kỳ Đức Phật Padumuttara xuất hiện trên
thế gian [Bộ Apādāna, tích Pañcadīpaka apādāna].

Người cận sự nam nhìn thấy những
người Phật tửđức tin nơi Đức Phật, thường đến lễ bái cúng dường tại đại cội
Bồ Đề của Đức Phật Padumuttara. Một hôm, Ngài phát sanh đức tin trong sạch bố
thí
những ngọn đèn thắp sáng chung quanh cúng dường đại cội Bồ Đề.

Do năng lực bố thí đèn cúng dường
đại cội Bồ Đề ấy, Ngài được tái sanh làm vua cõi Tam thập tam thiên hưởng sự an
lạc
trong cõi trời ấy; khi tái sanh làm người là Đức Chuyển luân thánh vương,
hoặc làm Vua một nước lớn hưởng sự an lạc trong cõi người, suốt 100 ngàn đại
kiếp
trái đất, chỉ tái sanh những cõi thiện giới: cõi ngườicõi trời, không
hề bị sa đọa trong 4 cõi ác giới.

Đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất
hiện
trên thế gian, Ngài sanh trong gia đình quý tộc. Khi trưởng thành, một hôm
đến nghe Đức Phật thuyết pháp phát sanh tâm nhàm chán đời sống tại gia, xin Đức
Phật
cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu. Sau khi trở thành Tỳ khưu, Ngài tiến
hành thiền định, tiến hành thiền tuệ chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh ĐạoNhập Lưu
Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả với Tứ tuệ phân tích,
Lục thông, hoàn thành xong phận sự của Sa môn.

Như vậy, tất cả quả báu đều bắt
nguồn từ bố thí đèn thắp sáng chung quanh cúng dường đại cội Bồ
Đề
của Đức Phật Padumuttara.

Tích Bố Thí Vật Thực

Trong bộ Vimāvatthu, tích
Bhikkhādāyakavi-māna được tóm lược như sau:

Người cận sự nam ở trong nhà, rửa
tay sửa soạn dùng vật thực, đang xới cơm ra đĩa để ăn, nhìn thấy một vị Tỳ khưu
đi khất thực đang đứng trước cửa nhà. Người cận sự nam đem đĩa cơm, có một món
đồ ăn ra để vào bát vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu cầu nguyện an lành xong rồi đi.
Người cận sự nam vô cùng hoan hỉ nghĩ rằng: “Hôm nay, ta nhịn ăn, dành
vật thực làm phước bố thí cúng dường đến vị Tỳ khưu ấy”.

Về sau người thí chủ ấy chết, do
năng lực phước thiện bố thí vật thực ấy cho quả, được tái sanh làm vị thiên nam
ở cõi Tam thập tam thiên có lâu đài bằng vàng cao 12 do tuần, xung quanh lâu
đài có 700 phòng lớn, những cây cột bằng ngọc quý, những đồ trang trí toàn bằng
những vật quý giá.

Vị thiên nam có nhiều oai lực, có
hào quang sáng ngời mọi phương hướng, có nhiều thiên nữ hầu hạ ngày đêm….

Tất cả mọi quả báu phát sanh do
phước thiện bố thí vật thực đến vị Tỳ khưu.

Tích Bố Thí Dép

Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna bay lên
cõi Tam thập tam thiên, nhìn thấy một lâu đài nguy nga tráng lệ, có nhiều thiên
nữ
hầu hạ, bèn hỏi rằng:

– Này thiên nữ, tiền kiếp cô đã tạo
phước thiện gì, kiếp này cô hưởng sự an lạc như vậy?

Thiên nữ Upāhanadāyikā trả lời Ngài
Đại Đức Mahāmoggallāna:

– Kính bạch Ngài Đại Đức
Mahāmoggallāna, con là thiên nữ Upāhanadāyikā. Kiếp trước, khi ở cõi người vào
thời Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, con nhìn thấy vị Tỳ khưu đang đi
bát, con có dâng một đôi dép đến vị Tỳ khưu. Do năng lực phước thiện bố thí dép
ấy, cho quả được tái sanh lên cõi Tam thập tam thiên, trong lâu đài xinh đẹp,
thiên nữ hầu hạ, hưởng sự an lạc như thế này.

Tích Bố Thí Hoa

Thời kỳ Đức Phật Sikhi xuất hiện
trên thế gian, một người bán hoa lài, đem hoa từ rừng ra, giữa đường gặp Đức
Phật
Sikhi ngự đi khất thực, người ấy phát sanh đức tin trong sạch, để giỏ hoa
xuống đảnh lễ Đức Phật rồi cúng dường Đức Phật một nắm hoa lài. [Thời kỳ Đức
Phật
Sikhi cách trái đất chúng ta 31 đại kiếp trái đất.]

Đức Phật muốn làm cho người bán hoa
phát
sanh đức tin, nên hóa phép thần thông ghép những đóa hoa thành lọng che
trên đầu Ngài, cho đến khi ngự trở về chùa mới biến mất. Người bán hoa nhìn
thấy vô cùng ngạc nhiên, vô cùng hoan hỉ. Đến khi hết tuổi thọ, do phước thiện
bố thí cho quả được tái sanh lên cõi Tam thập tam thiên. Do năng lực phước
thiện
bố thí hoa ấy, chỉ cho quả tái sanh cõi trời, cõi người suốt 31 đại kiếp
trái đất, không hề bị sa đọa trong 4 cõi ác giới.

Thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện
trên thế gian, hậu thân của người bán hoa, cũng do năng lực phước thiện bố thí
hoa ấy cho quả tái sanh làm người, gặp Đức Phật Gotama xin phép xuất gia trở
thành
Tỳ khưu, hành thiền tuệ chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Quả.

Tích Bố Thí 4 Quả Xoài

Trong bộ Vimānavatthu, tích
Phaladāyaka-vimāna được tóm lược như sau:

Một người làm vườn xoài của Đức vua
Bimbisāra, một hôm, Đức vua truyền gọi người làm vườn xoài đến và phán rằng:

– Này ngươi, Trẫm muốn thưởng thức
xoài; ngươi có thể làm cách nào để có xoài, đem đến dâng Trẫm được hay không?

– Tâu bệ hạ! Lúc này không phải mùa
xoài, xin bệ hạ ráng đợi một thời gian ngắn, hạ thần sẽ cố gắng làm cho cây xoài
ra quả sớm.

Đức vua ưng thuận, người làm vườn
xoài chọn một cây xoài rồi chăm sóc đặc biệt, làm cho cây xoài ra bông, kết
trái chín được 4 quả. Người ấy đem đến dâng Đức vua, trên đường đi, nhìn thấy
Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna đang đi khất thực, liền nghĩ rằng: “Những
quả xoài này trái mùa rất ngon, ta nên làm phước bố thí để bát đến Ngài Đại Đức
Mahāmoggallāna, dầu Đức vua có giết ta hoặc đuổi ta ra khỏi nước, ta cũng chấp
nhận
. Nếu ta đem 4 quả xoài này đến dâng cho Đức vua, thì ta chỉ được bỗng lộc
trong kiếp hiện tại mà thôi; còn như ta làm phước thiện bố thí dâng 4 quả xoài
này đến Ngài Đại Đức, thì ta không những được quả báu ở kiếp hiện tại mà còn
lượng kiếp
vị lai nữa”.

Nghĩ vậy, người ấy đem 4 quả xoài
đến cung kính làm phước để bát dâng đến Ngài Đại Đức. Khi dâng xong, tâm cảm
thấy
vô cùng hoan hỉ, đi đến hầu Đức vua tâu rõ mọi việc rồi xin chịu tội.

Nghe tâu xong, Đức vua truyền lệnh
cho một vị quan điều tra xem chuyện này thực hư như thế nào, rồi về trình Đức
vua.

Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna đem 4
quả xoài kính dâng đến Đức Phật, Đức Phật độ 1 quả, còn 3 quả, Ngài ban phát
cho Ngài Đại Đức Sāriputta, Ngài Mahāmoggallāna, Ngài Mahākassapa mỗi Ngài 1
quả.

Vị quan trở về tâu Đức vua biết sự
việc ấy, nghe vậy, Đức vua vô cùng hoan hỉ nghĩ rằng: người làm vườn là bậc
Thiện trí, dám hy sinh sanh mạng để mưu cầu phước thiện thanh cao.

Đức vua ban thưởng cho người làm
vườn một làng để thu thuế, vàng, bạc, vải, đồ đạc… và Đức vua yêu cầu rằng: “Nhà
ngươi có cơ hội tốt làm phước thiện bố thí 4 quả xoài đến Ngài Đại Đức, vậy nhà
ngươi hãy chia phần phước thiện ấy đến cho Trẫm với”.

Người làm vườn xoài tâu rằng:

– Tâu bệ hạ! Kính xin bệ hạ hoan hỉ
phần phước thiện ấy.

Về sau, người làm vườn xoài ấy chết,
do năng lực phước thiện bố thí ấy cho quả tái sanh làm thiên nam cõi Tam thập
tam thiên
trong lâu đài bằng vàng cao 16 do tuần, có 700 phòng lớn, cột bằng
ngọc quý, những đồ trang trí quý giàu; là một thiên nam có nhiều oai lực, có
hào quang sáng ngời khắp mọi phương, có rất nhiều thiên nữ hầu hạ, hưởng mọi sự
an lạc trong cõi trời.

Đó là quả báu của phước thiện bố thí
4 quả xoài đến Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna.

Tích Bố Thí Cơm Cháy

Trong bộ Vimānavatthu, tích
Ācāmadāyikā-vimāna được tóm lược như sau:

Một bà già nghèo khổ ăn mày, sống
nhờ đằng sau hiên nhà người khác, người ta nhìn thấy bà đáng thương nên thường
cho cơm, cháo và miếng cơm cháy… để bà sống qua ngày.

Một hôm, Ngài Đại Đức Mahākassapa
vừa xả diệt thọ tưởng định, quán xét nên đi khất thực để tế độ người nào. Ngài
nhìn thấy một bà già nghèo khổ, gần chết, nếu bà chết có thể sa đọa địa ngục.
Ngài nghĩ nên đi khất thực tế độ bà, để cứu vớt bà tránh khỏi bị sa đọa địa
ngục
, do nhờ phước thiện bố thí miếng cơm cháy, còn cho quả tái sanh lên cõi
Hóa lạc thiên.

Xét thấy như vậy, vào buổi sáng,
Ngài mặc y mang bát đi đến chỗ ở của bà. Trong khi đó vua trời Sakka biến hóa
thành người già đem vật thực đến để bát dâng cho Ngài, Ngài biết người già đó
là vua trời Sakka, nên bảo rằng:

– Này Đức vua trời, ông không nên
giành phước báu của người nghèo khổ.

Ngài không chịu dỡ bát, vẫn đứng yên
trước bà già nghèo khổ kia. Bà nghĩ rằng: Ngài Đại Đức là bậc có giới đức
lớn, được phần đông tôn kính, phận ta nghèo khổ không có gì quý giá để làm
phước thiện bố thí đến Ngài, ta chỉ có nước cơm và miếng cơm cháy không ngon
lành
gì cả. Vã lại, còn đựng trong một đồ dùng không sạch sẽ, ta nào dám làm
phước bố thí để bát đến Ngài được.
Nên bà bạch rằng:

– Kính xin Ngài đi nơi khác. Bạch
Ngài.

Ngài vẫn đứng yên không đi nơi khác,
những người khác đem vật thực đến để bát dâng cúng, Ngài vẫn không dỡ nắp bát
để nhận. Bà già nghĩ rằng: chắc chắn Ngài Đại Đức đứng đây để tế độ ta. Bà
phát sanh đức tin trong sạch muốn làm phước thiện bố thí. Bà đem miếng cơm cháy
đến, Ngài liền dỡ nắp bát, bà để vào trong bát cúng dường Ngài một cách tôn
kính
.

Ngài Đại Đức tỏ vẻ muốn thọ thực, để
cho bà thấy, càng phát sanh đức tin trong sạch, hoan hỉ trong việc phước thiện
bố thí của bà. Mọi người hiểu ý, trải chỗ ngồi, Ngài ngồi thọ thực miếng cơm
cháy ấy. Uống nước xong, Ngài thuyết pháp, làm cho bà già hoan hỉ trong phước
thiện
bố thí của mình và cho bà biết được rằng; bà đã từng là thân mẫu của Ngài
trong tiền kiếp. Bà càng có đức tin trong sạch nơi Ngài Đại Đứcvô cùng hoan
hỉ
phước thiện bố thí đã làm. Về sau, bà chết, do năng lực phước thiện bố thí
cho quả, được tái sanh làm thiên nam cõi Hóa lạc thiên (cõi thứ năm trong 6
cõi trời dục giới)
có nhiều oai lực, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Tích Dâng Vật Thực Đến Đức Phật

Trong bộ Vimānavatthu, tích
Bhikkhadāyikā-vimāna được tóm lược như sau:

Vào canh chót đêm, Đức Phật nhập đại
bi định
, khi xả định quán xét chúng sinh nên tế độ, Ngài nhìn thấy một người
đàn bà sắp hết tuổi thọ, sau khi chết, do ác nghiệp của bà đã tạo sẽ bị sa vào
địa ngục. Đức Phật muốn tế độtránh khỏi cảnh địa ngục, được tái sanh cõi
trời
.

Sáng hôm ấy, Đức Phật một mình mặc y
mang bát ngự đến kinh thành Uttaramadhura để tế độ người đàn bà ấy. Người đàn
bà nấu cơm xong, lấy hũ đi lấy nước, trên đường về nhà gặp Đức Phật, bạch rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài đã thọ
nhận vật thực được hay chưa? Bạch Ngài.

– Chắc sẽ được. – Đức Phật đáp.

Người đàn bà biết Đức Phật chưa được
vật thực, nên kính thỉnh Đức Phật đến nhà bà để dâng cúng, Đức Phật làm thinh
nhận lời thỉnh mời của bà. Bà vô cùng hoan hỉ đi về nhà trước, sửa soạn trải
chỗ ngồi chờ tiếp đón Đức Phật vào nhà, ngồi chỗ cao quý, chính tự tay bà dâng
cúng những vật thực. Đức Phật thọ thực xong, thuyết pháp để cho bà hoan hỉ
phước thiện bố thí của mình.

Sau đó 2 – 3 ngày bà chết, do năng
lực
phước thiện bố thí vật thực cho quả, được tái sanh làm thiên nữ trong lâu
đài xinh đẹp, có ngàn thiên nữ hầu hạ, hưởng sự an lạc trong cõi trời.

Tích Bố Thí Bánh

Trong bộ Vimānavatthu, tích
Uḷāravimāna được tóm lược như sau:

Cô gái sanh trưởng trong gia đình
thường hộ độ Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna, cô có đức tin nơi Tam bảo, hoan hỉ
trong việc bố thí, khi lớn lên cô có chồng, làm dâu trong gia đình ngoại đạo
kiến
.

Một hôm, Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna
đi khất thực trong thành Rājagaha, đang đứng trước cửa nhà chồng, cô nhìn thấy
liền thỉnh vào nhà, đảnh lễ Ngài xong, khi ấy mẹ chồng không có ở nhà, cô tự
xem là con dâu trong nhà, cô mới dám lấy cái bánh mà mẹ chồng để trong tủ đồ
ăn, đem làm phước thiện bố thí để bát đến Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna. Cô nghĩ
rằng, khi mẹ chồng trở về, cô sẽ thưa lại, chắc mẹ chồng hoan hỉ lắm.

Ngài Đại Đức thuyết pháp, làm cho cô
hoan hỉ phước thiện bố thí rồi đi ra.

Khi mẹ chồng trở về, cô thưa lại với
bà rằng:

– Thưa mẹ, con đã lấy cái bánh mẹ để
trong tủ đem làm phước để bát đến Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna rồi, xin mẹ hoan
hỉ
phần phước thiện bố thí này.

Mẹ chồng nghe như vậy, không hoan
hỉ
, lại còn tức giận mắng chửi nàng dâu thậm tệ rằng: Tại sao đem bánh cho Sa
môn!

Vì tức giận quá, không còn biết tội
lỗi
nữa, bà mẹ chồng cầm cái chầy đâm tiêu đánh nàng dâu trọng thương, 2 – 3
ngày sau cô chết. Cô dâu vốn là người có đức tin nơi Tam bảo, có thiện tâm hoan
hỉ
trong sự bố thí, nhất là phước thiện bố thí để bát cái bánh cúng dường đến
Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna hiện rõ trong khi sắp chết. Cho nên, sau khi chết,
do năng lực phước thiện ấy cho quả, được tái sanh làm một thiên nữ có nhiều oai
lực cõi Tam thập tam thiên, trong lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ, có nhiều
thiên nữ hầu hạ đờn ca múa hát, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời.

Tích Một Lần Để Bát

Trong bộ Therī-apādāna, tích
Ekapiṇṇapāti-katherī được tóm lược như sau:

Tiền thân của Đại Đức Tỳ khưu ni
Ekapiṇṇapā-tikatherī là Hoàng hậu của Đức vua Bandhumā vào thời Đức Phật
Vipassī xuất hiện trên thế gian, trong thời đại con người có tuổi thọ khoảng
80.000 năm, cách kiếp trái đất này 91 đại kiếp trái đất. Một hôm, có nguyện
vọng muốn để bát, bà hoàng hậu đến tâu lên Đức vua rằng:

– Tâu hoàng thượng! Thần thiếp có
nguyện vọng muốn để bát một vị Tỳ khưu, kính xin hoàng thượng cho phép thỉnh
một vị Tỳ khưu về cung để thần thiếp làm phước bố thí cúng dường vật thực.

Đức vua chuẩn tấu xong, truyền vị
quan
thỉnh một vị Tỳ khưu vào cung.

Hoàng hậu có đức tin trong sạch nơi
Tam bảo, vô cùng hoan hỉ cung kính lễ bái vị Tỳ khưu xong, tự tay mình để những
vật thực vào bát cúng dường vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu nhận vật thực xong, phúc
chúc hoàng hậu rồi đi ra.

Với tác ý thiện tâm hoan hỉ đầy đủ 3
giai đoạn: trước khi làm phước thiện bố thí, đang khi làm phước thiện bố thí
sau khi đã làm xong phước thiện bố thí; dầu chỉ một lần để bát cúng dường đến
vị Tỳ khưu ấy, nhưng hoàng hậu vô cùng hoan hỉ phước thiện bố thí, thường niệm
tưởng đến phước thiện bố thí (cāgānussati). Hoàng hậu đến khi hết tuổi
thọ (chết), do năng lực phước thiện bố thí để bát cúng dường một lần đến vị Tỳ
khưu ấy, cho quả tái sanh làm thiên nữ cõi Tam thập tam thiên; suốt 30 kiếp làm
Hoàng hậu của Đức vua trời Sakka cõi Tam thập tam thiên; khi tái sanh cõi
người
, làm chánh cung Hoàng hậu của Đức Chuyển luân thánh vương 20 kiếp; suốt
91 đại kiếp trái đất không hề sa đọa 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ
quỷ
, súc sanh)
chỉ tái sanh cõi thiện giới: cõi trờicõi người mà thôi.

Đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất
hiện
trên thế gian, do thiện nghiệp ấy cho quả được tái sanh làm công chúa
Mittā dòng Sakya, ở kinh thành Kapilavatthu. Khi Đức Phật ngự trở về thuyết
pháp
tế độ hoàng tộc Sakya, công chúa nghe pháp, thọ Tam quythọ trì bát
giới
, đến khi bà Gotamī từ bỏ cung điện đi xuất gia trở thành Tỳ khưu ni cùng
với 500 cô gái dòng Sakya, trong đó có công chúa Mittā. Sau khi trở thành Tỳ
khưu ni, tinh tấn tiến hành thiền tuệ, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh ĐạoNhập
Lưu
Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc
Thánh A-ra-hán, đến khi tịch diệt Niết Bàn chấm dứt khổ tử sanh luân hồi trong
tam giới.

Những quả phước thiện bắt nguồn từ
phước
thiện bố thí để bát cúng dường một lần đến một vị Tỳ khưu, do đó, có tên
là Ekapiṇṇapātikatherī: vị Đại Đức Tỳ khưu ni một lần để bát.

Tích Bố Thí Nước

Trong bộ Apādāna tích Ngài Đại Đức
Tỳ khưu ni Udakadāyikātherī tóm lược như sau:

Thời kỳ Đức Phật Vipassī xuất hiện
trên thế gian, tiền thân Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Udaka-dāyikātherī, là người
đàn bà nghèo, sống bằng nghề đội nước dùng đến các nhà phú hộ, nhà các vị quan,
nhà giàu có… khi nhìn thấy những người giàu có làm phước thiện bố thí đến chư
Tỳ khưu Tăng, bà suy xét rằng: “người ta có nhiều của cải, họ muốn làm
mọi phước thiện bố thí thật dễ dàng, còn ta nghèo khổ thiếu thốn, không có vật
gì đáng để làm phước thiện bố thí được cả; kiếp này ta đã nghèo khổ, ta không
bố thí, kiếp sau ta lại càng nghèo khổ hơn nữa; tốt hơn, ta nên đội nước để làm
phước thiện bố thí vậy”.

suy xét như vậy, từ đó về sau,
hằng ngày bà làm phước thiện bố thí nước đến chư Tỳ khưu Tăng để uống, để dùng.
Trong chùa, chỗ nào có đồ đựng nước uống, bà đổ đầy nước uống, chỗ nào đựng
nước dùng, bà đổ đầy nước dùng, vì thế chư Tỳ khưu Tăng được đầy đủ nước uống,
nước dùng. Sau khi bà chết, do phước thiện bố thí nước cho quả tái sanh cõi
thiện giới: cõi trờicõi người hưởng được mọi sự an lạc

Đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất
hiện
trên thế gian, hậu thân người đàn bà ấy, do phước thiện cho quả tái sanh
làm người, đến hầu Đức Phật nghe pháp, xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành
Tỳ khưu ni. Sau khi trở thành Tỳ khưu ni không lâu, bà tiến hành thiền tuệ,
chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh ĐạoNhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Đạo
– A-ra-hán Thánh Quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, khi hết tuổi thọ tịch diệt
Niết Bàn, chấm dứt khổ tử sanh luân hồi trong tam giới.

Bố thí nước có 7 quả báu

1- Được
nhiều kiếp làm vua trời.
2- Được nhiều kiếp làm Đức chuyển luân thánh vương.
3- Tránh khỏi sa vào 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh.
4- Ở nơi nào, nơi ấy có nước đầy đủ.
5- Ít bệnh hoạn ốm đau, có sắc thân xinh đẹp.
6- Dầu mùa nắng hoặc mùa lạnh, khi cầu mưa, thì có mưa ngay.
7- Diệt được phiền não ô nhiễm.

Đó là 7 quả báu của phước thiện bố
thí
nước.

Nhân Và Quả Tương Xứng

Quả tuỳ thuộc vào nhân. Nhân thế
nào, quả thế ấy; nghĩa là nhân tốt thì cho quả tốt, nhân xấu thì cho quả xấu,
lâu hay mau tuỳ theo năng lực của nghiệp ấy.

Như trong bài kinh Manāpadāyīsutta
[1] tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại
giảng đường Kutāgāra trong khu rừng lớn gần xứ Vesāli. Vào buổi sáng, Đức Thế
Tôn
mặc y, mang bát ngự đi khất thực, vào biệt thự của ông cư sĩ Ugga, người
dân thành Vesāli, ngồi trên toạ cụ cao quý. Khi ấy ông cư sĩ Ugga đảnh lễ Đức
Thế Tôn
rồi ngồi nơi hợp lẽ, bèn bạch với Đức Thế Tôn rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, con đã từng
nghe từ kim ngôn của Ngài rằng: “Người nào bố thí vật hài lòng, thường
được vật hài lòng”.

Như vậy, món ăn tên Sālapupphaka [2]
thơm ngon như hoa sāla làm rất công phu, là món ăn mà con rất hài lòng ưa thích
nhất; con đã kính dâng cúng đến Đức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ
nhận món ăn ấy của con rồi.

– Kính bạch Đức Thế Tôn, con đã từng
nghe từ kim ngôn của Ngài rằng: “Người nào bố thí vật hài lòng, thường
được vật hài lòng”

Như vậy, món thịt heo loại ngon [3] (sampanna-varasukaramaṃsa)
nấu rất công phu thật ngon lành, mà con rất hài lòng ưa thích nhất; con đã
kính dâng cúng đến Đức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ nhận món ăn ấy
của con rồi.

Kính bạch Đức Thế Tôn, con đã từng
nghe…: “Người nào bố thí vật hài lòng, thường được vật hài
lòng”.

Như vậy, món ăn Nāḷiyāsāka [4] là
món rau trộn với bột gạo sāli chiên bơ rất thơm ngon, là món ăn mà con rất hài
lòng
ưa thích nhất, con đã kính dâng cúng đến Đức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ
bi tế độ thọ nhận món ăn ấy của con rồi.

– Kính bạch Đức Thế Tôn, con đã từng
nghe…: “Người nào bố thí vật hài lòng, thường được vật hài
lòng”.

Như vậy, cơm nấu bằng gạo Sāli
thượng hạng, cùng với các món đồ ăn ngon lành, là món ăn rất hài lòng nhất đối
với con, con đã kính dâng cúng đến Đức Thế Tôn, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ
lãnh
món vật thực ấy của con rồi.

– Kính bạch Đức Thế Tôn, con đã từng
nghe…: “Người nào bố thí vật hài lòng, thường được vật hài
lòng”.

Như vậy, một chiếc giường làm bằng
gỗ quý có 4 chân chạm trổ hình thú dữ với nghệ thuật tuyệt vời, lót trải tấm
vải làm bằng lông cừu màu trắng, phủ một lớp vải có thêu những đoá hoa rất xinh
đẹp
, có gối đầu, gối hai bên… là chiếc giường mà con rất hài lòng ưa thích
nhất. Nhưng con biết rằng chiếc giường ấy không thích hợp với Đức Thế Tôn. Con
có chiếc giường khác làm bằng gỗ trầm hương [5], giá 100 ngàn kahāpana [6] cũng
là một chiếc giường mà con rất hài lòng ưa thích nhất, con đã dâng cúng đến Đức
Thế Tôn
, Ngài đã có lòng từ bi tế độ thọ nhận chiếc giường ấy của con rồi.

Sau khi ông cư sĩ Ugga bạch xong,
Đức Phật thuyết bài kệ rằng:

Người có đức tin tốt, bố thí vật hài
lòng
,
Thường được vật hài lòng. Người bố thí y phục,
Vật thực, nước, chỗ ở, thuốc men, vật dụng khác,
Với tâm rất hoan hỉ, đến bậc có giới đức.
Những vật bố thí rồi, là vật đã xả ly,
Không nghĩ lấy trở lại. Người ấy có trí tuệ,
Hiểu biết rõ ràng rằng, bậc Thánh A-ra-hán
Như phước điền cao thượng. Bố thí vật khó thí,
Gọi là vật hài lòng, thường được vật hài lòng.

Thuyết bài kệ tế độ làm cho ông
Ugga xứ Vesāli vô cùng hoan hỉ xong, Đức Phật rời khỏi tư thất của ông trở
về
chùa.

Sau đó thời gian không lâu, ông
Ugga xứ Vesāli qua đời, do phước thiện ấy cho quả tái sanh lên cõi trời bậc
cao trong nhóm chư thiên có tên Manomaya (thành tựu do tâm).

Đức Thế Tôn ngự tại chùa Jetavana
gần thành Sāvatthi, khi ấy, vào canh giữa đêm, vị thiên nam Ugga có hào quang
sáng ngời hiện xuống ngôi chùa Jetavana, làm cho toàn ngôi chùa sáng ngời, đến
hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, đứng một nơi hợp lẽ.

Đức Thế Tôn bèn hỏi rằng:

– Này Ugga, những điều mong ước của
con đã thành tựu rồi hay chưa?

– Kính bạch Đức Thế Tôn, những điều
mong ước của con đã được thành tựu rồi, bạch Ngài.

Khi ấy Đức Thế Tôn thuyết bài kệ
rằng:

Người thí vật hài lòng, với thiện
tâm
hoan hỉ,
Thường được vật hài lòng. Người thí vật quý báu,
Thường được vật quý báu. Người thí vật tốt lành,
Thường được vật tốt lành. Người thí vật quý nhất,
Thường được vật quý nhất. Người thí vật quý báu,
Tốt lành và quý nhất, tái sanh cảnh giới nào,
Thường được sự sống lâu, sự hiển vinh, quyền lực.

[1] Aṅguttaranikāya,
Pañcakanipāta, kinh Manāpadāyīsutta.

[2]
Sālapupphaka: một món ăn làm bằng bột gạo sàli trộn với các đồ gia vị ngon
lành
, chiên bơ… là món ăn làm rất công phu, rất ngon có mùi thơm như hoa
sàla.

[3] Chiếc
giường bằng gỗ trầm hương, Đức Phật cho cưa từng mảnh nhỏ, ban cho tất cả chư
Tỳ khưu tán thành bột làm thuốc nhỏ mắt.

[4]
Kahāpana: là thứ tiền vàng xứ Ấn thời xưa.

[5]
Sampannavarasukaramaṃsa: món thịt heo ngon nấu với các đồ gia vị ngon lành, để
cất kỷ một năm sau mới dùng.

[6] Nāḷiyāsāka:
món rau làm rất công phu, rất ngon lành.

Ưu Thế Đặc Biệt Của Thí Chủ

trong đời này, người có phước
thiện
bố thí luôn luôn có ưu thế hơn người không bố thí.

Tìm hiểu bài kinh Sumanāsutta
[Aṅguttaranikāya, Phần Pañcakanipāta, kinh Sumanāsutta] tóm lược như sau:

Sumanā là công chúa của Đức vua
Paseṇadi xứ Kosala. Cô công chúa có một đoàn nữ tuỳ tùng 500 người đến hầu đảnh
lễ
Đức Thế Tôn xong bạch rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn, hàng Thanh
Văn
đệ tử của Đức Thế Tôn có 2 vị có đức tin,giới,
có trí tuệ đồng đều nhau. Song, một vị này có phước bố thí và một
vị kia không có phước bố thí; cả hai vị ấy khi từ bỏ cõi đời này, do thiện
nghiệp
cho quả tái sanh làm chư thiên cùng một cõi trời dục giới giống nhau.
Vậy, có gì đặc biệt khác nhau giữa hai chư thiên ấy hay không? Bạch Ngài.

Đức Phật dạy rằng:

– Này Sumanā, hai vị thiên nam ấy có
sự khác biệt nhau là:

Vị thiên nam vốn có phước bố thí
ưu thế hơn hẳn vị thiên nam vốn không có phước bố thí bởi 5 điều trong cõi trời
là:

– Tuổi thọ
sống lâu.
– Sắc đẹp tuyệt vời.
An lạc tuyệt vời.
Danh tiếng, tuỳ tùng đông.
Quyền lực lớn trong cõi trời ấy.

Này Sumanā, vị thiên nam có phước bố
thí
đặc biệt hơn hẳn vị thiên nam không có phước bố thí bởi 5 điều trong cõi
trời
ấy như vậy.

– Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu hai vị
thiên nam ấy sau khi chết từ cõi trời, đều tái sanh làm người. Cả hai người này
cũng là loài người giống nhau. Vậy có gì đặc biệt khác nhau giữa hai người ấy
hay không? Bạch Ngài.

– Này Sumanā, hai người này có sự
khác biệt nhau là: người có phước bố thíưu thế hơn người không có phước bố
thí
bởi 5 pháp: sống lâu, sắc đẹp, an lạc, danh tiếng, tuỳ tùng đông và quyền
lực
lớn trong cõi người.

Này Sumanā, người có phước bố thí ưu
thế
hơn người không có phước bố thí bởi 5 pháp như vậy.

– Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu cả hai
người đều xuất gia trở thành Tỳ khưu giống nhau. Vậy, có gì đặc biệt khác nhau
giữa hai vị Tỳ khưu ấy hay không? Bạch Ngài!

– Này Sumanā, hai vị Tỳ khưu này có
sự khác biệt nhau, vị Tỳ khưu có phước bố thí ưu thế hơn vị Tỳ khưu không có phước
bố thí bởi 5 pháp là:

Tỳ khưu có
phước bố thí,

Nếu cần
y, thì có được nhiều y; không cần y cũng có được ít y.

Nếu cần
vật thực, thì có được nhiều vật thực; không cần vật thực cũng có được ít vật
thực.

Nếu cần
chỗ ở, thì có được chỗ ở to lớn; không cần chỗ ở cũng có được chỗ ở vừa.

Nếu cần
thuốc trị bệnh, thì có được nhiều thuốc trị bệnh; không cần thuốc trị bệnh cũng
có được ít thuốc trị bệnh.

– Khi sống
chung với những bạn đồng phạm hạnh nào, những người bạn ấy thường có thân,
khẩu, ý đối xử tốt, đáng hài lòng nhiều hơn là đối xử xấu, không hài lòng;
thường đem lại điều hài lòng nhiều hơn là điều không hài lòng.

Này Sumanā, vị Tỳ khưu có phước bố
thí
ưu thế hơn vị Tỳ khưu không có phước bố thí bằng năm pháp như vậy.

– Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu hai vị
đều chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán giống nhau. Vậy, có gì đặc biệt khác
nhau giữa hai vị thánh A-ra-hán hay không? Bạch Ngài.

– Này Sumanā, Như Lai không nói đến
có sự khác biệt giữa sự giải thoát (A-ra-hán Thánh Đạo) của người này, với sự
giải thoát
(A-ra-hán Thánh Đạo) của người kia.

– Kính bạch Đức Thế Tôn, thật là
điều phi thường!

Kính bạch Đức Thế Tôn, thật là điều
chưa từng được nghe như vậy bao giờ!

Kính bạch Đức Thế Tôn, như vậy, nên
làm phước thiện bố thí, nên làm mọi phước thiện, bởi vì phước thiện này làm
duyên hỗ trợ sau khi tái sanh cõi trời, cõi người, hay ngay sau khi xuất gia
trở thành Tỳ khưu.

Đúng như vậy Sumanā! Nên làm phước
thiện
bố thí, nên làm mọi phước thiện, bởi vì phước thiện này làm duyên hỗ trợ
sau khi tái sanh cõi trời, cõi người, hay ngay sau khi xuất gia trở thành Tỳ
khưu.

Bố ThíQuả Báu Vô Lượng

Bố thí để có được quả báu vô lượng,
sự bố thí ấy phải hợp đủ 6 pháp. Thí chủ hợp đủ 3 pháp và người thọ thí hợp đủ
3 pháp, gồm đủ 6 pháp, chắc chắn quả báu vô lượng, đáng hài lòng hoan hỉ.

A- Đối với người thí chủ hợp đủ 3 pháp là:

1- Trước
khi bố thí, thí chủtác ý thiện tâm trong sạchhoan hỉ.

2- Đang
khi
bố thí, thí chủtác ý thiện tâm, có đức tin trong sạch, tin nghiệp và
quả của nghiệp, có trí tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình.

3- Sau khi
bố thí xong, thí chủtác ý thiện tâm trong sạch, có thiện tâm hoan hỉ phước
thiện
bố thí đã tạo xong; mỗi khi nghĩ đến phước bố thí ấy, thí chủ phát sanh
thiện tâm trong sạchhoan hỉ, không để ác tâm nào phát sanh xen lẫn làm cho
tâm ô nhiễm.

B- Đối với người thọ thí hợp đủ 3 pháp là:

1- Người
thọ thí là bậc Thánh không còn tham ái (hoặc hành giả tiến hành thiền tuệ cốt
để diệt tận tâm tham ái).

2- Người
thọ thí là bậc Thánh không còn sân hận (hoặc hành giả đang tiến hành thiền tuệ
cốt để diệt tận tâm sân hận).

3- Người
thọ thí là bậc Thánh không còn tâm si mê (hoặc hành giả đang tiến hành thiền
tuệ
cốt để diệt tận tâm si mê).

Phước bố thí hợp đầy đủ 6 chi pháp
như
vậy, thì chắc chắn quả báu của phước bố thí vô lượng, sự an lạc vô lượng,
tái sanh cảnh giới nào cũng được sự sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức mạnh, trí
tuệ
tuyệt vời trong cảnh giới ấy.

Phước
Bố Thí cho Quả Kiếp Hiện Tại

Tích
Người Nghèo Khó

Tích
người nghèo khó Mahāduggata [Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, tích
Paṇṇitasāmaṇera-vatthu] tóm lược như sau:

Vào
thời kỳ Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, Đức Phật cùng với 20 ngàn bậc
Thánh A-ra-hán ngự đến thành Bārāṇasī. Một hôm, sau khi độ vật thực xong, Đức
Phật
thuyết pháp dạy rằng:

Này
chư cận sự nam – nữ, trong đời này:


Có số người tự mình làm phước bố thí, mà không động viên khuyến khích người
khác cùng làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng có được nhiều của cải
đầy đủ, nhưng không có bạn bè, thuộc hạ thân thiết.


Có số người động viên khuyến khích người khác làm phước bố thí, còn mình thì
không chịu đem của cải làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng có nhiều
bạn bè, thuộc hạ thân thiết, nhưng không có nhiều của cải.


Có số người tự mình không làm phước bố thí, cũng không động viên khuyến khích
người khác làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng không có của cải, nghèo
khổ
và cũng không có bạn bè, thuộc hạ thân thiết.


Có số người tự mình làm phước bố thí, lại còn động viên khuyến khích người khác
cũng làm phước bố thí, người ấy sanh nơi nào cũng có được của cải đầy đủ, giàu
sang
phú quý và còn có nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết, sống an lạc hạnh
phúc….

Một
người cận sự namtrí tuệ ngồi nghe pháp, suy tư rằng: “ta muốn có
được nhiều của cải và được nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết”.

Người
ấy đảnh lễ Đức Phật bạch rằng:


Kính bạch Đức Thế Tôn, ngày mai con kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng tất cả 20.000
chư Đại Đức Tăng, để làm phước bố thí vật thực.

Đức
Phật
làm thinh nhận lời, ông trở về đi thông báo cho toàn thể dân chúng trong
thành biết rằng ngày mai ông sẽ làm phước bố thí đến Đức Phật cùng tất cả
20.000 chư Đại Đức Tăng, ai có khả năng làm phước bố thí đến bao nhiêu vị, xin
ghi danh. Có gia đình đăng ký 10 vị, 20 vị, 100 vị… v.v….

Khi
gặp cậu Mahāduggata là người nghèo khó nhất trong thành, ông động viên khuyến
khích rằng:

Này
cậu Mahāduggata, ngày mai, tôi có thỉnh Đức Phật cùng 20.000 Đại Đức Tăng để
làm phước bố thí, cậu có khả năng làm phước bố thí được bao nhiêu vị?

Thưa
ông, gia đình con nghèo khó, vợ chồng con đi làm thuê, làm được ngày nào ăn
ngày ấy còn không đủ nữa, thì lấy gì mà làm phước bố thí thưa ông?


Này cậu Mahāduggata, trong thành này, những người giàu sang phú quý, có nhiều
của cải, có quyền cao chức trọng… là do nhờ quả của phước thiện bố thí. Còn
gia đình cậu, ngày qua ngày làm thuê mà không đủ ăn, đó là do không làm phước
bố thí, cậu có hiểu biết rõ như vậy không?


Thưa ông, con hiểu rồi, xin ông cho gia đình con một vị Đại Đức Tăng, để cho
gia đình con làm phước bố thí ngày mai.

Ông
cận sự nam hoan hỉ chấp thuận cho gia đình cậu Mahāduggata thỉnh một vị Đại Đức
Tăng, để làm phước bố thí vào ngày mai, nhưng ông quên ghi vào danh sách, tiếp
tục
đi động viên khuyến khích người khác nhận đủ 20.000 vị Đại Đức Tăng.

Sau
khi được ông cận sự nam cho lãnh một vị Đại Đức để làm phước bố thí vào ngày
mai, cậu Mahāduggata vô cùng hoan hỉ, trở về báo tin cho người vợ hay biết,
người vợ cũng vô cùng hoan hỉ, bàn tính nhau làm thuê kiếm gạo, đồ ăn về để
ngày mai làm phước bố thí đến một vị Đại Đức.

Mahāduggata
đi tìm việc làm, ông phú hộ nhìn thấy cậu gọi lại thuê chẻ đống củi, để ngày
mai nấu đồ ăn dâng cúng đến chư Đại Đức Tăng, cậu vô cùng hoan hỉ, lấy búa chẻ
một lát là xong ngay, ông phú hộ ngạc nhiên hỏi:


Này Mahāduggata, sao hôm nay cậu làm việc siêng năng và nhanh nhẹn đến thế?


Thưa ông, ngày mai gia đình con có làm phước bố thí đến một vị Đại Đức, nên con
cảm thấy hoan hỉ, sung sướng làm việc không biết mệt.

Ông
phú hộ ca tụng cậu, làm một việc khó làm. Ông trả công cho 4 ô gạo sāli (loại
gạo ngon).

Về
phần vợ của cậu đi giúp việc nhà bếp cho bà phú hộ, cô rất hân hoan làm công
việc nhà bếp sạch sẽ gọn gàng, nhanh nhẹn, làm cho bà phú hộ hài lòng lại vừa
ngạc nhiên hỏi.


Này con, sao hôm nay con có vẻ vui sướng, làm việc giỏi quá vậy?


Thưa bà, ngày mai gia đình con có làm phước bố thí đến một vị Đại Đức, nên con
cảm thấy sung sướng làm việc để được những món gia vị làm đồ ăn ngày mai.

Nghe
nói vậy, bà phú hộ ca tụng làm một việc khó làm! Bà trả công bằng bơ, dầu, đồ
dùng….

Vợ
chồng Mahāduggata vô cùng hoan hỉ được gạo ngon, dầu bơ, đồ dùng để làm phước
bố thí vào hôm sau.

Sáng
sớm hôm sau, người vợ thưa với chồng, sáng nay anh đi kiếm một ít rau về nấu
một bát canh, Mahāduggata đi ra khỏi nhà, vừa đi vừa ca hát, đi ngang bến ghe
chài; đêm hôm trước, người dân chài bắt được nhiều cá vừa cập bến, nghe tiếng
ca hát của Mahāduggata bèn gọi:


Này Mahāduggata cậu đi đâu đó? Sao hôm nay vui sướng quá vậy? Hãy xuống đây
giúp tôi đem cá bán, rồi tôi sẽ cho ít con cá.


Này bạn, hôm nay gia đình tôi có làm phước bố thí đến một vị Đại Đức, tôi vui
sướng
đi tìm rau về nấu canh, may quá, có được cá lại càng tốt.

Mahāduggata
hăng hái đem cá bán, hôm ấy dân chúng trong thành mua cá làm đồ ăn để làm phước
bố thí cúng dường đến chư Đại Đức Tăng, nên phần cá bán không còn con nào cả.
Cậu nóng lòng muốn về nhà cho kịp làm phước bố thí, bèn hỏi người chủ thuyền:


Này bạn, phần cá của tôi đâu?


Bạn đừng lo, tôi còn một phần cá đặc biệt cất dưới ghe, để tôi lấy cho bạn.

Người
chủ đem cho Mahāduggata 4 con cá hồi (Rohitamaccha). Cậu vội vàng đem về
nhà.

Canh
chót đêm ấy, Đức Thế Tôn nhập đại bi định, khi xả định quán xét chúng sinh nào
có duyên lành nên tế độ; Đức Phật nhìn thấy Mahāduggata là người có đức tin
trong sạch, nhận lãnh một vị Đại Đức để làm phước bố thí, nhưng người cận sự
nam
quên ghi vào danh sách, đến khi Mahāduggata gặp người cận sự nam xin nhận
lãnh vị Đại Đức thỉnh về nhà, thì không còn một vị Đại Đức nào cả. Vậy chính
Như Lai sẽ tế độ Mahāduggata mà thôi.

Vua
trời Sakka cảm thấy chỗ ngồi phát nóng, quán xét thấy rõ hôm nay Mahāduggata sẽ
làm phước bố thí cúng dường Đức Phật, nên hiện xuống giúp đỡ y để tạo phước
thiện
. Vua trời Sakka biến hóa thành một người đầu bếp tài giỏi đến xin giúp
việc cho Mahāduggata không lấy tiền công, chỉ bỏ công làm phước thiện mà thôi.
Mahāduggata đồng ý chấp thuận, xin mời vào nhà lo giúp việc nấu ăn, vua trời
Sakka nấu cơm, các món ăn đều bỏ đồ gia vị cõi trời, hương trời, đức vua Sakka
bảo rằng:


Này bạn, công việc nấu nướng để tôi lo, bạn đi thỉnh vị Đại Đức về nhà cho kịp
giờ.

Mahāduggata
đi đến tìm người cận sự nam xin thỉnh một vị Đại Đức, mà ông đã động viên
khuyến khích. Khi đến gặp ông, hởi ôi! Ông đã quên, nên không còn một vị Đại
Đức
nào cả, y thất vọng buồn tủi ôm mặt khóc; mọi người nhìn thấy y đáng thương
và trách người cận sự nam ấy, người cận sự nam ấy an ủi y và hướng dẫn y rằng:
còn Đức Phật ở trong cốc chưa mở cửa. Đức vua, các quan, phú hộ đang trông chờ
Đức Phật mở cửa để thỉnh bát của Ngài. Chư Phật thường tế độ những người nghèo
khó
, vậy nhà ngươi hãy vào xin Đức Phật tế độ.

Nghe
nói vậy, đôi mắt của Mahāduggata sáng lên, niềm hy vọng phát sanh, y dũng cảm
đến trước cửa cốc, đảnh lễ, đầu va chạm vào cửa, bạch rằng:


Kính bạch Đức Thế Tôn, trong thành này người nghèo khó hơn con không có, kính
xin Ngài có lòng đại bi tế độ con, bạch Ngài.

Đức
Phật
mở cửa trao bình bát trên tay y. Y được bình bát của Đức Phật mừng hơn
được ngai vàng của Đức Chuyển luân thánh vương. Đức vua, các quan, phú hộ xin
lại bình bát trên tay y hứa sẽ ban cho y nhiều tiền của, nhưng y không màng
đến.

Y
kính thỉnh Đức Phật về đến nhà, Đức vua trời Sakka hóa thành người đầu bếp đã
làm xong vật thực ngon lành, trải chỗ ngồi cao quý, thỉnh Đức Phật vào nhà.

Khi
Đức Phật bước vào, thì căn nhà cao hẳn lên, nên Ngài không phải cúi khom người
xuống, Ngài ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn. Còn Đức vua trời là người đầu bếp đã
làm xong những món vật thực, liền bảo Mahāduggata đem những món vật thực dâng
cúng đến Đức Phật. Mùi thơm của các món vật thực toả khắp cả kinh thành
Bārāṇasī. Trong khi đó, Đức vua cùng các quan, phú hộ đi theo sau Đức Phật đến
nhà của Mahāduggata để biết xem y làm phước bố thí cúng dường Đức Phật bằng
những món vật thực gì, khi đến nơi ngửi được mùi thơm của những món vật thực,
trong đời chưa từng ngửi bao giờ. Đức vua trời Sakka đảnh lễ Đức Phật.

Độ
vật thực xong, Đức Phật thuyết pháp tế độ gia đình Mahāduggata, rồi Ngài ngự
trở về chùa, Mahāduggata ôm bát theo sau tiễn đưa Đức Phật.

Đức
vua trời Sakka hoan hỉ phước thiện bố thí xong, cũng trở về cung Tam thập tam
thiên
.

Khi
Mahāduggata trở về đứng trước cửa, nhìn thấy từ hư không mưa rơi 7 thứ báu vật
xuống đầy nhà, người vợ dắt tay đứa con ra khỏi nhà, trong nhà đầy cả 7 thứ báu
vật không còn chỗ nào trống.

Y
nghĩ rằng: “đó là quả báu của phước thiện bố thí của chúng ta ngày hôm
nay”.
Mahāduggata liền đến hầu Đức vua tâu rằng:


Tâu Đức vua, nhà của tiện dân đầy cả thất báu, xin bệ hạ đem 1.000 chiếc xe đến
nhà tiện dân chở tất cả thất báu ấy về cung điện.

Đức
vua truyền quân lính trong triều đình đem 1.000 chiếc xe chở tất cả 7 thứ báu
vật đem về chất thành đống trước sân rồng. Đức vua truyền hỏi:


Trong thành này, người nào có của cải nhiều như thế này không?

Tất
cả – Tâu Hoàng thượng, không một người nào có nhiều của báu như thế cả. đều
tâu.

Do
đó, Đức vua tấn phong Mahāduggata địa vị đại phú hộ, rồi truyền rằng: tất cả
của cải này là quả báu phước thiện bố thí của nhà ngươi, vậy nhà ngươi hãy nhận
lấy.

Đức
vua cấp đất đai, xây cất những căn nhà lớn, cấp nhiều gia nhân. Khi xây cất nhà
xong, phú hộ Mahāduggata thỉnh Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng làm phước đại bố
thí
suốt 7 ngày và từ đó về sau y thường bố thí, giữ giới, tạo mọi thiện pháp
cho đến hết tuổi thọ, do năng lực mọi phước thiện ấy cho quả tái sanh lên cõi
trời dục giới
hưởng mọi sự an lạc.

Đến
thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của Mahāduggata, do
năng lực phước thiện ấy cho quả tái sanh vào lòng con gái của gia đình phú hộ,
là người hộ độ Ngài Đại Đức Sāriputta, khi sanh ra đời đặt tên là
“Paṇṇita”.

Lớn
lên 7 tuổi, cậu bé Paṇṇita xin mẹ cha cho phép xuất gia trở thành Sa di Paṇṇita
với Ngài Đại Đức Sāriputta là thầy tế độ.

Cha
mẹ
của Ngài đến chùa làm phước thiện bố thí vật thực đặc biệt có món cá hồi (Rohitamaccha)
đến Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng, suốt 7 ngày. Qua đến ngày thứ 8, Sa di
Paṇṇita tiến hành thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập
Lưu
Thánh ĐạoNhập Lưu Thánh Quả cho đến A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh
Quả
cùng với Tứ tuệ phân tích, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, hoàn thành xong
phận sự của Sa môn.

Ngài
Đại Đức Sāriputta đi khất thực độ xong, còn đem một phần vật thực, trong đó có
món cá hồi về cho Sa di Paṇṇita, theo nguyện vọng của Sa di, người đệ tửsắc
thân
bé nhỏ, song tâm là bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Làm
phước bố thí đến Đức Phật với đức tin trong sạch, hoan hỉ trong phước thiện,
quả báu của phước thiện bố thí ấy không chỉ ngay trong kiếp hiện tại giàu sang
phú quý, những kiếp vị lai đầy đủ của cải thế gian, mà còn kiếp chót cũng có
đầy đủ 9 pháp siêu tam giới đó là: 4 Thánh Đạo – 4 Thánh QuảNiết Bàn nữa.

Tích
Gia Đình Ông Puṇṇa

Trong
thời kỳ Đức Phật Gotama của chúng ta, có gia đình ông Puṇṇa [Chú giải
Dhammapada, trong tích Uttarāupāsikā] nghèo khó, làm ruộng thuê của ông phú hộ
Sumana, toàn thể mọi người trong gia đình đều có đức tin trong sạch nơi Tam
bảo
.

Một
hôm, buổi sáng ông đi cày ruộng; cũng vào buổi sáng ấy, Ngài Đại Đức Sāriputta
xả diệt thọ tưởng định (suốt 7 ngày đêm qua), đi khất thực để tế độ gia
đình
ông Puṇṇa, nên Ngài đi thẳng về hướng ông Puṇṇa đang cày ruộng. Ông Puṇṇa
nhìn thấy Ngài Đại Đức Sāriputta liền bỏ cày đến hầu đảnh lễ Ngài, dâng cúng
cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống. Ngài Đại Đức Sāriputta thọ nhận xong,
đi theo đường hướng về nhà ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem cơm cho chồng.
đảnh lễ Ngài Đại Đức Sāriputta xong, bạch rằng:


Kính bạch Ngài Đại Đức, kính xin Ngài từ bi thọ nhận phần vật thực, phận nghèo
khó
của gia đình chúng con.

Ngài
Đại Đức Sāriputta từ bi tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực, bà vô cùng hoan hỉ
phát nguyện:


Do nhờ phước thiện bố thí này của chúng con, cầu mong cho gia đình chúng con
được một phần pháp mà Ngài đã chứng đắc.

Ngài
Đại Đức Sāriputta phúc chúc rằng:


Mong cho gia đình các con được toại nguyện.


vô cùng hoan hỉ đi trở về nhà nấu lại phần cơm khác đem cho chồng, vội vàng
mang cơm ra đồng ruộng với tâm hoan hỉ phước thiện bố thí đến Ngài Đại Đức
Sāriputta làm cho thân tâm của bà nhẹ nhàng, nhu nhuyến không sao dấu được.

Còn
phần ông Puṇṇa trễ giờ đói bụng, thả bò đi ăn cỏ, ông lên bờ ngồi dưới bóng mát
cây chờ đợi vợ, dầu đói bụng nhưng tâm vẫn hoan hỉ, niệm tưởng lại việc làm
phước thiện bố thí tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại Đức Sāriputta. Ông nhìn
thấy từ xa, vợ mình đi đến trễ hơn mọi ngày, nhưng bà có vẻ khác thường, chắc
chắn
bà đang hoan hỉ một điều gì đó. Bà vừa đến nơi liền thưa với chồng rằng:


Hôm nay, xin anh hoan hỉ thật nhiều! Sáng nay, em đem cơm cho anh, giữa đường
gặp Ngài Đại Đức Sāriputta đang đi khất thực, em phát sanh đức tin trong sạch,
đem phần cơm của anh để bát cúng dường đến Ngài Đại Đức Sāriputta, Ngài không
chê vật thực nghèo khó của chúng mình. Ngài Đại Đứctâm từ bi tế độ thọ nhận
tất cả vật thực phần của anh; xin anh nên hoan hỉ phần phước thiện bố thí này!

Ông
Puṇṇa vừa lắng nghe từng tiếng, từng câu làm cho ông phát sanh thiện tâm hỉ lạc
đến cực độ; nên không thể theo dõi liên tục tron vẹn lời nói của vợ ông. Sực
tỉnh
lại, ông muốn biết chắc chắn chính mình nghe đúng sự thật là như vậy
không, nên ông bảo với vợ rằng:


Này em, em hãy nói lại cho anh nghe một lần nữa!


vợ thưa lại rõ ràng một lần nữa, lần này ông nghe rõ biết chắc chắn đúng sự
thật
như vậy rồi, ông vô cùng hoan hỉ phước thiện bố thí của vợ, đã đem phần
cơm của mình cúng dường đến Ngài Đại Đức Sāriputta, đồng thời ông cũng nói cho
vợ biết, cũng chính sáng hôm ấy, ông đã làm phước thiện bố thí cúng dường cây
tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại Đức Sāriputta; nghe xong, bà cũng vô cùng
hoan hỉ việc phước thiện bố thí của chồng.

Hai
vợ chồng cùng nhau hoan hỉ việc phước thí cúng dường đến Ngài Đại Đức Sāriputta,
ông dùng cơm xong nằm niệm tưởng việc phước thiện bố thí hôm nay, mới thiu thiu
giấc ngủ, ông bừng tỉnh lại, ngồi nhìn thấy phần đất cày ruộng hồi sáng đã hóa
thành
những thỏi vàng y (vàng ròng) làm cho ông hoa cả mắt; và vợ của ông cũng
như ông vậy. Ông lấy lại bình tỉnh đi xuống ruộng, lấy lên một thỏi, đúng thật
là thỏi vàng ròng, đem khoe và nói với vợ rằng:


Này em, vợ chồng chúng ta đã làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại Đức
Sāriputta, do phước thiện bố thí ấy, liền cho quả báu đến vợ chồng chúng ta
ngày hôm nay, chúng ta không thể nào dấu một số vàng lớn như thế này được!

Ông
Puṇṇa lấy một số thỏi vàng bỏ vào khay, đem trình lên Đức vua và tâu rằng:


Tâu Đức vua, sáng nay tiện dân đi cày ruộng, tất cả đất cày hóa thành những
thỏi vàng ròng, kính xin Đức vua truyền lệnh cho binh lính đem xe đến chở về
cất trong kho báu của Đức vua.


Nhà người là ai? – Đức vua hỏi.


Tâu Đức vua, tiện dân là Puṇṇa, một nông dân nghèo khó làm thuê. – Puṇṇa tâu.


Sáng nay, nhà ngươi đã làm việc gì đặc biệt vậy?


Tâu Đức vua, tiện dân làm phước cúng dường cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước
uống đến Ngài Đại Đức Sāriputta; còn phần vợ tiện dân làm phước cúng dường phần
cơm của tiện dân đến Ngài Đại Đức.

Đức
vua phán rằng:


Này Puṇṇa, vợ chồng ngươi đã làm phước thiện bố thí cúng dường trong sạch đến
cho Ngài Đại Đức Sāriputta, cho nên, quả báu phát sanh ngay trong ngày hôm nay.
Vậy, ngươi muốn Trẫm làm gì?


Tâu Đức vua, tiện dân xin Đức vua truyền lệnh đem ngàn chiếc xe đến thửa ruộng
kia để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện. – Puṇṇa tâu.

Đức
vua truyền lệnh đem hàng ngàn chiếc xe đến chở vàng ròng, nhóm lính trong triều
nói rằng: “Vàng của Đức vua!”, tức thì những thỏi vàng
được lấy lên, hóa trở lại thành đất như cũ. Chúng về triều tâu lên Đức vua sự việc
xảy ra như vậy. Đức vua sáng suốt bèn phán rằng:


Các ngươi nghĩ như thế nào, khi lấy những thỏi vàng ấy?


Tâu Hoàng Thượng, chúng thần nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức
vua!”.


Số vàng ròng kia không phải của Trẫm. Các người nên trở lại nghĩ và nói rằng: “Vàng
của ông bà
Puṇṇa!” rồi khuân số vàng ấy về đây. –
Đức vua phán.

Họ
vâng lệnh Đức vua ra đi. Thật đúng vậy, lần này họ khuân toàn bộ số vàng ấy đem
về, chất giữa sân rồng thành một đống vàng cao 80 hắc tay.

Đức
vua cho truyền dân chúng trong thành hội họp tại sân rồng, bèn hỏi rằng:


Trong kinh thành này, người nào khác có số vàng lớn như thế này không?


Tâu Hoàng Thượng, không có người nào khác cả! – Toàn thể dân chúng trong thành
tâu.


Trẫm nên tấn phong ông Puṇṇa như thế nào mới xứng đáng?


Xin Hoàng thượng tấn phong ông Puṇṇa địa vị đại phú hộ.

Đức
vua phán rằng:


Này Puṇṇa, từ nay ngươi là đại phú hộ, có tên Bahudhanaseṭṭhi: phú hộ nhiều
của cải.

Sau
khi trở thành đại phú hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có đức tin trong sạch nơi Tam
bảo
, làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, có Đức Phật chủ
trì suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7 Đức Phật thuyết pháp tế độ gia đình ông Puṇṇa,
toàn gia đình ông đại phú hộ Puṇṇa, hai vợ chồng và đứa con gái tên Uttarā đều
chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Vợ
chồng ông Puṇṇa làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại Đức Sāriputta
vừa xả diệt thọ tưởng định, do năng lực phước thiện bố thí trong sạch và hội đủ
nhân duyên ấy, liền cho quả báu trong ngày hôm ấy, trở thành đại phú hộ nhiều
của cải thế gianđặc biệt hơn nữa, toàn gia đình chứng đắc pháp siêu tam
giới
đó là Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Những
trường hợp như trên, có không ít trong Phật giáo.

Năng
Lực
Của Tác Ý Trước Khi Bố Thí

Tích
tiền thân của Đức Phật Gotama, Đức Bồ Tát Kusarājā [Bộ Jātaka, tích tiền thân
Kusajātaka] được tóm lược như sau:

Đức
Bồ Tát sắp hết tuổi thọ tại cung Tam thập tam thiên, Đức vua trời Sakka khuyến
khích tái sanh đầu thai vào lòng chánh cung hoàng hậu Sīlavatī của Đức vua
Okkākarājā.

Chấp
thuận
theo lời khuyên của Đức vua Sakka, Đức Bồ Tát sau khi từ giã (chết) cõi
trời
, do thiện nghiệp cho quả tái sanh vào lòng chánh cung hoàng hậu Sīlavatī,
đúng 10 tháng chào đờithân hình xấu xí đáng ghê sợ, được đặt tên
Kusakumāra: thái tử Kusa.

Đức
Bồ Tát trưởng thànhtrí tuệ siêu việt, có đầy đủ tài nghệ xuất chúng do bẩm
tính tự nhiên, không hề theo học một vị thầy nào cả. Đức Bồ Tát có một người em
trai là hoàng tử Jayampati.

Khi
Đức Bồ Tát lên 16 tuổi, vua cha có ý định muốn truyền ngôi báu cho Đức Bồ Tát,
nhận thấy Ngài có đầy đủ tài xuất chúng, không một ai sánh kịp, có oai lực
phi thường, đặc biệt có giọng nói như sư tử chúa rống, làm cho mọi kẻ thù kinh
hồn
bạt vía.

Đức
vua Okkāka cùng chánh cung hoàng hậu Sīlavatī bàn tính tìm một công chúa của
một Đức vua nào trong cõi Nam thiện bộ châu, đem về tấn phong ngôi chánh cung
hoàng hậu. Hoàng hậu Sīlavatī truyền người hầu đến hỏi ý kiến Đức Bồ Tát.

Đức
Bồ Tát suy nghĩ rằng: ta có thân hình xấu xí đáng ghê sợ như thế này, còn công
chúa
có sắc đẹp, khi nàng nhìn thấy ta sẽ khinh ghét bỏ đi. Như vậy, chỉ làm
cho ta xấu hổ mà thôi, không ích lợi gì. Điều tốt hơn, ta sống trong cung điện
này lo phụng dưỡng phụ vương và mẫu hậu, đến khi hai Người băng hà, ta sẽ xuất
gia
trở thành đạo sĩ sống trong rừng núi tu hành.

Nghĩ
như vậy, nên Đức Bồ Tát trả lời cho người hầu biết rằng:


Ta không muốn làm vua, không muốn vợ con, ta muốn lo phụng dưỡng phụ vương và
mẫu hậu của ta, cho đến khi hai Người băng hà; lúc ấy ta sẽ xuất gia trở thành
đạo sĩ sống trong rừng núi.

Người
hầu về tâu với hoàng hậu, hoàng hậu tâu lên Đức vua; Đức vua không chấp thuận,
truyền cho người đến báo cho thái tử biết ý định của Đức vua là “thái
tử phải lên ngôi, phải có chánh cung hoàng hậu”.
Đức Bồ Tát 2 – 3 lần
vẫn từ chối không chấp nhận. Về sau Đức Bồ Tát suy xét về phận làm con, từ chối
lời khẩn khoản của cha mẹ nhiều lần là điều không nên, vậy ta nên tìm cách khác
vậy.

Đức
Bồ Tát, tự mình đúc một pho tượng một cô gái bằng vàng xinh đẹp tuyệt vời, cho
mặc y phục, trang hoàng những đồ nữ trang quý giá, mang giầy dép… giống hệt
như cô gái thật xinh đẹp tuyệt vời (không ai ngờ rằng đó là pho tượng).

Đức
Bồ Tát cho người đem đến trình mẫu hậu, cùng với lời tâu rằng: “Công
chúa nào thật xinh đẹp tuyệt vời như pho tượng này, thì con mới chịu làm lễ kết
hôn với công chúa ấy”.

Hoàng
hậu truyền gọi các quan rồi phán rằng:


Thái tử của ta là bậc đại phước, do Đức vua trời Sakka ban cho, thái tử chỉ
muốn kết hôn cùng với công chúa xinh đẹp như pho tượng này. Vậy, các ngươi hãy
đem pho tượng này so sánh cùng khắp cõi Nam thiện bộ châu, nếu gặp công chúa
của Đức vua nào có thân hình xinh đẹp như pho tượng này, thì xin dâng pho tượng
này đến Đức vua ấy rồi tâu rằng: “Đức vua Okkāka muốn kết tình thông
gia với Đại Vương, sẽ làm lễ thành hôn thái tử với công chúa của Đức vua …
Xin hẹn ngày làm lễ, rồi các ngươi cấp tốc trở về tâu lại cho ta rõ”.

Các
quan tuân lệnh Hoàng hậu, đặt pho tượng trên xe, đưa đi đến các nước lân bang,
đặt nơi kinh thành và có nhiều người qua lại, còn các quan ẩn nấp một nơi để
lắng nghe lời phê bình về pho tượng.

Người
ta nhìn qua pho tượng đều trầm trồ khen ngợi rằng:


Cô gái này xinh đẹp tuyệt vời, có khác gì thiên nữ, ở xứ ta không có công chúa
nào xinh đẹp như cô gái này; cô gái này ở xứ nào đến mà đứng ở đây?

Được
lắng nghe như vậy, các quan biết xứ này không có công chúa nào xinh đẹp như pho
tượng, nên chở pho tượng sang xứ khác. Cuối cùng đến xứ Madda của Đức vua Madda
trị vì ở kinh thành Sāgala; đem pho tượng đến kinh thành Sāgala, đặt ở bến sông
có nhiều người qua lại để lấy nước.

Đức
vua Madda có 8 công chúa, công chúa lớn nhất tên Pabhāvatī bởi cô có sắc đẹp
tuyệt
trần, có ánh sáng hào quang toả ra từ sắc thân, như một thứ ánh sáng mát
dịu của mặt trời, cả đêm lẫn ngày. Trong căn phòng của công chúa, ban đêm không
cần dùng đèn cũng có thể nhìn thấy mọi vật như ban ngày. Công chúa có một người
nữ hầu thân tín tên Khujjā (nữ còng lưng).


hầu Khujjā sai bảo 8 nữ tỳ đi lấy nước ở bến sông đem về cho công chúa
Pabhāvatī dùng. Các nữ tỳ nhìn từ xa thấy pho tượng, tưởng là công chúa
Pabhāvatī đứng nơi đó, nên lại gần lễ phép thưa công chúa, chẳng nghe nói năng
gì, nhìn kỹ mới biết không phải là công chúa chủ của mình, đấy chỉ là pho tượng
bằng vàng, các nữ tỳ cảm thấy mắc cở vì bị hớ, liền chê trách rằng:


Pho tượng này có giá trị gì đâu, so với công chúa chủ của chúng ta!

Lắng
nghe rõ lời phê bình của các nữ tỳ, các quan tìm đến hỏi:


Này quý cô, quý cô nói công chúa của quýxinh đẹp hơn pho tượng này phải
không?


Thưa phải! Pho tượng này so với công chúa của chúng tôiđáng giá gì đâu! –
Một nữ tỳ trưởng nhóm trả lời.


Công chúa của quý cô có quý danh gọi là gì?


Công chúa có quý danh gọi là Pabhāvatī, công chúa lớn của đức vua Madda. – Thưa
ông.

Các
quan vô cùng hoan hỉ, cám ơn các cô, rồi đem pho tượng đặt lên xe đi thẳng đến
cửa cung điện của đức vua Madda, nhờ người lính gác cửa vào tâu lên Đức vua
rằng:


sứ giả của đức vua Okkāka ở kinh thành Kusavatī xứ Malla đang đứng chờ ngoài
ngọ môn, xin được vào yết kiến Hoàng thượng.

Đức
vua truyền lệnh mời các quan sứ giả vào triều bệ kiến.


Muôn tâu Đại vương, Hoàng thượng của kẻ hạ thần là đức vua Okkāka kính lời vấn
an Đại vương, kính chúc Đại vương vạn tuế.

Đức
vua cám ơn rồi truyền hỏi rằng:


Các ngươi đến đây, chắc còn có quốc sự gì quan trọng, hãy tâu trình cho Trẫm
rõ.


Muôn tâu Đại vương! Hoàng thượng của kẻ hạ thần có một thái tử tên Kusakumāra,
có giọng nói hùng dũng như tiếng sư tử chúa rống, Hoàng thượng của chúng thần
muốn truyền ngôi báu cho thái tử, kén chọn công chúa tấn phong lên ngôi chánh
cung hoàng hậu. Người truyền lệnh kẻ hạ thần đến yết kiến Đại vương, xin Đại
vương
ban công chúa Pabhāvatī kết hôn cùng thái tử Kusakumāra. Khi thái tử lên
ngôi
, sẽ tấn phong công chúa Pabhāvatī lên ngôi chánh cung hoàng hậu.

Các
quan sứ giả dâng pho tượng vàng lên Đức vua Madda, Đức vua rất hoan hỉ tiếp
nhận
pho tượng và nghĩ rằng: “công chúa của ta được kết hôn với thái tử
một nước lớn, thì thật là vinh hạnh cho xứ sở của ta”.

Các
quan sứ giả xin phép trở về nước, để trình tâu lên đức vua Okkāka được rõ, và
sẽ chọn ngày ngự đến đón rước công chúa Pabhāvatī.

Đức
vua Madda phán rằng: Tốt lắm! Rồi truyền lệnh tiễn đưa các quan trở về nước.

Khi
các quan về đến kinh thành Kusavatī, vào yết kiến Đức vua cùng Hoàng hậu tâu
trình việc tìm được công chúa Pabhāvatī xinh đẹp tuyệt trần rồi cùng chọn ngày
đón rước công chúa Pabhāvatī, Đức vua Okkāka, hoàng hậu Sīlavatī cùng các quan
quân một đoàn hộ giá đông đảo rời khỏi kinh thành Kusavatī ngự đến xứ Madda.
Đức vua Madda làm lễ đón rước đức vua Okkāka, hoàng hậu Sīlavatī cùng đoàn hộ
giá ngự vào kinh thành Sāgala, tổ chức buổi lễ rất long trọng tại cung điện đức
vua Madda.

Trải
qua
2 – 3 ngày hoàng hậu Sīlavatī rất thông minh, có trí tuệ sáng suốt, muốn
nhìn mặt công chúa Pabhāvatī, nên tâu với Đức vua Madda rằng:


Thưa Đức vua, chúng tôi xin phép nhìn mặt nàng dâu có được hay không?


Được lắm. – Đức vua Madda đáp lời rồi truyền gọi công chúa Pabhāvatī đến yết
kiến
đức vua Okkāka và hoàng hậu Sīlavatī.

Công
chúa
Pabhāvatī trang điểm những đồ trang sức quý giá tăng thêm vẻ đẹp tuyệt
trần như thiên nữ cùng nhóm nữ tỳ đông đảo tuỳ tùng theo sau đến bệ kiến Đức
vua cùng Hoàng hậu.

Hoàng
hậu nhìn thấy công chúa Pabhāvatī nghĩ rằng: công chúa đẹp tuyệt trần như thiên
nữ
, có ánh sáng hào quang mát dịu, còn thái tửthân hình xấu xí, đáng ghê
sợ
, nếu công chúa nhìn thấy thái tử, thì không thể nào sống chung với nhau
được, chắc chắn sợ hãi ghét bỏ đi. Ta nên tìm cách giúp Thái tử.

Hoàng
hậu thưa với đức vua Madda rằng:


Thưa Đại vương, công chúa Pabhāvatī thật xứng đáng với thái tử của chúng tôi.
Trong dòng vua của chúng tôi có một truyền thống, không biết công chúa có thể
hành theo truyền thống ấy được hay không?


Truyền thống thế nào, tâu Hoàng hậu? – Đức vua Madda thưa.


Thưa Đại vương, ban ngày hoàng hậu không được phép diện kiến Đức vua, chỉ gặp
nhau
trong căn phòng lúc ban đêm. Cho đến khi nào hoàng hậu thụ thai. Khi ấy,
hoàng hậu diện kiến Đức vua lúc ban ngày. Nếu công chúa Pabhāvatī hành theo
truyền thống ấy được, chúng tôi đón rước công chúa.

Đức
vua Madda truyền hỏi công chúa:


Này con, con có thể hành theo truyền thống ấy được không?


Tâu phụ vương, con có thể. – Công chúa tâu.

Sau
đó, đức vua Okkāka làm lễ dâng nhiều của cải quý giá đến đức vua Madda, rước
công chúa Pabhāvatī trở về kinh thành Kusavatī.

Phần
đức vua Madda làm lễ tiễn đưa công chúa Pabhāvatī với đoàn tuỳ tùng đông đảo.

Đức
vua Okkāka về đến kinh thành Kusavatī, truyền chiếu chỉ trang hoàng toàn kinh
thành, cung điện làm lễ mừng ngày lễ đăng quang thái tử lên ngôi báu trị vì đất
nước, tấn phong công chúa Pabhāvatī lên ngôi chánh cung hoàng hậu.

Đức
vua truyền lệnh phóng thích tất cả tù nhân, truyền chiếu chỉ đến các nước lân
bang rằng: “Từ nay, đức vua Kusa trị vì toàn thể đất nước Malla rộng
lớn này, các nước trong cõi Nam thiện bộ châu, Đức vua nào có công chúa, xin
dâng công chúa đến đức vua Kusa để gây tình thân thiện; và gởi các hoàng tử đến
cầu thân để được Đức vua bảo hộ”.

Đức
vua Kusa trị vì đất nước rộng lớn, có oai lực phi thường, đặc biệt có giọng nói
như tiếng rống của sư tử chúa, khiến cho các nước lân bang đều khâm phục. Cho
nên trong nước được an lành thịnh vượng.

Hoàng
hậu Pabhāvatī không diện kiến đức vua Kusa ban ngày, và đức vua Kusa cũng không
nhìn thấy rõ mặt hoàng hậu Pabhāvatī; Đức vua và hoàng hậu chỉ gần gũi nhau lúc
ban đêm; bình thường ban đêm hoàng hậu Pabhāvatī ở một mình, thân hình toả ra
ánh sáng hào quang mát dịu như ban ngày, nhưng khi nào Đức vua Bồ Tát đến gần
hoàng hậu, do oai lực của Đức Bồ Tát thì ánh sáng hào quang kia biến mất, chỉ
có bóng tối ban đêm, cho nên, Đức vua và hoàng hậu không thể nhìn thấy mặt nhau
được.

Đức
vua muốn nhìn thấy mặt hoàng hậu Pabhāvatī ban ngày, nên đến nhờ mẫu hậu của
Ngài giúp đỡ. Bà ngăn cấm rằng:


Hoàng nhi hãy chờ đợi một thời gian nữa, cho đến khi nào có được một hoàng tử.

Đức
vua Bồ Tát nóng lòng muốn nhìn xem mặt hoàng hậu, đến cầu xin khẩn khoản mẫu
hậu của Ngài, nhiều lần, bà cũng phải chìu theo, bà dạy rằng:


Hoàng nhi đến chuồng voi, đóng vai người nài voi, mẫu hậu sẽ dẫn nàng đến
chuồng voi xem voi của Đức vua.

Mẫu
hậu của Ngài dẫn hoàng hậu Pabhāvatī đến xem voi trong chuồng voi, Đức Bồ Tát
đứng nơi đó nhìn thấy hoàng hậu xinh đẹp tuyệt trần, cảm hứng quá lấy phân voi
ném đằng sau hoàng hậu Pabhāvatī, làm cho hoàng hậu tức giận truyền rằng:


Ta sẽ trình tâu Đức vua, truyền lệnh chặt tay của ngươi!


Hoàng thái hậu năn nỉ tha thứ tội lỗi cho người nài.

Lần
sau, Đức Bồ Tát muốn nhìn xem mặt hoàng hậu, mẫu hậu của Ngài dẫn hoàng hậu đến
chuồng ngựa; Ngài đóng vai người giữ ngựa, nhìn thấy hoàng hậu, lại lấy phân
ngựa ném đằng sau hoàng hậu. Hoàng hậu tức giận, bà Hoàng thái hậu lại năn nỉ
tha tội cho người giữ ngựa.

Một
hôm, hoàng hậu Pabhāvatī muốn nhìn xem mặt Đức vua, bà mẫu hậu không thể từ
chối nên bảo nàng rằng:


Ngày mai, Đức vua sẽ đi dạo quanh kinh thành, con hãy đứng ở cửa sổ nhìn xuống.


hoàng thái hậu truyền lệnh kinh thành trang hoàng đẹp đẽ, Đức vua đi dạo, bà
truyền dạy hoàng tử Jayampati (hoàng đệ của Đức Bồ Tát) trang phục Đức
vua ngồi lên lưng bạch tượng, còn Đức Bồ Tát đóng vai người nài voi ngồi đằng
sau, bạch tượng đi ngang qua lâu đài của hoàng hậu, hoàng hậu đứng cửa sổ nhìn
xuống, Đức Bồ Tát nhìn lên lấy tay vẫy, có cử chỉ không lịch sự, hoàng hậu thấy
không hài lòng, nhưng nàng tự nghĩ: Đức vua thật xứng với ta.


hoàng thái hậu truyền dạy:


Con đã nhìn thấy Đức vua rồi phải không?


Tâu thái hậu, con đã nhìn thấy rồi, con rất hài lòng, nhưng sao lại tuyển chọn
người nài voi xấu xí đáng ghê sợ, có những cử chỉ vô lễ với Đức vua và con nữa.


hoàng thái hậu khuyên hoàng hậu nên tha tội cho người nài voi kia.

Hoàng
hậu suy nghĩ: mấy hôm trước người nài voi, người giữ ngựa, nay cũng chính y.
Tại sao y lại được hưởng đặc ân của triều đình đến như vậy? Có phải y chính
đức vua Kusa hay không?
Hoàng hậu bắt đầu hoài nghi về nhân vật này.

Đức
Bồ Tát lại muốn nhìn thấy tận mặt hoàng hậu, đến xin mẫu hậu của Ngài giúp đỡ.
Bà hoàng thái hậu nhận thấy hoàng hậu không vui, bà dẫn đi dạo thượng uyển, đến
hồ sen nước trong, hoa sen nở rộ, Đức Bồ Tát ngâm mình dưới hồ, lấy lá sen che
mặt; hoàng hậu nhìn thấy nước hồ trong trẻo, có nhiều loại hoa sen xinh đẹp,
nàng muốn xuống hồ để tắm, cùng với các nữ tỳ. Nàng nhìn thấy một hoa sen xinh
đẹp
, vớ tay định hái đoá hoa sen, tại nơi ấy Đức Bồ Tát ẩn mình, nổi lên nắm
lấy cánh tay hoàng hậu la lớn rằng: “Ta là đức vua Kusa!”.
Hoàng hậu tận mắt nhìn thấy rõ mặt mày, thân hình xấu xí đang ghê sợ của Đức Bồ
Tát
làm cho hoàng hậu chết giấc, các nữ tỳ đem hoàng hậu cứu chữa mới tỉnh lại.
Khi hoàn hồn, hoàng hậu nhớ lại những sự kiện đã xảy ra trước kia: người nài
voi ném phân voi, người giữ ngựa ném phân ngựa, người nài voi ngồi sau bạch
tượng
cũng chính là người này,
đức vua Kusa, không phải ai khác.

Hoàng
hậu gọi các quan lo xe giá đưa bà trở về cố quốc ngay hôm ấy, các quan tâu Đức
vua rõ. Đức vua nghĩ rằng: nếu cấm hoàng hậu, nàng có thể đứng tim chết thôi,
nên đành để cho nàng trở về kinh thành Sāgala. Sau đó, ta sẽ tìm cách rước nàng
trở lại.

Đức
vua truyền lệnh chuẩn bị xe giá sang trọng tiễn đưa Chánh cung hoàng hậu về
kinh thành Sāgala.

Do
nghiệp lực nào, đức vua Kusa có thân hình xấu xí, đáng ghê sợ?

Do
nghiệp lực nào, đức vua Kusa chỉ sủng ái một mình hoàng hậu Pabhāvatī mà không
quan tâm đến các cung phi mỹ nữ khác?


do nguyện lực nào, hoàng hậu Pabhāvatī có sắc đẹp tuyệt trần, có ánh sáng hào quang
toả ra từ sắc thân của bà suốt ngày đêm, nhưng khi đức vua Kusa đến gần, ánh
sáng kia biến mất.

Do
nguyện lực nào hoàng hậu Pabhāvatī không muốn sống chung với đức vua Kusa?

Tất
cả mọi quả ắt hẳn phát sanh từ nhân. Quả có nghĩa là quả của nghiệp và nhân
chính là nghiệp. Đức vua Kusa và hoàng hậu Pabhāvatī đều là hiện thân quả của
nghiệp. Vậy quả của nghiệp nào, nên tìm hiểu qua tích tiền kiếp cuả đức vua
Kusa và hoàng hậu Pabhāvatī được tóm lược như sau:

Trong
quá khứ, một làng ở gần cửa thành Bārāṇasī có hai gia đình:

Một
gia đình có hai người con trai: một anh cả và một người em thứ là Đức Bồ Tát.

Một
gia đình kia có một người con gái.

Bên
nhà trai xin cưới con gái của gia đình kia về làm vợ của người con cả. Người
con thứ chưa có vợ vẫn sống chung với nhau một nhà.

Một
hôm, người chị dâu làm bánh chiên rất ngon, gia đình đông đủ, chỉ có người em
chồng vắng mặt, vì đi làm ở trong rừng; người chị dâu dành phần bánh cho người
em xong, cả gia đình cùng nhau dùng hết bánh.

Khi
ấy, Đức Phật Độc Giác đi khất thực đến đứng trước cửa nhà, người chị dâu phát
sanh đức tin trong sạch, nên nghĩ rằng: “ta nên lấy phần bánh để dành
cho người em chồng, để bát cúng dường đến Đức Phật Độc Giác xong, rồi ta sẽ làm
phần bánh chiên khác thay thế”.
Khi người chị dâu đem phần bánh chiên
dâng cúng đến Đức Phật Độc Giác xong; vừa lúc đó, người em chồng từ rừng trở về
nhà hỏi phần bánh chiên của mình; người chị chồng nói rằng:


Chú ạ! Phần bánh chiên của chú chị đã đem dâng cúng đến Đức Phật Độc Giác rồi,
chú hoan hỉ ráng đợi chị một lát, chị sẽ làm phần bánh chiên khác cho chú ngay.

Nghe
nói vậy, người em chồng nổi giận nói rằng:


Chị ăn phần bánh của mình hết rồi, lại lấy phần bánh chiên của tôi đem dâng đến
Đức Phật Độc Giác, tôi lấy gì ăn đây?

Người
em chồng tức giận đi đến Đức Phật Độc Giác lấy lại phần bánh chiên. Thấy vậy,
người chị dâu vội vã đi về nhà cha mẹ của mình lấy bơ lỏng còn mới và trong
trẻo
có màu giống như hoa mộc lan, dâng cúng đến Đức Phật Độc Giác đầy bát,
thay thế phần bánh chiên kia. Bơ lỏng toả ra ánh sáng trong, nhìn thấy, nàng
cùng
hoan hỉ, nên thành tâm phát nguyện rằng:


Kính bạch Ngài, do năng lực phước thiện bố thí này, kiếp sau, cầu xin cho con
có được sắc thân xinh đẹp tuyệt trần, không một ai sánh kịp, có ánh sáng hào
quang
toả ra từ sắc thân suốt đêm ngày và xin đừng sống chung với hạng người ác
như chú em chồng của con.

Nghe
rõ lời phát nguyện của người chị dâu, người em chồng (Đức Bồ Tát) vội
vàng
dâng cúng để bát Đức Phật Độc Giác phần bánh chiên của mình đè lên trên bơ
lỏng của người chị dâu rồi phát nguyện rằng:


Kính bạch Ngài, do năng lực phước thiện bố thí này, kiếp sau chị dâu của con
dầu ở xa hằng trăm do tuần, cầu xin cho con có đủ khả năng rước đem về làm vợ
của con.

Người
chị dâu sau khi chết, do năng lực phước thiện bố thíthiện nghiệp cho quả
tái sanh lên cõi trời hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời; về sau tái sanh cõi
người
công chúa Pabhāvatī, con của đức vua Madda.

Công
chúa
Pabhāvatī có sắc thân xinh đẹp tuyệt trần, có ánh hào quang toả ra từ sắc
thân
suốt đêm ngày. Như vậy, được thành tựu đúng theo lời phát nguyện.

Hoàng
hậu Pabhāvatī không muốn sống chung với đức vua Kusa. Như vậy, được thành tựu đúng
theo lời phát nguyện.

Người
em chồng, sau khi chết, do năng lực phước thiệnthiện nghiệp cho quả
tái sanh lên cõi trời hưởng mọi sự an lạc, đến khi hết tuổi thọ, đức vua Sakka
thỉnh tái sanh cõi người vào lòng chánh cung hoàng hậu Sīlavatī của Đức vua
Okkāka xứ Malla. Sau khi tái sanh, ác nghiệp nổi giận lấy lại phần bánh
chiên của mình từ trong bát của Đức Phật Độc Giác, cho quả có thân hình xấu xí
đáng ghê sợ.

Thái
tử
Kusa lên ngôi làm vua trị vì một nước lớn, có nhiều oai lực có giọng nói như
sư tử chúa rống, làm cho kẻ thù kinh hồn bạt vía. Đó là do quả của thiện
nghiệp
.

Thái
tử
Kusa rước công chúa Pabhāvatī đem về tấn phong chánh cung hoàng hậu. Như
vậy, được thành tựu đúng theo lời phát nguyện.

Lời
phát nguyện của tiền thân hoàng hậu Pabhāvatī mọi điều đã được thành tựu như ý.

Còn
lời phát nguyện của Đức Bồ Tát thì thế nào?

Sau
khi hoàng hậu Pabhāvatī đã trở về đến kinh thành Sāgala của vua cha rồi, ngày
đêm, đức vua Kusa tâm trí luôn luôn nhớ thương đến một mình hoàng hậu không
nguôi. Mặc dầu trong cung điện có nhiều cung phi mỹ nữ mà Đức vua không hề quan
tâm
đến một người nào cả. Lòng thương nhớ hoàng hậu càng thôi thúc, khiến cho
Đức vua đến hầu mẫu hậu của Ngài tâu rằng:

Tâu
mẫu hậu, xin phép mẫu hậu, con sẽ đi rước hoàng hậu Pabhāvatī trở lại.
Vậy con xin giao lại ngôi báu này cho mẫu hậu.

Đức
vua Bồ Tát giả dạng một người dân thường, đem theo một cây đàn lên đường thẳng
đến kinh thành Sāgala, xin ngủ nhờ một nhà người nài voi gần cung điện của đức
vua Madda; Đức Bồ Tát ngủ rất ngon giấc, khi thức dậy lấy cây đàn khảy một bài,
tiếng đàn réo rắt gợi lòng thương nhớ hoàng hậu Pabhāvatī. Tiếng đàn toả ra không
gian
, lan vào cung điện. Hoàng hậu nghe tiếng đàn biết rõ chắc chắn tiếng đàn
của đức vua Kusa đã đến đây để rước ta trở lại kinh thành Kusavatī, bà rất lo
sợ. Chính đức vua Madda cũng tấm tắc khen ngợi tiếng đàn hay tuyệt vời, nhưng
nghe sao thống thiết quá!

Đức
Bồ Tát nghĩ rằng ở đây không thể gặp mặt hoàng hậu Pabhāvatī được, nên tìm đến
chỗ lò gốm, nơi làm đồ dùng của Đức vua và các công chúa, để có cơ hội làm
những món đồ dùng cho hoàng hậu Pabhāvatī. Đức Bồ Tát đến xin làm học trò, ông
chủ lò gốm hoan hỉ nhận Đức Bồ Tát. Tại lò gốm, Đức Bồ Tát đã làm nhiều món đồ
gốm tráng men, kiểu mẫu đẹp tuyệt vời, xứng đáng bậc thầy của chủ lò gốm. Có
những món đồ gốm tráng men, cố ý dành cho hoàng hậu Pabhāvatī dùng, có hình ảnh
hoàng hậu Pabhāvatī, đức vua Kusa, cảnh trong cung điện, chỉ có một mình hoàng
hậu biết được mà thôi. Ông chủ lò gốm đem vào dâng Đức vua cùng quý công chúa,
Đức vua trầm trồ khen ngợi những món đồ rất xinh đẹp tuyệt vời, thật vô giá.
Những món đồ ấy cũng đến tay hoàng hậu Pabhāvatī, bà nhìn thấy biết ngay, những
món đồ này do đôi bàn tay của đức vua Kusa để dành cho bà, vốn không ưa thích
Đức vua, nên bà không dùng những món đồ ấy.

Đức
Bồ Tát nghĩ rằng ở nơi đây ta cũng không có cơ hội gặp mặt hoàng hậu Pabhāvatī
được; tìm đến chỗ làm đồ thủ công, nơi làm đồ dùng cho Đức vua và quý công
chúa
, Đức Bồ Tát xin làm học trò, Ngài đã làm những món đồ đan bằng lá thốt nốt
đẹp tuyệt vời có hình ảnh hoàng hậu, ở trong cung điện, chỉ có một mình hoàng
hậu biết được mà thôi. Người thợ thủ công đem những món đồ dâng Đức vua cùng
quý công chúa, Đức vua trầm trồ khen ngợi chưa từng thấy những món đồ xinh đẹp
như vậy. Những món đồ ấy đến tay hoàng hậu Pabhāvatī, bà nhìn thấy biết ngay,
những món đồ này do đôi bàn tay của đức vua Kusa, bà không chịu dùng những món
đồ ấy.

Đức
Bồ Tát nghĩ rằng ở đây ta cũng không có cơ hội thấy mặt hoàng hậu Pabhāvatī,
tìm đến tiệm hàng kết hoa cho Đức vua Madda cùng quý công chúa. Đức Bồ Tát xin
làm học trò, Ngài đã kết những tràng hoa bằng nhiều loại hoa khác nhau, thành
hình
ảnh hoàng hậu, Đức vua v.v… chỉ có hoàng hậu biết mà thôi. Người thợ kết
hoa đem dâng Đức vua cùng quý cô công chúa; hoàng hậu Pabhāvatī nhìn thấy tràng
hoa
biết ngay, do bàn tay của đức vua Kusa, bà không chịu nhận tràng hoa ấy.

Đức
vua Bồ Tát bỏ ngôi báu, mẫu hậu, phụ hoàng xứ sở của mình đến kinh thành Sāgala
này với ý nguyện nhìn thấy hoàng hậu Pabhāvatī và rước hoàng hậu trở lại cung
điện. Đức Bồ Tát suy nghĩ ở đây không thể thực hiện được ý nguyện của mình, nên
Ngài từ giã tiệm hàng kết hoa, tìm đến nhà bếp nơi làm đồ ăn dâng Đức vua cùng
quý công chúa, để xin làm học trò phụ bếp. Người đầu bếp cho Đức Bồ Tát một ít
xương còn dính thịt làm món ăn để dùng, Ngài đã làm thành một món ăn thật ngon
có mùi thơm toả ra khắp kinh thành bay đến cung điện. Đức vua ngửi thấy mùi
thơm
vật thực, truyền hỏi người đầu bếp đang dâng vật thực rằng:


Này ngươi, còn món ăn đặc biệt nào ở nhà bếp mà ngươi chưa dâng cho Trẫm phải
không?


Tâu Hoàng thượng, không có. – Người đầu bếp tâu.


Ngươi để ý ngửi xem có phải hương vị món vật thực không? – Đức vua truyền.

Người
đầu bếp để ý ngửi, đúng là mùi thơm của món vật thực, bèn tâu rằng:


Tâu hoàng thượng, hạ thần có cho người học trò mới phụ bếp một ít xương còn
dính thịt làm món ăn để dùng.


Ngươi hãy về đem món ăn ấy cho Trẫm xem.

Người
đầu bếp trở về lấy món ăn ấy dâng lên Đức vua, Đức vua vừa bỏ vào đầu lưỡi, vị
ngon, hương thơm toả ra toàn thân như nếm phải món vật thực của chư thiên.

Đức
vua truyền lệnh rằng:


Từ nay, ngươi để cho người học trò mới làm đồ ăn dâng lên Trẫm và quý công
chúa
. Phần ăn của Trẫm thì chính ngươi đem đến, còn phần ăn của quý công chúa,
thì ngươi cho người học trò mới đem phân phát.

Người
đầu bếp trở về thi hành theo ý chỉ của Đức vua, giao việc nấu nướng những thức
ăn
cho Đức Bồ Tát, ông bảo Đức Bồ Tát rằng:


Ta đem phần ăn lên dâng Đức vua, còn ngươi đem những phần ăn dâng đến quý công
chúa
.

Đức
Bồ Tát nghe người đầu bếp phân công, trong lòng vô cùng vui mừng hoan hỉ, nghĩ
rằng: ý nguyện của ta sẽ thành tựu, từ nay ta có thể nhìn thấy mặt hoàng hậu
Pabhāvatī.

Như
vậy, mỗi ngày Đức Bồ Tát đem vật thực phân phát quý cô công chúa, với mục đích
chính là nhìn thấy chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī.

Đức
Bồ Tát mang vật thực lên lâu đài hoàng hậu Pabhāvatī, Đức vua vô cùng hoan hỉ,
khi nhìn thấy rõ chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī, còn hoàng hậu cũng nhìn thấy
rõ Đức vua tâm không hài lòng, nghĩ rằng:“Chỉ vì ta, mà đức vua Kusa
đến đây giả dạng người làm công, người tôi tớ. Thật không xứng đáng chút nào
cả! Nếu ta làm thinh, Đức vua tưởng lầm ta còn thương tưởng đến Người rồi ở đây
luôn để mọi ngày nhìn thấy ta. Ta nên nói cho Đức vua biết”.


Xin mời Đại vương trở về kinh thành Kusavatī càng sớm càng tốt, thần thiếp
không muốn nhìn thấy Đại vươngthân hình xấu xí đáng ghê sợ! Đại vương ở đây
phải chịu vất vã khổ cực ngày đêm có ích lợi gì đâu?

Nghe
lời
chê trách với giọng hằn học của hoàng hậu, thay vì tức giận, Đức vua lại
hài lòng hoan hỉ nghe được giọng nói của hoàng hậu, rồi đáp lại rằng:


Này ái khanh Pabhāvatī, ái khanh xinh đẹp tuyệt trần, Trẫm rất sủng ái nơi ái
khanh, Trẫm không thể trở lại kinh thành Kusavatī một mình; Trẫm đã từ bỏ kinh
thành Kusavatī, từ bỏ cả ngôi báu, từ bỏ tất cả, chỉ vì ái khanh. Trẫm rất hài
lòng
ở lại đây, để hằng ngày ngắm nhìn ái khanh.


Này ái khanh, Trẫm say mê nơi sắc đẹp tuyệt trần của ái khanh, Trẫm chỉ cần một
mình
ái khanh mà thôi, không cần đến ngôi báu ở kinh thành Kusavatī xứ Malla to
lớn….

Nghe
lời
phán của đức vua Kusa, hoàng hậu Pabhāvatī nghĩ rằng: Ta chê trách để
làm cho Đức vua tức giận, trở về cố quốc. Ngược lại, Đức vua không tức giận,
lại còn thốt lời yêu thương ràng buộc. Nếu người tự xưng danh “Ta là đức
vua Kusa” tiến đến nắm tay ta, thì còn ai dám can ngăn Đức vua được.

Đức
vua Kusa ngự đến kinh thành Sāgala này, chỉ có hoàng hậu Pabhāvatī và bà Khujjā
người hầu thân tín biết mà thôi, còn những người khác hoàn toàn không ai hay
biết sự có mặt của đức vua Kusa.

Hoàng
hậu Pabhāvatī cảm thấy lo sợ, nên lánh mặt, truyền dạy người hầu mỗi ngày dùng
phần ăn mà Đức Bồ Tát dành cho bà; còn bà dùng phần ăn của người hầu.

Từ
đó về sau, Đức Bồ Tát không nhìn thấy mặt hoàng hậu Pabhāvatī, lòng thương nhớ
không nguôi, Đức Bồ Tát nhờ đến bà Khujjā, người hầu của hoàng hậu rằng:


Ta nhờ ngươi cố thuyết phục hoàng hậu gặp gỡ ta, nói chuyện vui vẻ, tươi cười
thương yêu ta, lấy đôi bàn tay mềm mại xoa nhẹ trên thân hình của ta. Nếu nhà
ngươi làm được như vậy, thì chắc chắn nhà ngươi sẽ được trọng thưởng.


Khujjā nhận lời khẩn khoản tha thiết của Đức Bồ Tát, cố gắng thuyết phục hoàng
hậu Pabhāvatī nhưng không có kết quả. Đức vua Bồ Tát chờ mãi, chờ mãi trải qua
7 tháng ròng rã mà vẫn chưa nhìn thấy mặt hoàng hậu Pabhāvatī.

Đức
Bồ Tát ngồi một mình than vãn rằng: đã trải qua 7 tháng rồi chưa về thăm mẫu
hậu và phụ vương; ở đây ngày đêm vất vả khổ cực, mà chẳng nhìn thấy mặt hoàng
hậu Pabhāvatī đâu…?

Nỗi
khổ tâm của Đức Bồ Tát động đến vua trời Sakka, hiểu rõ nguyện vọng của Đức Bồ
Tát
muốn gặp mặt hoàng hậu Pabhāvatī và rước nàng trở về kinh thành Kusavatī,
nên Đức vua trời Sakka tìm cách giúp đỡ để Đức Bồ Tát được toại nguyện.

Đức
vua trời Sakka cho hoá ra nhiều sứ giả mang chiếu chỉ của Đức vua Madda gởi đến
7 Đức vua ở 7 kinh thành khác nhau, cùng một lúc, với lời lẽ rằng: “Công
chúa Pabhāvatī đã li dị đức vua Kusa trở về kinh thành Sāgala rồi; nếu đại vương
muốn công chúa Pabhāvatī, xin ngự đến rước nàng”.

Bảy
Đức vua từ 7 kinh thành đều ngự cùng với đoàn tuỳ tùng hộ tống đông đảo đến
kinh thành Sāgala gặp nhau cùng một lúc, các Đức vua gặp hỏi nhau rằng:


Đại vương ngự đến đây với quốc sự gì?

Được
biết, 7 Đức vua ngự đến xứ Madda có cùng một mục đích “rước công chúa
Pabhāvatī về nước”.
Các Đức vua nổi giận Đức vua Madda và truyền rằng:
Đức vua Madda dâng một mình công chúa Pabhāvatī đến 7 Đức vua ở 7 kinh thành,
là một việc làm có tánh khiêu khích chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau bắt Đức
vua Madda trị tội.

Cho
nên, mỗi Đức vua đều gởi chiếu chỉ với lời lẽ rằng: “Đại vương Madda,
hãy dâng công chúa Pabhāvatī cho quả nhân hoặc chiến tranh”.

Gởi
chiếu chỉ xong, 7 Đức vua đem quân vây quanh kinh thành Sāgala. Đức vua Madda
biết như vậy, tâm vô cùng hoảng sợ, lệnh hội họp các quan bàn việc đối phó,
phải làm thế nào? Một vị quan tâu rằng:


Tâu bệ hạ! 7 Đức vua ngự đến đây, nguyên nhân do công chúa Pabhāvatī, xin bệ hạ
bắt công chúa Pabhāvatī dâng cho họ, để tránh khỏi cuộc chiến tranh xảy ra.

Nghe
tâu như vậy, Đức vua Madda truyền rằng:


Nếu Trẫm bắt công chúa Pabhāvatī dâng cho một Đức vua này, thì còn lại 6 Đức
vua kia sẽ gây chiến tranh với ta. Như vậy, Trẫm không thể dâng công chúa cho
Đức vua nào được.

Sự
việc xảy ra như thế này, là do công chúa Pabhāvatī bỏ đức vua Kusa là một Đức
vua có oai lực phi thường trong cõi Nam thiện bộ châu này, mà công chúa chê đức
vua Kusa có thân hình xấu xí, đáng ghê sợ, trở về đây. Cho nên, ngày nay, công
chúa
Pabhāvatī đành phải chịu hậu quả ấy. Vậy bắt công chúa Pabhāvatī chặt làm
7 phần dâng cho 7 Đức vua của 7 kinh thành.

Nghe
tin
như vậy, công chúa vô cùng kinh hoảng sợ chết, chặt làm 7 phần, nàng vội
vàng
đến tìm mẫu hậu khóc than cầu xin cứu mạng; nhưng làm sao cải lệnh của Đức
vua được.

Mẫu
hậu quở trách công chúa Pabhāvatī rằng:


Bởi con tự kiêu ngã mạn, ỷ lại sắc đẹp tuyệt trần của mình, nên chê trách đức
vua Kusa xấu xí đáng ghê sợ, bỏ Đức vua về đây, nên ngày nay con phải chịu hậu
quả
đau khổ như thế này!

Nếu
mà bây giờ có đức vua Kusa oai lực phi thường, có giọng như sư tử chúa rống,
làm cho 7 Đức vua này kinh hồn bạt vía, khiếp đảm bỏ chạy trốn thoát thân. Như
vậy, mới mong cứu mạng cho công chúa của ta thoát chết, rồi rước công chúa trở
lại
kinh thành Kusavatī. Không biết đức vua Kusa bây giờ ngự ở nơi nào?

Nghe
mẫu hậu tán dương ca tụng oai lực của đức vua Kusa, bây giờ công chúa Pabhāvatī
đã đến đường cùng rồi, không còn phải giấu giếm được nữa, nên tâu với mẫu hậu
rằng:

Tâu
mẫu hậu, mẫu hậu ca tụng đức vua Kusa có oai lực phi thường có thể thắng được 7
Đức vua từ 7 kinh thành, chịu thua bỏ chạy, để cứu mạng cho con, khỏi cái chết
thê thảm này.


Tâu mẫu hậu, đức vua Kusa ấy hiện đang ngự ở trong vòng cung điện này đây.

Mẫu
hậu của công chúa Pabhāvatī truyền dạy rằng:


Này con, vì quá sợ chết nên tâm trí con đã điên loạn rồi phải không? Hay là con
trở thành người ngu muội mới tâu với mẫu hậu như vậy! Nếu đức vua Kusa ngự đến
đây thật, tại sao phụ vương và mẫu hậu không hề hay biết?

Công
chúa
Pabhāvatī nghĩ rằng, mẫu hậu không tin theo lời của mình, và hoàn toàn
không hay biết đức vua Kusa ngự ở đây suốt 7 tháng qua, ta sẽ chỉ cho mẫu hậu
nhìn thấy Đức vua.

Công
chúa
Pabhāvatī nắm tay mẫu hậu đến đứng gần cửa sổ chỉ tay xuống dưới nhà bếp
gần lâu đài của quý công chúa tâu rằng:


Tâu mẫu hậu, đức vua Kusa giả dạng người đầu bếp, ăn mặc gọn gàng đang ngồi rửa
nồi, chảo….

Khi
ấy, Đức Bồ Tát suy tư rằng: hôm nay, nguyện vọng của ta chắc chắn được thành
tựu
, bởi vì hoàng hậu Pabhāvatī sợ chết, chắc chắn tâu với mẫu hậu, phụ vương
biết, có mặt ta ở tại nơi đây.

Đức
Bồ Tát lo rửa tất cả mọi chén bát cho sạch sẽ, đem cất trong tủ gọn gàng.

Còn
mẫu hậu quở mắng công chúa Pabhāvatī rằng:


Này, ngươi có phải là đứa con gái hư không? Hay ngươi là đứa con gái làm hại
hoàng tộc phải không? Ngươi đã sanh trong dòng dõi của Đức vua Madda, tại sao
ngươi có thể để Đức vua hôn phu của ngươi làm người đầy tớ?

Nghe
mẫu hậu quở mắng, công chúa Pabhāvatī tâu rằng:


Tâu mẫu hậu! Con không phải đứa con hư; cũng không phải đứa con làm hại hoàng
tộc
. Kia là đức vua Kusa, thái tử của thái thượng hoàng Okkāka, sao mẫu hậu
nghĩ rằng người đầy tớ?

Công
chúa
Pabhāvatī tán dương ca tụng oai lực của đức vua Kusa rằng:


Tâu mẫu hậu! Đức vua nào, hằng ngày thường cúng dường vật thực đến 20 ngàn vị
Bà la môn; Đức vua ấy, tên là Kusa, thái tử của thái thượng hoàng Okkāka, sao
mẫu hậu nghĩ rằng người đầy tớ.


Tâu mẫu hậu, các quân lính hằng ngày thường chuẩn bị đội tượng binh gồm 20 ngàn
thớt voi cho Đức vua nào, Đức vua ấy là đức vua Kusa, thái tử của thái thượng
hoàng Okkāka, sao mẫu hậu nghĩ rằng người đầy tớ.


Tâu mẫu hậu, các quân lính, hằng ngày thường chuẩn bị đội quân xa gồm 20 ngàn
chiếc cho Đức vua nào, Đức vua ấy tên là Kusa, thái tử của thái thượng hoàng
Okkāka, sao mẫu hậu nghĩ rằng người đầy tớ.


Tâu mẫu hậu, các quân lính, hằng ngày thường vắt sữa bò gồm 20 ngàn con cho Đức
vua nào, Đức vua ấy tên là Kusa, thái tử của thái thượng hoàng Okkāka, sao mẫu
hậu nghĩ rằng người đầy tớ….

Khi
công chúa Pabhāvatī tán dương ca tụng đức vua Kusa như vậy, với lời lẽ hùng
hồn, khiến cho mẫu hậu của nàng tin rằng, có đức vua Kusa thật, nên bà vội vã
đến tâu lên đức vua Madda, Đức vua ngự đến lâu đài công chúa Pabhāvatī ngay tức
khắc, bèn truyền hỏi rằng:


Này con, đức vua Kusa đang ngự tại đây có thật hay không?


Tâu phụ vương! Điều đó có thật, đức vua Kusa đang làm phận sự người đầu bếp của
phụ vương cùng quý công chúa trải qua thời gian được 7 tháng rồi. – Công chúa
Pabhāvatī tâu.

Đức
vua Madda không thể nào tin đó là sự thật, nên truyền hỏi nàng hầu Khujjā của
công chúa.

Nàng
hầu cũng tâu rõ sự thật mọi điều như công chúa. Đức vua quở mắng công chúa
rằng:


Này, ngươi là đứa con ngu xuẩn, ngươi đã làm điều tồi tệ quá! Tại sao, từ lâu
con không tâu với phụ vương được rõ? Đức vua Kusa là một Đại vương có nhiều oai
lực, thống soái toàn cõi Nam thiện bộ châu này, như là một con voi chúa, sao
con có thể xem như loài ếch được?

Quở
mắng
công chúa xong, Đức vua vội vã ngự đến tìm Đức Bồ Tát chấp hai tay xin tha
tội
rằng:


Tâu Đại vương, bậc vĩ đại, xin người mở lòng thương mà tha tội kẻ bề tôi, vì
không biết Đại vương đến nơi này, với hình thức không dễ ai biết được.

Nghe
Đức vua Madda tâu như vậy, Đức Bồ Táttâm bi không quở trách, mà chỉ nói lời
an ủi
để Đức vua yên tâm rằng:


Này Đại vương, người như quả nhân chẳng giấu giếm gì, quả nhân là người đầu bếp
đã được Đại vương trọng dụng và tin cậy.

Này
Đại vương, người không có tội lỗi gì mà quả nhân phải tha tội.

Nghe
lời
truyền dạy của Đức Bồ Tát, Đức vua yên tâm vội vã ngự đến lâu đài của công
chúa
Pabhāvatī truyền dạy công chúa mau mau đến yết kiến đại vương Kusa rằng:


Này đứa con khờ dại, con hãy mau mau đến yết kiến Đại vương, bậc đại hùng, cầu
xin
Người tha tội. Nếu đại vương Kusa tha tội cho con, thì con mới mong thoát
khỏi
chết. Trong đời này, chỉ có đức vua Kusa mới cứu mạng cho con được mà
thôi!

Nghe
lời
truyền dạy của phụ vương, công chúa Pabhāvatī cùng với các em của nàng,
nhóm nữ tỳ đông đảo đến yết kiến Đức Bồ Tát; Đức Bồ Tát đứng với tư thế người
đang rửa nồi chảo, biết hoàng hậu Pabhāvatī đến yết kiến mình, nên nghĩ rằng: hôm
nay ta sẽ trừ tánh tự kiêu ngã mạn của hoàng hậu Pabhāvatī, để cho nàng cúi đầu
đảnh lễ dưới đôi bàn chân dơ bẩn của ta.
Đức Bồ Tát giẫm đôi bàn chân dính
đầy sình lầy dơ bẩn, khi hoàng hậu Pabhāvatī đến cúi đầu đảnh lễ ôm hai bàn
chân của Đức Bồ Tát xong, ngồi trên vũng sình lầy xin lỗi Đức Bồ Tát rằng:


Tâu hoàng thượng, thần thiếp xin cúi đầu lạy dưới đôi bàn chân của hoàng
thượng, thần thiếp ghét hoàng thượng đến ngày hôm nay là ngày cuối cùng. Cầu
xin
hoàng thượng tha thứ tội cho thần thiếp, xin đừng giận thần thiếp nữa, thần
thiếp thành thật thề với hoàng thượng, xin hoàng thượng nghe rõ lời thề của
thần thiếp: kể từ nay về sau thần thiếp không còn ghét hoàng thượng nữa, một
lòng thương yêu hoàng thượng. Đây là lời tha thiết khẩn khoản van xin của thần
thiếp, nếu hoàng thượng không đoái thương cứu mạng thần thiếp, thì ngay hôm
nay, phụ vương chắc chắn sẽ phân thây thần thiếp làm 7 phần, đem dâng cho 7 Đức
vua đang vây ở ngoài thành.

Nghe
lời
khẩn khoản van xin của hoàng hậu Pabhāvatī, Đức Bồ Tát động lòng trắc ẩn,
để cho hoàng hậu yên tâm mà phán rằng:


Này ái khanh, lời khẩn khoản van xin của ái khanh, làm sao mà Trẫm không đoái
thương
được!

Trẫm
không giận ái khanh nữa đâu! Ái khanh, Pabhāvatī, xin đừng có sợ!

Trẫm
cũng chân thành thề với ái khanh rằng: từ nay về sau Trẫm không ghét ái khanh
nữa.

Này
ái khanh, Pabhāvatī, nàng là người sủng ái nhất của đời Trẫm, Trẫm có thừa oai
lực tiêu diệt dòng vua Madda, phụ vương của ái khanh, bắt ái khanh trở về kinh thành
Kusavatī. Nhưng vì Trẫm quá sủng ái ái khanh, nên Trẫm đành kiên trì chịu đựng,
bao nhiêu nỗi khổ thân khổ tâm chờ đợi cho đến ngày hôm nay.

Đức
Bồ Tát chăm chú nhìn thấy rõ công chúa Pabhāvatī, chánh cung hoàng hậu của mình
xinh đẹp tuyệt trần chẳng khác nào thiên nữ, chánh cung hoàng hậu của Đức vua
trời Sakka cõi Tam thập tam thiên, làm cho tâm ngã mạn của dòng vua chúa phát
sanh và nghĩ rằng: “Ta còn sống ở đây, những Đức vua nào có gan dám
tranh giành chánh cung hoàng hậu của ta được”.

Đức
Bồ Tát tỏ rõ một vị đại vương có uy thế ngự đến trước sân rồng rống như sư tử
chúa, vỗ mạnh hai bàn tay mà phán rằng:


Ta là đức vua Kusa đã đến rồi, toàn thể dân chúng trong kinh thành hãy xem ta
bắt sống 7 vị vua, tất cả quan quân chuẩn bị ngựa xe sẵn sàng cho ta.

Đức
vua Madda truyền cho người thợ cắt tóc cạo râu cho Đức Bồ Tát xong; Đức Bồ Tát
tắm rửa, mặc bộ đồ đại vương tỏ vẻ oai phong lẫm liệt ngự lên bạch tượng ngồi
đằng trước, truyền cho hoàng hậu Pabhāvatī ngồi đằng sau xông ra trận địa, cùng
các đội binh mã, quân xe hộ tống, ngự ra cửa phía Đông, đưa mắt nhìn thấy binh
lính kẻ thù đang vây xung quanh thành, Đức vua Bồ Tát cất giọng xưng hô ba lần
như sư tử chúa rống rằng:


Ta là vua Kusa, ai muốn sống, hãy mau mau khuất phục ta ngay!

Binh
lính của 7 Đức vua từ 7 kinh thành nghe giọng nói như sư tử chúa rống của đức
vua Kusa đều kinh hồn bạt vía khiếp đảm giẫm nhau mà chạy; như bầy nai nghe
tiếng rống của sư tử chúa chạy trốn thoát thân.

Đức
Bồ Tát truyền lệnh bắt sống 7 vị vua từ 7 kinh thành trói dẫn về trình Đức vua
Madda. Nhìn thấy Đức vua Bồ Tát toàn thắng, Đức vua trời Sakka vô cùng hoan hỉ
dâng lên Đức Bồ Tát một viên ngọc Manī tên “Rocana: huy hoàng xán
lạn”
nhờ oai lực của viên ngọc Manī ấy, Đức Bồ Tát thay hình đổi dạng
tướng hảo quang minh, thân hình trở nên tốt đẹp không kém hoàng hậu
Pabhāvatī.

Đức
vua Bồ Tát đã toàn thắng ngồi trên bạch tượng đằng sau có hoàng hậu Pabhāvatī
kéo quân ngự vào cung điện Đức vua Madda, dẫn theo 7 Đức vua từ 7 kinh thành
vào yết kiến Đức vua Madda. Ngài phán rằng:

Này
Đại vương! Đây là 7 vị vua của 7 kinh thành là kẻ thù của Người, bây giờ ở
trong quyền hành của Người, Người muốn giam giữ tù đày, hoặc phóng thích, hoặc
xử tử tuỳ ý của Người.

Nghe
truyền như vậy, đức vua Madda tâu rằng:


Tâu Đại vương, 7 vị vua này là kẻ thù của Đại vương, không phải kẻ thù của quả
nhân
.

Tâu
Đại vương! Ngài là Đức vua lớn bảo hộ quả nhân, cho nên chỉ có Ngài mới có
quyền phóng thích, hoặc xử tử 7 vị vua này tuỳ ý Ngài.

Đức
vua Madda tâu trình như vậy, Đức Bồ Tát nghĩ rằng: lợi ích gì xử tử 7 vị vua
này, 7 vị vua đến đây phải có được lợi gì khi trở về, Đức vua Madda còn có 7
công chúa xinh đẹp là em của công chúa Pabhāvatī, ta ban 7 công chúa này cho 7
vị vua ở 7 kinh thành thì có lợi biết dường nào! Đức Bồ Tát phán rằng:


Này Đại vương, Người còn có 7 công chúa, xin Người ban cho 7 vị vua ở 7 kinh
thành; như thế 7 vị vua này sẽ trở thành những Đức vua phò mã của Người.

Đức
vua Madda tâu rằng:


Tâu Đại vương, Ngài là Đức vua lớn bảo bộ quả nhâncông chúa của quả nhân.
Vậy xin Ngài ban 7 công chúa của quả nhân cho 7 Đức vua theo ý muốn của Ngài.

Đức
vua Bồ Tát truyền lệnh trang điểm 7 công chúa của Đức vua Madda cho xinh đẹp,
rồi ban cho mỗi Đức vua một công chúa.

Bảy
Đức vua ở 7 kinh thành vô cùng hoan hỉ, cảm đội ơn đức vua Kusa và đức vua
Madda nhạc phụ kéo quân ngự trở về kinh thành của mình cùng với một nàng công
chúa
xinh đẹp.

Đức
vua Bồ Tát ngự lại 2 – 3 hôm sau mới từ giã Đức vua Madda ngự trở về kinh thành
Kusavatī. Trên long xa, đức vua Kusa cùng chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī ngồi
sánh đôi, mỗi người mỗi vẻ không ai kém ai, trên đường ngự trở về kinh thành
Kusāvatī, lễ đón rước vô cùng long trọng.

Được
tin đức vua Kusa cùng chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī trở về, Thái thượng hoàng
và Hoàng thái hậu truyền lệnh trang hoàng cung điện, cũng như trong kinh thành
thật
lỗng lẫy làm lễ đón mừng.

Khi
ấy, thái thượng hoàng Okkāka, hoàng thái hậu Sīlavatī và hoàng đệ Jayampati của
Đức Bồ Tát ngự ra khỏi thành đón rước, còn các hoàng giaquan văn võ, dân
chúng trong thành đều hân hoan đón mừng đức vua Kusa và chánh cung hoàng hậu
Pabhāvatī trở về. Đức vua truyền lệnh cho phép tổ chức lễ hội mừng suốt 7 ngày
đêm. Kể từ đó đức vua Kusa và chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī sống hoà hợp nhau,
trị vì đất nước Malla được an lành thịnh vượng cho đến hết tuổi thọ.

Đức
Phật
thuyết về truyện tiền thân Kusajātaka xong, những nhân vật trong câu
truyện liên quan đến kiếp hiện tại như sau:

Thái thượng hoàng Okkāka, kiếp hiện tại nay là Đức vua
Suddhodana.
Hoàng thái hậu Sīlavatī, kiếp hiện tại nay là hoàng hậu Mayādevī.
Hoàng đệ Jayampati, kiếp hiện tại nay là Đại Đức Ānanda.
Chánh cung hoàng hậu Pabhāvatī, kiếp hiện tại nay là hoàng hậu Yasodhara.
Đức vua Kusa, kiếp hiện tại nay là Đức Phật Gotama của chúng ta.

Qua
câu truyện tiền thân Kusajātaka giúp hiểu rõ những điều như:

1-
Về tác ý (cetanā) tạo nghiệp.

Đức
Phật
dạy: “Này chư Tỳ khưu, Như Lai gọi tác ý là nghiệp, sau khi suy
nghĩ
rồi tạo nghiệp do thân, khẩu, ý”.

Tác
ý
thiện tâm đồng sanh trong thiện tâm phát sanh ba thời:

Tác ý
trước khi bố thí.
Tác ý đang khi bố thí.
Tác ý sau khi bố thí xong, thời gian không hạn định.

Trường
hợp
người chị dâu và người em chồng (Đức Bồ Tát) cùng làm phước thiện bố thí
cúng dường đến Đức Phật Độc Giác; song tác ý hai người khác nhau, nên tạo nghiệp
khác nhau, dĩ nhiên quả của nghiệp cũng khác nhau.

Người
chị dâu:
tác ý trước khi bố thí, tác ý đang
khi
bố thítác ý sau khi đã bố thí xong đều là tác ý thiện tâm hoàn toàn
trong sạch suốt cả ba thời tạo thiện nghiệp bố thí.

Người
em chồng:
tác ý thiện tâm cả ba thời tạo
thiện nghiệp bố thí; song giai đoạn thời gian trước khi bố thí, đã tạo ác
nghiệp
tức giận người chị dâu đã đem phần bánh chiên của mình bố thí cúng
dường
đến Đức Phật Độc Giác.

2-
Về nghiệp và quả của nghiệp.

Phước
thiện
bố thí cho quả báu được giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng.

Người
chị dâu:
do năng lực thiện nghiệp bố thí ấy,
cho quả báu được tái sanh làm công chúa của Đức vua Madda ở kinh thành Sāgala,
vùng Madda. Do tác ý thiện tâm hoàn toàn trong sạch suốt cả ba thời tạo nghiệp
bố thí, cho nên hưởng được quả báu suốt cả ba thời trong cuộc đời: thời ấu
niên, thời trung niên và thời lão niên được giàu sang phú quý, quyền cao chức
trọng.

Người
em chồng:
do năng lực thiện nghiệp bố thí ấy,
cho quả báu được tái sanh làm thái tử của Đức vua Okkāka ở kinh thành
Kusavatī, xứ Malla. Do tác ý thiện tâm trước khi bố thí ngắn ngủi, có phiền
não
làm ô nhiễm,
tác ý đang khi bố thí và sau khi bố thí xong đều trong
sạch
; cho nên, hưởng quả báu trong suốt cuộc đời giàu sang phú quý, quyền cao
chức trọng. Song bị ác nghiệp tức giận trước khi bố thí cho quả sau khi tái
sanh
vào thời ấu niên có thân hình xấu xí đáng ghê sợ,
đến thời trung niên
và lão niên thân hình trở nên tốt đẹp, đó là do quả cả thiện nghiệp.

3-
Về lời phát nguyện và sự thành tựu.

Lời
phát nguyện là điều mong muốn, ý nguyện riêng của mình có được thành tựu như ý
hay không, đều do năng lực phước thiện của mình đã tạo. Năng lực phước thiện
mạnh thì được thành tựu như ý, ngược lại năng lực phước thiện yếu, thì khó
thành tựu. Năng lực phước thiện mạnh cần phải hội đủ 3 điều kiện:

Vật bố thí hoàn toàn hợp pháp.
Tác ý thiện tâm cả 3 thời hoàn toàn trong sạch.
Người thọ nhận vật bố thí phải là bậc có giới đức hoàn toàn trong sạch; bậc ấy
phải là Đức Phật Toàn Giác, hoặc là Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh A-ra-hán.

Nếu
đủ 3 điều kiện này, mới có năng lực phước thiện mạnh và nhiều; thì thí chủý
nguyện
nào cũng dễ dàng thành tựu được như ý nguyện ấy.

Người
chị dâu và người em chồng đều có đủ 3 điều kiện.


Người chị dâu phát nguyện: Kiếp sau, cầu xin cho con có được sắc thân xinh đẹp
tuyệt trần, không một ai sánh kịp, có ánh sáng hào quang toả ra từ sắc thân
suốt đêm ngày. Xin đừng sống chung với hạng người ác như chú em chồng của con.

Kiếp
sau
, sanh làm công chúa Pabhāvatī đó là quả báu được thành tựu đúng theo lời
phát nguyện trong tiền kiếp, trong đó có điều không muốn sống chung với đức vua
Kusa.


Người em chồng phát nguyện: Kiếp sau, chị dâu của con dầu ở xa hằng trăm do
tuần
, xin cho con có đủ khả năng rước đem về làm vợ của con.

Kiếp
sau
, sanh làm thái tử Kusa đã tìm được công chúa Pabhāvatī rước về làm chánh
cung hoàng hậu. Đó là quả báu được thành tựu đúng theo lời phát nguyện trong
tiền kiếp.

Nhưng
khi hoàng hậu Pabhāvatī (chị dâu tiền kiếp) nhìn thấy rõ đức vua Kusa (em chồng
kiếp trước) liền có cảm ứng tự nhiên vừa ghét vừa ghê sợ Đức vua, do bởi năng
lực
lời phát nguyện trong tiền kiếp, nên hoàng hậu từ bỏ đức vua Kusa trở về
kinh thành Sāgala của phụ vương mình.

Bởi
do năng lực lời phát nguyện trong tiền kiếp, nên đức vua Kusa đeo đuổi theo
hoàng hậu Pabhāvatī. Do năng lực phước thiện và lời phát nguyện của Đức
Bồ Tát có nhiều năng lực hơn người thường,
khiến vua trời Sakka phải
giúp đỡ Đức Bồ Tát cho được thành tựu như ý nguyện, làm thay đổi thân hình xấu
đáng ghê sợ trở thành thân hình tốt đẹp, đem hoàng hậu trở lại kinh thành
Kusavatī sống chung trong tình thương yêu kính mến nhau cho đến trọn đời.

Qua
lời phát nguyện của hai người, chị dâu và em chồng có điều trái ngược nhau:
kiếp sau người chị dâu không muốn sống chung với người em chồng; ngược lại
người em chồng chỉ muốn sống chung với người chị dâu mà thôi.

Kết
quả: lời phát nguyện của Đức Bồ Tátnăng lực hơn lời phát nguyện của hoàng
hậu Pabhāvatī, khiến hoàng hậu Pabhāvatī thay đổi thái độ tâm tính từ ghét và
kinh sợ đức vua Kusa chuyển sang không ghét, một lòng thương yêu Đức vua, và
đức vua Kusa cũng thương yêu hoàng hậu. Cả hai người nói lên bằng lời thề chân
thật
với nhau.

Điều
đó, có thể hiểu rõ rằng: quá khứảnh hưởng đến hiện tại, song hiện tại cũng
có thể làm thay đổi, để cho tương lai theo ý của mình.


Phước Chọn Được Cõi Tái Sanh

Trong
đời
, người giàu có nhiều tiền nhiều bạc, có thể chọn mua sắm những gì theo ý
muốn
của mình. Trong đạo, bậc Thiện trí phàm nhân có nhiều phước thiện cũng có
thể chọn trước cảnh giới tái sanh theo ý muốn của mình.

Như
những hành giả tiến hành thiền định chứng đắc được bậc thiền nào (bậc thiền
sắc giới
, bậc thiền vô sắc giới)
cho đến khi gần chết chưa bị hư mất; sau
khi chết
, chắc chắn bậc thiền ấy cho quả tái sanh lên cõi sắc giới phạm thiên,
hoặc cõi vô sắc giới phạm thiên tương xứng với bậc thiền sở đắc của mình.

Đó
sắc giới thiện nghiệpvô sắc giới thiện nghiệp.

Đối
với những bậc Thiện trí phàm nhân đã tạo dục giới thiện nghiệp như: làm phước
bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định mà chưa chứng đắc được bậc thiền nào;
tiến hành thiền tuệ…, còn thuộc về dục giới đại thiện tâm. Những bậc Thiện
trí
này có nhiều phước thiện, đến khi sắp từ bỏ thể xác (chết), có thể
chọn 1 trong 7 cõi thiện giới: 1 cõi người và 6 cõi trời dục giới theo ý muốn
của mình, để làm đối tượng nương nhờ tái sanh kiếp sau. Cho nên, sau khi từ bỏ
sắc thân (chết), do năng lực dục giới thiện nghiệp cho quả tái sanh kiếp
sau
, theo cảnh giới mà mình đã chọn từ kiếp trước lúc sắp lâm chung.

Trích
dẫn một tích người cận sự nam Dhammika [Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Dhammika
upāsikavatthu] trong bộ Chú giải Pháp cú.

Một
thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại chùa Jetavana gần thành Sāvatthi, đề cập đến cận
sự nam
Dhammika được tóm lược như sau:

Trong
kinh thành Sāvatthi, ông cận sự nam Dhammika là người cao quý nhất trong nhóm
500 cận sự nam. Ông có 7 người con trai và 7 người con gái đều là những người
cận sự nam, cận sự nữ, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng,
Tam bảo. Trong tư thất thường làm phước thiện bố thí như: bố thí cháo, bố thí
vật thực, bố thí vật thực vào ngày rằm và cuối tháng, bố thí vật thực vào ngày
giới hằng tháng, thỉnh chư Tỳ khưu Tăng thọ trai tại nhà, bố thí vật thực chư
Tỳ khưu khách đến, cúng dường vật thực chư Tỳ khưu Tăng an cư nhập 3 tháng hạ
v.v…. Toàn gia đình gồm cha mẹ và các con đều là những người hoan hỉ trong
phước thiện bố thí, gìn giữ giới hạnh trong sạch, hoan hỉ trong việc nghe pháp.

Một
hôm, ông Dhammika bị lâm bệnh nặng sắp lâm chung, muốn nghe tụng kinh, ông sai
người đến hầu Đức Phật, kính xin Đức Phật cho phép 8 hoặc 16 vị Tỳ khưu Tăng
đến nhà ông.

Đức
Phật
cho phép chư Tỳ khưu đến nhà ông, thỉnh ngồi nơi đã sắp đặt sẵn quanh
giường của ông, ông bạch rằng:


Kính bạch chư Đại Đức, được chiêm ngưỡng quý Ngài là một điều khó đối với con,
nay con yếu quá rồi, kính xin quý Ngài tế độ tụng cho con được nghe một bài
kinh
.


Này Dhammika, ông muốn nghe bài kinh nào? – Chư Tỳ khưu hỏi.


Kính bạch chư Đại Đức, con tha thiết cầu xin quý Ngài tụng cho con nghe bài
kinh
“Mahāsati-paṭṭhānasutta”: kinh Đại Niệm Xứ mà chư Phật (quá
khứ
, hiện tại, vị lai)
thường thuyết giảng.

Chư
Tỳ khưu bắt đầu tụng rằng:

“Ekāyano
ayaṃ bhikkhave maggo sattānaṃ visuddhiyā…”.

Ngay
khi ấy có 6 chiếc xe trời, mỗi chiếc có 1.000 con ngựa quý kéo, trang hoàng
lộng lẫy từ 6 cõi trời dục giới kéo đến xin đón rước ông [con ngựa thật là loài
súc sanh không thể tái sanh lên cõi trời, những con ngựa quý này do phép mầu
của chư thiên hoá ra làm phận sự kéo xe trời, không phải con ngựa loài súc
sanh
]. Chư thiên ở mỗi cõi trời đều khẩn khoản mời ông rằng:

Amhākaṃ
devalokaṃ nessāma!
Amhākaṃ devalokaṃ nessāma!…

Chúng
tôi
xin rước ông lên cõi trời của chúng tôi!
Chúng tôi xin rước ông lên cõi trời của chúng tôi!

Kính
mời ông tái sanh lên cõi trời của chúng tôi, để cho cõi trời của chúng tôi được
huy hoàng xán lạn thêm, như người từ bỏ đồ dùng cũ kỹ rạn nứt rồi, đổi lấy đồ
dùng bằng vàng ròng (vàng mười) tái sanh cõi trời chúng tôi hưởng nhiều sự an
lạc
lắm!

Ông
cận sự nam không muốn những nhóm chư thiên ấy làm trở ngại việc nghe pháp của
ông, nên ông bảo rằng:

Āgametha!
Āgametha!
Xin quý Ngài chờ một lát! Xin quý Ngài chờ một lát!

Chư
Tỳ khưu Tăng đang tụng kinh, nghe ông nói như vậy, nên ngừng lại, vì nghĩ rằng:
ông nói với chúng ta.

Khi
chư Tỳ khưu Tăng ngưng tụng kinh, các con ông than khóc kể lể rằng:


Trước đây, cha của chúng con hoan hỉ trong việc lắng nghe pháp không bao giờ
biết đủ, chính cha đã cho thỉnh chư Tỳ khưu đến tụng kinh cho cha nghe. Nhưng
bây giờ, chính cha đã ngăn cản chư Tỳ khưu không cho tụng kinh, cớ sao như vậy?

Chư
Tỳ khưu bàn với nhau rằng: “Bây giờ không phải là lúc tụng kinh”, nên
các Ngài đứng dậy trở về chùa.

Ông
cận sự nam không nghe tiếng tụng kinh mà nghe tiếng khóc của các con nên hỏi
rằng:


Này các con, tại sao các con lại khóc như vậy?


Thưa cha, chính cha đã cho thỉnh chư Tỳ khưu đến tụng kinh cho cha nghe, rồi
cũng chính tự cha lại ngăn cấm Tỳ khưu không cho tụng kinh nữa. Thấy như vậy,
nên chúng con buồn mà than khóc vậy.

Chư
Đại Đức đi đâu rồi? – Ông cận sự nam hỏi.


Thưa cha, chư Đại Đức bàn với nhau: “Bây giờ không phải lúc tụng
kinh”,
nên quý Ngài đã trở về chùa rồi.


Cha không phải ngăn cấm chư Đại Đức. – Ông cận sự nam nói.


Thưa cha, nếu như vậy cha ngăn cấm ai vậy?

Ông
cận sự nam Dhammika giải thích cho các con hiểu rằng:


Có 6 chiếc xe từ 6 cõi trời dừng trên hư không, chư thiên mỗi cõi trời đều khẩn
khoản mời cha rằng:

Amhākaṃ
devaloke abhirama!
Amhākaṃ devaloke abhirama!

Xin
ông hoan hỉ hưởng sự an lạc nơi cõi trời của chúng tôi!
Xin ông hoan hỉ hưởng sự an lạc nơi cõi trời của chúng tôi!

Cha
không muốn các chư thiên ấy quấy rầy, làm trở ngại việc nghe pháp của cha, nên
cha chỉ ngăn cấm họ mà thôi.


Thưa cha, xe trời ở đâu mà chúng con không thấy?

Ông
cận sự nam hiểu biết rõ đây là Gatinimitta: hiện tượng cảnh giới tái sanh,
chỉ có một mình ông thấy mà thôi, nên ông tìm cách khác để chứng minh cho các
con tin lời của ông, ông hỏi rằng:


Này các con, vòng hoa dành cho cha có không?


Thưa cha, dạ có vòng hoa.


Này các con, trong 6 cõi trời dục giới, cõi trời nào đáng hài lòng nhất?


Thưa cha, cõi trời Tusita (Đâu suất đà thiên) là cõi mà chư Bồ Tát, thân mẫu
của Đức Phật… thường hài lòng nơi cõi trời ấy.

Ông
cận sự nam Dhammika chọn cõi trời Tusita là nơi sẽ tái sanh kiếp sau, do đó,
ông dạy các con ông rằng:


Này các con, các con nguyện rằng: “Xin cho vòng hoa này đeo vào đầu xe
từ cõi trời Tusita”
rồi các con ném lên hư không.

Các
con của ông làm theo lời chỉ dạy của ông, ném vòng hoa lên hư không, kỳ diệu
thay! Vòng hoa ấy treo lư lửng trên hư không, mọi người đều có thể nhìn thấy
vòng hoa trên hư không, nhưng mắt thường không thể nhìn thấy chiếc xe trời (chỉ
có nhãn thông mới nhìn thấy được).

Ông
cận sự nam hỏi các con rằng:


Này các con, các con có nhìn thấy vòng hoa trên hư không hay không?


Thưa cha, chúng con đều nhìn thấy.

Ông
cận sự nam Dhammika giải thích rằng:


Cái vòng hoa ấy đeo trên chiếc xe từ cõi trời Tusita đấy. Sau khi cha từ giã
(chết) cõi người này rồi, do thiện nghiệp dẫn dắt cho quả tái sanh lên cõi trời
Tusita ấy.

Các
con chớ nên buồn rầu, các con muốn tái sanh cùng cảnh giới với cha, thì các con
nên tạo mọi phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền, nghe pháp, hành theo
pháp v.v… như cha vậy.

Sau
khi ông cận sự nam Dhammika khuyên răn dạy dỗ các con của ông xong, ông giữ tâm
an tịnh từ giã (chết) cõi người. Sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả
tái sanh lên cõi trời Tusita mà ông đã chọn từ trước lúc sắp lâm chung, hoá
sanh
lên cõi trời Tusita, là một thiên nam có thân hình cao 3 gāvuta [gāvuta:
chiều dài 5.120,64 mét hoặc 3.18 miles], trang sức những đồ quý giá, trong một
lâu đài bằng ngọc ngà nguy nga tráng lệ lớn rộng 25 do tuần [do tuần (yojana):
chiều dài 20.482,56 mét hoặc 12.72 miles], có một ngàn thiên nữ xinh đẹp hầu hạ
ngày đêm.

Khi
chư Tỳ khưu trở về đến chùa, Đức Thế Tôn bèn hỏi rằng:


Này chư Tỳ khưu, ông cận sự nam có nghe trọn bài kinh hay không?

Kính
bạch Đức Thế Tôn, ông cận sự nam nghe phần đầu; trong khi đang tụng kinh, ông
nói: “xin quý Ngài chờ một lát”. Nghe như vậy, chúng con ngừng
tụng kinh, thì các con của ông than khóc, chúng con bàn với nhau rằng: “Bây
giờ không phải lúc tụng kinh”
nên chúng con đứng dậy trở về đây.


Này chư Tỳ khưu! Ông cận sự nam Dhammika không phải nói với các con đâu! Khi
ấy, chư thiên từ 6 cõi trời, mỗi cõi đem mỗi chiếc xe trời khẩn khoản mời ông
tái sanh lên cõi trời của mình. Ông không muốn quý vị chư thiên quấy rầy, làm
trở ngại việc nghe pháp của ông, nên ông nói ngăn cấm các nhóm chư thiên ấy.


Kính bạch Đức Thế Tôn, đúng như vậy thì kiếp này ông tái sanh vào cõi nào?


Này chư Tỳ khưu, ông đã tái sanh bằng hoá sanh vào cõi trời Tusita rồi.


Kính bạch Đức Thế Tôn, khi trong cõi người, ông cận sự nam Dhammika được hưởng
sự an lạc trong gia đình bà con bè bạn; nay hoá sanh lên cõi trời, làm chư
thiên
cũng được hưởng sự an lạc trong cõi trời nữa.

Đức
Phật
dạy rằng:


Này chư Tỳ khưu, đúng vậy, người không dễ duôi quên mình, tiến hoá trong mọi
thiện pháp, dầu là người tại gia cư sĩ hoặc bậc xuất gia sống nơi nào cũng đều
được sự an lạc.

Đức
Phật
thuyết bài kệ rằng:

“Chư
Tỳ khưu các con!
Người tạo nhiều phước thiện,
An lạc trong đời này,
Đời sau cũng an lạc,
Cả hai đời an lạc,
Do thiện nghiệp của mình,
Trong sạchthanh tịnh,
Đời đời được an lạc”.

Trường
hợp
ông cận sự nam Dhammika, trước khi lâm chung gatinimitta: hiện tượng cảnh
giới
tái sanh,
đó là 6 chiếc xe trời cùng 6 nhóm chư thiên từ 6 cõi trời
hiện xuống đón rước ông, ông đã chọn chiếc xe từ cõi trời Tusita làm đối tượng
tái sanh kiếp sau. Cho nên, sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm
thiên nam trong cõi trời Tusita.

Tóm
lại
, những bậc thiện trí có nhiều phước thiện có thể chọn được cảnh thiện giới
làm cõi tái sanh kiếp sau theo ý muốn của mình. Cũng như người có nhiều tiền,
nhiều bạc có thể chọn mua sắm thứ gì theo ý muốn của mình. Ngược lại, chúng
sinh
vô phước phải cam chịu cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh)
do bởi ác nghiệp của mình đã tạo, những chúng sinh ấy không có quyền chọn
lựa cảnh giới để tái sanh; hoàn toàn tuỳ thuộc vào ác nghiệp cho quả khổ, cũng
như người nghèo nàn phải chịu đời sống thiếu thốn, đói khát khổ cực.

Vậy,
muốn chọn cõi tái sanh kiếp sau, trong cảnh giới thiện nào, thì nên tạo thiện
nghiệp
tương xứng với cảnh giới ấy.

CHÚ
THÍCH:

Con
người
nói riêng, tất cả chúng sinh nói chung (trừ bậc Thánh A-ra-hán, bởi vì
không còn tái sanh nữa)
trước khi từ bỏ thân xác này (gọi là chết)
luôn luôn có một trong ba hiện tượng hiện ra, để làm đối tượng nương nhờ tái
sanh
kiếp sau:

Ba
hiện tượng:

1-
Kamma:
nghiệp, đó là thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của mình đã tạo từ trong
kiếp quá khứ cho đến kiếp hiện tại trước lúc lâm chung, hiện ra trong tâm làm
đối tượng nương nhờ để tái sanh kiếp sau.

2-
Kammanimitta:
hiện tượng nghiệp, đó là những hình ảnh, hoặc những đối tượng hiện ra liên
quan đến
thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của mình đã tạo từ trước, làm đối tượng
nương nhờ để tái sanh kiếp sau.

3-
Gatinimitta:
hiện tượng cảnh giới tái sanh, đó là cảnh giới hiện ra trước mắt, tạo nên ấn tượng sẽ được
gặp, sẽ được thọ hưởng an lạc trong cõi thiện giớikiếp sau, do thiện
nghiệp
của mình đã tạo, hoặc chịu khổ cực trong cõi ác giới (địa
ngục
, atula, ngạ quỷ, súc sanh)
kiếp sau, do ác nghiệp của mình đã tạo.

Ba
hiện tượng này chỉ có người hoặc chúng sinh sắp chết mới thấy, mới biết mà
thôi; và đặc biệt có những bậc Thiện tríthiên nhãn thông,chư
thiên
có thể thấy, có thể biết được. Ngoài ra, những chúng sinh khác không thể
thấy, không thể biết được.

Bố
Thí
Chỗ ở cõi Người, Lâu Đài Hiện Ra Cõi Trời

Bốn
thứ vật dụng cần thiết cho con người là: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc trị
bệnh. Trong bốn thứ này, thí chủ làm phước bố thí chỗ ở có được phước thiện
nhiều hơn ba thứ kia, bởi vì chỗ ở có tính chất bền vững lâu dài. Cho nên,
phước thiện được phát triển, do đó quả báu của phước thiện ấy đặc biệt vô cùng
phong phú.

Trích
dẫn tích Nandiya [Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Nandiyavatthu] trong bộ Chú giải
Pháp cú.

Một
thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại khu rừng phóng sanh nai, gọi là Isipatana đề cập
đến thí chủ Nandiya, được tóm lược như sau:

Trong
thành Bārāṇasī, một gia đìnhđức tin trong sạch nơi Tam bảo, hằng ngày
thường hoan hỉ làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, gia đình
có một người con trai tên Nandiya được cha mẹ nuôi nấng và dạy dỗ, cậu Nandiya
trở nên người cận sự namđức tin trong sạch nơi Tam bảo, biết bổn phận phụng
dưỡng cha mẹ và thường cúng dường những thứ vật dụng cần thiết đến chư Tỳ khưu
Tăng.

Khi
cha mẹ qua đời, cận sự nam Nandiya trở thành người đại thí chủ thường cúng
dường
bốn thứ vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu
Tăng và những người nghèo khổ, khách lữ hành….

Một
hôm, cận sự nam Nandiya nghe Đức Phật thuyết pháp về phước thiện bố thí chỗ ở
quả báu đặc biệt của nó, ông phát sanh đức tin trong sạch, cho xây cất một
Tăng xá tại ngôi chùa trong khu rừng Isipatana, có trang bị mọi đồ dùng cần
thiết
. Ngày làm lễ khánh thành, ông thành kính cúng dường Tăng xá đến chư Tỳ
khưu Tăng có Đức Phật chủ trì. Khi dâng nước làm lễ bố thí (dakkhiṇodaka:
nước làm lễ bố thí tuôn chảy xuống ngón tay theo tục lệ cổ truyền lễ bố thí)
 đang
tuôn chảy xuống ngón tay, đồng thời, khi ấy trên cung Tam thập tam thiên hiện
ra
một lâu đài bằng 7 thứ báu, rộng 12 do tuần, cao 100 do tuần nguy nga, tráng
lệ
, có nhóm thiên nữ hầu đông đảo trông chờ chủ nhân Nandiya.

Một
hôm, Đại Đức Mahāmoggallāna du hành lên cung Tam thập tam thiên đứng nhìn thấy
lâu đài nguy nga tráng lệ ấy muốn biết chủ nhân là ai, nên Ngài hỏi các vị chư
thiên
rằng:


Này quý vị chư thiên, lâu đài có nhiều thiên nữ này thuộc về vị thiên nam nào
vậy?

Nhóm
chư thiên bạch rằng:


Kính bạch Đại Đức, lâu đài này hiện ra dành cho thiên nam Nandiya, là thí chủ
dâng Tăng xá tại khu rừng Isipatana đến chư Tỳ khưu Tăng có Đức Phật chủ trì.

Nhóm
thiên nữ nhìn thấy ngài Đại Đức Mahā-moggallāna, từ lâu đài đi xuống, đến hầu
đảnh lễ Ngài Đại Đức bạch rằng:


Kính bạch Ngài Đại Đức, chúng con sanh ở đây với hy vọng rằng chúng con sẽ là
những thiên nữ hầu hạ của thiên nam Nandiya.

Kính
bạch ngài Đại Đức, khi Ngài trở về cõi người, xin Ngài từ bi nói hộ ông thí chủ
Nandiya rằng: “từ bỏ sự nghiệp cõi người rồi hưởng sự nghiệp nơi cõi
trời”
ví như từ bỏ một món đồ cũ bằng đất bị bể, chọn lấy một món đồ
mới khác bằng vàng giá trị hơn. Cũng như vậy, từ bỏ sự nghiệp cõi người rồi,
hưởng sự nghiệp nơi cõi trời an lạc hơn nhiều.

Khi
ngài Đại Đức Mahāmoggallāna từ giã cõi trời, trở về cõi người đến hầu Đức Thế
Tôn
, đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch rằng:


Kính bạch Đức Thế Tôn: lâu đài hiện ra nơi cõi trời dành cho người thí chủ đã
tạo phước thiện còn trong cõi người có hay không? Bạch ngài.


Này Moggallāna, lâu đài và các thiên nữ hiện ra nơi cõi trời dành cho thí chủ
Nandiya, chính con đã tận mắt nhìn thấy không phải hay sao? Tại sao con còn hỏi
Như Lai nữa.


Kính bạch Đức Thế Tôn, dạ phải, chính con đã thấy lâu đài, sự nghiệp của thí
chủ
Nandiya.

Đức
Phật
dạy bảo rằng:


Này Moggallāna, ví như người con hoặc anh em thân yêu từ phương xa lâu ngày trở
về
nhà; đứng trước cửa, người trong nhà nhìn thấy mừng quá reo lên: “Con
vào nhà, hoặc mời anh, em vào nhà”
rồi thông báo cho bà con thân quyến
biết rằng người tên ấy đã về rồi! Thân bằng quyến thuộc đến thăm hỏi:

Āgato’si
tāta!
Āgato’si tāta!

Con
thân yêu! Con đã về
Con thân yêu! Con được khoẻ mạnh chứ!

Rồi
tổ chức lễ ăn mừng.

Cũng
như vậy, trong cõi người, đàn ông, đàn bà đã tạo nhiều phước thiện, sau khi từ
bỏ
cõi người (chết), do phước thiện cho quả hoá sanh làm thiên nam hoặc thiên
nữ
trong cõi trời. Chư thiên ấy đón tiếp thiên nam hoặc thiên nữ mới hoá sanh
bằng 10 món quà cõi trời nghĩ rằng: Ahaṃ purato! Ahaṃ purato! [Mười món
quà là: quả báu trong cõi trời: tuổi thọ, sắc đẹp, an lạc, danh vọng, quyền lực
cõi trời và 5 đối tượng cõi trời: sắc, thanh, hương, vị, xúc, rất vi tế, đáng
hài lòng] Ta đến đón rước trước tiên! Ta đến đón rước trước tiên!

Tiếp
theo
Đức Phật thuyết bài kệ rằng:


con
cùng bè bạn, tâm vô cùng hoan hỉ,
Vui mừng đón người về, khoẻ mạnh và an lạc,
Từ phương xa lâu ngày. Cũng như người đời này,
Đã tạo nhiều phước thiện, khi từ bỏ cõi người,
Do nhờ phước thiện ấy, được tái sanh cõi trời,
Chư thiên như bà con, đón tiếp món quà trời.

Sai
Bảo
Người Bố Thí

Sai
bảo
người bố thí và tự mình bố thíquả báu khác nhau.

Tích
ông Pāyāsi [Bộ Chú giải Dīghanikāya, phần Mahāvagga, kinh Pāyāsi-rājaññasutta],
tỉnh trưởng tỉnh Satabyā được tóm lược như sau:

Ông
tỉnh trưởng Pāyāsi cho người xây dựng một trại bố thí; ông sai bảo cậu Uttara
làm phước bố thí đến Sa môn, Bà la môn, người nghèo khổ, người qua đường, người
ăn xin…, những đồ ăn, đồ mặc như: cơm nấu bằng thứ gạo dở, với một món đồ ăn
ngâm nước chua; vải tấm nho nhỏ loại xấu, vải dơ…. Mặc dầu vậy, cậu Uttara tự
tay mình bố thí đến người thọ thí một cách kính trọng, với tâm từ bi tế độ. Bố
thí
xong, cậu Uttara nguyện rằng: “mong rằng tôi chỉ gặp ông tỉnh
trưởng
Pāyāsi kiếp này mà thôi, kiếp sau xin đừng gặp lại”.

Nghe
nguyện vậy, ông Pāyāsi gọi cậu Uttara hỏi tại sao nguyện như vậy. Cậu Uttara
thưa rằng:


Thưa ông, ông sai bảo con bố thí đến người khác những đồ ăn như: cơm nấu bằng
thứ gạo dở, với món đồ ăn ngâm nước chua; mà chính ông cũng không muốn nhìn
thấy, thì làm sao người ta ăn ngon được; bố thí những tấm vải loại xấu, vải dơ,
mà chính ông không muốn đụng bằng đôi chân, thì làm sao người ta mặc được.


Ông tỉnh trưởng muốn làm cho mọi người kính mến ông, song ông đối xử với họ như
vậy, thì làm sao khiến cho họ kính mến ông tỉnh trưởng được?

Nghe
như vậy, ông tỉnh trưởng bảo rằng:


Này Uttara, vậy kể từ nay, ngươi bố thí những đồ ăn như ta dùng, bố thí thứ vải
như ta mặc.

Cậu
Utttara vâng lời sai bảo của ông tỉnh trưởng, tự tay mình bố thí những đồ ăn
ngon
lành; bố thí những thứ vải tốt đến những vị Sa môn, Bà la môn, người nghèo
khổ
, người qua đường, thậm chí đến những người xin ăn một cách kính trọng với
tâm từ, tâm bi tế độ cho họ.

Ông
tỉnh trưởng Pāyāsi sai bảo cậu Utttara bố thí, không tự tay mình làm phước bố
thí
, bố thí không kính trọng, xem thường việc bố thí. Sau khi ông tỉnh trưởng
Pāyāsi chết, do phước thiện bố thí như thế ấy, cho quả tái sanh lên cõi Tứ đại
thiên vương
, trong một lâu đài có tên Serisaka hoang vắng, sống một mình không
có ai hầu hạ.

Còn
cậu Utttara, người giúp việc của ông tỉnh trưởng Pāyāsi làm phận sự tự tay mình
bố thí đến người khác một cách kính trọng, coi trọng việc bố thí. Cho nên, sau
khi cậu Uttara chết, do phước thiện bố thí một cách kính trọng ấy, cho quả tái
sanh
lên cõi Tam thập tam thiên (cao hơn cõi Tứ đại thiên vương) trong
một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ cao 16 do tuần, trang trí toàn những đồ
quý giá; là một thiên nam có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời, có nhiều
thiên nam, thiên nữ hầu hạ, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Một
thuở nọ, Ngài Đại Đức Gavampati lên cõi Tứ đại thiên vương nghỉ trưa. Khi ấy,
thiên nam Pāyāsi đến hầu đảnh lễ Ngài Đại Đức Gavampati xong đứng một nơi hợp
lẽ.

Ngài
Đại Đức hỏi rằng:


Này thiên nam, ngươi là ai vậy?


Kính bạch Ngài Đại Đức, tiền kiếp con là Pāyāsi tỉnh trưởng tỉnh Satabyā. –
Thiên nam Pāyāsi thưa.


Này thiên nam Pāyāsi, cậu Uttara người giúp việc làm phận sự bố thí của ngươi
tái sanh cõi nào?


Kính bạch Ngài Đại Đức, cậu Uttara tự tay mình làm phước bố thí, bố thí đến
người khác một cách kính trọng, coi trọng việc bố thí…. Sau khi cậu Uttara
chết, do phước thiện bố thí ấy, cho quả tái sanh lên cõi trời Tam thập tam
thiên
. Còn con sai bảo cậu Uttara bố thí, không tự tay mình làm phước bố thí,
bố thí không kính trọng, xem thường việc bố thí. Cho nên sau khi con chết, do
phước thiện bố thí ấy, cho quả tái sanh lên cõi trời Tứ đại thiên vương này
trong lâu đài hoang vắng không có ai hầu hạ.

Kính
bạch Ngài Đại Đức, khi Ngài trở lại cõi người, kính xin Ngài thuyết giảng cho
mọi người biết rằng: “Nên tự tay mình làm phước bố thí, bố thí đến
người khác một cách kính trọng, coi trọng việc bố thí, chớ nên xem thường việc
bố thí”.

Xin
Ngài thông báo cho mọi người được biết rằng: “Ông tỉnh trưởng Pāyāsi
không tự tay mình làm phước bố thí, bố thí không kính trọng, xem thường việc bố
thí
… do phước thiện bố thí ấy, cho quả tái sinh lên cõi Tứ đại thiên vương
trong lâu đài Serisaka hoang vắng, sống một mình không ai hầu hạ. Còn cậu
Uttara tự tay mình làm phước bố thí, bố thí đến người khác một cách kính trọng,
coi trọng việc bố thí… do phước thiện bố thí ấy, cho quả tái sinh lên cõi
trời
Tam thập tam thiên”.

Qua
tích trên đây, chúng ta nhận thức rằng:


Người bỏ công làm phước bố thí, hơn người bỏ của cải ra để làm
phước bố thí gấp vô lượng lần không sao kể xiết.


Nếu thí chủ bỏ của cải lại còn bỏ công tự mình làm phước bố thí
thì phước thiện càng vô lượng.

BỐ
THÍ
HỒI HƯỚNG

Thí chủ làm phước
thiện
bố thí xong, thường hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy đến người thân
yêu
đã quá vãng nào đó.

Ví dụ:

“Con xin
hồi hướng phần phước thiện bố thí thanh cao này đến cho cha con là Nguyễn Văn
A. Cầu mong cha con hoan hỉ phần phước thiện thanh cao này, được thoát khỏi
cảnh khổ, được an lạc lâu dài…”.

Như vậy, thử hỏi
ông “A” có thọ hưởng phần phước thiện, mà người con hồi hướng đến cho
ông được hay không?

Để trả lời câu hỏi
này, trước hết nên tìm hiểu 3 vấn đề:

1- Dānakusala:
phước thiện phát sanh do bố thí:
thí
chủ
sử dụng của cải của mình đem bố thí đến cho người khác, để tạo được phước
thiện
bố thí của mình.

2-
Pattidānakusala: phước thiện phát sanh do hồi hướng:
sau khi thí chủ đã tạo được phước thiện bố thí xong
rồi, đem phần phước thiện ấy xin hồi hướng đến người đã quá vãng nào đó (
như
ông, bà, cha, mẹ,v.v…).

3-
Pattānumodanākusala:
phước thiện
phát sanh do hoan hỉ phần phước thiện mà người thí chủ hồi hướng:
những
chúng sinh hay biết, hoan hỉ phần phước thiện của thân quyến hồi hướng đến họ.

Trường hợp ông A
không phải là bậc Thánh A-ra-hán [*], nên còn phiền não, tham ái vẫn còn
tái sanh kiếp sau như thế nào, hoàn toàn tùy theo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp
của ông A cho quả tái sanh. Như vậy, ông A có thọ hưởng được phần phước thiện
bố thí của thân quyến hồi hướng đến cho ông hay không?

[*]
Theo Phật giáo, bậc Thánh A-ra-hán khi tịch diệt Niết Bàn rồi, chắc chắn không
còn tái sanh kiếp nào nữa.

Muốn biết vấn đề phước
thiện
bố thí
hồi hướng phần phước thiện đến cho người quá vãng,
họ có thọ hưởng được hay không? Chúng ta cùng tìm hiểu bài kinh “Jāṇusasoṇīsutta”
[Aṅguttaranikāya, phần Dasakanipāta, kinh Jānusasoṇīsutta].
Trong bài kinh
này, có đoạn ông Bà la môn Jāṇusasoṇī đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, bèn bạch
rằng:

– Kính bạch Đức
Sa môn Gotama, chúng con là Bà la môn thường bố thí rồi hồi hướng đến những
người quá vãng rằng: “phần phước thiện bố thí này, cầu mong cho được thành
tựu
đến thân quyến đã quá vãng, mong thân quyến quá vãng ấy hoan hỉ thọ hưởng
phần phước thiện bố thí này”.

Kính bạch Đức
Sa môn Gotama, phần phước thiện bố thí này, có thể thành tựu đến thân quyến đã
quá vãng của chúng con được hay không?

Thân quyến đã
quá vãng của chúng con có hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện bố thí của chúng
con được hay không? Bạch Ngài.

Đức Phật giải
đáp
rằng:

– Này Bà la
môn
, phần phước thiện bố thí được thành tựu tùy theo loại chúng sinh này; không
được thành tựu tùy theo loại chúng sinh khác.

Kính bạch Đức
Sa môn Gotama, loại chúng sinh nào được thành tựu? Loại chúng sinh nào không
thành tựu? Bạch Ngài.

Này Bà la môn,
có số người trong đời này, là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp,
tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có
tánh tham lam của người khác, có tánh thù hận, có tà kiến; người ấy sau khi
chết
, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, chúng
sinh
trong cõi địa ngục sống tồn tại bằng vật thực ở địa ngục.

Này Bà la môn,
phần phước thiện bố thí không thành tựu đến chúng sinhđịa ngục.

Này Bà la môn,
có số người trong đời này, là người sát sanh, trộm cắp, tà dâm… có tà kiến;
người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm súc sanh, loài súc
sanh
sống tồn tại bằng vật thực riêng của mỗi loài.

Này Bà la môn,
phần phước thiện bố thí không thành tựu đến loài súc sanh.

Này Bà la môn,
có số người trong đời này là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự
trộm cắp, tránh xa sự tà dâm, tránh xa sự nói dối, tránh xa sự nói lời đâm
thọc
, tránh xa sự nói lời thô tục, tránh xa sự nói lời vô ích, tâm không tham
lam
của người khác, tâm không thù hận, có chánh kiến; người ấy sau khi chết, do
thiện nghiệp cho quả tái sanh trở lại làm người, con người sống tồn tại bằng
vật thực của cõi người.

Này Bà la môn,
phần phước thiện bố thí không thành tựu đến chúng sinh tái sanh trở lại làm
người.

Này Bà la môn,
có số người trong đời này là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự
trộm cắp…, có chánh kiến; người ấy sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái
sanh
làm chư thiên, chư thiên trong cõi trời, sống tồn tại bằng vật thực trong
cõi trời.

Này Bà la môn,
phần phước thiện bố thí cũng không thành tựu đến chư thiên trong cõi trời.

Này Bà la môn,
có số người trong đời này, là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp,
tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có
tánh tham lam, có tánh thù hận, có tà kiến; người này sau khi chết, do ác nghiệp
cho quả tái sanh làm loài ngạ quỷ, ngạ quỷ sống tồn tại bằng vật thực của hàng
ngạ quỷ. Hàng ngạ quỷ này thường trông ngóng thân quyến trong cõi người hồi
hướng
phước thiện đến cho họ, khi họ hay biết hoan hỉ phần phước thiện ấy, họ
thọ hưởng được, chắc chắn họ thoát khỏi cảnh khổ, tái sanh cõi thiện giới hưởng
được mọi sự an lạc.

Này Bà la môn,
phần phước thiện bố thí chỉ có thể thành tựu đến cho loài ngạ quỷ mà thôi.

Khi lắng nghe
Đức Phật giải đáp như vậy, ông Bà la môn bạch tiếp rằng:

Kính bạch Sa
môn
Gotama, nếu thân quyến đã quá vãng ấy không thọ hưởng được phần phước thiện
bố thí hồi hướng ấy, vậy ai thọ hưởng phần phước thiện ấy? Bạch Ngài.

Này Bà la môn,
hàng ngạ quỷ thân quyến khác của thí chủ, thọ hưởng được phần phước thiện hồi
hướng
ấy.

Kính bạch Sa
môn
Gotama, nếu thân quyến đã quá vãng không có trong hàng ngạ quỷ, thì ai là
người thọ hưởng phần phước thiện hồi hướng ấy? Bạch Ngài.

Này Bà la môn,
trong vòng tử sanh luân hồi trải qua vô số kiếp của mỗi chúng sinh trong quá
khứ
, không có người thân quyến tái sanh làm ngạ quỷ, đó là điều không thể có
được, (chắc chắnthân quyến sanh làm ngạ quỷ).

Điều chắc chắn
thí chủ là người được phần phước thiện bố thí ấy và thọ hưởng quả báu của phước
thiện
bố thí ấy.

Kính bạch Sa
môn
Gotama, Ngài có hạn chế những chúng sinh không thọ hưởng được phước thiện
bố thí hay không?

Này Bà la môn,
Như Laihạn chế chúng sinh.

Này Bà la môn
có số người trong đời này, là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp,
tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích, có
tánh tham lam, có tánh thù hận, có tà kiến; nhưng người ấy thường bố thí cơm,
nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn,
Bà la môn; người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả dầu tái sanh làm con
voi; trong kiếp voi ấy, được nuôi nấng chăm sóc chu đáo, có đầy đủ vật thực,
nước uống ngon lành, có chỗ ở sạch sẽ, đồ trang sức đẹp đẽ… do quả của phước
thiện
bố thí trong kiếp trước.

Này Bà la môn,
có số người trong đời này là người không có giới, thường sát sanh, trộm cắp
tà kiến, nhưng người ấy thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật
thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn, Bà la môn; người ấy sau khi
chết
, do ác nghiệp cho quả dầu tái sanh làm chó; trong kiếp chó ấy, được nuôi
nấng làm chu đáo, có đầy đủ vật thực, nước uống ngon lành, có chỗ ở sạch sẽ, đồ
trang sức đẹp đẽ… do quả của phước thiện bố thí trong kiếp trước.

(Tái sanh làm
con ngựa, con bò…. v.v…).

Này Bà la môn,
có số người trong đời này là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự
trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời
vô ích, có tánh tham lam, có tánh thù hận, có chánh kiến; người ấy thường bố
thí
cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến
Sa môn, Bà la môn. Người ấy sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh trở
lại
làm người; trong kiếp người, là người giàu sang, phú quý, có chức cao,
quyền lớn, sung túc đầy đủ ngũ trần trong đời, phát sanh do quả báu của phước thiện
bố thí trong kiếp quá khứ.

Này Bà la môn,
có số người trong đời này, là người có giới, tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự
trộm cắp… có chánh kiến; người ấy thường bố thí cơm, nước, vải, xe cộ, hoa
quả
, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở, đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy
sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh làm chư thiên; trong kiếp chư
thiên
trong cõi trời, là chư thiên có nhiều oai lực, hưởng mọi sự an lạc cao
quý trong cõi trời ấy, do phước thiện bố thí, đã tạo trong kiếp quá khứ.

Này Bà la môn,
chính thí chủ là người có phước thiện bố thí và hưởng quả báu của phước thiện
bố thí ấy.

Kính bạch Sa
môn
Gotama, thật phi thường! Chưa từng nghe bao giờ!

Kính bạch Sa
môn
Gotama, như vậy, thật ra nên bố thí bằng đức tin trong sạch, phước thiện bố
thí
không chỉ có quả báu cho chính mình, mà còn hồi hướng đến người khác, khi
biết hoan hỉ họ cũng thọ hưởng được quả báu của phước thiện này nữa.

Kính bạch Sa
môn
Gotama, lời dạy của Ngài rõ ràng quá!……”.

*

Qua bài kinh này,
chúng ta hiểu được rằng: thí chủ làm phước thiện bố thí rồi hồi hướng riêng
đến thân quyến đã quá vãng nói riêng, có ý chỉ định đến một chúng sinh
nào đó, thì điều ấy không chắc chắn, bởi vì, chúng sinh ấy có hay
biết được thân quyến hồi hướng phần phước thiện bố thí đến cho mình hay không?

Nếu chúng sinh ấy
biết được mà hoan hỉ thì thọ hưởng được phần phước thiện ấy.

Nếu chúng sinh ấy
không hay biết, không hoan hỉ, thì không thọ hưởng được phần phước thiện ấy.

Còn thí chủ làm
phước thiện bố thí rồi, xin hồi hướng chung đến những thân quyến đã quá
vãng
nói chung, không có ý định chỉ định đến chúng sinh nào, điều ấy chắc
chắn
thân quyến của thí chủ thọ hưởng được phần phước thiện bố thí ấy. Bởi
vì, trong vòng tử sanh luân hồi vô số kiếp của mỗi chúng sinh, chắc chắn
thân quyến tái sanh trong hàng ngạ quỷ. Nếu họ hoan hỉ thọ hưởng được phần
phước thiện của thí chủ hồi hướng, thì họ thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh
cõi thiện giới an lành, hưởng được mọi sự an lạc.

Ngoài ra, các
chúng sinh khác không hay biết, không hoan hỉ phần phước thiện bố thí của thí
chủ
hồi hướng, thì không thọ hưởng được phần phước thiện bố thí ấy.

Tích thân quyến
ngạ quỷ của đức vua Bimbisāra

Những thân quyến
của đức vua Bimbisāra từ thời kỳ Đức Phật Phussa, cách Đức Phật Gotama trải qua
6 Đức Phật xuất hiện trên thế gian, thời gian khoảng cách 92 đại kiếp trái đất.
Họ đã tạo nghiệp ác, nên cho quả bị tái sanh làm chúng sinh trong cõi địa ngục,
từ địa ngục này sang địa ngục khác, mãi cho đến thời kỳ Đức Phật Kassapa xuất
hiện
trên thế gian, họ mới thoát khỏi địa ngục, tái sanh làm ngạ quỷ.

Một hôm, nhóm ngạ
quỷ
này đến hầu Đức Phật Kassapa, bèn bạch rằng:

Kính bạch Đức Thế
Tôn
, đến bao giờ, mới có thân quyến hồi hướng phước thiện bố thí đến nhóm ngạ
quỷ
chúng con, để chúng con thoát khỏi cảnh khổ, được hưởng sự an lạc? Bạch
Ngài.

Đức Phật Kassapa
dạy rằng:

Này các ngạ
quỷ
, bây giờ các con chưa được gì đâu! Các con hãy chờ trong vị lai đến thời kỳ
Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, thuở ấy có Đức Vua gọi là Bimbisāra đã
từng là thân quyến của các con, trước đây cách 92 đại kiếp trái đất. Đức vua
Bimbisāra làm phước cúng dường đến Đức Phật Gotama cùng chư Đại Đức Tăng, rồi
hồi hướng phước thiện bố thí ấy đến cho các con.

Nhóm ngạ quỷ nghe
lời
thọ ký của Đức Phật Kassapa [Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian vào
thời đại tuổi thọ con người khoảng 20.000 năm], tâm cảm thấy vô cùng hoan hỉ
trông ngóng như sắp được hoan hỉ phần phước thiện vào ngày mai.

Thời kỳ Đức Phật
Kassapa xuất hiện trên thế gian, tuổi thọ con người khoảng 20.000 năm, khi Đức
Phật
Kassapa tịch diệt Niết Bàngiáo pháp của Ngài cũng hoàn toàn tiêu hoại;
con người làm cho mọi ác pháp dần dần tăng trưởng, còn thiện pháp từ từ suy
thoái; cho nên, tuổi thọ con người giảm dần, giảm dần từ 20.000 năm xuống còn
khoảng 10 năm. Từ đó, con người kinh sợ tội lỗi, tránh xa ác pháp; cố gắng tạo
thiện pháp; mọi thiện pháp dần dần tăng trưởng, còn ác pháp từ từ suy thoái;
cho nên, tuổi thọ con người tăng dần, tăng dần từ 10 năm lên đến tột cùng a
tăng kỳ
năm [A tăng kỳ (asaṅkheyya): được tính theo số lượng là số 1 đứng đầu,
theo sau là 140 con số không (0), 10**140]. Từ đó, con người bắt đầu dể duôi,
ác pháp phát sanh, làm cho tuổi thọ con người lại giảm dần, giảm dần cho đến
khi tuổi thọ khoảng 100 năm. Khi ấy, Đức Phật Gotama hiện tại của chúng ta xuất
hiện
trên thế gian, tại xứ Māgadha có đức vua Bimbisāra trị vì, đóng đô tại
kinh thành Rājagaha.

Đức vua Bimbisāra
đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, Tam bảo, xây dựng ngôi
chùa Veḷuvana dâng đến chư Đại Đức Tăng tứ phươngĐức Phật chủ trì chứng
minh, nhóm ngạ quỷ thân quyến đang trông chờ Đức Vua hồi hướng phần phước thiện
đến cho họ; nhưng trong dịp ấy, Đức Vua không hồi hướng phước thiện bố thí đến
cho chúng. Nhóm ngạ quỷ thân quyến thất vọng đêm khuya đến kêu la than khóc âm thanh
đáng kinh sợ.

Sáng ngày, Đức Vua
đến hầu Đức Phật, bạch hỏi do nhân nào có hiện tượng như vậy.

Đức Phật dạy:

– Này Đại
Vương
, không có gì đáng kinh sợ, đó là tiếng kêu la than khóc của nhóm ngạ quỷ
thân quyến của Đại Vương trong quá khứ. Nhóm ngạ quỷ này trông ngóng Đại Vương
làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện cho chúng, để chúng
thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh nơi cảnh giới an lạc.

Lắng nghe Đức Phật
dạy như vậy, Đức Vua liền bạch:

– Kính bạch Đức
Thế Tôn
, ngày mai con kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng chư Đại Đức Tăng ngự đến cung
điện của con, để con làm phước thiện bố thí một lần nữa, lần này con sẽ hồi
hướng
phước thiện đến nhóm ngạ quỷ thân quyến của con. Đức Phật làm thinh nhận
lời thỉnh mời của Đức Vua.

Đức Vua Bimbisāra
đảnh lễ Đức Thế Tôn trở về cung điện, sửa soạn vật thực làm phước thiện bố thí
cho ngày mai.

Sáng hôm sau, Đức
Phật
cùng chư Đại Đức Tăng ngự đến cung điện của Đức Vua. Chính tự tay Đức Vua
cúng dường vật thực đến Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng xong, Đức Phật thuyết
bài kinh “Tirokuṇṇapetavtthu” [Khuddakanikāya, bộ Petavatthu,
Tirokuṇṇapetavtthu]
tế độ nhóm ngạ quỷ, đồng thời đức vua Bimbisāra hồi
hướng
phần phước thiện bố thí ấy đến nhóm ngạ quỷ thân quyến, chúng hoan hỉ thọ
hưởng
phần phước thiện cấy, nên tất cả đều thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát,
ngay khi ấy, do nhờ năng lực phước thiện cho quả, được tái sanh làm chư thiên
hưởng mọi sự an lạc cõi trời dục giới.

Chúng ta được sanh
làm người, có cơ hội làm phước thiện bố thí, còn các chúng sinh khác khó có cơ
hội bố thí. Cho nên, chúng ta nên tìm cơ hội tốt để làm phước thiện bố thí, rồi
hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho thân quyến của chúng ta chịu đói khát,
khổ cực trong hàng ngạ quỷ; họ lúc nào cũng trông ngóng đến sự hồi hướng phước
thiện
của thân quyến. Khi họ hay biết, hoan hỉ phần phước thiệnchúng ta hồi
hướng
đến cho họ, chắc chắn họ thoát ra khỏi kiếp ngạ quỷ đói khát, do nhờ
phước thiện ấy cho quả được tái sanh cõi thiện giới: cõi trời, cõi người.

Cho nên, khi thí
chủ
tạo được phước thiện nào xong rồi, nên đọc câu hồi hướng rằng:

“Idaṃ no
ñātīnaṃ hotu,
Sukhitā hontu ñātayo…”.

[Khuddakanikāya,
bộ Petavatthu, Tirokuṇṇapetavtthu]

“Cầu mong
phước thiện này,
Thành tựu đến tất cả,
Thân quyến của chúng tôi.
Cầu mong họ hoan hỉ,
Được an lạc lâu dài”.

Như vậy, thân
quyến
ngạ quỷ đang đứng trông chờ hoan hỉ phần phước thiệnthân quyến đã hồi
hướng
, ngay khi ấy, do năng lực phước thiện cho quả, họ được thoát khỏi kiếp
sống ngạ quỷ đói khát, được chuyển kiếp tái sanh làm chư thiên, hưởng mọi sự an
lạc
trong cõi trời.

Lời Hồi Hướng

Tất cả chúng sinh
trong ba giới bốn loài, chỉ có loài người trong cõi Nam thiện bộ châu này có
được thuận lợi tạo mọi phước thiện, nhất là phước thiện bố thí. Ngoài ra, các
chúng sinh còn lại và các cõi khác, khó có cơ hội tạo phước thiện bố thí. Chư
thiên
muốn tạo phước thiện bố thí cần phải hiện xuống cõi người, biến hóa thành
con người mới có thể tạo phước thiện bố thí.

Như vậy, chúng ta
đã là con người trong cõi Nam thiện bộ châu này, có điều kiện và cơ hội tạo nên
được phước thiện bố thí, thì chúng ta nên có tâm từ, tâm bi quan tâm đến những
chúng sinh khác, họ không phải ai xa lạ, họ chính là những người thân bằng
quyến thuộc của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ và kiếp hiện
tại
.

Đức Phật dạy:

“Không
thấy một chúng sinh nào không từng là thầy, tổ, ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em,
chú, bác, cô, dì, bà con thân bằng quyến thuộc… của chúng ta”.

Như vậy, tất cả
chúng sinh đều là những người thân quyến của chúng ta gần kiếp này, hoặc xa
trong những kiếp quá khứ. Nay chúng tađiều kiện, có cơ hội tạo nên phước
thiện
bố thí, thì ta nên hồi hướng, ban bố, phân phát… phần phước thiện bố
thí
này đến cho tất cả chúng sinh, thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Có số
chúng sinh đang sống trong cảnh khổ, đang khao khát, trông ngóng, chờ đợi phần
phước thiện của thân quyến hồi hướng, nếu họ hay biết mà hoan hỉ phần phước
thiện
ấy, ngay tức khắc, họ thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh lên cõi thiện
giới
, hưởng mọi sự an lạc trong cõi ấy.

Muốn vậy, chúng ta
cần phải thành tâm hồi hướng và có lời hồi hướng như sau:

Đọc câu Pāḷi: “Idaṃ
no ñātīnaṃ hotu, Sukhitā hontu ñātayo…”

Hoặc bằng tiếng
Việt:

Hôm nay, chúng
tôi
đã tạo mọi phước thiện như bố thí, thọ trì Tam quy, giữ giới, nghe pháp,
hành thiền…. Chúng tôi thành tâm hồi hướng phần phước thiện này đến tất cả
chư thiên, nhất là chư thiên hộ trì mỗi người chúng tôi, chư thiên ở tại nơi
đây, chư thiên ở trong nhà, chư thiên ở trong tỉnh, thành, chư thiên ở trong
nước, chư thiên ở ngoài nước và toàn thế giới, chư thiên ở trên mặt đất, chư
thiên
ở cội cây, chư thiên ở trên hư không;

Tứ Đại Thiên
Vương
: đức vua Dhataraṭṭha, đức vua Viruḷhaka, đức vua Virūpakkha, đức vua
Kuvera cùng tất cả chư thiên trong cõi Tứ đại thiên vương thiên.

Đức vua trời
Sakka cùng tất cả chư thiên trong cõi Tam thập tam thiên.

Đức vua trời
Suyāma cùng tất cả chư thiên trong cõi Dạ ma thiên.

Đức vua trời
Santussita cùng tất cả chư thiên trong cõi Đâu xuất đà thiên.

Đức vua trời
Sunimmita cùng tất cả chư thiên trong cõi Hoá lạc thiên.

Đức vua trời
Paranimmita cùng tất cả chư thiên trong cõi Tha hóa tự tại thiên. v.v….

Xin quý vị chư
thiên
hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau
cả thảy, làm cho tăng thêm sự an lạc lâu dài. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành
thay!

Chúng tôi thành
tâm
hồi hướng đến những ân nhân đã quá vãng như tổ tiên, thầy tổ, ông bà, cha
mẹ
, thân bằng quyến thuộc, bè bạn… từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp
trong quá khứ, nhất là … [tên người vừa quá vãng hoặc người đang nhớ đến
trong ngày làm phước thiện này …] đã quá vãng. Xin quý vị hoan hỉ thọ hưởng
phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy. Cầu mong quý vị
giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành
thay!

Chúng tôi thành
tâm
chia phần phước thiện thanh cao này đến những ân nhân còn sống như: ông bà,
cha mẹ, thầy tổ, anh chị em, con cháu, bà con thân bằng quyến thuộc, bè bạn….
Mong quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng tôi đồng
nhau cả thảy, cầu mong quý vị thân tâm thường được an lạc, tiến hóa trong mọi
thiện pháp. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!

Chúng tôi thành
tâm
hồi hướng phần phước thiện thanh cao này đến chúng sinh trong địa ngục, các
hàng atula, các hàng ngạ quỷ, các loại súc sanh, đặc biệt đến chúa địa ngục
Yāma. Mong quý vị hoan hỉ, thọ hưởng phần phước thiện thanh cao này của chúng
tôi
đồng nhau cả thảy, cầu mong quý vị thoát khỏi cảnh khổ, được tái sanh nơi
cõi thiện giới cho được an lạc. – Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!

Nói chung,
chúng tôi thành tâm hồi hướng đến tất cả 4 loài chúng sinh, trong tam giới gồm
31 cõi. Cầu mong tất cả chúng sinh hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện thanh
cao này của chúng tôi đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả chúng sinh giải thoát
mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài, tiến hóa trong mọi thiện pháp làm duyên lành
trên con đường giải thoát khỏi khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài. –
Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!

Bố ThíHồi
Hướng

Phước thiện bố thí
hồi hướng phần phước thiện bố thí ấy là một việc rất cần thiết đối với hàng
ngạ quỷ. Kiếp ngạ quỷ chịu bao nhiêu nỗi khổ vì đói khát, lạnh lẽo. Họ chỉ còn
biết trông ngóng, chờ đợi phước thiện mà thân bằng quyến thuộc hồi hướng đến
cho họ mà thôi. Nếu họ không được hoan hỉ phần phước thiện nào của thân bằng
quyến thuộc hồi hướng, thì họ phải chịu kiếp sống ngạ quỷ đói khát, khổ cực,
không biết bao giờ mới thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.

Như tích Sāriputtattheramātupeta
[Khuddakanikāya, Petavatthu, truyện Sāriputtattheramātupeta]
: Ngạ quỷ
thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta,
được tóm lược như sau:

Nữ ngạ quỷ tiền
thân
đã từng là thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta kiếp thứ 5 trong quá khứ,
kể từ kiếp hiện tại.

Tiền thân của nữ
ngạ quỷ là vợ của ông Bà la môn giàu có nhiều của cải. Ông Bà la mônđức tin
trong sạch, có tác ý thiện tâm, thường làm phước thiện bố thí cúng dường vật
thực, đồ uống, y phục… đến Sa môn, Bà la môn. Bố thí ban bố, phân phát đến
những người nghèo khổ, người qua đường….

Một hôm, ông Bà la
môn
có công việc phải đi nơi khác, ông dạy bảo vợ ở nhà thay ông gìn giữ phong
tục tập quán, lo công việc làm phước thiện bố thí cúng dường đến Sa môn, Bà la
môn
, phân phát vật thực, đồ dùng đến những người nghèo khổ đói khát…. Người
vợ ở nhà không làm theo sự dạy bảo của chồng. Hễ có ai đến nương nhờ, bà ta
buông lời mắng nhiếc, ăn phẩn, uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước miếng….

Sau khi bà ta
chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh vào hàng ngạ quỷ đói khát, ăn đồ dơ bẩn,
ăn phẩn, uống nước tiểu, mủ, nước miếng… chịu bao nỗi khổ cực đói khát, lạnh
lẽo do ác nghiệp của mình đã tạo. Nữ ngạ quỷ nhớ lại tiền kiếp đã từng là thân
mẫu
của Ngài Đại Đức Sāriputta, muốn đến nương nhờ Ngài, chư thiên giữ cổng
ngăn cản không cho nữ ngạ quỷ vào. Nữ ngạ quỷ thưa với vị chư thiên rằng:

– Thưa chư thiên,
tiền kiếp tôi đã từng là thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta, xin chư thiên cho
tôi vào thăm Ngài.

Nữ ngạ quỷ được
vào đứng khép nép, Ngài Đại Đức Sāriputta nhìn thấy nữ ngạ quỷ, với tâm bi mẫn
bèn hỏi rằng:

– Này ngạ quỷ!
Thân trần truồng, hình dáng đáng thương hại, ốm yếu da bọc xương, thân mình run
rẩy. Ngươi là ai mà đến đứng nơi này?

Nghe Ngài hỏi, nữ
ngạ quỷ thưa rằng:

– Kính bạch Ngài
Đại Đức, tiền kiếp của con đã từng là thân mẫu của Ngài, do nghiệp ác cho quả
tái sanh làm ngạ quỷ chịu cảnh đói khát, đành phải ăn những đồ dơ dáy như nước
miếng, nước mũi, đàm người ta nhổ bỏ, uống nước vàng chảy từ xác chết, uống máu
của đàn bà đẻ, uống máu mủ của đàn ông bị chặt tay chân, ăn máu mủ các loài
động vật, sống không có nương tựa, các nơi nghĩa địa, bãi tha ma.

Kính bạch Ngài,
xin Ngài làm phước thiện bố thí, rồi hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho mẹ
với. Nhờ phước thiện ấy, may ra mẹ mới thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ như thế này.

Ngài Đại Đức
Sāriputta lắng nghe lời nữ ngạ quỷ đã từng là thân mẫu trong tiền kiếp, phát
sanh tâm bi mẫn, nên tìm cách cứu khổ nữ ngạ quỷ, Ngài bàn tính với Ngài Đại
Đức
Mahāmoggallāna, Ngài Đại Đức Anuruddha và Ngài Đại Đức Mahākappina. Ngài
Đại Đức Mahāmoggallāna đi khất thực vào cung điện gặp đức vua Bimbisāra, Đức
vua thỉnh mời yêu cầu Ngài cần thứ vật dụng nào để Đức vua dâng cúng. Nhân dịp
ấy, Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna thưa cho Đức Vua biết chuyện nữ ngạ quỷ đã từng
thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta sống trong cảnh khổ không có nơi nương
nhờ
.

Nghe vậy, Đức Vua
truyền lệnh xây cất 4 cái cốc, chỗ ở của chư Tỳ khưu Tăng. Khi xây cất xong,
Đức Vua làm lễ dâng đặc biệt đến Ngài Đại Đức Sāriputta 4 cái cốc ấy.

Một lần nữa, Ngài
Đại Đức Sāriputta làm lễ dâng những cốc này đến chư Tỳ khưu Tăng từ bốn phương,
Đức Phật chủ trì, xin hồi hướng phần phước thiện này đến cho nữ ngạ quỷ đã
từng là thân mẫu trong tiền kiếp. Nữ ngạ quỷ hoan hỉ phần phước thiện bố thí
Ngài Đại Đức Sāriputta hồi hướng. Ngay sau khi hoan hỉ phần phước thiện bố thí
ấy, liền thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, tái sanh lên làm thiên nữhào quang sáng
ngời
, có thân hình xinh đẹp, y phục lộng lẫy, có lâu đài nguy nga tráng lệ, có
đầy đủ của cải của chư thiên, hưởng sự an lạc cao quý trong cõi trời.

Hôm sau, vị thiên
nữ
ấy hiện xuống đảnh lễ Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna, Ngài hỏi thiên nữ rằng:

– Này thiên nữ,
ngươi có sắc đẹp tuyệt trần, có hào quang sáng chói khắp mọi nơi, như vầng
trăng sáng.

– Do phước thiện
mà ngươi có được như vậy?
– Do phước thiện gì mà ngươi được sanh trong lâu đài nguy nga tráng lệ như thế
ấy?
– Do phước thiện gì mà ngươi có đầy đủ mọi thứ trong cõi trời đáng hài lòng như
vậy?

Này thiên nữ,
ngươi có nhiều oai lực đặc biệt, vậy, khi sống cõi người, ngươi tạo phước thiện
gì, mà nay có được những quả báu đáng hài lòng như vậy?

Vị thiên nữ bạch
với Ngài Đại Đức Mahā-moggallāna rằng:

– Kính bạch Ngài
Đại Đức Mahāmoggallāna, con là thân mẫu của Ngài Đại Đức Sāriputta trong tiền
kiếp
, do ác nghiệp cho quả tái sanh làm nữ ngạ quỷ chịu cảnh khổ đói khát đành
phải ăn đồ dơ dáy như máu, mủ…. Vừa qua, con đã đến hầu Ngài Đại Đức
Sāriputta cầu xin Ngài có lòng bi mẫn cứu khổ con, Ngài đã làm phước thiện bố
thí
xong hồi hướng đến cho con; con đã hoan hỉ phần phước thiện ấy, nên con
thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, được tái sanh làm thiên nữ có được tất cả như Ngài đã
thấy.

Kính bạch Ngài Đại
Đức
, con hiện xuống đây để đảnh lễ dưới chân Ngài và Ngài Đại Đức Sāriputta là
bậc Thánh thiện trí, có tâm bi mẫn cứu khổ chúng sinh trong đời.

Những câu truyện
như trên có rất nhiều trong bộ Peṭavaṭṭhu và trong Kinh tạng.

Bố
thí
Phát nguyện

Ở đời, người ta có nhiều tiền bạc, người ta
có thể mua sắm các đồ dùng mà người ta muốn. Cũng như vậy, khi người ta tạo nên
phước thiện rồi, người ta có thể phát nguyện theo nguyện vọng của mình. Sự
thành tựu theo nguyện vọng của mình còn tùy theo năng lực của phước thiện
thời gian sớm hoặc muộn, cũng sẽ thành tựu như ý nguyện.

Nguyện vọng của mỗi người có phần khác nhau,
cho nên khi tạo nên phước thiện cũng khác nhau. Có hai loại phước thiện:

Phước thiện dẫn
dắt trong vòng tử sanh luân hồi trong tam giới (vaṭṭagāmikusala).
Phước thiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam
giới
(vivaṭṭupanissitakusala).

Phước thiện dẫn dắt trong vòng tử sanh
luân hồi trong tam giới như thế nào?

Một số người có tâm tham muốntrong đời,
tạo nên phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền định,… cầu mong được
rằng:

Xin cho tôi được tái sanh làm người giàu
sang
phú quý, có danh, có phận, có chức, có quyền; làm Đức Vua trị vì một nước,
hoặc làm Đức Chuyển luân thánh vương trị vì bốn châu thiên hạ.

Xin cho tôi được tái sanh lên cõi trời, sẽ
chư thiên có nhiều oai lực, hoặc là Đức Vua trong cõi trời ấy,…

Tùy theo mỗi phước thiện mà cho quả báu được
thành tựu trong cõi người, cõi trời dục giới, cõi trời sắc giớicõi trời vô
sắc
giới. Đến khi hết tuổi thọ trong cõi nào rồi, do nghiệp cho quả tái sanh
trở lại kiếp sau, tùy theo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của mình đã tạo, cứ
quanh quẩn trong vòng tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Như vậy, gọi là phước thiện dẫn dắt trong vòng
tử sanh luân hồi trong tam giới.

Phước thiện này không trở thành pháp
hạnh
ba la mật
như: bố thí ba la mật, giữ giới ba la mật,… vì không
phát nguyện giải thoát khổ sanh tử luân hồi trong ba giới bốn loài.

Phước thiện làm duyên lành để giải
thoát
khổ tử sanh luân hồi trong tam giới như thế nào?

Một số bậc Thiện trítrí tuệ sáng suốt
nhận thức rõ khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, nên khi tạo phước thiện như
bố thí, giữ giới, hành thiền định, tiến hành thiền tuệ… chỉ mong làm nơi
nương nhờ để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới. Bậc Thiện trí này
không cầu mong sẽ trở thành người giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng,…
trong cõi người; cũng không cầu mong sự an lạc trong cõi trời dục giới, cõi
trời sắc giới
cõi trời vô sắc giới. Họ chỉ có một nguyện vọng nương nhờ
phước thiện này dẫn dắt đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh
Đạo
, 4 Thánh QuảNiết Bàn, là pháp diệt đoạn tuyệt phiền não trầm luân
thôi. Phước thiện này trở thành pháp hạnh ba la mật như: bố thí ba
la mật
, giữ giới ba la mật,… Phước thiện này làm duyên lành để giải thoát khổ
tử sanh luân hồi trong tam giới.

Lời Phát Nguyện

Muốn cho phước thiện của mình làm duyên lành
nương nhờ để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới, bậc Thiện trí ấy cần
phải
có lời phát nguyện:

Trong Chú giải có dạy rằng:

“Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ
hotu”.

[Chú giải Saṃyuttanikāya, phần
Nidānavagga, kinh Paṭipadā-suttavaṇṇanā. Chú giải Aṅguttaranikāya.]

“Cầu mong phước thiện bố thí này của
tôi, làm duyên lành dẫn dắt đến sự chứng ngộ Niết Bàn, chứng đắc A-ra-hán Thánh
Đạo
diệt đoạn tuyệt phiền não trầm luân”.

Đây là lời phát nguyện chung cho những người
muốn giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

Phát nguyện riêng của mỗi Đức Bồ Tát

Đức Bồ Tát có ba bậc, mỗi bậc có sự phát
nguyện
khác nhau:

1- Bậc Thanh Văn Bồ Tát (Sāvakabodhisatta)
phát nguyện trở thành bậc Thánh Thanh Văn đệ tử Phật, có 3 bậc:

Bậc Thánh tối
thượng
Thanh Văn (Aggasāvaka).
Bậc Thánh đại Thanh Văn (Mahāsāvaka).
Bậc Thánh Thanh Văn (Pakatisāvaka).

2- Bậc Độc Giác Bồ Tát (Paccekabodhisatta)
phát nguyện trở thành Đức Phật Độc Giác, có 3 bậc:

Bậc Độc Giác Phật
trí tuệ ưu việt (paññādhika).
Bậc Độc Giác Phậtđức tin ưu việt (saddhādhika).
Bậc Độc Giác Phậttinh tấn ưu việt (vīriyādhika).

3- Bậc Toàn Giác Bồ Tát hoặc Bậc Chánh Đẳng
Giác
Bồ Tát (Sammāsambodhisatta) phát nguyện trở thành bậc Toàn Giác
Phật
hoặc Bậc Chánh Đẳng Giác Phật, có 3 bậc:

Bậc Toàn Giác
trí tuệ ưu việt (paññādhika).
Bậc Toàn Giácđức tin ưu việt (saddhādhika).
Bậc Toàn Giáctinh tấn ưu việt (vīriyadhika).

Tất cả các bậc Bồ Tát khi tạo 10 pháp hạnh ba
la mật
, phước thiện ba la mật nào dầu nhỏ hoặc lớn, dầu ít hoặc nhiều đều phát
nguyện
mong trở thành bậc nào theo nguyện vọng của mình.

Ví dụ:

Đức Bồ Tát đạo sĩ Akitti, tiền thân của Đức
Phật
Gotama, sống trong rừng dùng lá kāra làm vật thực hằng ngày. Đức vua trời
Sakka (Đế Thích) nhìn thấy Đức Bồ Tát đạo sĩ có hạnh cao thượng khó có ai thực
hành
được, muốn biết Ngài thực hành phạm hạnh như vậy có nguyện vọng gì. Đức
vua trời Sakka biến hóa thành Bà la môn khất sĩ hiện xuống đi khất thực trước
Đức Bồ Tát đạo sĩ. Đức Bồ Tát đạo sĩ nhìn thấy Bà la môn khất sĩ, tâm vô cùng
hoan hỉ đem tất cả nắm lá kāra được luộc chín làm phước thiện bố thí đến Bà la
môn
khất sĩ, còn Đức Bồ Tát đạo sĩ chỉ uống nước để sống qua ngày ấy.

Đức Bồ Tát đạophát nguyện rằng:

“Tena dānena na lābhasakkarasilokaṃ,
na Cakkavattisampattiṃ, na Sakkasampattiṃ, na Brahmasampattiṃ, na Sāvakabodhiṃ,
na Paccekabodhiṃ patthemi. Api ca idaṃ me dānaṃ Sabbaññutañāṇassa paccayo
hotu”. [Bộ Cariyāpiṭakaṭṭhakathā , pháp hạnh của Đức Bồ Tát đạo sĩ Akitti.
Bộ Jātaka, truyện Akittijātaka.] 

“Do năng lực phước thiện bố thí này,
bần đạo không cầu mong danh lợi, không cầu mong ngôi vị Đức Chuyển luân thánh
vương
, ngôi vị vua trời Sakka, ngôi vị Phạm thiên, cũng không cầu mong trở
thành
bậc Thánh Thanh Văn, bậc Độc Giác Phật; mà sự thật, phước thiện bố thí
này của tôi, chỉ mong làm duyên lành để trở thành Đức Phật Toàn Tri Diệu Giác
mà thôi”.

Đó là lời phát nguyện của của Đức Toàn Giác
Bồ Tát cầu mong trở thành Đức Phật Toàn Giác, hoặc Bậc Chánh Đẳng Giác Phật.

Cho nên, mỗi Đức Bồ Tát có lời phát nguyện
theo nguyện vọng riêng của mình.

Đức Độc Giác Bồ Tát chỉ phát nguyện muốn trở
thành
Đức Phật Độc Giác, ngoài ra không còn mong muốn địa vị nào khác.

Bậc tối thượng Thanh Văn Bồ Tát chỉ phát
nguyện
muốn trở thành bậc Thánh tối thượng Thanh Văn mà thôi, không còn mong
địa vị nào khác.

Bậc đại Thanh Văn Bồ Tát chỉ phát nguyện trở
thành
bậc Thánh đại Thanh Văn mà thôi, không còn mong địa vị nào khác.

Bậc Thanh Văn Bồ Tát chỉ phát nguyện trở
thành
bậc Thánh Thanh Văn mà thôi, không còn mong địa vị nào khác.

Phước thiện nào, như giữ giới, bố thí, hành
thiền định, hành thiền tuệ,… xong rồi phát nguyện cầu mong chứng ngộ chân lý
Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo – 4 Thánh QuảNiết Bàn, pháp diệt đoạn
tuyệt
phiền não trầm luân.

Để đạt đến nguyện vọng trở thành Đức Phật
Toàn Giác, hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh tối thượng Thanh Văn, hoặc
bậc Thánh đại Thanh Văn, hoặc bậc Thánh Thanh Văn, phước thiện ấy gọi là phước
thiện
làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong tam giới
(vivaṭṭupanissitakusala).

Tính chất ưu việt của
Vivaṭṭupanissitakusala

Chủ nhân phước thiện vivaṭṭupanissitakusala
này ngày nào chưa đạt đến mục đích cứu cánh cuối cùng, chứng ngộ Niết Bàn theo
nguyện vọng riêng của mình, ngày ấy chủ nhân vẫn hưởng được quả báu cao quý
trong cõi người, trong cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc
giới.

– Do năng lực phước thiện này cho quả, nếu
tái sanh làm người, thì sẽ là người giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng,
có khi làm vua một nước lớn, có khi là Đức Chuyển luân thánh vương trị vì bốn
châu thiên hạ. Nhưng dầu ở địa vị nào, người chủ nhân của phước thiện
vivaṭṭupanissitakusala này không say đắm, không dính mắc trong của cải, sự
nghiệp
ấy. Khi có cơ hội, sẵn sàng từ bỏ tất cả xuất gia trở thành đạo sĩ trong
thời kỳ không có Đức Phật xuất hiện trên thế gian, hoặc xuất gia trở thành Tỳ
khưu trong thời kỳ Đức Phật xuất hiện trên thế gian.

Đó là tính chất ưu việt của phước thiện này.

– Do năng lực phước thiện này cho quả, nếu
tái sanh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, thì chủ nhân của phước thiện
vivaṭṭupanissitakusala này không chịu hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến
hết tuổi thọ, mà nguyện từ bỏ cõi trời, liền tái sanh xuống làm người, để có cơ
hội tạo nhiều pháp hạnh ba la mật, để cho mau chóng đạt đến mục đích cứu cánh
Niết Bàn theo nguyện vọng của mình.

– Nếu chủ nhân ấy tái sanh làm chư thiên
trong cõi trời dục giới, không bao giờ chịu hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy
cho đến hết tuổi thọ, mà chủ nhân chư thiên ấy nguyện chết trước tuổi thọ,
xuống tái sanh làm người để có cơ hội tốt tạo được nhiều pháp hạnh ba la mật,
để mau chóng chứng đạt mục đích cứu cánh cuối cùng của mình.

Đó là tính chất ưu việt của phước thiện này.

Trong thời kỳ Đức Phật xuất hiện trên thế
gian
, hoặc giáo pháp của Ngài đang lưu truyền, chủ nhân của phước thiện
vivaṭṭupanissitakusala này, phát sanh đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức
Pháp, Đức Tăng, xin quy y Tam bảo trở thành người cận sự nam (hoặc cận sự nữ);
hoặc từ bỏ nhà xuất gia trở thành Tỳ khưu, hành giới trong sạch đầy đủ, tiến
hành thiền định chứng đắc các bậc thiền sắc giới, vô sắc giới không phải để
hưởng quả an lạc của các bậc thiền ấy trong kiếp hiện tạikiếp sau trong cõi
trời
phạm thiền sắc giới, vô sắc giưói; mà chỉ dùng bậc thiền ấy làm nền tảng
tiến hành thiền tuệ, để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh đạo, 4
Thánh QuảNiết Bàn tuỳ theo trí tuệba la mật của mình.

Đó là tính chất ưu việt của phước thiện này.

Tóm lại,

Phước thiện vaṭṭagāmikusala là con đường vòng
quanh trong tam giới, không giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn
loài
.

Phước thiện vivaṭṭupanissitakusala là con
đường
thẳng đến Niết Bàn giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn
loài
.

Phát NguyệnThành Tựu

Bố thíphát nguyện thường liên quan với
nhau
, sau khi làm phước thiện, người ta thường có lời phát nguyện, cầu mong do
năng lực phước thiện ấy làm nhân duyên đưa đến sự thành tựu đúng theo nguyện
vọng của mình.

Sự phát nguyệnthành tựu hay không thành
tựu
, thành tựu sớm hay muộn, nhanh hay chậm còn tuỳ theo thí chủ.

Nếu thí chủngười có giới đức trong
sạch
,
thì sự phát nguyện có thể thành tựu theo năng lực của phước thiện
ấy.

Nếu thí chủngười không có giới
trong sạch,
thì sự phát nguyện không thể thành tựu được; bởi vì, người
không có giới hoặc giới không trong sạch, sau khi chết, do ác nghiệp cho quả
tái sanh vào một trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh).

Tìm hiểu bài kinh Dānūppattisutta
[Aṅguttaranikāya, phần Aṭṭhakanipāta, kinh Dānūppattisutta]. Trong bài kinh này
Đức Phật dạy:

Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời này
làm phước thiện bố thí như cơm, nước, vải, xe cộ, hoa quả, vật thơm, vật thoa,
chỗ nằm, chỗ ở và đèn đến Sa môn, Bà la môn; người ấy bố thí rồi phát nguyện,
họ nhìn thấy vua chúa có quyền, Bà la môn giàu sang phú quý, phú hộ hưởng thụ
có đầy đủ ngũ trần, người ấy phát nguyện, mong ước rằng: “Sau khi chết
rồi, cầu mong kiếp sau, tôi sẽ trở thành vị vua chúa có quyền thế, hoặc Bà la
môn
giàu sang phú quý, hoặc đại phú hộ”. Người ấy phát nguyện như vậy, tâm
luôn luôn mong ước như vậy, tâm của họ hướng theo con đường thấp hèn, tâm không
muốn phát triển theo pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Người ấy sau
khi chết
, do phước thiện cho quả tái sanh trong dòng vua chúa, hoặc trong dòng
Bà la môn giàu sang phú quý, hoặc trong gia đình đại phú hộ.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người
có giới trong sạch mà thôi, không nói đến người không có giới, hay người phá
giới
.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành
tựu
đối với người có giới, bởi do thiện tâm trong sạch.

Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời
này, làm phước thiện bố thí như: cơm, nước, vải,… và đèn đến Sa môn, Bà la
môn
. Người ấy bố thí rồi phát nguyện, vì họ nghe rằng: “Chư thiên cõi trời
Tứ đại thiên vương có tuổi thọ sống lâu, có sắc đẹp, có sự an lạc trong cõi
trời
ấy”. Người ấy phát nguyện, mong ước rằng: “sau khi chết rồi, cầu
mong kiếp sau, tôi sẽ là chư thiên trong cõi Tứ đại thiên vương”. Người ấy
phát nguyện như vậy, tâm luôn luôn mong ước như vậy, tâm của họ hướng theo con
đường
thấp hèn, tâm không muốn phát triển theo pháp hành thiền định, pháp hành
thiền tuệ. Người ấy sau khi chết, do phước thiện cho quả tái sanh làm chư thiên
cõi Tứ đại thiên vương.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người
có giới trong sạch mà thôi, không nói đến người không có giới, người phá giới.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành
tựu
đối với người có giới, bởi do thiện tâm trong sạch.

Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời
này, làm phước thiện bố thí như: cơm, nước, vải…đèn đến Sa môn, Bà la môn.
Người ấy bố thí rồi phát nguyện vì: họ nghe rằng “chư thiên trong cõi Tam
thập tam thiên
Chư thiên trong cõi Dạ ma thiênChư thiên trong cõi Đâu
suất đà
thiên… Chư thiên trong cõi Hoá lạc thiênChư thiên trong cõi Tha
hoá tự tại thiên
có tuổi thọ sống lâu, sắc đẹp tuyệt vời, có sự an lạc tuyệt
vời
trong cõi trời”. Người ấy phát nguyện mong ước rằng: “Sau khi
chết rồi, cầu mong kiếp sau tôi sẽ là chư thiên trong cõi Tam thập tâm
thiên,… cõi Đâu suất đà thiên,… cõi Hoá lạc thiên… Cõi Tha hoá tự tại
thiên”. Người ấy phát nguyện như vậy, tâm luôn luôn mong ước như vậy, tâm
của họ hướng theo con đường thấp hèn, tâm không muốn phát triển theo pháp hành
thiền định, pháp hành thiền tuệ. Người ấy sau khi chết, do phước thiện cho quả
tái sanh làm chư thiên trong cõi Tam thập tam thiên…, cõi Dạ ma thiên…, cõi
Đâu xuất đà thiên…, cõi Hoá lạc thiên…, cõi Tha hoá tự tại thiên.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người
có giới trong sạch mà thôi, không nói đến người không có giới, người phá giới.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành
tựu
đối với người có giới, bởi do thiện tâm trong sạch.

Này chư Tỳ khưu, có số người trong đời
này bố thí như cơm, nước, vải… đèn đến Sa môn, Bà la môn. Người ấy bố thí rồi
phát nguyện vì họ nghe rằng: “Phạm thiên trong cõi trời sắc giới có tuổi
thọ sống lâu, có sự an lạc tuyệt vời hơn cõi trời dục giới”. Người ấy phát
nguyện
mong ước rằng: “sau khi chết, cầu mong kiếp sau tôi sẽ là phạm
thiên
trong cõi trời sắc giới”. Người ấy phát nguyện như vậy, tâm luôn
luôn mong ước như vậy, tâm của họ hướng theo con đường thấp hèn, tâm phát triển
theo pháp hành thiền định, không phát triển theo pháp hành thiền tuệ. Người ấy
sau khi chết, do nhờ có sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sanh làm phạm thiên
cõi
trời sắc giới.

Như Lai chỉ nói sự thành tựu này đến người
có giới (có chứng đắc bậc thiền sắc giới) mà thôi, không nói đến người không có
giới, phá giới; nói đến tâm không còn tham dục trong ngũ trần, do diệt được
tham ái trong ngũ trần, không nói đến tâm còn có tham ái trong ngũ trần.

Này chư Tỳ khưu, sự phát nguyện được thành
tựu
đối với người có giới, bởi do tâm trong sạch, không tham ái trong ngũ
trần

Qua bài kinh này, để hiểu rõ lời phát nguyện
chỉ được thành tựu đối với người có giới đức trong sạch mà thôi, không thành
tựu
đối với người không có giới, phá giới; là vì người không có giới, người phá
giới
sau khi chết, do ác nghiệp cho quả chắc chắn phải sa vào một trong 4 cõi
ác
giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh). Cho nên, phước thiện bố
thí
không có cơ hội dẫn dắt đến sự thành tựu theo điều phát nguyện.

Tuổi thọ, sắc đẹp, sự an lạc mỗi cõi trời dục
giới
khác nhau. Cõi trời dục giới tầng cao có tuổi thọ gấp đôi cõi trời dục
giới
tầng thấp.

– Tuổi thọ cõi Tứ đại thiên vương có 500 năm,
bằng 9 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này bằng
50 năm trong cõi người.

– Tuổi thọ cõi Tam thập tam thiên có 1.000
năm, bằng 36 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời này
bằng 100 năm trong cõi người.

– Tuổi thọ trong cõi Dạ ma thiên có 2.000
năm, bằng 144 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời
này bằng 200 năm trong cõi người.

– Tuổi thọ cõi Đâu xuất đà thiên có 4.000
năm, bằng 576 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời
này bằng 400 năm trong cõi người.

– Tuổi thọ trong cõi Hoá lạc thiên có 8.000
năm, bằng 2.304 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong cõi trời
này bằng 800 năm trong cõi người.

– Tuổi thọ trong cõi Tha hoá tự tại thiên
16.000 năm, bằng 9.216 triệu năm so với cõi người, bởi vì 1 ngày 1 đêm trong
cõi trời này bằng 1.600 năm trong cõi người.

Ngoài tuổi thọ ra, còn sắc đẹp, sự an lạc,
tiếng tăm, quyền lực, sắc, thinh, hương, vị, xúc tuyệt vời ở mỗi tầng trời cao
tăng
gấp bội tầng trời thấp.

Quả báu của phước thiện bố thí thuộc dục giới
thiện nghiệp, nên chỉ có khả năng cho quả trong cõi người và 6 cõi trời dục
giới
mà thôi, không có khả năng cho quả trong cõi trời sắc giới. Nhưng trong
bài kinh Đức Phật có đề cập đến sự thành tựu nguyện vọng trở thành phạm thiên
trong cõi trời sắc giới, điều này nên hiểu rằng: nhờ phước thiện bố thí làm
nhân duyên hỗ trợ cho thí chủ thuận lợi trong sự tiến hành thiền định để chứng
đắc
các bậc thiền hữu sắc, bậc thiền vô sắc. Chính sắc giới thiện nghiệp,
sắc giới
thiện nghiệp cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên, vô sắc
giới
phạm thiên (không phải phước thiện bố thí); và cũng chính nhờ phước
thiện
bố thí làm duyên hỗ trợ cho thí chủ thuận lợi trong sự tiến hành thiền
tuệ
để chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả trở thành bậc Thánh nhân.

Năng Lực Lời Phát Nguyện

Lời phát nguyệnnăng lực đối với người tạo
được phước thiện nào khó tạo, thì phước thiện ấy có nhiều năng lực. Khi phước
thiện
có nhiều năng lực, thì lời phát nguyện mới thành tựu được dễ dàng.

Như tích nàng Ummādandī [Bộ Jātaka, truyện
Ummādandījātaka] được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Đức vua Sivi trị vì xứ
Sivi, ngự ở kinh thành Ariṭṭha [Đức vua Sivi là Đức Bồ Tát tiền thân của Đức
Phật
Gotama]. Trong kinh thành, một phú hộ Tiriṭivaccha có người con gái
cùng
xinh đẹp như thiên nữ tên là Ummādandī. Năm cô lên 16 tuổi có sắc đẹp
hồn
, lạ thường hơn hẳn các cô gái khác, cô đẹp như thiên nữ tuyệt trần, những
người đàn ông nào nhìn thấy cô đều cảm thấy mê hồn, đến mức điên cuồng, mất trí
như người say – say bởi tham ái.

Ông phú hộ Tiriṭivaccha đến yết kiến Đức vua
Sivi tâu rằng:

– Tâu Hoàng thượng, Itthiratanā: đàn
bà báu
xứng đáng với Hoàng thượng đã sanh trong gia đình của tiện dân. Xin
Hoàng thượng phái nhóm Bà la môn đến xem tướng con gái của tiện dân, rồi tuỳ ý
của Hoàng thượng phán xét.

Đức vua chuẩn tấu, rồi truyền lệnh phái các
Bà la môn đến ngôi biệt thự của ông phú hộ. Nhóm Bà la môn được đón tiếp trọng
thể
, mời thưởng thức món cơm pāyāsa: cơm đặc biệt nấu bằng sữa tươi.

Khi ấy, cô Ummādandī trang sức lộng lẫy toàn
những đồ nữ trang quý giá ra chào hỏi nhóm Bà la môn ấy. Vừa nhìn thấy cô, tất
cả họ đều bị mê hồn, say mê điên cuồng không còn biết mình nữa. Đang khi dùng
vật thực, có người cầm nắm cơm đặt trên đầu, tưởng rằng mình dùng cơm; có người
cầm nắm cơm nhét vào nách, có người đấm vào vách tường… tất cả họ đều mê hồn
đến mức trở thành người điên cuồng mất trí, không còn biết mình nữa.

Cô Ummādandī nhìn thấy nhóm Bà la môn như vậy
nói rằng:

– Ta tưởng nhóm Bà la môn này đến xem tướng
của ta, bây giờ nhóm họ như người điên cuồng, không còn biết gì nữa. Này các
gia nhân, hãy lôi cổ nhóm Bà la môn này ra khỏi ngôi biệt thự.

Nhóm Bà la môn đờ đẫn như người mất hồn, bị
tống ra khỏi nhà đến khi hoàn hồn tỉnh lại cảm thấy xấu hổ và tức giận cô
Ummādandī, nên khi trở về yết kiến Đức vua, cả nhóm Bà la môn đồng tâu dối
rằng:

Tâu bệ hạ, người đàn bà ấy là người bất hạnh,
không nên rước về cung điện.

Cô Ummādandī biết chuyện như vậy, nên nghĩ
rằng: “Đức vua không rước ta về cung vì tưởng rằng ta là người bất
hạnh
. Gọi là người bất hạnh, thì chắc chắn làm sao có được địa vị như ta. Có cơ
hội nào ta sẽ yết kiến Đức vua rồi sẽ rõ”.

Về sau phụ thân của cô, ông phú hộ
Tiriṭivaccha đem gả cô cho vị quan thừa tướng Abhipāraka, là vị quan thân thiết
nhất, tín cẩn nhất của Đức vua Sivi, cô trở thành người yêu quý nhất của quan
thừa tướng.

Nhân dịp dân chúng trong kinh thành tổ chức
lễ lớn vui chơi ca hát nhảy múa hàng năm vào ngày rằm tháng 10 (âm lịch). Trước
khi đi chầu Đức vua, vị quan Thừa tướng gọi phu nhân căn dặn rằng:

– Này Ummādandī em yêu quý! Hôm nay, đầu hôm,
trăng rằm sáng tỏ, có lễ lớn, dân chúng ca hát nhảy múa vui chơi, Đức vua sẽ
ngự đi dạo quanh kinh thành, Người sẽ ngự ngang biệt thự của ta trước tiên. Em
đừng có xuất hiện để cho Đức vua nhìn thấy, nếu Đức vua nhìn thấy em, người sẽ
bị mê hồn mất trí.

Cô Ummādandī nghe lời căn dặn của phu quân,
nhưng lại nghĩ đây là cơ hội tốt để Đức vua nhìn thấy ta, nên khi vị quan thừa
tướng đi rồi, cô gọi nữ tỳ bảo rằng:

– Khi nào Đức vua đến cổng biệt thự ta, ngươi
hãy nói cho ta biết nhé!

Hôm ấy, mặt trời lặn, mặt trăng rằm soi sáng
trên bầu trời, trong kinh thành trang hoàng lộng lẫy, đèn thắp sáng ngời mọi
phương, kinh thành đẹp đẽ như cõi thiên cung.

Đức vua Sivi trang phục theo vương triều, ngự
trên chiếc xe ngựa cao quý, theo sau có đoàn hộ tống ngự ra khỏi cung điện, sẽ
đi vòng kinh thành, đến cổng biệt thự của vị quan thừa tướng Abhipāraka trước
tiên
, biệt thự này có tường bằng cẩm thạch bao chung quanh, cổng thành có đài
cao trang hoàng lộng lẫy đáng xem.

Khi ấy, nữ tỳ thưa với cô chủ Ummādandī rằng
Đức vua đang ngự đến, cô liền bảo nữ tỳ cầm mâm hoa, còn mình đứng tựa trên cửa
sổ lâu đài với dáng đứng đẹp, tay cầm hoa rải xuống Đức vua. Đức vua ngẩng đầu
nhìn thấy nàng, ngay khi ấy, Đức vua phát sanh tâm say mê, cơn say do phiền não
làm mê hồn mất trí, không còn biết ngôi biệt thự này của vị quan thừa tướng
Abhipāraka thân tín nhất của mình. Đức vua truyền hỏi người đánh xe ngựa rằng:

– Này Sunanda, biệt thự này của ai, mà vòng
thành bằng cẩm thạch màu vàng?

– Ai đứng hiện ra ở trên kia như một ngôi sao
chiếu sáng trong hư không, hay trên đỉnh núi?

– Này Sunanda! Người đàn bà ấy là con của
người ai? Chưa thuộc về người nào có phải không? Nàng chưa có chồng phải không?
Hãy trả lời ngay cho ta rõ.

Người đánh xe ngựa tâu rằng:

– Tâu bệ hạ, hạ thần biết rõ người đàn bà ấy
là con của phú hộ Tiriṭivaccha, nàng có chồng rồi. Chồng của nàng là quan thừa
tướng Abhipāraka thân tín nhất của bệ hạ, ngày đêm lo việc triều chính của bệ
hạ.

Tâu bệ hạ, nàng là phu nhân của quan thừa
tướng Abhipāraka, tên của nàng là Ummādandī.

Đức vua tán dương ca tụng rằng:

– Này các ngươi, tên gọi Ummādandī, mà cha mẹ
đặt cho nàng thật đúng nghĩa. Khi ta nhìn thấy nàng, nàng lại nhìn thấy ta, làm
cho ta say mê như người điên cuồng, mất trí.

Biết Đức vua không còn bình tĩnh nữa, nên
nàng Ummādandī đóng cửa sổ trở về phòng riêng.

Kể từ khi nhìn thấy nàng Ummādandī, Đức vua
cảm thấy không còn hứng thú đi dạo quanh kinh thành nữa, truyền lệnh cho người
đánh xe giá hồi cung, ngự lên lâu đài vào phòng nằm mơ mộng đến nàng Ummādandī,
nói lảm nhảm một mình như nguời mất trí, lẩm bẩm rằng:

– Nàng xinh đẹp quá! Nàng xinh đẹp quá!
Nàng nhìn thấy ta như đã hớp hồn ta rồi! Nếu đức vua trời Sakka ban ân huệ cho
ta, ta chỉ muốn được hưởng một ân huệ, đó là được nàng Ummādandī ôm ấp ta với
đôi cánh tay mềm mại của nàng. Quan thừa tướng Abhipāraka được ái ân cùng nàng
rồi, xin nhường cho vua Sivi được ái ân cùng nàng với…

Biết chuyện này, quan thừa tướng Abhipāraka
vào yết kiến Đức vua, xin dâng nàng Ummādandī lên Đức vua.

Khi ấy, Đức vua hồi tâm tỉnh trí lại biết
mình
ý nghĩ sai lầm đầy tội lỗi, cảm thấy vô cùng hổ thẹnghê sợ tội lỗi,
một mực từ chối không thể chấp nhận nàng Ummādandī, phu nhân của quan thừa
tướng thân tín nhất của mình.

Từ đó về sau, Đức vua Bồ Tát Sivi hành theo
thiện pháp, thiên hạ được an lành thịnh vượng.

Thử hỏi, do nguyên nhân nào, sắc đẹp của nàng
Ummādandī lại làm cho những người đàn ông, khi nhìn thấy nàng, lại bị say mê,
điên cuồng, mất trí như vậy?

Trong quá khứ, vương quốc Bārāṇasī, tiền kiếp
của cô Ummādandī sanh trong một gia đình nghèo khó, vào ngày lễ hội, cô nhìn
thấy những cô gái khác cùng trang lứa ăn mặc y phục bằng tấm vải choàng màu đỏ
xinh đẹp, trang sức lộng lẫy; khiến cô thèm được mặc tấm vải choàng màu
đỏ
kia, cô xin cha mẹ mua cho cô tấm vải ấy. Cha mẹan ủi cô rằng:

– Này con yêu quý! Gia đình ta nghèo khó, làm
sao mua được tấm vải choàng như vậy hỡi con!

– Thưa cha mẹ! Nếu vậy, xin phép cha mẹ cho
con đi làm thuê ở mướn một gia đình giàu có nào đó, qua một thời gian, người
chủ nhà thấy con làm được việc sẽ cho con tấm vải ấy.

Được cha mẹ cho phép, cô gái đến xin làm thuê
ở mướn cho một gia đình giàu có, cô thưa với người chủ rằng:

– Thưa ông bà chủ, con xin ở đây làm công,
chỉ mong được một tấm vải choàng tốt màu đỏ.

Người chủ đặt điều kiện với cô rằng:

– Nếu ngươi chịu ở đây, làm việc giỏi suốt ba
năm, xét thấy được, chúng ta sẽ cho ngươi tấm vải choàng mà ngươi ao ước.

Cô gái vô cùng hoan hỉ, chấp thuận điều kiện
của chủ, ngày đêm siêng năng cần mẫn hoàn thành tốt mọi công việc mà người chủ
giao phó. Vì vậy, cô làm công chưa đủ ba năm, người chủ quyết định cho cô tấm
vải choàng cùng với các tấm vải khác, bảo cô rằng:

– Hôm nay, ngươi đi tắm rửa sạch sẽ với nhóm
bạn gái rồi mặc tấm vải choàng này xem!

sung sướng nhận tấm vải choàng, đã thoả
lòng ao ước, cám ơn ông bà chủ rồi đi tắm với nhóm bạn gái, cô đặt tấm vải trên
bờ, nghĩ rằng: xuống sông tắm xong, ta sẽ mặc tấm vải choàng này, mà ta đã làm
công không nề vất vả khổ cực ngày đêm suốt thời gian qua.

Ngay khi ấy, một vị Đại Đức là bậc Thánh
Thanh Văn
đệ tử của Đức Phật Kassapa bị mất trộm y tất cả, nên Ngài mặc lá y
bằng những cành cây nhỏ (sākhābhaṇgaṃ) kết lại với nhau, đi ngang qua
nơi ấy. Cô nhìn thấy Ngài nghĩ rằng: vị Đại Đức này bị mất trộm y hết, còn
ta có được một tấm vải choàng này thật khó khăn vất vả, bởi vì tiền kiếp trong
quá khứ ta không làm phước thiện bố thí. Bây giờ ta sẽ làm phước thiện bố thí
một nửa tấm vải choàng đến Ngài Đại Đức.
Nghĩ xong, cô vội vã bước lên bờ,
mặc y phục cũ xong bạch rằng:

– Kính bạch Ngài Đại Đức, xin thỉnh Ngài dừng
lại một giây lát.

Cô đến đảnh lễ Ngài rồi ngồi tại nơi ấy xé
tấm vải thành hai mảnh, cô cung kính dâng một mảnh đến Ngài. Ngài Đại Đức tạm
lánh vào chỗ kín thay bỏ tấm y cũ, bằng mảnh vải choàng ấy, mặc nghiêm chỉnh
xong bước ra; bây giờ cô nhìn thấy Ngài Đại Đức mặc mảnh vải vào như hào quang
sáng ngời, một thứ ánh sáng mặt trời mát dịu, làm cho cô vô cùng hoan hỉ dâng
thêm mảnh vải còn lại đến Ngài Đại Đức rồi phát nguyện rằng:

– Kính bạch Ngài Đại Đức, tử sanh luân
hồi
, kiếp nào con cũng sẽ là người con gái xinh đẹp nhất, làm cho người đàn ông
nào khi nhìn thấy con, họ đều bị mê hồn, điên cuồng mất trí, không còn biết
mình
nữa; và không có một người đàn bà nào xinh đẹp hơn con.

Đó là lời phát nguyện trong tiền kiếp của cô
Ummādandī.

Cô gái ấy sau khi chết, do năng lực phước
thiện
bố thí cho quả, khi thì tái sanh làm thiên nữ cõi trời dục giới, khi thì
tái sanh làm người nữ cõi người, tái sanh kiếp nào, dầu là thiên nữ hoặc người
nữ đều có sắc đẹp tuyệt vời, không một ai sánh kịp.

Đến kiếp tái sanh làm người nữ trong gia đình
phú hộ Tiriṭivaccha đặt tên cô là Ummādandī, có nghĩa cô có sắc đẹp làm mê hồn.
Những người đàn ông nhìn thấy cô, họ đều say mê, điên cuồng, mất trí như người
điên, bởi do năng lực lời phát nguyên của cô ở tiền kiếp.

Lời phát nguyện của cô được thành tựu cho đến
kiếp cuối cùng.

Thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế
gian
, kiếp chót hậu thân của cô Ummādandī, do phước thiện cho quả tái sanh làm
con gái của gia đình phú hộ xứ Sāvatthi, xinh đẹp như đoá hoa sen, nên đặt tên
cô là Uppalavaṇṇā. Khi cô trưởng thành, thân phụcho phép xuất gia trở thành
Tỳ khưu ni. Sau khi trở thành Tỳ khưu ni tiến hành thieàn tuệ, chứng ngộ chân
Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả cho đến
A-ra-hán Thánh Đạo A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng Tứ tuệ
phân tích, Lục thông.

Đại Đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā là bậc Thánh
nữ tối thượng Thanh Văn đặc biệt xuất sắc nhất về thần thông trong hàng Thánh
nữ Thanh Văn.

Những nhân vật trong tích tiền thân
Ummādandī-jātaka này, kiếp hiện tại cũng là kiếp chót như sau:

Cô Ummādandī nay
kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā.
Người đánh xe ngựa Sunanda nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Ānanda.
Quan thừa tướng Abhipāraka nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Sāriputta.
Đức vua Sivi nay kiếp hiện tại chính là Đức Phật Gotama.

Bố
thí
– Kết quả

Thí chủtác ý thiện tâm sử dụng
của cải đem làm phước thiện bố thí, ban bố phân phát cho mọi người khác, chúng
sinh
khác với tâm từ, tâm bi tế độ chúng sinh. Đó là phước thiện bố thí.

Phước thiện bố thí này có kết quả
nhiều hay ít, còn tuỳ thuộc vào 3 điều kiện (chi pháp).

1- Thí chủ
tác ý thiện tâm bố thí.
2- Vật bố thí.
3- Người thọ thí.

Đức Phật ví dụ:

Thí chủ
như
người nông dân.
Vật bố thí ví như hạt giống.
Người thọ thí ví như thửa ruộng, đất….

Trường hợp người nông dân
chuyên môn, biết thời vụ, có hạt giống tốt, gieo trồng thửa ruộng màu mỡ, chắc
chắn
kết quả thu hoạch được nhiều.

Cũng như vậy,

Thí chủtác ý thiện tâm trong
sạch
, hoan hỉ suốt trong ba thời:

Trước khi
làm phước thiện bố thí.
Đang khi làm phước thiện bố thí.
Sau khi đã làm phước thiện bố thí xong.

– Có vật bố thí hợp pháp, phát sanh
do chánh nghiệp.

– Người thọ thí là bậc có giới đức
trong sạch thanh tịnh.

Như vậy, phước thiện bố thí ấy chắc
chắn
có qủa báu nhiều trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.

Trường hợp người nông dân không có
chuyên môn, có hạt giống xấu, gieo trồng nơi thửa ruộng xấu, không màu mỡ; kết
quả thu hoạch không được nhiều.

Cũng như vậy,

Thí chủtác ý thiện tâm không
hoàn toàn trong sạch suốt trong ba thời:

Trước khi
làm phước bố thí.
Đang khi làm phước bố thí.
Sau khi đã làm phước bố thí xong.

– Có vật bố thí không hợp pháp, phát
sanh do tà nghiệp.

– Người thọ thí là người không có
giới trong sạch, phá giới.

Như vậy, phước thiện bố thí ấy có
quả báu không nhiều, không đáng hài lòng trong kiếp hiện tại lẫn kiếp vị lai.

Qua hai trường hợp trên, chúng ta
nhận thấyquả báu của phước thiện khác nhau.

Chúng ta làm phước thiện bố thí
nên chọn lựa hay không?

Để thành tựu phước thiện bố thí cần
có đầy đủ 3 điều kiện (3 chi pháp): thí chủtác ý thiện tâm bố thí, vật bố
thí
, người thọ thí. Nếu thiếu một điều kiện (chi) nào, thì không thành tựu
phước thiện bố thí.

Ví dụ:

Thí chủtác ý thiện tâm bố thí,
có vật bố thí, nhưng không có người thọ thí, thì phước thiện bố thí không thành
tựu
.

Cho nên, muốn làm phước thiện bố
thí
, chúng ta cần phải tìm cho đủ 3 điều kiện trên. Chúng ta nên ý thức rằng:
tạo phước thiện bố thí là một điều thiết yếu cho mình, có khi có cơ hội tốt đến
với mình, có khi chính mình phải tìm lấy cơ hội, miễn sao cho đủ 3 điều kiện:

Thí chủ
tác ý thiện tâm bố thí.
Vật bố thí.
Người thọ thí.

Trong 3 điều kiện này, điều kiện
quan trọng: tác ý thiện tâm bố thí, với thiện tâm hoan hỉ trong
sạch
suốt 3 thời kỳ: trước khi bố thí, đang khi bố thí, sau khi đã bố thí rồi;
cả 3 thời kỳ này với thiện tâm trong sạch, thanh tịnh, không bị ô nhiễm bởi
phiền não, thì dầu vật thí tốt hoặc xấu, hợp pháp hoặc không hợp
pháp
; và người thọ thí giới đức hoặc không có giới đức, thì
phước thiện bố thí cũng không ít.

Ví dụ:

Người nông dân có chuyên môn, biết
thời vụ, dầu có hạt giống xấu, thửa ruộng không màu mỡ nhiều. Song người nông
dân
biết bón phân đúng lúc đúng thời, biết cho nước vào, biết xả nước ra, biết
chăm sóc cây cho tốt. Như vậy, kết quả thu hoạch cũng không ít.

Cũng như vậy, thí chủtác ý thiện
tâm
bố thí trong sạch, có đức tin về nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ sáng
suốt
hiểu biếtthiện nghiệpcủa quý báu riêng mình; có cơ hội bố thí để
tạo phước thiện là một điều tốt lành. Thí chủtác ý thiện tâm trong sạch
hoan hỉ trước khi bố thí, hoan hỉ đang khi bố thí, hoan hỉ sau khi đã bố thí
xong. Sự thành tựu phước thiện bố thí với tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ
đầy đủ ba thời kỳ như vậy, dù vật thí như thế nào (tốt hoặc xấu) hoặc người thọ
thí như thế nào (có giới đức hoặc không có giới đức), phước thiện bố thí cũng
không ít, kết quả cũng đáng hài lòng.

Như trường hợp Đức Bồ Tát Vessantara
bố thí hai đứa con là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhā đến cho Bà la môn Jūjaka
tàn nhẫn (không có giới), để tạo pháp hạnh bố thí ba la mật, thế mà phước thiện
bố thí ấy cũng làm cho trái đất rung chuyển.

Bố thí người không có giới đức kết
quả như thế nào?

Thí chủ bố thí đến người không có
giới đức, cũng như người nông dân gieo trồng hạt giống trên thửa ruộng, đất
xấu.

Tìm hiểu tích Cūḷaseṭṭhipetavatthu:
tích ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi (tiểu phú hộ) [Khuddakanikāya, Petavatthu], tóm lược
như sau:

Trong kinh thành Bārāṇasī có một
tiểu phú hộ tên Cūḷaseṭṭhi là người không có đức tin, tâm bỏn xẻn keo kiệt,
không bố thí của cải đến mọi người, mọi chúng sinh, tâm tham lam say đắm trong
của cải, còn là người không có giới. Cho nên sau khi chết, do ác nghiệp cho quả
tái sanh làm loài ngạ quỷ cũng có tên là Cūḷaseṭṭhipeta (ngạ quỷ tiểu
phú hộ),
thân hình gầy ốm da bọc xương, xanh xao, đầu trọc, trần truồng
đói khát trông thảm thương. Y nghe tin người con gái tên Anulā ở nhà chồng
trong tỉnh thành Andhakavinda có làm phước bố thí, để hồi hướng đến ông bà, cha
mẹ
, chú bác, cô dì… những người thân bằng quyến thuộc đã quá vãng.

Ban đêm ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi bay ngang
qua kinh thành Rājagaha, khi ấy, đức vua Ajātasattu không ngủ được, nên đi kinh
hành
ở hành lang lâu đài, nhìn thấy ngạ quỷ bay ngang qua, bèn hỏi rằng:

– Này nhà ngươi, ngươi có phải là tu
loã thể, gầy ốm do ác nghiệp nào vậy? Giữa đêm khuya này ngươi đi đâu? Ngươi
hãy nói cho ta rõ, ta có thể giúp đỡ gì cho nhà ngươi?

Khi nghe Đức Vua truyền dạy, ngạ quỷ
tâu rằng:

– Tâu Đại vương, trước đây, trong
kinh thành Bārāṇasī, con là một tiểu phú hộ giàu nổi tiếng, phần đông ai cũng
biết đến, con là người bỏn xẻn keo kiệt, không chịu bố thí, phân phát của cải
đến một ai; con có tánh tham lam, say mê trong của cải của mình, không có đức
tin
, không có giới. Sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh trong hàng ngạ
quỷ
, chịu cảnh đói khát triền miên, sự đói khát luôn luôn dày vò đau khổ.

Ngoài con ra, còn có nhiều người
khác có tâm bỏn xẻn keo kiệt, không bố thí, không tin quả báu của phước thiện
bố thí, những hạng người ấy sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh vào
loài ngạ quỷ chịu cảnh khổ đói khát như con.

Con được tin con gái của con có tác
ý
thiện tâm muốn làm phước bố thí đến nhóm Bà la môn, để hồi hướng phần phước
thiện
ấy đến ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì,… thân bằng quyến thuộc đã quá
vãng
. Do đó, con bay đến kinh thành Andhakavinda để chờ hoan hỉ phần phước
thiện
bố thí ấy, với hy vọng mong thoát khỏi cảnh khổ kiếp ngạ quỷ này.

Đức Vua truyền dạy rằng:

– Này nhà ngươi, nếu ngươi thọ hưởng
được phần phước thiện bố thí, mà thân quyến hồi hướng thật sự, thì ngươi hãy
trở lại báo cho ta biết đúng theo sự thật, để ta cũng tạo phước thiện bố thí
rồi hồi hướng đến thân quyến của ta đã quá vãng.

Ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi xin tuân theo
lệnh của Đức Vua xong, bay thẳng đến kinh thành Andhakavinda. Nhưng y thọ hưởng
được phần phước thiện bố thí ấy không đáng kể, vì nhóm Bà la môn ấy là những
người không có giới đức. Cho nên, ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi trở lại kinh thành
Rājagaha, hiện ra trước mặt đức vua Ajātasattu tâu rằng:

– Tâu Đại Vương, con hưởng được phần
phước thiện bố thí không đáng kể, bởi vì nhóm Bà la môn không có giới đức
trong sạch.

Đức Vua truyền dạy rằng:

– Này nhà ngươi, ta muốn cứu giúp
ngươi thoát khỏi cảnh khổ, được sống an lạc đầy đủ lâu dài. Vậy, ta nên làm
phước thiện bố thí như thế nào? Ngươi hãy nói cho ta biết?

Ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi tâu với Đức Vua
rằng:

– Tâu Đại Vương, Đại Vươngtâm bi
mẫn cứu giúp con, xin Đại Vương làm phước thiện bố thí cúng dường vật thực,
nước, y đến Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng. Xong rồi, xin Đại Vương hồi hướng
phần phước thiện bố thí ấy đến cho con. Khi con được hoan hỉ phần phước thiện
bố thí ấy rồi, do nhờ năng lực phước thiện ấy, con được giải thoát khỏi kiếp
ngạ quỷ đói khát, được tái sanh cõi thiện giới hưởng được sự an lạc lâu dài.

Vào ngày hôm sau, Đức Vua làm phước
thiện
bố thí vật thực, nước, y cúng dường đến Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng
xong, Đức Vua bạch với Đức Phật rằng:

– Con xin hồi hướng phần phước bố
thí
này đến ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi. Xin ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi hoan hỉ phần phước thiện
bố thí này.

Ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi hoan hỉ phần
phước bố thí ấy, ngay tức khắc, thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, hoá sanh trở thành vị
thiên nam, hiện ra trước mặt Đức Vua tâu rằng:

– Tâu Đại Vương, nay con đã trở
thành
thiên nam, xin Đại Vương xem con, con có đầy đủ vật thực, y phục, lâu
đài, sự an lạc… của chư thiên. Những quả báu này phát sanh do phước thiện bố
thí
Đại Vương đã hồi hướng cho con.

Con cầu mong Đại Vương được hưởng sự
an lạc cao cả trong loài người, con hết lòng thành kính tri ân Đại Vương, con
xin phép trở về cảnh giới của con.

Qua câu truyện ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi
xét thấy rằng:

Kiếp ngạ quỷ chỉ còn biết trông chờ
đến phần phước thiện, mà bà con thân quyến hồi hướng đến cho họ mà thôi.

Kiếp sống con ngườitính chất đặc
biệt
hơn các chúng sinh khác là: thừa hưởng quả của thiện nghiệp,
ác nghiệp. Cho nên, con người có khi được an lạc đó là quả của
thiện nghiệp, có khi chịu khổ đau đó là quả của ác nghiệp. Con người đặc biệt
có khả năng tạo mọi phước thiện như: bố thí, giữ giới, hành thiền
định
, hành thiền tuệ…; cũng có khả năng tạo ác nghiệp do thân,
khẩu, ý như: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc, chia rẽ,
nói lời thô tục, chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích, có tánh tham lam, có tánh
thù hận, có tà kiến; có khả năng tạo thiện nghiệp do thân, khẩu,
ý như: tránh xa sự sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời đâm thọc chia
rẽ, nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích, có tánh không tham
lam
, có tánh không thù hận, có chánh kiến.

Con người được giàu sang, phú quý có
nhiều của cải, có quyền cao, chức trọng… những gì hiện hữu có thể thấy được
bằng mắt, nghe bằng tai… tất cả đều không phải là phước thiện, đó
chỉ là quả báu của phước thiện mà thôi. Chủ nhân có thể thọ hưởng
các quả báu bằng mọi thứ của cải ngay trong kiếp hiện tại, cho đến cuối cùng
của kiếp sống hiện tại (chết). Những thứ của cải trong kiếp hiện tại không liên
quan
gì đến kiếp sau. Kiếp sau là do thiện nghiệp hay ác nghiệp cho quả tái
sanh
:

* Nếu thiện nghiệp, thì cho quả tái
sanh
cõi thiện giới như: tái sanh làm người cõi người, hoặc tái sanh làm chư
thiên
cõi trời dục giới, hoặc tái sanh làm phạm thiên cõi trời sắc giới hay
sắc giới
, tuỳ theo thiện nghiệp của mình đã tạo, rồi hưởng sự an lạc tuỳ theo
năng lực của thiện nghiệp ấy.

* Nếu ác nghiệp cho quả tái sanh trong
4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) chịu khổ do nghiệp ác
của mình đã tạo.

Ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi ghi nhớ được tiền
kiếp
của mình là tiểu phú hộ bỏn xẻn keo kiệt, có tánh tham lam say đắm trong
của cải của mình, không muốn sử dụng của cải của mình đem làm phước bố thí, ban
bố phân phát đến mọi người, mọi chúng sinh, còn là người không có giới. Do đó,
sau khi chết do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh trong hàng ngạ quỷ, phải chịu
cảnh đói khát khốn khổ.

Ban đầu chính ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi tỏ
vẻ thất vọng, bởi vì người con gái làm phước bố thí đến nhóm Bà la môn không có
giới, nên hưởng được phước thiện không đủ để có khả năng thoát khỏi kiếp ngạ
quỷ
đói khát đau khổ.

Về sau nhờ đức vua Ajātasattu làm
phước thiện bố thí cúng dường đến Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng, rồi hồi hướng
đến ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi. Ngạ quỷ Cūḷaseṭṭhi hoan hỉ phần phước thiện bố thí, mà
đức vua Ajātasattu hồi hướng đến cho y; do nhờ năng lực phước thiện này, ngay
khi ấy, y thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, tái sanh bằng hoá sanh thành thiên nam có
nhiều oai lực và hưởng mọi sự an lạc nơi cõi trời ấy.

Bố Thí Trong Phật Giáo – Ngoài Phật
Giáo

Phước thiện bố thí trong Phật giáo
quả báu nhiều, có năng lực mạnh hơn phước thiện bố thí ngoài Phật giáo, hoặc
thời kỳ không có Phật giáo.

Tích Ngài Đại Đức Mahākassapa và đức
vua trời Sakka cõi Tam thập tam thiên tóm lược như sau:

Ngài Đại Đức Mahākassapa nhập diệt
thọ tưởng định suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7 xả định, Ngài đi khất thực với tâm
bi
tế độ những người nghèo khổ. Khi ấy, từ cõi Tam thập tam thiên có 500 thiên
nữ
là những thiên nữ hầu hạ của đức vua trời Sakka, hiện xuống cõi người, mỗi
cô mỗi phần với tác ý thiện tâm để bát cho Ngài Đại Đức, nhưng Ngài từ chối
không nhận vật thực của nhóm 500 thiên nữ. Ngài dạy rằng:

– Này các thiên nữ hãy tránh ra, bần
Tăng
đi khất thực để tế độ những người nghèo khổ.

Nhóm 500 thiên nữ không để bát được,
buồn tủi trở về cõi trời tâu với đức vua trời Sakka:

– Chúng tiện thiếp hiện xuống cõi
người
với tác ý thiện tâm làm phước thiện bố thí để bát Ngài Đại Đức Mahākassapa
vừa xả diệt thọ tưởng định hôm nay, nhưng Ngài từ chối, không nhận những vật
thực của chúng tiện thiếp, Ngài dạy rằng: Ngài chỉ thọ nhận những vật thực của
người nghèo khổ, để tế độ họ mà thôi.

Nghe tâu như vậy, đức vua trời Sakka
gọi hoàng hậu Sujātā cùng hiện xuống cõi người biến hóa thành đôi vợ chồng già
yếu, nghèo khổ sống trong một căn nhà lá cũ mèm ở ven rừng, chờ Ngài Đại Đức
Mahākassapa đi khất thực ngang qua nhà.

Ngài Đại Đức Mahākassapa vừa đến,
đức vua trời Sakka trong hình dáng một ông lão nghèo khổ đầu bạc, lưng còm, đôi
chân run rẩy, chống gậy gọi hoàng hậu Sujātā trong hình dáng một bà lão nghèo
khổ
như ông ra, hai ông bà già cúi đầu đảnh lễ, xin Ngài tế độ vợ chồng già
nghèo nàn, xin cái bát của Ngài vào nhà để những vật thực ngon lành của họ.

Đức vua trời Sakka và hoàng hậu
Sujātā để những món vật thực vào bát của Ngài Đại Đức Mahākassapa, mùi hương
thơm của vật thực tỏa khắp kinh thành Rājagaha; hai vợ chồng nghèo nàn đem bát
ra dâng Ngài Đại Đức, Ngài nhận bát, mùi hương thơm tỏa ra. Ngài biết ngay vật
thực này không phải vật thực của hai vợ chồng trong hình dáng người già nghèo
khổ
, mà sự thật chính là đức vua trời Sakka và hoàng hậu Sujātā, Ngài quở trách
rằng:

– Này vua trời Sakka và hoàng hậu,
bần Tăngtâm bi muốn tế độ người nghèo khổ, tại sao hai người lại giành
phước thiện của người nghèo?

– Kính bạch Ngài Đại Đức, chúng con
cũng là người nghèo nàn, mặc dầu con là Vua trời trị vì toàn thể chư thiên
trong cõi Tam thập tam thiên; nhưng chúng con làm phước thiện bố thí trong thời
kỳ
không có Phật giáo, không có chư Đại Đức Tăng, nên phước thiện bố thí của
con nghèo nàn quá, bạch Ngài!

Con cảm thấy tủi phận mỗi khi gặp
những vị chư thiên sanh lên cõi Tam thập tam thiên, do quả phước thiện bố thí
trong kỳ Đức Phật xuất hiện trên thế gian, bởi họ có hào quang sáng ngời tỏa
khắp mọi phương hướng, có nhiều oai lực phi thường, khiến con phải né tránh.
Tuy con làm vua mà phước báu không bằng thuộc hạ của mình.

Ngài Đại Đức dạy rằng:

– Này Đức vua trời, kể từ nay về
sau, nhà ngươi không nên giả dạng người nghèo làm phước bố thí đến bần Tăng như
vậy nữa!

Đức vua trời Sakka cùng hoàng hậu
Sujātā đảnh lễ Đại Đức tỏ lòng tôn kính, tri ân Ngài, tán dương ca tụng ân đức
của Ngài, rồi xin phép trở về cõi Tam thập tam thiên.

Do năng lực phước thiện bố thí để
bát đến Ngài Đại Đức Mahākassapa, đức vua trời Sakka có được hào quang, oai lực
không kém chư thiên khác.

Tích hai thiên nam Indaka và Ankura

Tích hai thiên nam Indaka và Ankura
[Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, trong tích Devorohaṇavatthu] tóm lược như sau:

Hai vị thiên nam này tiền kiếp đã
từng làm phước thiện bố thí.

Tiền kiếp của vị thiên nam
Ankura
đã từng xây dựng trại làm phước thiện đại thí ngoài Phật giáo,
thời kỳ không có Đức Phật xuất hiện trên thế gian, không có chư Đại Đức Tăng
suốt 10.000 năm.

Tiền kiếp của vị thiên nam
Indaka
đã từng làm phước thiện bố thí để bát đến Ngài Đại Đức Anuruddha
một muỗng cơm, trong thời kỳ Phật giáo.

Mùa hạ thứ bảy, Đức Phật ngự an cư
nhập hạ suốt 3 tháng trên cung Tam thập tam thiên thuyết giảng Vi diệu pháp
tạng để tế độ Phật mẫu (kiếp này làm thiên nam Santussita cõi trời Tusita
xuống cõi Tam thập tam thiên),
cùng chư thiên, phạm thiên.

Đức Phật ngự trên tảng đá thuyết
giảng
. Khi ấy, vị thiên nam Indaka ngồi phía bên phải của Đức
Phật
, còn thiên nam Ankura ngồi phía bên trái của Đức Phật lắng
nghe Vi diệu pháp.

Khi có vị chư thiên nhiều oai lực
đến hội nghe Vi diệu pháp, thì vị thiên nam Ankura lùi lại sau nhường cho vị
thiên nam ấy. Mỗi lần phải lùi lại sau nhường chỗ như vậy, vị thiên nam Ankura
lùi ra cách xa Đức Phật đến 12 do tuần [1 do tuần khoảng 20.482,56 mét hoặc
12,72 miles]. Trong khi đó vị thiên nam Indaka vẫn ngồi yên chỗ ngồi của mình
gần Đức Phật.

Qua tích truyện trên, để chúng ta
thấy rõ rằng, vị thiên nam Indaka, tiền kiếp đã từng làm phước thiện để bát đến
Ngài Đại Đức Anuruddha một muỗng cơm trong Phật giáo, mà năng lực
quả báu hơn vị thiên nam Ankura tiền kiếp đã từng làm phước thiện đại thí suốt
10 ngàn năm thời kỳ ngoài Phật giáo.

Tích Bà la môn Velāma làm phước
thiện
bố thí

Trong kinh Velāmasutta [Bộ
Aṅguttaranikāya, phần Navakanipāta], Đức Phật thuyết giảng về Bà la môn Velāma
làm phước thiện bố thí thời kỳ ngoài Phật giáothí chủ làm phước thiện bố
thí
trong Phật giáo có đoạn như sau:

“Này phú hộ Anāthapiṇṇika,
chuyện đã từng xảy ra, có Bà la môn Velāma làm phước thiện đại thí như:

Bố
thí
84.000 mâm vàng đầy bạc (rūpiya).
Bố thí 84.000 mâm bạc đầy vàng.
Bố thí 84.000 mâm đồng đầy bạc.
Bố thí 84.000 con voi gồm đầy đủ đồ trang sức bằng vàng.
Bố thí 84.000 đồ trải bằng da sư tử, da cọp.
Bố thí 84.000 con bò sữa cùng với đồ đựng sữa.
Bố thí 84.000 cô gái trẻ đẹp cùng với đồ trang sức ngọc maṇi….
Bố thí 84.000 chiếc ghế ngồi có trang trí đồ quý giá.
Bố thí 84.000
x 10.000.000 vải đủ loại đặc
biệt
. Ngoài ra, bố thí đồ ăn, đồ uống,… không sao kể xiết.

Bà la môn Velāma chính là tiền thân
của Như Lai, làm phước đại thí vào thời đại ấy không có bậc Xứng Đáng Cúng
Dường
(thời đại không có Đức Phật và chư Đại Đức Tăng).

Này ông phú hộ, người nào làm phước
thiện
bố thí đến vị Thánh Nhập Lưuchánh kiến đầy đủ, người ấy có phước
thiện
nhiều, có quả báu nhiều hơn là làm phước thiện bố thí của Bà la môn
Velāma.

Người nào làm phước thiện bố thí đến
100 vị Thánh Nhập Lưu, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh Nhập Lưu.

Người nào làm phước thiện bố thí đến
1 vị Thánh Nhất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 vị Thánh Nhập Lưu.

Người nào làm phước thiện bố thí đến
100 vị Thánh Nhất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh Nhất Lai.

Người nào làm phước thiện bố thí đến
1 vị Thánh Bất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 vị Thánh Nhất Lai.

Người nào làm phước thiện bố thí đến
100 vị Thánh Bất Lai, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh Bất Lai.

Người nào làm phước thiện bố thí đến
1 vị Thánh A-ra-hán, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 vị Thánh Bất Lai.

Người nào làm phước thiện bố thí đến
100 vị Thánh A-ra-hán, thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 vị Thánh A-ra-hán.

Người nào làm phước thiện bố thí đến
1 Đức Phật Độc Giác thì quả báu nhiều hơn bố thí đến 100 vị Thánh A-ra-hán.

Người nào làm phước bố thí đến 100
Đức Phật Độc Giác thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 1 Đức Phật Độc Giác.

Người nào làm phước đến Đức Phật
Toàn Giác thì quả báu nhiều hơn là bố thí đến 100 Đức Phật Độc Giác”….

Qua đoạn kinh trên, chúng ta nhận
thấy
sự khác biệt, mà có thể so sánh được quả báu của phước thiện bố thí ngoài
Phật giáoquả báu của phước thiện bố thí trong Phật giáo. Trong Phật giáo,
quả báu cũng khác biệt giưõa các bậc Thánh thấp với bậc Thánh cao; giữa các bậc
Thánh A-ra-hán với Đức Phật Độc Giác, Đức Phật Toàn Giác.

Như vậy, bậc nào có giới đức,
định đức, tuệ đức, giải thoát đức, giải thoát tri kiến đức
hoàn toàn trong
sạch
thanh tịnh, thí chủ làm phước thiện bố thí đến bậc ấy có được nhiều
phước thiện, có quả báu cao quý nhất.

Người Tại Gia Cư Sĩ

Người tại gia sinh sống bằng sức lao
động của mình, để tạo ra của cải rồi hưởng thụ của cải ấy trong cuộc sống hằng
ngày
, có những điều đáng chê trách và đáng ca tụng.

Trong kinh Kāmabhogīsutta
[Aṅgattaranikāya, Dasakanipāta], Đức Phật dạy ông phú hộ Anāthapiṇṇika có đoạn:

“Này phú hộ, có 10 hạng người
sống tại gia:

1- Hạng người tại gia lao động tạo
ra của cải không hợp pháp, làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, không
biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và cũng không biết đem
của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê
trách 3 điều:

Chê trách:
Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Chê trách: Không biết nuôi nấng mình được an lạc.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

2- Hạng người tại gia lao động tạo
ra của cải không hợp pháp, làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử
dụng
của cải để nuôi nấng mình được an lạc, nhưng không biết đem của cải làm
phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê
trách 2 điều, đáng ca tụng 1 điều:

Chê trách:
Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.

3- Hạng người tại gia lao động tạo
ra của cải không hợp pháp, làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử
dụng
của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và biết đem của cải làm phước
thiện
bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê
trách 1 điều, đáng ca tụng 2 điều:

Chê trách:
Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.
Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.

4- Hạng người tại gia lao động tạo
ra của cải không hợp pháphợp pháp, làm khổ chúng sinh và không làm khổ
chúng sinh; khi có được của cải rồi, không biết sử dụng của cải để nuôi nấng
mình cho được an lạc; và cũng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí
giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê
trách 3 điều, đáng ca tụng 1 điều:

Chê trách:
Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Chê trách: Không biết nuôi nấng mình được an lạc.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.
Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.

5- Hạng người tại gia lao động tạo
ra của cải không hợp pháphợp pháp, làm khổ chúng sinh và không làm khổ
chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho
được an lạc; nhưng không biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi
người
, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê
trách 2 điều, đáng ca tụng 2 điều:

Chê trách:
Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.
Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.

6- Hạng người tại gia lao động tạo
ra của cải không hợp pháphợp pháp, làm khổ chúng sinh và không làm khổ
chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho
được an lạc; và biết đem của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi
chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê
trách 1 điều, đáng ca tụng 3 điều:

Chê trách:
Tạo ra của cải một cách phi pháp, làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.
Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.

7- Hạng người tại gia lao động tạo
ra của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, không
biết sử dụng của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc, và cũng không biết đem
của cải làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê
trách 2 điều và đáng ca tụng 1 điều:

Ca tụng:
Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Chê trách: Không biết nuôi nấng mình được an lạc.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

8- Hạng người tại gia lao động tạo ra
của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử
dụng
của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc, nhưng không biết đem của cải
làm phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh.

Hạng người tại gia này đáng chê
trách 1 điều và đáng ca tụng 2 điều:

Ca tụng:
Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.
Chê trách: Không biết làm phước thiện bố thí.

9- Hạng người tại gia lao động tạo
ra của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử
dụng
của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và cũng biết đem của cải làm
phước thiện bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh; nhưng tâm còn tham đắm
say mê, bị ràng buộc trong dục lạc ngũ trần; không thấy rõ tội lỗi của ngũ
trần
, không có trí tuệ cứu giúp mình giải thoát sự ràng buộc của ngũ trần.

Hạng người tại gia này đáng chê
trách 1 điều và đáng ca tụng 3 điều:

Ca tụng:
Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.
Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.

Chê trách: Là người có tâm tham đắm,
say mê, bị ràng buộc trong dục lạc ngũ trần, không thấy rõ tội lỗi của ngũ
trần
, không có trí tuệ cứu giúp mình giải thoát sự ràng buộc của ngũ trần.

10- Hạng người tại gia lao động tạo
ra của cải hợp pháp, không làm khổ chúng sinh; khi có được của cải rồi, biết sử
dụng
của cải để nuôi nấng mình cho được an lạc; và biết đem của cải làm phước
thiện
bố thí giúp đỡ mọi người, mọi chúng sinh; đặc biệt tâm không tham đắm say
mê, không bị ràng buộc trong dục lạc ngũ trần, có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ
thực tánh các pháp, không bị ràng buộc trong ngũ trầnkhông chấp thủ trong
ngũ trần.

Hạng người tại gia này đáng ca tụng
đầy đủ 4 điều:

Ca tụng:
Tạo ra của cải một cách hợp pháp, không làm khổ chúng sinh.
Ca tụng: Biết sử dụng của cải nuôi nấng mình được an lạc.
Ca tụng: Biết đem của cải làm phước thiện bố thí.
Ca tụng: Là người không có tâm tham đắm, say mê, không bị ràng buộc trong dục
lạc
ngũ trần, có trí tuệ thấy tội lỗi của ngũ trần, có trí tuệ thiền tuệ thấy
rõ thực tánh các pháp, không bị ràng buộc trong ngũ trầnkhông chấp thủ
trong ngũ trần.

Bố Thí Tạo Tội Lỗi

Bố thíviệc làm sử dụng của cải
đem ra ban bố, phân phát đến người khác, chúng sinh khác, về hình thức xem như
là việc đối xử tốt. Việc bố thí để tạo phước thiện hay tạo tội
lỗi
còn tuỳ thuộc vào tác ý kết quả của
nó.

Nếu bố thí với tác ý thiện tâm, có
những vật thí nào đem lại cho người thọ thí, hoặc thí chủ, hoặc cả hai (người
thọ thí và thí chủ) sự an lạc lâu dài, thì việc bố thí ấy tạo phước
thiện
,
không tạo tội lỗi.

Nếu bố thí với tác ý bất thiện, có
những vật thí nào đem lại cho người thọ thí, hoặc thí chủ, hoặc cả hai (người
thọ thí và thí chủ) sự khổ não lâu dài, thì việc bố thí ấy tạo tội lỗi,
không phải tạo phước thiện.

Trong bộ Milindapañhā: Đức vua
Milinda vấn đạo,
có đề cập đến 10 vật bố thí có tội là:

1-
Majjadāna:
bố thí rượu, chất say, ma tuý,
heroin, thuốc phiện, thuốc lá, v.v….
2- Samajjadāna:

bố thí lễ hội vui chơi, say mê….
3- Itthidāna:

bố thí kỹ nữ ăn chơi truỵ lạc….
4- Usabhadāna:

bố thí bò đực giao cấu với bò cái.
5- Cittakammadāna:

bố thí những tranh ảnh khiêu dâm.
6- Satthadāna:

bố thí vũ khí sát sanh.
7- Visadāna:

bố thí thuốc độc sát sanh.
8- Sankhālikādāna:

bố thí xiềng xích, gông cùm.
9- Kukkuṭasūkāradāna:

bố thí gà heo để làm thịt.
10- Tulākūṭamānakūṭadāna:

bố thí cân thiếu (trọng lượng), thước đo
thiếu.

Những vật bố thí trên làm cho người
thọ thí phải phạm giới, phát sanh phiền não, ác pháp, thiện pháp không thể phát
sanh. Như vậy, dầu thí chủtác ý tốt như thế nào, sự thật những vật thí đem
lại sự tai hại cho người thọ thí, thì sự bố thí ấy chắc chắn không phải tạo nên
phước thiện, chỉ tạo nên tội lỗi ác nghiệp mà thôi.
Do đó, thí chủ phải chịu khổ kiếp hiện tại; sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho
quả tái sanh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh phải chịu
khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.

Xét về vật bố thí: vàng, bạc, tiền
bạc

Đối với người tại gia vàng, bạc,
tiền bạc là thứ rất cần thiết trong cuộc sống, dùng để mua bán trao đổi hàng
hoá hằng ngày. Thí chủ đem vàng, bạc, tiền bạc bố thí giúp đỡ những người tại
gia
với nhauviệc làm phước thiện.

Đối với hàng xuất giaSa di, Tỳ
khưu thì vàng, bạc, tiền bạc là thứ không hợp với giới luật của Sa di, Tỳ khưu
Đức Phật đã chế định như:

– Trong Sa di thập giới, giới thứ
10, Đức Phật chế định ban hành rằng:

“Jātarūpa – rajata –
paṭiggahanā veramaṇi-sikkhāpadaṃ samādiyāmi”.
“Con xin thọ trì điều học là tác ý tránh xa sự thọ nhận vàng, bạc”.

Đức Phật đã chế định ban hành đến
cho tất cả Sa di, Sa di phải nghiêm chỉnh thực hành theo, không được phạm giới,
phá giới.

Nếu Sa di nào thọ nhận vàng, bạc,
tiền bạc, Sa di ấy phạm giới thứ 10 của Sa di.

– Trong Bhikkhupātimokkha, Tỳ khưu
giới gồm có 227 điều học, trong phần 30 giới Nissaggiya pācittiya, điều giới
thứ 18 Đức Phật chế định ban hành rằng:

18- “Yo pana bhikkhu jātarūpa rajataṃ uggaṇheyya vā
uggaṇhāpeyya vā upanikkhittaṃ vā sādiyeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ”.

“Tỳ khưu nào tự mình thọ nhận
vàng, bạc (tiền bạc) hoặc sai người thọ nhận vàng, bạc, hoặc hài lòng hoan hỉ
vàng, bạc (tiền bạc) cất giữ dành cho riêng mình, Tỳ khưu ấy phạm giới
pācittiya, cần phải xả bỏ vàng, bạc (tiền bạc) ấy”.

19- “Yo pana bhikkhu nānappakārakaṃ rūpiyasaṃvohāraṃ
samāpajjeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ”.

“Tỳ khưu nào dùng tiền bạc
(vàng, bạc) mua sắm thứ vật dụng nào, Tỳ khưu ấy phạm giới pācittiya, cần phải
xả bỏ thứ vật dụng ấy”.

20- “Yo pana bhikkhu nānappakārakaṃ kayavikkhayaṃ
samāpajjeyya, nissaggiyaṃ pācittiyaṃ”.

“Tỳ khưu nào mua bán, trao đổi,
Tỳ khưu ấy phạm giới pācittiya, cần phải xả bỏ thứ vật dụng ấy”.

[Bhikkhupātimokkhapāḷi, phần
Nissaggiya pācittaya]

Đức Phật đã chế định giới điều và
ban hành đến tất cả Tỳ khưu, Tỳ khưu cần phải nghiêm chỉnh hành theo, không
được phạm giới, phá giới.

Trường hợp phạm giới – cách sám hối

Nếu vị Tỳ khưu nào thọ nhận vàng,
bạc (tiền bạc) riêng cho mình; trước tiên, cần phải xả bỏ vàng, bạc (tiền bạc)
ấy, đúng theo cách thức mà Đức Phật đã chế định trong giới luật của Tỳ khưu;
sau đó, vị Tỳ khưu ấy mới được phép sám hối với một vị Tỳ khưu khác không có
sabhāgāpatti [*] theo cách phạm giới pācittiya. Sau khi làm lễ sám hối xong, vị
Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

[*]
Sabhāgāpatti: Hai vị Tỳ khưu phạm giới có cùng đối tượng như nhau.Ví dụ: một vị
giết muỗi, một vị giết kiến, hai vị Tỳ khưu này đều phạm giới pācittaya, không
được phép sám hối với nhau.

Nếu vị Tỳ khưu nào dùng tiền bạc mua
sắm thứ vật dụng nào dùng cho mình; trước tiên, cần phải xả bỏ thứ vật dụng ấy,
đúng theo cách thức mà Đức Phật đã chế định trong giới luật của Tỳ khưu; sau
đó, vị Tỳ khưu ấy mới được phép sám hối với một vị Tỳ khưu khác không có
sabhāgāpatti theo cách phạm giới pācittiya. Sau khi làm lễ sám hối xong, vị Tỳ
khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

Nếu vị Tỳ khưu nào mua bán, trao thứ
vật dụng đổi không hợp với giới luật của Tỳ khưu; trước tiên, cần phải xả bỏ
thứ vật dụng ấy, đúng theo cách thức mà Đức Phật đã chế định trong giới luật
của Tỳ khưu; sau đó, vị Tỳ khưu ấy mới được phép sám hối với một vị Tỳ khưu
khác không có sabhāgāpatti theo cách phạm giới pācittiya. Sau khi làm lễ sám
hối
xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

Trong giới luật Tỳ khưu, vị Tỳ khưu
nào dùng tiền bạc mua sắm một thứ vật dụng nào dùng cho mình, thứ vật dụng ấy
vật làm cho phạm giới, không chỉ vị Tỳ khưu ấy không được phép
sử dụng, mà còn các vị Tỳ khưu khác cũng không được phép sử dụng; thậm chí đem
cho thứ vật dụng ấy đến vị Sa di, thì vị Sa di ấy cũng không được phép sử dụng
nữa.

Như vậy, những thứ vàng, bạc, tiền
bạc , vật dụng nào là vật làm cho phạm giới Tỳ khưu, Tỳ khưu cần
phải
xả bỏ những thứ ấy đúng theo cách thức của mỗi vật, mà Đức Phật đã chế
định trong giới luật của Tỳ khưu. Nếu vị Tỳ khưu nào không chịu xả bỏ thứ vật dụng
ấy, thì dầu cho vị Tỳ khưu ấy có sám hối āpatti bao nhiêu lần đi nữa cũng không
thể thoát khỏi āpatti (phạm giới).

Tai hại của sự phạm giới

Vị Tỳ khưu nào phạm giới: dầu giới
nặng hay nhẹ, như giới tác ác, giới ác khẩu, thì vị Tỳ khưu ấy bị trở ngại cho
sự tiến hóa trong mọi thiện pháp, nhất là trở ngại cho sự tiến hành thiền
định
tiến hành thiền tuệ, trở ngại cho sự chứng đắc
các bậc thiền, Thánh Đạo, Thánh QuảNiết Bàn.

Trong Chú giải dạy:

“Āpannā āpattiyo’ti, sañcicca
vītikkantā satta āpattikkhandhā, sañcicca vītikkantañhi antamaso
dukkaṭadubbhāsitampi saggamagga-phalānaṃ antarāyaṃ karoti…” [Bộ
Maṅgalatthadīpanī, phần Vinayakathā]

“Āpannā āpattiyo’ti”: “Tỳ
khưu đã phạm giới”: nghĩa là Tỳ khưu có tác ý phạm phải 7 loại āpatti
(phạm giới). Sự thật, điều nguy hại đối với Tỳ khưu có
tác ý phạm phải āpatti, dầu chỉ là dukkaṭa āpatti (giới tác ác), dubbhāsita
āpatti (giới ác khẩu) cũng có thể làm trở ngại cho sự tái sanh lên cõi trời dục
giới
, cho sự chứng đắc các bậc thiền định, Thánh Đạo, Thánh Quả…”.

Nếu vị Sa di, Tỳ khưu phạm giới ấy,
chưa sám hối, chưa làm cho giới trở nên trong sạch trước khi chết, sau khi
chết
, do giới không trong sạch, thì khó tránh khỏi bị sa đoạ trong cõi ác giới.

Đức Phật dạy:

“Sāpattikassa bhikkhave nirayaṃ
vā vadāmi tiracchānayoniṃ vā’ti. Sāpattikasseva āpāyagamitā vuttā”. [Bộ
Saraṭṭhadīparūṭīkā , bộ Maṅgalaṭṭhadīpanū]

“Này chư Tỳ khưu, Như Lai răn
dạy các con: đối với Tỳ khưu phạm āpatti (giới) sẽ tái sanh cảnh địa ngục, hoặc
loài súc sanh. Đối với Tỳ khưu phạm āpatti (giới) chỉ có con đường ác giới
thôi”.

Xin dẫn chứng:

Trong bộ Chú giải Pháp cú, tích
Erakapatta-nāgarājavatthu tóm lược như sau:

Trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, một
vị Tỳ khưu trẻ ngồi trên thuyền trong dòng sông Gaṅga, nước chảy xiết, vị Tỳ
khưu ấy nắm bụi cỏ bên bờ sông, làm cho đứt lá cỏ, coi thường không sám hối
āpatti. Sau đó, vị Tỳ khưu ấy một mình hành đạo trong rừng, đến lúc lâm chung
hình ảnh lá cỏ hiện ra như quấn vào cổ, khi ấy, không có vị Tỳ khưu nào để sám
hối
āpatti, tâm hối hận phát sanh nghĩ rằng: “aparisuddhaṃ me sīlaṃ:
giới của mình không trong sạch”, nên sau khi vị Tỳ khưu ấy chết, do
tâm ô nhiễm ấy, tái sanh làm loài súc sanhlong vương Erakapatta, đến thời
kỳ
Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, long vương Erakapatta vẫn chưa
thoát khỏi kiếp súc sanh.

Đức Phật chế định giới điều cấm Sa
di
, Tỳ khưu thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc dành riêng cho mình; nếu vị Sa di, Tỳ
khưu nào thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc riêng cho mình, thì vị Sa di, Tỳ khưu ấy
phải phạm giới, giới không trong sạch.

Nếu Sa di, Tỳ khưu nào phạm giới do
nguyên nhân thọ nhận vàng, bạc, tiền bạc trực tiếp từ thí chủ dâng đến mình,
dẫn đến những tai hại cho đời sống phạm hạnh của Sa di, Tỳ khưu trong kiếp hiện
tại
và kiếp vị lai, thì thử hỏi:


Thí chủ có được phước thiện bố thí thật hay không?


Có phải thí chủ hộ độ Sa di, Tỳ khưu giữ gìn nghiêm chỉnh giới luật của Sa di,
Tỳ khưu mà Đức Phật đã chế định ban hành đến Sa di, Tỳ khưu hay không?


Có phải thí chủ hành đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật hay không?


Có phải thí chủ có bổn phận bảo tồn Phật giáo cho được trường tồn lâu dài trên
thế gian này không?

V.v….

Đó là những vấn đềthí chủ nên có
trí tuệ suy xét đúng đắn, kỹ lưỡng trước khi làm một việc gì.

Làm đúng lời dạy của Đức Phật, thì
có phước.

Làm sai lời dạy của Đức Phật, thì có
tội.

Không làm thì không tạo nghiệp, khi
đã làm rồi, thì đã tạo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp, mà thiện nghiệp hoặc ác
nghiệp
đều do con người có quyền chủ động chọn lựa nên hay không nên.
Nhưng quả của thiện nghiệp, ác nghiệp thì không có quyền chọn lựa, hoàn toàn bị
động
, phải chấp nhận như người thừa kế của nghiệp.

Thiện ghiệp cho quả an lạc.
Ác nghiệp cho quả khổ.

Người Phật tửđức tin trong sạch
nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, chắc chắn
không có một ai muốn hậu quả không tốt sẽ phát sanh đến cho mình và những bậc
thân yêu kính mến của mình. Nhưng một khi đã làm không đúng theo lời dạy của
Đức Phật, đã tạo ác nghiệp rồi, thì dầu muốn dầu không cũng phải chấp nhận quả
của thiện ác nghiệp của mình đã tạo.

Bởi vậy cho nên, người Phật tử cần
phải
nên học hỏi để hiểu biết rõ:

Thế
nào là tạo thiện nghiệp?
Thế nào là tạo ác nghiệp?

Thế
nào là tạo phước thiện?
Thế nào là tạo tội ác?

Nhờ sự hiểu biết đúng đắn, mới có
trí tuệ sáng suốt chọn lựa:

Nên
cố gắng tạo mọi thiện nghiệp, mọi phước thiện.
Nên cố gắng tránh xa mọi ác nghiệp, mọi tội ác….

Thì chắc chắn đem lại sự lợi ích, sự
tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho mình, cho mọi người, mọi chúng sinh…, đồng
thời
duy trì Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự
lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc cho tất cả chúng sinh nhất là chư thiênnhân
loại
.

Biết cách bố thí tạo phước thiện

Phước thiện bố thí tiền bạc dâng
gián tiếp đến Sadi, Tỳ khưu một cách hợp pháp

Thí chủ bố thí dâng tiền bạc trực
tiếp đến cá nhân vị Sa di, vị Tỳ khưu là điều bất hợp pháp,
vì làm cho vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy phải phạm giới.

Trường hợp, người thí chủđức tin
trong sạch nơi cá nhân vị Sa di, vị Tỳ khưu nào, có tác ý thiện tâm muốn làm
phước hộ độ 4 thứ vật dụng cần thiết đặc biệt đến vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy;
nhưng tự mình không có điều kiện mua sắm những thứ vật dụng cần thiết làm phước
bố thí trực tiếp dâng đến vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy; thí chủ có thể làm phước
thiện
bố thí bằng một số tiền theo cách gián tiếp.
Trước tiên, thí chủ trao số tiền ấy cho người trung gian “người hộ
Tăng”
(Veyyāvaccakara), có phận sự lo công việc giúp đỡ hộ
độ Sa di, Tỳ khưu trong chùa, nhờ người hộ Tăng thay mặt mình lo mua sắm thứ
vật dụng cần thiết để làm phước bố thí dâng đặc biệt đến cá nhân vị Sa di, vị
Tỳ khưu ấy. Sau đó, thí chủ đến bạch cho vị Sa di, Tỳ khưu ấy biết rõ rằng:

Kính bạch Sư (Đại Đức), con có gởi
một số tịnh tài (tiền) nhờ người hộ Tăng “tên A” thay mặt con tìm
những thứ vật dụng cần thiết dâng đến Sư (Đại Đức), khi nào Sư (Đại Đức) cần
đến thứ vật dụng nào, xin thỉnh Sư đến gặp người hộ Tăng “tên A” ấy,
nhờ người ấy đi tìm thứ vật dụng ấy dâng đến Sư (Đại Đức).

Điều này đã được Đức Phật cho phép
trong giới thứ 10 trong phần 30 điều giới Nisssaggiya pācittiya.

Trong điều giới này, thí chủ muốn
làm phước dâng một thứ vật dụng nào, bằng một số tiền tương đương, đến riêng
nhân
vị Tỳ khưu nào, vị Tỳ khưu ấy phải từ chối bằng khẩuthân,
không được phép thọ nhận trực tiếp số tiền ấy, cũng không sai bảo người khác
nhận cho mình. Nếu người thí chủ hỏi để biết người hộ Tăng, thì vị Tỳ khưu ấy
có thể giới thiệu cho thí chủ được biết người hộ Tăng ấy. Điều trước
tiên
,
thí chủ trực tiếp đến gặp người hộ Tăng và gởi số tiền, nhờ mua
sắm giùm thứ vật dụng ấy. Sau đó, thí chủ đến bạch cho vị Tỳ khưu
ấy biết. Khi nào vị Tỳ khưu ấy cần đến thứ vật dụng ấy, có thể đến gặp người hộ
Tăng bảo rằng: Sư cần đến thứ vật dụng ấy. Người hộ Tăng đi tìm
mua sắm thứ vật dụng ấy thay mặt thí chủ làm phước dâng đến vị Tỳ khưu ấy, thuộc
về cá nhân thí, nên phước thiện bố thí được nhiều hay ít, tuỳ thuộc vào người
thọ thí có giới đức trong sạch hay không trong sạch. Đó là việc làm hợp với
giới luật của Đức Phật đã ban hành.

Phước thiện bố thí tiền bạc dâng
trực tiếp đến chư Tỳ khưu Tăng

Thí chủđức tin trong sạch đến
chư Tỳ khưu Tăng, có tác ý thiện tâm muốn làm phước hộ độ 4 thứ vật dụng cần
thiết
đến chư Tỳ khưu Tăng. Thí chủ ấy có thể làm phước bố thí dâng một số tiền
trực tiếp đến chung cho chư Tỳ khưu Tăng (không riêng cho
nhân
vị Tỳ khưu nào),
để lo mua sắm những thứ vật dụng cần thiết đến chư Tỳ
khưu Tăng. Vị Đại Đức đại diện chư Tỳ khưu Tăng có thể trực tiếp nhận số
tiền ấy bằng khẩu
(lời nói), nhưng không nên thọ nhận trực tiếp
tiền bạc bằng thân [*], vì tiền bạc là vật mà Tỳ khưu không nên đụng
chạm.
Do đó, vị Đại Đức gọi người hộ Tăng cất giữ số tiền bạc ấy, và đi
mua sắm những thứ vật dụng dâng chung đến chư Tỳ khưu Tăng.

[*]
Tiền bạc, vàng, bạc, các đồ châu báu là những vật mà Tỳ khưu đụng chạm vào bị
phạm giới dukkaṭa; nếu thọ nhận riêng cho mình thì phạm giới pācittiya, cần
phải
xả bỏ.

Thí chủ biết cách làm phước thiện bố
thí
đến chư Tỳ khưu Tăng, thuộc về Tăng thí, chắc chắnphước thiện vô lượng,
và có quả báu của phước thiện vô lượng kiếp.

* Phước thiện bố thí tiền bạc cúng
dường
Tam bảo

Thí chủđức tin trong sạch nơi
Tam bảo, có tác ý thiện tâm muốn dâng một số tiền, để cúng dường Tam bảo.

Cúng dường Phật bảo: xây cất chánh
điện
để tôn thờ Đức Phật, tu sửa chánh điện, v.v….

Cúng dường Pháp bảo: ấn hành kinh
sách, để truyền bá giáo pháp của Đức Phật.

Cúng dường Tăng bảo: hộ độ 4 thứ vật
dụng
cần thiết như: y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu
Tăng.

Vị Sa di, vị Tỳ khưu nào theo pháp
học, nên mua sắm sách, vở … dâng đến vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy.

Vị Sa di, vị Tỳ khưu nào theo pháp
hành
, nên hộ độ đặc biệt y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến vị Sa di,
vị Tỳ khưu ấy.

Nếu vị Sa di, vị Tỳ khưu bị lâm
bệnh
, nên hộ độ đặc biệt cứu chữa cho vị Sa di, vị Tỳ khưu ấy mau khỏi bệnh.

Thí chủđức tin trong sạch, có
tác ý thiện tâm dâng tiền bạc dầu ít dầu nhiều tuỳ theo khả năng của mình cúng
dường
Tam bảo, chắc chắnphước thiện bố thí vô lượng, có quả báu của phước
thiện
vô lượng kiếp.

Như vậy, thí chủ có thể làm phước
thiện
bố thí dâng một số tiền trực tiếp đến vị Đại Đức trụ trì chùa, hoặc một
vị Đại Đức đại diện chư Tỳ khưu Tăng thọ nhận trực tiếp bằng khẩu
(lời nói), nhưng không nên thọ nhận trực tiếp tiền bạc bằng thân. Vị Đại
Đức
ấy gọi người hộ Tăng trong chùa cất giữ số tiền ấy, để lo phụng sự ngôi Tam
bảo
.

Phật Giáo Tồn Tại

Giáo pháp Đức Phật Gotama của chúng
ta
được tồn tại 5.000 năm trên thế gian, có nghĩa là đến thời điểm đó, Phật
giáo
hoàn toàn bị tiêu hoại, bị mất hẳn. Bởi vì, không còn có người nào học và
hành, hiểu biết về Phật giáo nữa.

Phật giáo đó là pháp học Phật giáo, pháp hành Phật giáo
pháp thành Phật giáo.
Hoàn toàn thuộc về nội tâm, không có một hình thức
nào.

Thời kỳ Phật giáo phát triển, nhờ
các hàng Phật tử là bậc xuất giatại gia cư sĩ tinh tấn, kiên trì, chăm chỉ
theo học pháp học, thông thuộc Tam tạng, Chú giải bằng ngôn ngữ Pāḷi,
lời giáo huấn của Đức Phật, và thực hành nghiêm chỉnh theo pháp hành giới,
hành định, hành tuệ,
dẫn đến kết quả chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả
Niết Bàn.

Đến thời kỳ Phật giáo suy đồi; do
các hàng Phật tử là bậc xuất gia, và tại gia cư sĩ dần dần chểnh mảng việc theo
học pháp học, giảm dần đức tin, thiếu tinh tấn thực hành theo pháp hành giới,
pháp hành định, pháp hành tuệ. Do đó, A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả
bậc cao bị tiêu hoại từ từ, đến bậc Bất Lai Thánh Đạo – bậc Bất Lai Thánh Quả;
bậc Nhất Lai Thánh Đạo – bậc Nhất Lai Thánh Quả; cho đến cuối cùng bậc Nhập Lưu
Thánh ĐạoNhập Lưu Thánh Quả bậc thấp cũng suy đồi. Theo thời gian, trí tuệ
kém dần, số hành giả tiến hành thiền tuệ không còn đúng theo Pháp hành Trung
đạo
, do đức tin giảm dần, nên việc gìn giữ giới không hoàn toàn
trong sạch.

Sự tiêu hoại về pháp học Phật giáo,
bắt đầu tiêu hoại Vi diệu pháp tạng bằng ngôn ngữ Pāḷi, còn Kinh tạngLuật
tạng
, thì Phật giáo vẫn còn tồn tại.

Đến khi tiêu hoại Kinh tạng bằng
ngôn ngữ Pāḷi, còn Luật tạng, thì Phật giáo vẫn còn tồn tại.

Đến khi Luật tạng tiêu hoại dần, chỉ
còn hình thức Tỳ khưu mặc y màu lỏi mít, khi ấy Phật giáo vẫn còn tồn tại.

Cho đến khi hình thức chỉ còn một
miếng vải màu y quấn nơi cổ hoặc cột cổ tay, vẫn còn nghe gọi tên “Tỳ
khưu”, khi ấy Phật giáo vẫn còn tồn tại. Cho đến không còn miếng vải màu
y, cũng không còn ai gọi đến tên “Tỳ khưu” nữa, lúc ấy, thật sự Phật
giáo
hoàn toàn tiêu hoại trên thế gian. Như vậy, Luật tạng là nền tảng căn bản
của Phật giáo.

Trong Chú giải Luật tạng dạy:

“Vinayo nāma Buddhasāsanassa
āyu
Vinaye ṭhite, sāsanaṃ ṭhitaṃ hoti”.

[Vinayapiṭaka aṭṭhakāthā,
Parājikakaṇṇānidāna]

“Luật tạng là tuổi thọ Phật
giáo
,
Khi Luật tạng được trường tồn,
Thì Phật giáo được trường tồn”.

Cho nên, công việc bảo tồn Phật giáo
là phận sự chung của các hàng Phật tử: bậc xuất gia và hàng tại gia cư sĩ.

Phật giáo được phát triển hay suy
đồi
chính là do bên trong các hàng Phật tử; còn bên ngoài, người ngoài chắc
chắn
không thể làm cho Phật giáo được phát triển hoặc suy đồi.

Vậy, muốn cho pháp học Phật
giáo
được phát triển, mỗi người Phật tử cần phải học hỏi nghiên cứu,
hiểu rõ đúng đắn theo Tam tạngChú giải bằng ngôn ngữ Pāḷi, lời giáo huấn của
Đức Phật và động viên khuyến khích người khác cũng học như vậy.

pháp hành Phật giáo
được phát triển, mỗi người Phật tử cần phải gìn giữ giới cho được trong sạch,
tinh tấn tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ đúng theo Pháp hành Trung
đạo
, và động viên khuyến khích người khác cũng hành như vậy.

Như vậy, Phật giáo có thể phát triển
nơi người Phật tử này, lại có thể suy đồi nơi người Phật tử khác.

Phật giáo có thể phát triển nơi này,
lại có thể suy đồi nơi khác.

Phật giáo có thể phát triển nơi dân
tộc này, lại có thể suy đồi nơi dân tộc khác.

Cho đến khi Phật giáo không còn tồn
tại
nơi người nào cả, nơi dân tộc nào cả, khi ấy mới gọi là Phật giáo hoàn toàn
tiêu hoại trên thế gian.

Giáo pháp của Đức Phật Gotama trường
tồn
5.000 năm trên thế gian. Như vậy, đến nay đã trải qua 2.546 năm rồi, phần
thời gian còn lại 2.454 năm nữa. Cho nên, chúng ta nhận thấy Phật giáo đang suy
đồi
nơi một số người này, một dân tộc này, đó cũng là việc bình thường tự
nhiên
. Điều tốt hơn hết, mỗi người trong chúng ta, ai cũng có tâm niệm đúng đắn
rằng: “Phật giáo đang hiện hữu trong tôi, tôi cố gắng tinh tấn, kiên
trì
làm cho Phật giáo được phát triển”.

Như vậy, Phật giáo được trường tồn
sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an vui cho tất cả chúng sinh, nhất là
chư thiênnhân loại.

Bố
Thí
Mong Cầu Siêu Tam Giới

Làm phước thiện bố
thí
, vật thí dầu ít, dầu nhiều cũng tốt, điều quan trọng tác ý thiện tâm hoan
hỉ
trước khi bố thí, đang khi bố thí và sau khi bố thí, cả ba giai đoạn thí chủ
đại thiện tâm trong sạch hoan hỉ chắc chắn phước thiện nhiều, có quả báu
nhiều, nhất là sau khi bố thí xong, tâm niệm tưởng đến phước thiện bố thí ấy,
phước thiện càng tăng trưởng, có quả báu vô lượnglâu dài.

Giai đoạn đang khi
bố thí, tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng đóng vai trò quan trọng quyết định đại
thiện tâm
có hợp trí hay không hợp với trí. Thí chủ có nguyện vọng muốn đạt đến
mục đích cứu cánh Niết Bàn, giải thoát khỏi tử sanh luân hồi, thí chủ nên thành
tâm
đọc bằng lời để cho mọi người nghe rõ chứng minh lời nói ấy.

Trường hợp làm phước
thiện
bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng, chư thí chủ cùng nhau đọc lời thông bạch đến
chư Tỳ khưu Tăng được rõ; hoặc một người hướng dẫn chư thí chủ khác đọc theo.

Lễ Dâng Vật
Thực (Bhattadāna)

Mayaṃ Bhante,
samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ
kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa
sacchikaraṇatthāya, imaṃ saparivāraṃ bhattadānaṃ bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ
dema.

Sādhu no
Bhante, bhikkhusaṃgho imaṃ saparivāraṃ bhattadānaṃ paṭiggaṇhātu, amhākaṃ
dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya.

Chư Tỳ khưu Tăng
đồng nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư
Đại Đức Tăng được rõ:

Tất cả chúng
con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Đức Phật, Đức
Pháp, Đức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ
Niết Bàn
, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành
kính
làm lễ dâng đến chư Tỳ khưu Tăng những món vật thực cùng với các thứ vật
dụng
này.

Kính bạch chư
Đại Đức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận những món vật thực cùng
với các thứ vật dụng này, để cho tất cả chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa,
sự an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng
đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Chư thí chủ tự tay
mình dâng những vật thực cùng với mọi vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng. Sau khi đã
dâng xong, trở lại chỗ ngồi, mỗi người thành tâm phát nguyện:

Idaṃ me dānaṃ
āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước
thiện
bố thí thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Đạo
A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ
hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước
thiện
bố thí thanh cao này, được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng
con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ
puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema,
sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành
tâm
chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng
quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả
quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ,
được an lạc lâu dài.

Lễ Dâng Y Tắm
Mưa (vassikasāṭikadāna)

Mayaṃ Bhante,
samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ
kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa
sacchikaraṇatthāya, imāni sapari-vārāni vassikasāṭikadānāni …. (Bửu Long)…
ārāme bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ damma.

Sādhu no
Bhante, bhikkhusaṃgho imāni saparivārāni vassikasāṭikadānāni paṭiggaṇhātu,
amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya, hitāya, sukhāya.

Chư Tỳ khưu Tăng
đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư
Đại Đức Tăng được rõ:

Tất cả chúng
con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Đức Phật, Đức
Pháp, Đức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ
Niết Bàn
, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành
kính
làm lễ dâng những y tắm mưa cùng với các thứ vật dụng này đến chư Tỳ khưu
Tăng sẽ nhập hạ tại ngôi chùa….. (Bửu Long) …. .

Kính bạch chư
Đại Đức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận những y tắm mưa cùng với
các thứ vật dụng này, để cho tất cả chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự
an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng
đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Những thí chủ tự
tay mình dâng y tắm mưa, cùng những thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư thí
chủ
trở lại chỗ ngồi của mình, mỗi người thành tâm phát nguyện rằng:

Idaṃ me dānaṃ
āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước
thiện
bố thí thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Đạo
A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ
hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước
thiện
bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng
con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ
puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema,
sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành
tâm
chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng
quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả
quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ,
được an lạc lâu dài.

Lễ Dâng Y
Kathina (Kathinacīvaradāna)

Mayaṃ Bhante,
samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ
kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa
sacchikaraṇatthāya, imaṃ sapari-vāraṃ kathinacīvaraṃ …. (Bửu Long) … ārāme
bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ damma, kathinaṃ attharituṃ.

Sādhu no
Bhante, bhikkhusaṃgho imaṃ saparivāraṃ kathinacīvaraṃ paṭiggaṇhātu,
paṭiggaṇhitvā iminā kathinacīvarena kathinaṃ attharatu, amhākaṃ dīgharattaṃ
atthāya, hitāya, sukhāya.

Tất cả chư Tỳ khưu
đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư
Đại Đức Tăng được rõ:

Tất cả chúng
con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Đức Phật, Đức
Pháp, Đức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ
Niết Bàn
, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành
kính
làm lễ dâng y kathina cùng với các thứ vật dụng này, đến chư Tỳ khưu Tăng
đã an cư nhập hạ suốt ba tháng tại ngôi chùa……… (Bửu Long).

Kính bạch chư
Đại Đức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận y kathina cùng với các thứ
vật dụng này, khi quý Ngài thọ nhận xong, xin quý Ngài làm lễ thọ y kathina với
tấm y này, để cho chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng
đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Một thí chủ đại
diện
tự tay đem tấm y Kathina dâng đến chư Tỳ khưu Tăng; vị Đại Trưởng Lão đại
diện
chư Tăng thọ nhận tấm y kathina để làm lễ thọ y kathina đúng theo luật của
Đức Phật đã ban hành.

Sau khi những thí
chủ
dâng tấm y Kathina cùng với những thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng xong,
trở về chỗ ngồi, mỗi người thành tâm phát nguyện rằng:

Idaṃ me
kathinadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước
thiện
dâng y kathina này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Đạo
A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ
hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước
thiện
bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng
con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ
puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema,
sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành
tâm
chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng
quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả
quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ,
được an lạc lâu dài.

Lễ Dâng Chỗ Ở
(Senāsanadāna)

Làm lễ phước thiện
bố thí chỗ ở như chùa, cốc,….

Mayaṃ Bhante,
samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ
kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa
sacchikaraṇatthāya, imaṃ vihāraṃ kappiyakuṭiṃ kārāpetvā āgatānāgatassa
catuddisassa saṃghassa sakkaccaṃ damma, kāyakāyapaṭibaddhehi phusitvā
yathāsukhaṃ paribhuñjatha, amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya.

Tất cả chư Tỳ khưu
Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư
Đại Đức Tăng được rõ:

Tất cả chúng
con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Đức Phật, Đức
Pháp, Đức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ
Niết Bàn
, để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con cho xây
cất một chỗ ở hợp pháp xong rồi, hôm nay, xin thành kính dâng đến chư Tỳ khưu
Tăng tứ phương đã đến và chưa đến.

Kính xin quý
Ngài từ bi tế độ thọ nhận để làm nơi trú ngụ cho thân tâm được an lạc, để cho
tất cả chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Tất cả chư Tỳ khưu
Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Tất cả thí chủ mỗi
người thành tâm phát nguyện bằng lời rằng:

Idaṃ me
vihāradānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Nguyện cầu phước
thiện
bố thí chỗ ở thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Đạo
– A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ
hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước
thiện
bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng
con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ
puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema,
sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành
tâm
chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng
quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả
quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ,
được an lạc lâu dài.

Vật Thí
(Dānavatthu)

Nói chung tất cả
những thứ vật dụng đem boá thí đều gọi là Dānavatthu, lời dâng Dānavatthu như
sau:

Mayaṃ Bhante,
samasaddhā samachandā samacittā saṅgamma, Buddhaṃ, Dhammaṃ, Saṃghañceva kammaṃ
kammaphalañca sadda-hitvā, saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya, Nibbānassa
sacchikaraṇatthāya, imāni dāna-vatthūni bhikkhusaṃghassa sakkaccaṃ damma.

Sādhu no
Bhante, bhikkhusaṃgho imāni dānavatthūni paṭiggaṇhātu, amhākaṃ dīgharattaṃ
atthāya hitāya sukhāya.

Tất cả chư Tỳ khưu
Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Nghĩa:

Kính bạch chư
Đại Đức Tăng được rõ:

Tất cả chúng
con có đồng đức tin, đồng nguyện vọng, đồng tâm trí, tin nơi Đức Phật, Đức
Pháp, Đức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, có nguyện vọng mong chứng ngộ
Niết Bàn
để giải thoát khổ tử sanh luân hồi, cho nên, tất cả chúng con thành
kính
làm lễ dâng những thứ vật dụng này đến chư Tỳ khưu Tăng.

Kính bạch chư
Đại Đức Tăng, kính xin quý Ngài từ bi tế độ thọ nhận những thứ vật dụng này, để
cho tất cả chúng con được sự tiến hóa, sự lợi ích và sự an lạc lâu dài.

Chư Tỳ khưu Tăng
đồng thanh nói lên lời hoan hỉ: Lành thay! Lành thay! Lành thay!

Những thí chủ tự
tay mình dâng những thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng. Sau khi dâng xong, mỗi
người thành tâm phát nguyện rằng:

Imāni me dānāni
āsavakkhayāvahaṃ hontu.

Nguyện cầu phước
thiện
bố thí thanh cao này, dẫn dắt con chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Đạo
A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân.

Idaṃ no ñātinaṃ
hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Cầu mong phước
thiện
bố thí thanh cao này được thành tựu đến thân bằng quyến thuộc của chúng
con, cầu mong thân bằng quyến thuộc thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ
puññabhāgaṃ mātā-pitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema,
sabbepi te puññapattiṃ laddhāna, sukhitā hontu.

Chúng con thành
tâm
chia phần phước thiện thanh cao này đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân bằng
quyến thuộc, bạn bè cùng tất cả chúng sinh đồng nhau cả thảy, cầu mong tất cả
quý vị hoan hỉ thọ hưởng phần phước thanh cao này rồi, thoát khỏi mọi cảnh khổ,
được an lạc lâu dài.

Những cách bố thí
trên tạo phước thiện làm duyên lành để giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba
giới bốn loài (vivaṭṭupanissitakusala). Khi nào chưa chứng đắc đến Niết
Bàn
giải thoát khổ sanh, khi ấy vẫn còn tử sanh luân hồi trong
tam giới, đều hưởng được quả báu của phước thiện ấy trong cõi người, cõi trời
cuối cùng tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong ba giới bốn
loài
.

Những thí chủ bố
thí
xong rồi đọc lên ý nguyện của mình mong cầu chứng ngộ Niết Bàn, chứng đắc
đến A-ra-hán Thánh Đạo A-ra-hán Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt tất cả mọi
tham ái, mọi phiền não, mọi ác pháp, ngõ hầu mong giải thoát khổ tái sanh
trong ba giới bốn loài, đó là tịch diệt Niết Bàn. Ngày
nào, còn phải tử sanh luân hồi trong tam giới, những thí chủ ấy cũng hưởng được
mọi quả báu của phước thiện bố thí, nên được giàu sang phú quý, có quyền cao
chức trọng, v.v… trong cõi người, cõi trời; nhưng có điều đặc biệt, họ không
say mê trong của cải, sự nghiệp ấy, không tham lam đắm đuối trong ngũ trần, bởi
vì những thứ ấy không phải mục đích cứu cánh chính của họ, cho nên họ dễ dàng
đem làm phước thiện bố thí, hoặc xả bỏ để xuất gia tu hành sớm mong giải thoát khổ
sanh
trong tam giới. Đó là tính ưu việt của những thí chủ đọc lên ý nguyện
mong cầu chứng ngộ Niết Bàn.

NGHIỆP
LỰC

Nghiệp lựcnăng lực của nghiệp hoàn toàn độc lập, không bị chi phối
bởi một oai lực nào khác. Chính nghiệp cho quả phân loại các chúng sinh khác
nhau: lớn hoặc nhỏ, cao thượng hoặc thấp hèn, bậc Thiện trí hoặc kẻ si mê,
v.v…, tạo ra cảnh giới tái sanh khác nhau trong tam giới, gồm có 31 cõi.

Nghiệp ấy chính là tác ý (cetanā).

Tác ý (cetanā) tạo thành
nghiệp thường trải qua ba thời kỳ:

1- Tác ý
trước khi tạo nghiệp.
2- Tác ý đang khi tạo nghiệp.
3- Tác ý sau khi đã tạo nghiệp xong.

Mỗi thời kỳ tác ýtính chất đặc
biệt
của nó.

Tác Ý Tạo Thiện Nghiệp

A. Tính chất đặc biệt tác ý thiện
tâm
đang khi bố thí

Sự thành tựu phước thiện bố thí do tác
ý
thiện tâm đang khi bố thí
đóng vai trò quan trọng, phân chia hai loại
thiện tâm:

1- Thiện
tâm
tam nhân (tihetukakusala).
2- Thiện tâmnhị nhân (dvihetukakusala).

Làm thế nào được thiện tâm có tam
nhân?

Nếu thí chủtác ý thiện tâm đang
khi
tạo phước thiện bố thí hợp với trí tuệ biết rõ nghiệp là của riêng
mình (kammassakatañāṇa), thì phước thiện bố thí ấy hợp đủ tam
thiện nhân
(vô tham, vô sân, vô si = trí tuệ), gọi là
tihetukakusala: thiện tâmtam nhân, đó là dục giới đại thiện tâm
hợp với trí tuệ.

Làm thế nào được thiện tâm có nhị
nhân?

Nếu thí chủtác ý thiện tâm đang
khi
tạo phước thiện bố thí không hợp với trí tuệ hiểu biết nghiệp là của
riêng
mình, thì phước thiện bố thí ấy chỉ có nhị thiện nhân (
tham
, vô sân),
gọi là dvihetukakusala: thiện tâmnhị nhân, đó là dục
giới
đại thiện tâm không hợp với trí tuệ.

B. Tính chất đặc biệt tác ý thiện
tâm
trước và sau khi đã bố thí

Tác ý thiện tâm trước khi bố thí
tác ý thiện tâm sau khi đã bố thí có tầm quan trọng phân chia hai loại thiện
tâm
:

1- Thiện
tâm
bậc cao (ukkaṭṭhakusala).
2- Thiện tâm bậc thấp (omakakusala).

Thiện tâm bậc cao là thế nào?

Với đức tin trong sạch muốn tạo
phước thiện bố thí, thí chủtác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi tạo
phước thiện bố thí, và thiện tâm trong sạch hoan hỉ sau khi đã thành tựu phước
thiện
bố thí. Do năng lực tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ cả hai thời kỳ ấy,
nên thí chủ có được thiện tâm bậc cao.

Tác ý thiện tâm trong sạch trước khi
làm phước thiện bố thí,
nghĩa là
thí chủthiện tâm trong sạch hoan hỉ lo sắm sửa đầy đủ những thứ vật dụng bố
thí
, thứ nào cũng hài lòng với khả năng của mình, mọi công việc đều chuẩn bịsẵn sàng chờ đến ngày làm lễ bố thí như đã dự định. Trong suốt thời gian chờ
đợi mỗi khi nghĩ đến cuộc lễ làm phước thiện bố thí ấy, không có ác pháp nào
phát sanh xen vào làm cho tâm ô nhiễm, buồn lo khổ tâm, mà chỉ có thiện tâm
trong sạch, hoan hỉ phước thiện bố thí ấy sẽ tạo sau này. Đó gọi là tác ý
thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi tạo phước thiện bố thí.

tác ý thiện tâm trong sạch
hoan hỉ sau khi đã tạo phước thiện bố thí,
nghĩa là thí chủ sau khi đã
thành tựu phước thiện bố thí xong rồi, mỗi khi nhớ, hoặc thường niệm tưởng lại
phước thiện bố thí ấy thành đề mục thiền định cāgānussati: đề mục niệm tưởng
phước thiện bố thí,
phát sanh thiện tâm trong sạch hoan hỉ, không có ác
pháp
phát sanh xen vào làm cho tâm bị ô nhiễm, hối tiếc, buồn khổ, mà chỉ có
thiện tâm trong sạch phát sanh hoan hỉ việc phước thiện bố thí ấy được thành
tựu
tốt lành theo nguyện vọng của mình; xem đó là một cơ hội tốt lành đối với
mình, có được duyên lành tạo được phước thiện bố thí ấy, trong cuộc đời của
mình. Đó gọi là tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ sau khi đã thành tựu
phước thiện bố thí
.

Do năng lực tác ý thiện tâm trong
sạch
hoan hỉ trước khi tạo phước thiện và sau khi đã tạo phước thiện làm cho thiện
tâm
tam nhân hoặc thiện tâm nhị nhân trở thành thiện
tâm
bậc cao (ukkaṭṭhakusala).

Thiện tâm bậc thấp là thế nào?

Thí chủtác ý thiện tâm trước khi
tạo phước thiện bố thítác ý thiện tâm sau khi đã thành tựu phước thiện bố
thí
, cả hai thời kỳ không hoàn toàn trong sạch, vì có ác pháp phát sanh làm cho
tâm bị ô nhiễm, nên thí chủ có được thiện tâm bậc thấp.

Trường hợp, thí chủ không có đức tin
trong sạch trước khi làm phước thiện bố thí, vì có người đến động viên khuyến
khích làm phước thiện bố thí, vì kính nể nên làm theo, nếu không làm sợ người
ta chê trách. Do đó, tác ý thiện tâm trước khi tạo phước thiện bố thí tâm
không
hoàn toàn trong sạch,
thậm chí còn có ác pháp xen vào làm cho tâm bị
ô nhiễm nữa.

Và sau khi làm lễ phước thiện bố thí
xong, tâm không hoan hỉ, lại còn hối tiếctốn kém tiền bạc nên ác pháp chen
vào làm cho tâm bị ô nhiễm. Do đó, tác ý thiện tâm sau khi tạo phước thiện
bố thí xong, tâm không hoàn toàn trong sạch.

Do hai nguyên nhân tác ý thiện tâm
trước và sau khi tạo phước thiện bố thí ấy, nên làm cho thiện tâmnhị
nhân
hoặc thiện tâmtam nhân trở thành thiện tâm bậc thấp (omakakusala).

Thật ra, trong hai thời kỳ tác ý:
tác ý thiện tâm trước khi tạo phước thiện bố thítác ý thiện tâm sau khi đã
thành tựu phước thiện bố thí ấy; trong 2 tác ý ấy, chỉ có tác ý thiện tâm sau
khi đã thành tựu đóng vai trò quan trọng, chỉ định thiện tâm bậc cao hoặc
thiện tâm bậc thấp;
bởi vì, tác ý thiện tâm này phát sanh sau khi đã hoàn
thành
phước thiện bố thí. Do đó, tác ý thiện tâm không trong sạch trước khi bố
thí
, nhưng tác ý thiện tâm trong sạch sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí,
thì phước thiện ấy trở thành thiện tâm bậc cao; tác ý thiện tâm trong
sạch
trước khi tạo phước thiện bố thí, nhưng tác ý thiện tâm không trong sạch
sau khi đã thành tựu phước thiện bố thí, phước thiện ấy trở thành thiện tâm
bậc thấp.

Năng Lực Của Tác Ý (Cetanā)

Tác ý đóng vai trò tạo nghiệp, như
Đức Phật dạy:

“Cetanā’haṃ bhikkhave kammaṃ
vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā…”.
[Bộ Aṅguttaranikāya, phần Chakkanipāta, kinh Nibbedhikasutta]

“Này chư Tỳ Khưu, Như Lai dạy
rằng tác ý là nghiệp, sau khi nghĩ xong, mới hành động bằng thân, khẩu và
ý”.

Tác ý thuộc về tâm sở (cetanācetasika)
đồng sanh trong tất cả 89 hoặc 121 tâm. Song tác ý gọi là nghiệp thì chỉ có tác
ý
đồng sanh với 12 tâm bất thiện, 8 đại thiện tâm, 5 sắc giới thiện tâm, 4
sắc giới
thiện tâm và 4 hay 20 Thánh Đạo tâm. Hay nói cách khác, tác ý đồng
sanh với 12 bất thiện tâm và 21 hay 37 thiện tâm; những tác ý ấy
được gọi là nghiệp. Ngoài ra, tác ý đồng sanh với 36 hoặc 53 quả
tâm và 20 duy tác tâm, những tác ý ấy không gọi là nghiệp.

Tác ý có 2 loại:

A- Tác ý bất thiện (akusalacetanā)

Tác ý bất thiện đồng sanh với 12 bất
thiện
tâm, nên tạo 12 bất thiện nghiệp hay ác nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng
ý, có 3 loại nghiệp:

1- Thân
ác nghiệp
có 3 loại: sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
2- Khẩu ác nghiệp có 4 loại: nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời
thô tục
, nói lời vô ích.
3- Ý ác nghiệp có 3 loại: tham lam, thù hận, tà kiến.

Đó là 10 ác nghiệp cho quả khổ ở
kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

Ác nghiệp trong 12 bất thiện tâm cho
quả 2 thời:

Thời kỳ tái sanh: 11 bất thiện tâm (trừ si tâm hợp với phóng tâm) chỉ cho 1
quả bất thiện vô nhân tâm gọi là suy xét tâm (santīraṇacitta)
đồng sanh với xả thuộc vô nhân tâm, tái sanh trong 4 cõi ác giới: địa
ngục
, atula, ngạ quỷ, súc sanh, chịu khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.

Thời kỳ sau khi tái sanh: sau khi tái sanh làm chúng sinh
trong cõi ác giới, hoặc đã sanh làm người [*]; 12 bất thiện tâm này có thể cho
7 quả bất thiện thuộc vô nhân tâm như:

1- Nhãn
thức
tâm
nhìn thấy những sắc trần, hình dáng không đáng hài lòng.
2- Nhĩ thức tâm nghe những thanh trần, âm thanh không đáng hài lòng.
3- Tỷ thức tâm ngửi những hương trần, các mùi không đáng hài lòng.
4- Thiệt thức tâm nếm những vị trần, các loại vị không đáng hài lòng.
5- Thân thức tâm tiếp xúc những xúc trần, không đáng hài lòng.
6- Tiếp nhận tâm, tiếp nhận những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc,
không đáng hài lòng.
7- Suy xét tâm, suy xét những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc,
không đáng hài lòng.

[*] Tái
sanh
làm người là quả của thiện nghiệp; nhưng sau khi đã tái sanh làm người,
bất thiện nghiệp có thể cho quả xấu.

7 quả bất thiện vô nhân tâm này biết
những đối tượng không đáng hài lòng, chính là quả của 12 bất thiện tâm, có bất
thiện nghiệp
hay ác nghiệp, mà chính mình đã tạo trong kiếp hiện
tại
,
hoặc đã tạo trong những kiếp quá khứ, chắc chắn không phải do
một ai khác, mà do chính ác nghiệp của mình đến thời kỳ cho quả, không đáng hài
lòng
.

Trong đời sống của mỗi chúng sinh
nói chung, con người nói riêng, chắc chắn đã từng tạo mọi ác nghiệp từ nhiều
đời, nhiều kiếp trong quá khứ cho đến kiếp hiện tại, khi ác nghiệp cho quả
khổ,
chủ nhân của ác nghiệp nên cam tâm nhẫn nại chấp nhận quả khổ,
thì nỗi khổ tâm không phát sanh. Nếu có thái độ không muốn chấp nhận quả khổ
của ác nghiệp do chính mình đã tạo, mà phải thọ hưởng thì làm cho mình càng khổ
tâm
nhiều mà thôi.

Thật ra, công minh mà xét, chắc chắn
không có một ai bỗng dưng đối xử xấu, làm khổ mình được! Quả khổ phải phát sanh
từ nhân, nhân ở đây chính là ác nghiệp, mà mình đã tạo trong quá khứ, nay đến
thời kỳ có cơ hội cho quả, nên xui khiến người khác đối xử xấu, làm khổ mình. Nên
trí tuệ suy xét rằng: “nếu mình không từng tạo ác nghiệp như thế ấy,
thì nay chắc chắn không có một nhân duyên nào xui khiến họ đối xử xấu, làm khổ
mình như thế này”.

Tất cả quả khổ không đáng hài lòng,
chắc chắn do ác nghiệp. Vậy, không muốn quả khổ như vậy, thì chỉ nên tránh xa
mọi ác nghiệp mà thôi.

Được tái sanh làm người chắc chắn do
dục giới thiện nghiệp cho quả, không phải do ác nghiệp. Một khi đã tái sanh
được làm người rồi; ác nghiệp vẫn có cơ hội cho quả khổ. Cho nên, có số người
phải chịu bao nhiêu nỗi khổ đau, cũng chỉ vì ác nghiệp cho quả
thôi, không phải ai muốn làm khổ mình được.

B- Tác ý thiện (kusalacetanā).

Tác ý thiện tạo 4 loại thiện nghiệp:

1- Dục giới thiện nghiệp.

Tác ý thiện đồng sanh với 8
đại thiện tâm, tạo nên dục giới thiện nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, có 3
loại thiện nghiệp:

Thân
thiện
nghiệp
có 3 loại: không sát sanh, không
trộm cắp, không tà dâm, đó là chánh nghiệp.

Khẩu
thiện nghiệp
có 4 loại: không nói dối, mà nói
lời chân thật; không nói lời đâm thọc chia rẽ, mà nói lời hòa thuận; không nói
lời thô tục, mà nói lời êm dịu; không nói lời vô ích, mà nói lời có ích, đó là chánh
ngữ
.

Ý
thiện nghiệp
có 3 loại: không tham lam, mà hay
bố thí; không thù hận, mà có tâm từ; không tà kiến, mà có chánh kiến.

Đó là 10 thiện nghiệp cho quả an lạc
trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai.

Tác ý thiện đồng sanh với 8
đại thiện tâm tạo nên 10 phước thiện như sau:

Bố
thí
:
đem của cải, sự hiểu biết của mình
đem bố thí, ban bố, phân phát cho người khác, chúng sinh khác với thiện tâm tế
độ
, giúp đỡ.

Giữ
giới
:
giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi
tội ác.

Hành
thiền:
tiến hành thiền định, tiến hành
thiền tuệ, để cho tâm an tịnh, trí tuệ sáng suốt.

Cung
kính
:
cung kính những bậc đáng tôn kính
như: Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, Thầy Tổ, ông bà, cha mẹ, người cao tuổi….

Giúp
đỡ:
giúp đỡ mọi người, chúng sinh với
thiện tâm.

Hồi
hướng
:
hồi hướng phần phước thiện của mình
đã tạo đến những người khác, chúng sinh khác.

Hoan
hỉ
:
hoan hỉ phần phước thiện của người
khác hồi hướng hoặc chia phước đến cho mình.

Thuyết
pháp
:
thuyết giảng chánh pháp tế độ người
thoát khỏi cảnh khổ.

Nghe
pháp
:
lắng nghe chánh pháp, hành theo
chánh pháp để giải thoát cảnh khổ.

Chánh
kiến
:
trí tuệ thấy đúng thực tánh của các
pháp.

Đó là 10 phước thiện cũng thuộc về
dục giới thiện nghiệp; dục giới thiện nghiệp này cho quả trong kiếp hiện tại
nhiều kiếp vị lai.

Dục giới thiện nghiệp trong 8 dục
giới
đại thiện tâm cho quả 2 thời:

Thời kỳ tái sanh: 8 dục giới đại thiện tâm cho 9 loại quả tâm: 8
dục giới đại quả tâm
1 quả thiện vô nhân tâm gọi là suy xét
tâm đồng sanh với xả,
làm phận sự tái sanh cõi người và 6 cõi trời dục
giới
, hưởng mọi sự an lạc do thiện nghiệp của mình đã tạo.

Thời kỳ sau tái sanh: Dục giới thiện nghiệp cho quả thời kỳ sau khi đã tái sanh
làm người, được tiếp nhận những đối tượng đáng hài lòng như:

Nhãn
thức
tâm
nhìn thấy những sắc trần, hình dáng đáng hài lòng.
Nhĩ thức tâm nghe những thanh trần, âm thanh đáng hài lòng.
Tỷ thức tâm ngửi những hương trần, các mùi đáng hài lòng.
Thiệt thức tâm nếm những vị trần, các loại vị đáng hài lòng.
Thân thức tâm tiếp xúc những xúc trần đáng hài lòng.
Tiếp nhận tâm, tiếp những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc đáng
hài lòng.
Suy xét tâm, suy xét những đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc đáng
hài lòng, v.v….

Những quả thiện vô nhân tâm này biết
những đối tượng đáng hài lòng chính là quả của dục giới đại thiện tâmthiện
nghiệp
, mà chính mình đã tạo trong kiếp hiện tại, hoặc đã tạo trong những kiếp
quá khứ; chắc chắn không phải do một ai khác, mà do chính thiện nghiệp của mình
đến thời kỳ cho quả.

Công minh mà xét, chắc chắn không có
ai bỗng dưng đối xử tốt với mình, giúp đỡ, phục vụ tận tình với mình…, nên có
chánh kiến thấy đúng, hiểu đúng về nghiệp là của riêng mình rằng: đó chẳng qua
thiện nghiệp của mình đã tạo đến thời kỳ cho quả có năng lực xui khiến mọi
người
đối xử tốt với mình, phục vụ tận tình như vậy. Nếu mình đã không từng tạo
thiện nghiệp, thì chắc chắn không có nhân duyên nào xui khiến mọi người đối xử
tốt với mình được.

Tất cả mọi quả an lạc đáng hài lòng,
chắc chắn là do từ thiện nghiệp. Muốn được an lạc, thì chỉ nên cố gắng tạo mọi
thiện nghiệp mà thôi.

2- Sắc giới thiện nghiệp.

Tác ý thiện đồng sanh với 5 bậc sắc giới thiện tâm, tạo nên 5 bậc saéc
giới thiện nghiệp cho quả an lạc trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai, cho quả
thời kỳ tái sanh 16 cõi trời sắc giới.

5 bậc sắc giới thiện tâm cho quả 5
bậc sắc giới quả tâm.

Thiền sắc giới có 5 bậc, bậc thiền
thiện tâm nào cho quả theo bậc thiền quả tâm ấy, tương xứng với nhau:

Đệ nhất thiền sắc giới thiện tâm cho
quả đệ nhất thiền sắc giới quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong 3 cõi trời
của đệ nhất thiền sắc giới.

Đệ nhị thiềnđệ tam thiền sắc
giới
thiện tâm cho quả đệ nhị thiền, đệ tam thiền sắc giới quả tâm, tái sanh
làm phạm thiên trong 3 cõi trời của đệ nhị thiền sắc giới.

Đệ tứ thiền sắc giới thiện tâm cho
quả đệ tứ thiền sắc giới quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong 3 cõi trời của
đệ tam thiền sắc giới.

Đệ ngũ thiền sắc giới thiện tâm cho
quả đệ ngũ thiền sắc giới quả tâm, tái sanh làm phạm thiên trong 7 cõi trời của
đệ tứ thiền sắc giới.

Cõi trời sắc giới gồm có 16 cõi, tái
sanh
lên cõi nào tùy theo năng lực của bậc thiền sở đắc của mình, hưởng sự an
lạc
và tuổi thọ lâu dài trong cõi trời ấy.

Chư phạm thiên có thể thấy
nghe,
chiêm ngưỡng Đức Phật và lắng nghe chánh pháp của Ngài (còn ngửi,
nếm, xúc không phát sanh).

3- Vô sắc giới thiện nghiệp.

Tác ý thiện đồng sanh với 4 bậc vô sắc giới thiện tâm, tạo nên 4 bậc
sắc giới
thiện nghiệp, cho quả an lạc trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai, cho
quả tái sanh trong 4 cõi trời vô sắc giới.

4 bậc vô sắc giới thiện tâm cho quả
4 bậc vô sắc giới quả tâm.

Thiền vô sắc giới có 4 bậc, bậc
thiền thiện tâm nào cho quả theo bậc thiền quả tâm ấy.

Đệ nhất thiền vô sắc thiện tâm gọi là
Không vô biên xứ thiện tâm, cho quả Không vô biên xứ quả tâm, tái sanh làm phạm
thiên
trong cõi Không vô biên xứ thiên.

Đệ nhị thiền vô sắc thiện tâm, gọi
Thức vô biên xứ thiện tâm, cho quả tái sanh Thức vô biên xứ quả tâm, tái
sanh
làm phạm thiên trong cõi Thức vô biên xứ thiên.

Đệ tam thiền vô sắc thiện tâm, gọi
Vô sở hữu xứ thiện tâm cho quả Vô sở hữu xứ quả tâm, tái sanh làm phạm thiên
trong cõi Vô sở hữu xứ thiên.

Đệ tứ thiền vô sắc thiện tâm gọi là
Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiện tâm, cho quả Phi tưởng phi phi tưởng xứ quả
tâm, tái sanh làm phạm thiên trong cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên.

Cõi trời vô sắc giới có 4 cõi, tái
sanh
lên cõi nào tùy theo năng lực của bậc thiền sở đắc của mình, hưởng sự an
lạc
và tuổi thọ lâu dài trong cõi trời ấy.

4- Siêu tam giới thiện nghiệp.

Tác ý thiện đồng sanh với 4 hay 20 siêu tam giới thiện tâm,
cho quả không có thời gian ngăn cách (akālika), đó là siêu tam giới
quả tâm.
Nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh Đạo nào, liền chứng đắc Thánh Quả
ấy ngay sau 1 sát na tâm.

4 siêu tam
giới
thiện tâm đó là 4 Thánh Đạo Tâm.
4 siêu tam giới quả tâm đó là 4 Thánh Quả Tâm tương xứng với nhau:

4 Thánh
Đạo
Tâm –> 4 Thánh Quả Tâm

1- Nhập
Lưu
Thánh Đạo Tâm –> 1- Nhập Lưu Thánh Quả Tâm.
2- Nhất Lai Thánh Đạo Tâm –> 2- Nhất Lai Thánh Quả Tâm.
3- Bất Lai Thánh Đạo Tâm –> 3- Bất Lai Thánh Quả Tâm.
4- A-ra-hán Thánh Đạo Tâm –> 4- A-ra-hán Thánh Quả Tâm.

Thiện Tâm

Thiện tâm có 4 loại:

Dục giới
thiện tâm.
Sắc giới thiện tâm.
Vô sắc giới thiện tâm.
Siêu tam giới thiện tâm.

Trong 4 loại thiện tâm này, sắc
giới
thiện tâm, vô sắc giới thiện tâm
siêu tam giới thiện tâm chắc
chắn
có đầy đủ tam thiện nhân: vô tham, vô sân, vô si (trí tuệ).

Riêng dục giới thiện tâm8
tâm
gọi là 8 đại thiện tâm chia 2 loại:


4 dục giới thiện tâm hợp với trí

thì có đầy đủ tam thiện nhân: vô tham, vô sânvô si (trí tuệ).
4 dục giới thiện tâm không hợp với trí thì chỉ có nhị thiện nhân:
vô tham
vô sân (không có vô si = trí tuệ).

Do nguyên nhân nào dục giới thiện
tâm
có đủ tam nhân hoặc chỉ có nhị nhân?

Do tác ý thiện tâm (kusalacetanā)
khi đang tạo thiện nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, hoặc làm phước thiện bố
thí
, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ…. Khi đang tạo thiện
nghiệp
, phước thiện nào với thiện tâm hợp với trí tuệ, hiểu biết rõ nghiệp là
của riêng mình (kammassakatañāṇa) hoặc trí tuệ thiền tuệ (vipassanāñāṇa),
do đó, dục giới thiện tâm ấy có đủ tam nhân: vô tham, vô sânvô si (trí
tuệ
), thiện tâm này còn gọi là đại thiện tâm hợp với trí (mahākusalañāṇasampayuttacitta)
có 4 tâm.

Tác ý thiện tâm khi đang tạo thiện nghiệp, phước thiện nào với thiện tâm
không hợp với trí tuệ, không hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình, hoặc không
trí tuệ thiền tuệ, do đó, dục giới thiện tâm ấy chỉ có nhị nhân: vô tham
vô sân
(không có vô si). Thiện tâm này còn gọi là đại thiện tâm không
hợp với trí
(mahākusalañāṇavippayuttacitta) có 4 tâm.

Dục giới thiện tâm theo tác ý

Mọi thiện nghiệp, mọi phước thiện
như bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ..ṭhường trải
qua
ba giai đoạn tác ý:

1-
Pubba cetanā:
tác ý trước khi tạo thiện nghiệp.
2- Muñca cetanā:

tác ý đang khi tạo thiện nghiệp.
3- Apara cetanā:

tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong.

Mỗi giai đoạn tác ý có một năng lực
đặc biệt, đóng một vai trò quan trọng tạo nên thiện nghiệp và cho quả đặc biệt
của thiện nghiệp ấy.

Muñca cetanā: tác ý đang
khi
tạo thiện nghiệp
đóng vai trò quan trọng để tạo nên thiện nghiệp trong thiện
tâm
tam nhân
hay thiện tâmnhị nhân.

Nếu tác ý thiện tâm đang khi
tạo thiện nghiệp, phước thiện nào như: bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định,
tiến hành thiền tuệ… với đại thiện tâm hợp với trí tuệ hiểu biết rõ nghiệp là
của riêng mình, hoặc trí tuệ thiền tuệ, thì chắc chắn đại thiện tâm ấy có đủ
tam nhân: vô tham, vô sânvô si (trí tuệ), gọi là đại thiện tâm hợp với trí
hay gọi tam nhân thiện tâm.

Nếu tác ý thiện tâm
đang khi tạo thiện nghiệp, phước thiện nào như bố thí, giữ giới, tiến hành
thiền định, tiến hành thiền tuệ… với đại thiện tâm không hợp với trí tuệ,
không hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình, không có trí tuệ thiền tuệ, do đó,
đại thiện tâm ấy chỉ có nhị nhân: vô thamvô sân (không có vô si), gọi là
đại thiện tâm không hợp với trí hay gọi nhị nhân thiện tâm.

Tam nhân thiện tâmnhị nhân thiện
tâm
, mỗi loại thiện tâm có hai bậc:

1-
Ukkaṭṭhakusala: thiện tâm bậc cao.
2- Omakakusala: thiện tâm bậc thấp.

1- Thiện tâm bậc cao như thế nào?

Mỗi khi tạo thiện nghiệp, phước
thiện
nào như bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ
với tác ý thiện tâm trước khi tạo thiện nghiệp, tác ý đang khi tạo thiện nghiệp
tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong, thiện tâm trong sạch, không bị ô
nhiễm
bởi phiền não, do đó, thiện tâm này dầu là tam nhân thiện tâm hoặc nhị
nhân
thiện tâm gọi là thiện tâm bậc cao (ukkaṭṭhakusala).

2- Thiện tâm bậc thấp như thế nào?

Mỗi khi tạo thiện nghiệp, phước
thiện
nào như bố thí, giữ giới, tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ
với tác ý thiện tâm trước khi tạo thiện nghiệp, đang khi tạo thiện nghiệp, sau
khi đã tạo thiện nghiệp xong, với thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi
phiền não, do đó, thiện tâm này dầu là tam nhân thiện tâm hoặc nhị nhân thiện
tâm
, gọi là thiện tâm bậc thấp (Omakakusala).

Phân loại thiện tâm theo bậc

Tam nhân thiện tâmnhị nhân thiện
tâm
, mỗi thiện tâm có hai bậc.

Tam nhân thiện tâm bậc cao.
Tam nhân thiện tâm bậc thấp.

Nhị nhân thiện tâm bậc cao.
Nhị nhân thiện tâm bậc thấp.

Do nguyên nhân chính nào mà
phân loại thiện tâm bậc cao – bậc thấp?

Tác ý thiện tâm sau khi đã tạo thiện
nghiệp
xong
nguyên nhân chính, đóng vai trò
quan trọng để phân loại thiện tâm bậc cao – thiện tâm bậc thấp. Bởi vì,
tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong, đã hoàn thành xong thiện nghiệp trải
qua thời gian lâu
dài không hạn định, nên có nhiều năng lực hơn tác ý trước khi
tạo thiện nghiệptác ý đang khi tạo thiện nghiệp. Như vậy, tác ý trước khi
tạo thiện nghiệp, tác ý đang khi tạo thiện nghiệp, với đại thiện tâm không
trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não; nhưng tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp
xong với đại thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não; do đó, thiện
tâm
ấy thuộc loại thiện tâm bậc cao.

Tác ý trước khi tạo thiện nghiệp,
tác ý đang khi tạo thiện nghiệp với thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi
phiền não; nhưng tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong với thiện tâm không
trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não; do đó thiện tâm ấy thuộc loại thiện
tâm
bậc thấp.

Quả của 4 loại thiện tâm

Tam nhân thiện tâm, nhị nhân thiện
tâm
có quả tâm khác biệt nhau. Và thiện tâm bậc cao – thiện tâm bậc thấp cũng
có quả tâm khác biệt nhau như sau:

– Quả của tam nhân thiện tâm bậc
cao
cho quả hai thời kỳ:

Thời kỳ tái sanh (paṭisandhikāla):4 đại quả tâm hợp với trí tuệ, khi tái sanh làm
người, là người có đủ tam nhân: vô tham, vô sânvô si (trí tuệ) gọi là hạng người
tam nhân
(tihetukapuggala: người có quả tâm tái sanh hợp đủ 3 nhân:
tham
, vô sân, vô si)
trí tuệ sáng suốt, hạng người cao quý, hoặc tái
sanh
làm chư thiêntrí tuệ trong cõi trời dục giới, là hạng chư thiên cao
quý, có nhiều oai lực.

Thời kỳ sau khi đã tái sanh (pavattikāla): có 8 đại quả tâm và 8 quả thiện
nhân
tâm, gồm có 16 quả tâm, thường tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh,
hương, vị, xúc và pháp đáng hài lòng, ít có đối tượng không đáng hài lòng.

– Quả của tam nhân thiện tâm bậc
thấp
nhị nhân thiện tâm bậc cao cho quả hai thời kỳ:

Thời kỳ tái sanh:4 đại thiện tâm không hợp với trí tuệ, khi tái
sanh
làm người chỉ có nhị nhân: vô thamvô sân (không có vô si) gọi là hạng người
nhị nhân
(dvihetukapuggala: người có quả tâm tái sanh hợp với 2 nhân:
tham
, vô sân)
không có trí tuệ, hạng người trung bình; hoặc tái sanh làm
chư thiênnhị nhân, không có trí tuệ, trong cõi trời dục giới, không có
nhiều oai lực.

Thời kỳ sau khi đã tái sanh: 4 đại quả tâm không hợp với trí và 8 quả thiện
nhân
tâm, gồm có 12 quả tâm, thường tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp trung bình, không đặc biệt.

– Quả của nhị nhân thiện tâm bậc
thấp
cho quả hai thời kỳ:

Thời kỳ tái sanh: 1 quả thiện vô nhân tâm gọi là suy xét tâm đồng
sanh với xả,
tái sanh làm hạng người vô nhân [*] (ahetukapuggala: người
có quả tâm tái sanh không có nhân nào),
là hạng người câm, điếc, đui mù,
mất trí (điên) từ trong bụng mẹ, hoặc tái sanh làm chư thiên bậc thấp nhất (vinipātika
asurā)
trong cõi trời Tứ đại thiên vương, loại chư thiên không có oai lực,
thường hay quấy nhiễu người kém phước đức.

[*] Hạng người vô nhân là người khi
tái sanh bằng quả thiện vô nhân tâm, là tâm không có nhân (không có vô tham,
sân
, vô si).

Thời kỳ sau khi đã tái sanh: có 8 quả thiện vô nhân tâm thường tiếp xúc những đối tượng
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tầm thường nhất.

Tác Ý Sau Aparacetanā là
Aparāparacetanā

Trong Chú giải còn khai triển aparacetanā:
tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp xong, thêm một thời kỳ nữa gọi là aparāparacetanā:
tác ý phát sanh sau tác ý aparacetanā.

Aparāparacetanā:tác ý phát sanh sau tác ý aparacetanā (tác ý sau khi
đã tạo thiện nghiệp xong)
sau nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm… mỗi khi
niệm tưởng đến phước thiện bố thí, phước thiện giữ giới, phước thiện tiến hành
thiền định, phước thiện tiến hành thiền tuệ… mà mình đã từng tạo phước thiện
ấy từ trước.

Mỗi khi niệm tưởng đến phước thiện
ấy, tác ý phát sanh sau aparacetanā gọi là aparāparacetanā với
thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm phát
sanh sau sau ấy thuộc về thiện tâm bậc cao.

Mỗi khi niệm tưởng đến phước thiện
ấy, tác ý phát sanh sau aparacetanā gọi là aparāparacetanā với
thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm phát
sanh sau sau ấy thuộc về thiện tâm bậc thấp.

Phân loại thiện tâm theo aparacetanā
và aparāparacetanā

Aparācetanā:tác ý phát sanh sau khi đã tạo thiện nghiệp xong.

Aparāparacetanā: tác ý phát sanh sau aparacetanā.

Thiện tâm bậc cao hoặc thiện tâm bậc
thấp tùy thuộc vào aparacetanā aparāparacetanā là chính.

Để dễ phân biệt 2 loại tác ý này,
đặt tên rằng:

Aparacetanā: gọi tên là trước, chữ trước ám chỉ aparacetanā.
Aparāparacetanā:
gọi tên là sau, chữ sau ám chỉ aparāparacetanā.

Như vậy, phân loại thiện tâm theo aparācetanā
aparāparacetanā có 8 loại thiện tâm như sau:

1- Tam
nhân
thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao.
2- Tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp.
3- Tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao.
4- Tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.
5- Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao.
6- Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp.
7- Nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao.
8- Nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.

Giải thích

Tác ý đang khi tạo thiện nghiệp (muñcacetanā)
với đại thiện tâm hợp với trí tuệ, gọi là tam nhân thiện tâm (tihetukakusala).

Tác ý đang khi tạo thiện nghiệp với
đại thiện tâm không hợp với trí, gọi là nhị nhân thiện tâm (dvihetukakusala).

Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp
xong (apara-cetanā), với thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi
phiền não, và tác ý phát sanh sau sau gọi là aparāparacetanā cũng với
thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi
thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao (ukkuṭṭhukkuṭṭhakusala).

Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp
xong (apara-cetanā) với thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền
não
; nhưng tác ý phát sanh sau sau gọi là aparāparacetanā với thiện tâm
không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi là thiện
tâm
trước bậc cao – sau bậc thấp
(ukkuṭṭhomakakusala).

Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp
xong (apara-cetanā) với thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền
não
, nhưng tác ý phát sanh sau sau gọi là aparāparacetanā với thiện tâm
trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi
thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao
(omakukkaṭṭhakusala).

Tác ý sau khi đã tạo thiện nghiệp
xong (apara-cetanā) với thiện tâm không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền
não
, và tác ý phát sanh sau sau gọi là aparāparacetanā với thiện tâm
không trong sạch, bị ô nhiễm bởi phiền não. Do đó, thiện tâm này gọi là thiện
tâm
trước bậc thấp – sau bậc thấp
(omakomakakusala).

Quả của 8 loại thiện tâm

– Quả của:

Tam
nhân
thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao.
Tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp.

Cả hai loại thiện tâm này, xét về
thiện tâm cho quả thời kỳ tái sanh thời kỳ sau khi tái sanh, giống
như tam nhân thiện tâm bậc cao.

Xét về chúng sinh: người hoặc chư
thiên
về sắc thân hoặc tâm tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp, thì tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau cũng bậc cao
quả báu cao quý, vi tế đặc biệt hơn tam nhân thiện tâm trước bậc cao – sau
bậc thấp.

– Quả của:

Tam
nhân
thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao.
Tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.
Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau cũng bậc cao.
Nhị nhân thiện tâm trước bậc cao – sau bậc thấp.

Cả 4 loại thiện tâm này, xét về
thiện tâm cho quả thời kỳ tái sanh thời kỳ sau khi tái sanh,
giống như tam nhân thiện tâm bậc thấp nhị nhân thiện tâm bậc cao.

Xét về chúng sinh: người hay chư
thiên
về sắc thân tâm tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp, thì tam nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao; nhị
nhân
thiện tâm trước bậc cao – sau bậc cao, có quả báu đặc biệt hơn tam nhân
thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.

– Quả của:

Nhị
nhân
thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao.
Nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp.

Cả hai loại thiện tâm này, xét về
thiện tâm cho quả thời kỳ tái sanh thời kỳ sau khi tái sanh giống
như nhị nhân thiện tâm bậc thấp .

Xét về chúng sinh: người hay chư
thiên
về sắc thân tâm tiếp xúc những đối tượng sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp, thì nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc cao có
giá trị quả báu đặc biệt hơn nhị nhân thiện tâm trước bậc thấp – sau bậc thấp
không đáng kể.

Tóm lại, phân loại các bậc thiện tâm
này do năng lực của tác ý (cetanā) tạo thiện nghiệp. Cho nên, tác
ý
đóng vai trò hệ trọng tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý, rồi
phân loại các thiện tâm và quả của thiện tâm ấy do năng lực của nghiệp.
Ngoài nghiệp ra, không có một Đấng Toàn Quyền, Toàn Năng nào thưởng hoặc phạt
chúng sinh; nếu thật có Đấng Toàn Quyền, Toàn Năng ấy,
đó chính là nghiệp của chính mình đã tạo, không có một ai khác.

Đức Phật dạy về nghiệp trong bài
Kinh
Quán Tưởng rằng:

“Kammassako’mhi kammadāyādo
kamma-yoni kammabandhu kammapaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā
pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmi”.

[Bộ Aṅguttaranikāya, phần
Dasakanipāta, kinh Pabbajita-abhinhasutta]

“Ta có nghiệp là của riêng, ta
là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sanh ta ra, nghiệp là bà con
thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta, ta tạo nghiệp nào: là thiện
nghiệp
hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ta sẽ là người thừa hưởng quả của
thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp ấy”.

Tất cả của cải trong đời đều là của
chung
,
người nào có phước thì người ấy tạm thời làm chủ, duy chỉ có nghiệp
(thiện nghiệp, ác nghiệp) mới thật là của riêng mình mà thôi. Cho
nên, mỗi người phải hết sức thận trọng chọn lựa cho mình mọi thiện nghiệp
hết sức thận trọng tránh xa mọi ác nghiệp, bởi vì, chỉ có nghiệp
mới thật của riêng mình
mà thôi.

Nên có đức tin rằng:

Thiện nghiệp cho quả an lạc.
Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả khổ.

Nên hiểu rõ rằng trong đời sống hằng
ngày
của mỗi chúng sinh nói chung, mỗi người nói riêng phải biết gìn giữ thân,
khẩu, ý cho được trong sạch, không để phiền não làm ô nhiễm.

Nên biết rằng mỗi khi hành động bằng
thân, hoặc nói bằng khẩu hoặc nghĩ bằng ý, với tác ý thiện, thì tạo nên thiện
nghiệp
; với tác ý bất thiện, thì tạo nên bất thiện nghiệp hoặc ác nghiệp.

Thiện nghiệp sanh trong thiện tâm,
bất thiện nghiệp hoặc ác nghiệp sanh trong bất thiện tâm hoặc ác tâm. Khi thiện
tâm
phát sanh thì ác tâm không sanh; khi ác tâm phát sanh
thì thiện tâm không sanh, chỉ trừ khi nằm ngủ say không có mộng, khi ấy
mới thật khôngthiện tâm, cũng không có ác tâm, vì lúc ấy chỉ có quả tâm
mà thôi; còn như nằm ngủ thấy mộng rõ ràng như thật, lộ trình tâm
mộng
ấy có thể là thiện tâm, hoặc bất thiện tâm (ác tâm), song tác ý
thiện tâm
hoặc bất thiện tâm trong khi mộng không có năng lực như tác
ý
lúc tỉnh ngủ. Cho nên, thiện tâm hay bất thiện tâm (ác tâm) trong lộ trình
tâm mộng không có khả năng cho quả thời tái sanh, nếu có chỉ cho quả thời kỳ
sau khi đã tái sanh rồi.

Vì vậy, mỗi khi chúng ta chủ động
tạo nghiệp, thì nên cố gắng tạo thiện nghiệp, với thiện tâm hợp với trí tuệ,
trong sạch hoàn toàn suốt 3 giai đoạn: trước khi tạo thiện nghiệp, đang khi tạo
thiện nghiệp và sau khi đã tạo thiện nghiệp xong, không bị ô nhiễm bởi phiền
não
, để có được tam nhân thiện tâm bậc cao nhất, quả báu
cao nhất.

Nhận Xét Về Nghiệp

Quả của nghiệp (kammaphala) là một trong bốn pháp “bất khả tư
nghì” (acinteyya) không thể suy nghĩ, tư duy về quả này là do
nghiệp nào, v.v…. Người Phật tửđức tin chân chánh nơi Đức Phật, Đức Pháp,
Đức Tăng, tin nghiệp và quả của nghiệp, tin rằng:

Thiện nghiệp cho quả an lạc. Bất
thiện nghiệp
hoặc ác nghiệp cho quả khổ.

Hay nói cách khác: Sự an lạc là quả
của thiện nghiệp. Sự khổ não là quả của ác nghiệp.

Và có chánh kiến sơ đẳng gọi kammassakatā-sammādiṭṭhi:
chánh kiến thấy đúng, hiểu đúng thiện nghiệp, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) đã
tạo rồi là của riêng mình không liên quan đến người khác.

Thật vậy, mỗi chúng sinh có nghiệp
riêng của mình; như khi tác ý thiện nghiệp, mỗi người đều khác nhau, cho nên,
quả của nghiệp cũng khác nhau. Dù hai người sinh đôi, cùng giờ, cùng tháng,
cùng năm, xét về thân thể có phần giống nhau, song xét về tâm
tánh
thì không giống nhau, do bởi mỗi người mỗi nghiệp.

Xét về nghiệpcủa
riêng
mình, không liên quan đến người khác, nghĩa là: người nào tạo thiện
nghiệp
nào, nếu thiện nghiệp ấy cho quả, người ấy hưởng được mọi sự an
lạc
trong cuộc đời với nhiều hình thức khác nhau, trong kiếp hiện tại lẫn nhiều
kiếp vị lai lâu dài. Ngược lại, tạo ác nghiệp nào, nếu ác nghiệp
ấy cho quả, người ấy phải chịu mọi sự khổ trong cuộc đời với nhiều hình thức
khác nhau, trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai lâu dài.

Xét về quả của nghiệp
không chỉ riêng mình, mà còn ảnh hưởng đến người khác, chúng sinh khác, nghĩa
là: người nào đang hưởng quả tốt của phước thiện bố thí do mình đã tạo, người
ấy được giàu sang phú quý, có nhiều tiền, nhiều của, nhà cao, cửa rộng, có xe
cộ… còn có chức trọng quyền cao… không chỉ riêng một mình người ấy hưởng
được mọi tiện nghi, thân an lạc; mà còn nhiều người thân trong gia đình, bà con
thân bằng quyến thuộc, bạn bè, thậm chí đến những người khác, chúng sinh khác
cũng hưởng được mọi tiện nghi, thân an lạc trong cuộc đời của họ.

Ngược lại, người nào đang chịu quả
xấu của ác nghiệp do mình đã tạo, người ấy đang chịu mọi cảnh khổ, bịnh hoạn ốm
đau, những căn bệnh nan y, bại liệt…, những tội lỗi, cảnh tù đày… không chỉ
riêng một mình người ấy chịu khổ, mà còn liên luỵ đến những người thân trong
gia đình phải chịu khổ nữa.

Tất cả mọi chúng sinh trong ba giới
[dục giới, sắc giới, vô sắc giới] gồm có 31 cõi, có 4 loài chúng sinh [thai
sinh
, noãn sinh, thấp sinh, hoá sinh]:

Những chúng sinh gọi là chư thiên
cõi dục giới, phạm thiên cõi sắc giới và cõi vô sắc giới, chỉ có thiện
nghiệp
có cơ hội cho quả an lạc, những chư thiên hưởng quả an lạc của
phước thiện mà mình đã tạo, phạm thiên hưởng quả an lạc của bậc thiền sở đắc
của mình.

Những chúng sinh cõi địa ngục,
atula, ngạ quỷ chỉ có ác nghiệp có cơ hội cho quả khổ, những hạng chúng sinh ấy
chịu quả khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.

Có một số loài súc sanh như: chó,
mèo, ngựa, voi… dầu tái sanh do quả của ác nghiệp, song sống chung với loài
người
, có khi thiện nghiệp của chúng đã tạo từ kiếp trước cho quả, nên chúng
hưởng được quả an lạc như: có vật thực đầy đủ, có chỗ ở đàng hoàng,… thậm chí
còn có người săn sóc chúng.

Riêng về con người, khi thì thiện
nghiệp
cho quả an lạc, khi thì ác nghiệp cho quả khổ, tuỳ theo nghiệp nào có cơ
hội cho quả.

Nghiệp nào cho quả, đó là điều không
sao biết trước được, chúng ta chỉ biết quả an lạc, và quả khổ hiện hữu trong
cuộc đời của mỗi người khác nhau như:

– Có số người thời ấu niên được
hưởng sự an lạc, đến thời trung niên và lão niên chịu khổ cực.

– Có số người thời ấu niên và thời
trung niên được hưởng sự an lạc, đến thời lão niên chịu khổ cực.

– Có số người thời ấu niên, thời
trung niên và thời lão niên đều được hưởng sự an lạc.

– Có số người thời ấu niên chịu khổ
cực, đến thời trung niên và lão niên được hưởng sự an lạc.

– Có số người thời ấu niên và thời
trung niên chịu khổ cực, đến thời lão niên mới được hưởng sự an lạc.

– Có số người thời ấu niên, thời
trung niên và thời lão niên đều chịu khổ cực.

– Có số người trong cuộc sống khi
thì khổ cực, khi thì an lạc…; khi thì giàu có, khi thì nghèo khổ v.v….

Tất cả mọi trường hợp như trên đều
do nghiệp và quả của nghiệp, hoàn toàn không phải số phận, hay định mệnh nào an
bài cả. Sự thật, chỉ do nghiệp: thiện nghiệp, ác nghiệp mà chính
mình đã tạo trong kiếp hiện tại, hoặc từ nhiều kiếp quá khứ, nay đến lúc cho quả
của nghiệp
ấy.

Nếu thiện nghiệp có cơ hội cho quả
tốt lành, thì đem lại sự an lạc trong đời sống của mình.

Nếu ác nghiệp có cơ hội cho quả xấu,
thì đem lại sự khổ cực trong đời sống của mình.

Ngoài nghiệp và quả của nghiệp ra,
không có một ai có quyền năng ban thưởng cho mình được hưởng sự an lạc, hoặc
hành phạt mình phải chịu khổ cực….

Người khác và môi trường bên ngoài
cũng chính do năng lực của nghiệp tạo nên để thích nghi với sự cho quả của
nghiệp ấy mà thôi.

Như vậy, công minh của nghiệp mà xét
:

Sự thật, người khác đối xử tốt với
mình, đó chính là do nhờ năng lực của thiện nghiệp của mình đang trong thời kỳ
cho quả tốt, nên khiến cho họ có thái độ, đối xử tử tế, phục vụ tận tình… để
làm cho mình được hưởng mọi sự an lạc.

Và người khác đối xử xấu với mình,
đó cũng chính là do năng lực của ác nghiệp của mình đang trong thời kỳ cho quả
xấu, nên khiến cho họ có thái độ đối xử tệ hại, tàn nhẫn… để làm cho mình
phải chịu bao nhiêu nỗi khổ cực.

Quả Của Ác NghiệpThiện Nghiệp

* Quả của ác nghiệp

Quả ác nghiệp của một người có thể
ảnh hưởng làm khổ đến những người gần gũi thân cận.

Ví dụ:

Tích Ngài Đại Đức Losakatissa trong
câu chuyện tiền thân Losakatissajātaka [Bộ Jātaka] được tóm lược như sau:

Kiếp hiện tại của Ngài Đại Đức
Losakatissa là bậc Thánh A-ra-hán, mà suốt cuộc đời của Ngài kể từ khi đầu thai
vào lòng mẹ, khi sanh ra đời, cho đến khi Ngài tịch diệt Niết Bàn, thường phải
chịu đói khát, chỉ có một lần trước khi tịch diệt Niết Bàn, Ngài được Đức Thầy
Tế độ là Ngài Đại Đức Sāriputta đi khất thực về cho Ngài độ một lần ngon lành
no đủ, nhưng không phải là món vật thực, mà là một món thuốc gọi là Catumadhura
[Món Catumadhura là một món thuốc làm bằng 4 chất: bơ lỏng + mật ong + dầu mè +
đường thốt nốt, được Đức Phật cho phép Sa di, Tỳ khưu có bệnh dùng thời gian
sau ngọ (quá 12 giờ trưa)] phát sanh do năng lực phước thiện của Ngài Đại Đức
Sāriputta. Sau khi độ xong, Ngài tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử
sanh luân hồi trong tam giới.

Vậy, do quả của ác nghiệp nào, khiến
cho Ngài phải chịu đói khát như thế?

Tiền kiếp của Ngài Losakatissa trong
thời kỳ Đức Phật Kassapa, Ngài là một vị Tỳ khưu chủ chùa. Một hôm, có một vị
Tăng khách là bậc Thánh A-ra-hán đến vùng ấy, người thí chủ hộ độ ngôi chùa
nhìn thấy vị Tăng khách, phát sanh đức tin trong sạch nơi vị Tăng khách, để bát
cúng dường vật thực xong thỉnh vị Tăng khách đến nghỉ tại ngôi chùa. Vị Tỳ khưu
chủ chùa tiếp đón có vẻ không hài lòng với vị Tăng khách. Chiều hôm ấy, người
thí chủ hộ độ chùa đến thăm vị khách Tăng, kính thỉnh Ngài cùng với vị Tỳ khưu
chủ chùa hôm sau đến tư gia để cúng dường vật thực.

Vị Tỳ khưu chủ chùa phát sanh lòng
ganh tị, nên sáng hôm sau, làm bộ dùng ngón tay đánh chuông, gõ cửa, rồi một
mình
đến nhà người thí chủ. Người thí chủ hỏi về vị Tăng khách, vị Tỳ khưu chủ
chùa nói xấu vị Tăng khách đủ điều. Người thí chủ vốn có đức tin trong sạch nơi
vị Tăng khách, nên sau khi cúng dường vật thực ngon lành đến vị Tỳ khưu chủ
chùa xong, để trong bát một phần gởi về cúng dường vị Tăng khách. Trên đường đi
về chùa, vị Tỳ khưu chủ chùa nghĩ rằng: “Nếu đem vật thực ngon lành này
về cho vị khách Tăng ấy, thì dầu lôi y ra khỏi chùa, y cũng không chịu đi; tốt
hơn
, ta nên đổ bỏ bát vật thực này”.
Vị Tỳ khưu chủ chùa đã thực hiện
ý định ấy, khi về đến chùa, không nhìn thấy vị khách Tăng nữa, vị Tỳ khưu chủ
chùa hối hận việc làm tội lỗi của mình. Sau khi chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái
sanh
sa đoạ vào cõi địa ngục, khi mãn nghiệp cõi địa ngục, do năng lực ác
nghiệp
còn dư sót, tái sanh làm dạ xoa, làm chó…, dầu được tái sanh làm người
cũng trong gia đình nghèo khổ cùng cực.

Đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất
hiện
trên thế gian, hậu thân của vị Tỳ khưu chủ chùa, do thiện nghiệp cho quả
tái sanh làm người trong xóm 1.000 gia đình dân chài, nhưng ác nghiệp tiền kiếp
của Ngài cho quả khiến 1.000 gia đình dân chài chịu cảnh đói khổ. Ông trưởng
xóm dân chài đoán biết có người Kālakaṇṇī: người xúi quẩy [người xúi quẩy:
người có ác nghiệp của mình cho quả, làm ảnh hưởng xấu đến người khác]
trong
xóm mình, nên ông chia dân trong xóm ra làm hai nhóm. Nhóm 500 gia đình
người mẹ mang thai Ngài chịu cảnh đói khổ, còn nhóm 500 gia đình kia vẫn làm ăn
bình thường. Từ đó, nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai Ngài chia ra làm 2,
mỗi nhóm 250 gia đình, và cứ thế chia làm 2, làm 2…. Cuối cùng còn 2 gia
đình
, lại chia làm 2 nữa, như vậy, chỉ có gia đình có người mẹ mang thai Ngài
đói khổ cho đến khi đủ tháng, người mẹ sanh Ngài ra. Cha mẹ của Ngài vất vả khổ
cực lắm mới nuôi Ngài lớn lên 7 tuổi. Một hôm, người mẹ dẫn Ngài đi xin ăn,
trao cho Ngài một cái bát đi xin, rồi người mẹ trốn đi, bỏ Ngài một mình bơ vơ
đói khổ.

Khi ấy, Ngài Đại Đức Sāriputta nhìn
thấy Ngài, phát sanh tâm bi mẫn đến cứu giúp Ngài, dẫn Ngài về cho làm lễ xuất
gia
Sa di. Về sau, đủ 20 tuổi làm lễ nâng lên bậc Tỳ khưu. Dầu Ngài là bậc xuất
gia
, nhưng mỗi khi đi khất thực thường được rất ít vật thực, nên thường chịu
cảnh đói khổ. Song Ngài tinh tấn tiến hành thiền tuệ chứng đắc đến A-ra-hán
Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, do nhờ
pháp hạnh ba la mật từ kiếp trước. Tuy vậy, suốt cuộc đời của Ngài từ khi đầu
thai
, sanh ra đời, cho đến trước khi tịch diệt Niết Bàn Ngài vẫn thường chịu
cảnh đói khổ, bởi do quả của ác nghiệp ngăn cản vật thực của bậc Thánh
A-ra-hán.

* Quả của thiện nghiệp

Quả thiện nghiệp của một người có
ảnh hưởng tốt đến nhiều người gần gũi thân cận.

Ví dụ:

Tích Ngài Đại Đức Sīvali [Bộ
Aṅguttaranikāya, phần Etadagga, bộ Theragāthā] :

Ngài Đại Đức Sīvali là con của công
chúa
Suppavāsā và hoàng tử Mahāli xứ Koliya.

Từ khi Ngài tái sanh vào lòng mẹ,
mỗi ngày công chúa Suppavāsā thường được mọi người đem lễ vật đến dâng cho bà
nhiều vô kể, những lợi lộc phát sanh đến cho bà và cho những người xung quanh.

Một trường hợp hi hữu chưa từng có,
đó là mẹ của Ngài mang thai Ngài suốt 7 năm vẫn bình an như thường, mỗi ngày
lợi lộc mỗi tăng trưởng cho bà và những người xung quanh. Nhưng bước sang 7
ngày kế tiếp, bà cảm thấy đau khổ cùng cực bởi thai nhi.

Công chúa Suppavāsā vốn là người cận
sự nữ
đức tin nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, vì thế bà nghĩ rằng: “trước
khi chết muốn làm phước thiện bố thí đến Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng”,

bà thưa ý muốn ấy với phu quân.

Hoàng tử Mahāli đến hầu đảnh lễ Đức
Thế Tôn
, kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng chư Đại Đức Tăng làm phước thiện bố thí
theo nguyện vọng của phu nhân.

Đức Thế Tôn thấy rõ biết rõ quả ác
nghiệp
của thai nhi và người mẹ đã mãn, Ngài chúc an lành đến công chúathai
nhi
rằng:

– Chúc công chúa Suppavāsā xứ Koliya
được an lành, hạ sanh hài nhi được dễ dàng, an toàn.

Đức Thế Tôn chúc lành xong, tại cung
điện, công chúa Suppavāsā hạ sanh công tử dễ dàng, như nước trong bình đổ ra,
trước khi hoàng tử Mahāli về đến.

Nhìn thấy công tử mặt mày khôi ngô
tuấn tú, do quả phước thiện đầy đủ của Ngài, bà cảm thấy vô cùng vui mừng, sung
sướng
.

Sự ra đời của Ngài làm cho hoàng tộc
cũng như dân chúng trong xứ Koliya dập tắt ngay sự nóng lòng lo sợ cho sanh
mạng công chúa Suppavāsā và công tử, đem lại sự mát mẻ an lạc cho tất cả mọi
người
nên đặt tên Ngài là Sīvali: mát mẻ an lạc.

Công chúa Suppavāsā cho người đến
hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, bắt đầu từ hôm sau kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng 500 chư
Đại Đức Tăng làm phước hạnh phúc an lành sanh con suốt 7 ngày.

Công tử Sīvali sanh ra mau lớn lạ
thường, biết đi, đứng, ngồi, nằm, biết ăn uống, nói chuyện; đặc biệttrí tuệ
hiểu biết thật phi thường.

Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng ngự
đến cung điện của công chúa Suppavāsā và hoàng tử Mahāli trai Tăng suốt 7 ngày.
Đến ngày thứ 7, Đức Thế Tôn truyền dạy Ngài Đại Đức Sāriputta thuyết pháp.

Ngài Đại Đức Sāriputta thuyết pháp
nói về sự khổ sanh sự tái sanh là khổ. Công tử
Sīvali lắng nghe và thấu hiểu nỗi khổ sanh một cách sâu sắc, mà chính công tử
đã phải chịu khổ trong bụng mẹ suốt bảy năm lẻ bảy ngày.

Khi ấy, Ngài Đại Đức Sāriputta bèn
hỏi công tử Sīvali rằng:

– Này con, nằm trong bụng mẹ lâu đến
7 năm lẻ 7 ngày, con cảm thấy khổ nhiều có phải không?

– Kính bạch Ngài Đại Đức, dạ, phải!
Con cảm thấy khổ nhiều lắm!

– Như vậy, con có muốn xuất gia giải
thoát
khổ không?

– Kính bạch Ngài Đại Đức, nếu cha mẹ
con cho phép, thì con sẽ xuất gia.

Nghe thấy con mình đang nói chuyện
với Ngài Đại Đức Sāriputta, công chúa Suppavāsā vô cùng hoan hỉ. Bà và hoàng tử
Mahāli cho phép công tử Sīvali xuất gia, xin Ngài Đại Đức Sāriputta từ bi tế
độ
.

Ngài Đại Đức Sāriputta dẫn công tử
Sīvali về chùa, Ngài dạy đề mục thiền định căn bản niệm thể trược trong
thân;
tóc, lông, móng, răng, da, và dạy pháp hành thiền tuệ để
giải thoát khổ tái sanh.

Sau khi thọ giáo lời dạy của thầy tế
độ
, Ngài Đại Đức Sāriputta, giới tử Sīvali được Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna bắt
đầu cạo tóc, trong khi cạo tóc, giới tử Sīvali tiến hành thiền định căn bản,
rồi tiến hành thiền tuệ, biết rõ khổ tái sanh của danh pháp sắc pháp, chứng ngộ
chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh ĐạoNhập Lưu Thánh Quả; tuần
tự
chứng đắc đến A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh
A-ra-hán cùng với Tứ tuệ phân tích, Lục thông… trong buổi lễ cạo tóc xong,
rồi giới tử Sīvali làm lễ thọ Sa di.

Kể từ ngày Đại Đức Sīvali trở thành
Sa di, hằng ngày không những các hàng cận sự nam, cận sự nữ đem 4 thứ vật dụng
đến cúng dường cho Ngài cùng chư Đại Đức Tăng, mà còn chư thiên, Long vương
cũng đem những thứ vật dụng cúng dường nữa.

Từ đó về sau, những thứ vật dụng
phát sanh đến chư Đại Đức Tăng càng ngày càng dồi dào sung túc, mà trước đây
chưa từng có.

Ngài Đại Đức Sa di Sīvali tròn 20
tuổi, làm lễ nâng lên bậc Tỳ khưu, 4 thứ vật dụng lại càng phát sanh dồi dào
đến chư Tỳ khưu Tăng. Hễ mỗi khi có đoàn chư Tăng đông đảo phải đi tế độ chúng
sinh
từ xứ này sang xứ khác, trên con đường dài đi qua những nơi hẻo lánh, dân
thưa thớt, hoặc không có; nhưng nếu có Ngài Đại Đức Sīvali đi cùng đoàn, thì
4 thứ vật dụng đầy đủ sung túc phát sanh đến chư Đại Đức Tăng; đều là do nhờ
năng lực phước thiện của Ngài, khiến cho chư thiên hoá ra xóm làng, thị thành
dân cư đông đúc cúng dường y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đầy đủ đến
chư Đại Đức Tăng. Khi đoàn chư Đại Đức Tăng đi khỏi nơi ấy, thì xóm làng kia
biến mất.

Một hôm, chư Tỳ khưu hội họp bàn về
Ngài Đại Đức Sīvali có nhiều tài lộc đặc biệt, không chỉ phát sanh đến Ngài, mà
còn đến cả chư Tỳ khưu Tăng dù nhiều bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ sung túc.
Thật là điều phi thường! Không những các hàng cận sự nam, cận sự nữ đem 4 thứ
vật dụng đến cúng dường Ngài, mà còn có cả chư thiên, Long vương… cũng đem 4
thứ vật dụng đến cúng dường Ngài cùng tất cả chư Tỳ khưu Tăng nữa.

Chư Tỳ khưu đang bàn về tài lộc đặc
biệt
của Ngài Đại Đức Sīvali, khi ấy Đức Thế Tôn vừa ngự đến, bèn hỏi:

– Các con đang bàn về chuyện gì vậy?

Chư Tỳ khưu bạch rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con
đang bàn về quả phước thiện đặc biệt của Đại Đức Sīvali.

Nhân dịp ấy, Đức Thế Tôn chủ trì
buổi hội chư Tỳ khưu Tăng, tuyên dương Ngài Đại Đức Sīvali cho các hàng đệ tử
biết rằng:

– Etadaggaṃ bhikkhave mama Sāvakānaṃ
lābhīnaṃ yadidaṃ Sīvali.
[Bộ Aṅguttaranikāya, phần Etadagga]

Này chư Tỳ khưu, Sīvali là bậc Thánh
đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thanh Văn đệ tử của Như Lai.

Ngài Đại Đức Sīvali là bậc Thánh đại
Thanh
Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng đệ tử của Đức Phật Gotama, đó là kết
quả thành tựu nguyện vọng của Ngài đã từng phát nguyện từ thời Đức Phật
Pudumuttara trong quá khứ.

Quá khứ, thời kỳ Đức Phật
Padumuttara xuất hiện trên thế gian, cách 100 ngàn đại kiếp trái đất của chúng
ta
, tiền thân của Đại Đức Sīvali là một người cận sự nam trong gia đình giàu
. Một hôm, đến chùa nghe Đức Phật Padumuttara thuyết pháp, khi ấy, Đức Phật
Padumuttara tuyên dương một người đệ tử tên Sudassana là bậc Thánh đại Thanh
Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng đệ tử của Ngài, người cận sự nam , tiền thân
của Đại Đức Sīvali, nhìn thấy Đại Đức Sudassana, liền phát sanh thiện tâm trong
sạch
, có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất
trong hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật vị lai.

Ngay sau đó, người cận sự nam ấy đến
hầu đảnh lễ, cung kính thỉnh Đức Phật cùng 500 chư Tỳ khưu Tăng đến nhà để làm
phước bố thí suốt 7 ngày. Đức Phật Padumuttara làm thinh nhận lời.

Người cận sự nam ấy làm phước thiện
bố thí những món vật thực ngon lành suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7, còn cúng dường
tam y đến Đức Phật cùng 500 vị Tỳ khưu Tăng, mỗi vị một bộ. Sau khi dâng tam y
xong, ông đến hầu đảnh lễ Đức Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bạch rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, phước thiện
bố thí mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con không cầu mong gì khác hơn là muốn
trở thành bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ
tử
của Đức Phật vị lai, như ngôi vị cao quý của Đại Đức Sudassana bậc Thánh đại
Thanh
Văn của Đức Thế Tôn bây giờ.

Đức Phật Padumuttara dùng trí tuệ vị
lai
kiến minh thấy rõ nguyện vọng của vị thiện nam này sẽ thành tựu trong kiếp
vị lai, nên thọ ký rằng:

– Này chư Tỳ khưu, kể từ kiếp trái
đất này, trong vị lai sẽ trải qua 100 ngàn đại kiếp trái đất, đến kiếp trái đất
Bhaddakappa, có Đức Phật Gotama [*] xuất hiện trên thế gian, khi ấy, vị thiện
nam
này tái sanh làm người nam trong hoàng tộc, từ bỏ nhà xuất gia, sẽ trở
thành
bậc Thánh đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thanh Văn đệ
tử
của Đức Phật Gotama, như Sudassana bậc Thánh đại Thanh Văn của Như Lai bây
giờ.

[*] Từ Đức Phật Padumuttara đến Đức
Phật
Gotama trải qua 100 ngàn đại kiếp trái đất và trải qua 15 Đức Phật xuất
hiện
trên thế gian.

Lắng nghe lời thọ ký của Đức Phật
Padumuttara, vị thiện nam vô cùng hoan hỉ tạo phước thiện bố thí 4 thứ vật dụng
đến Đức Phật cùng chư Đại Đức Tăng đến trọn đời.

Trong vòng tử sanh luân hồi, do
phước thiện cho quả được tái làm chư thiên trong các tầng trời, hoặc khi tái
sanh
làm người tâm thường hoan hỉ tạo phước thiện bố thí ít có người nào sánh
được. Cho nên, kiếp nào cũng không hề bị sa đọa vào 4 cõi ác giới (địa ngục,
atula, ngạ quỷ, súc sanh).

Thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện
trên thế gian, hậu thân của vị thiện nam, do thiện nghiệp cho quả tái sanh vào
lòng công chúa Suppavāsa xứ Koliya như ở đoạn đầu.

Thiện nghiệp, ác nghiệp là riêng của
mình, còn quả của thiện nghiệp, ác nghiệp không chỉ riêng cho mình, mà còn có
ảnh hưởng đến người khác, chúng sinh khác.

Do quả ác nghiệp nào khiến cho Ngài
phải chịu nằm trong bụng mẹ chịu khổ suốt 7 năm lẻ 7 ngày?

Đức Thế Tôn dạy rằng:

– Này chư Tỳ khưu, Sīvali phải chịu
khổ do quả ác nghiệp đã tạo trong kiếp quá khứ!

Trong thời quá khứ, tiền kiếp của
Sīvali là Thái tử của Đức vua trị vì kinh thành Barāṇasi, khi phụ vương băng
hà, Thái tử lên ngôi vua. Lúc ấy, có Đức vua láng giềng mưu toan kéo quân đến
chiếm thành Barāṇasi, trên đường tiến quân, vị vua ấy lập doanh trại cho quân
nghỉ đêm.

Đức vua kinh thành Barāṇasi hay tin,
bèn bàn tính với Hoàng thái hậu tìm cách ngăn cản quân xâm lược, rồi đem quân
vây quanh doanh trại quân địch. Vây chặt các cửa doanh trại suốt 7 ngày đêm
không cho một ai ra vào được.

Khi ấy, Đức vua kinh thành Barāṇasi
ngự đến nghe Đức Phật Độc Giác thuyết giảng về thiện pháp, ác pháp; Đức Phật
Độc Giác khuyên dạy mọi người không nên tạo ác nghiệp, để tự làm khổ mình, khổ
người; nên cố gắng tạo thiện nghiệp để đem lại sự an lạc cho mình, cho người.

Sau khi nghe pháp xong, Đức vua hiểu
ác nghiệp, thiện nghiệp, nên liền truyền lệnh mở vòng vây doanh trại quân
địch, thả cho vị vua nước láng giềng và quân lính trở về đất nước họ.

Đức vua kinh thành Barāṇasi sau khi
chết
, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh đoạ vào địa ngục, chịu khổ suốt thời
gian
lâu dài. Nay kiếp hiện tại này, do thiện nghiệp cho quả tái sanh vào lòng
công chúa Suppavāsā, là hậu thân của bà Hoàng thái hậutiền kiếp đã đồng tình
với vương nhi vây hảm doanh trại kẻ thù. Do quả của ác nghiệp quá khứ còn dư
lại, nên khiến cho Ngài Đại Đức Sīvali và công chúa Suppavāsā cùng chịu khổ
trong suốt 7 năm lẻ 7 ngày.

Đức Phật dạy về nghiệp và quả của
nghiệp bằng bài kệ rằng:

“Yādisaṃ
vapate bījaṃ,
Tādisaṃ harate phalaṃ.

Kalyāṇakārī
kalyāṇaṃ,
Pāpakārī ca pāpakaṃ”.

[Bộ
Samyuttanikāya, phần Sagāthavagga]

Người
nào gieo hạt giống thế nào,
Người ấy gặt quả như thế ấy.

Người
hành thiện, thì được quả thiện.
Người hành ác, thì được quả ác.

Tất cả chúng sinh nói chung, con người
nói riêng, ai ai cũng thích sự an lạc, chán ghét sự khổ; mà sự an lạc,
sự khổ đó là quả (không phải nhân), nên không có quyền chọn lựa.

Nên biết rằng: sự an lạc là quả của
thiện nghiệp, sự khổ là quả của ác nghiệp.

Như vậy, thiện nghiệp, ác nghiệpnhân
(không phải quả) nên có quyền chọn lựa.

Con người có quyền chủ động
chọn lựa tạo thiện nghiệp hoặc ác nghiệp; một khi đã tạo thiện
nghiệp
hoặc ác nghiệp nào rồi, thiện nghiệp hoặc ác nghiệp đến thời kỳ, có cơ
hội cho quả của chúng; con người hoàn toàn bị động phải chấp nhận, mà
không có quyền phủ nhận, bởi vì chính mình là người thừa hưởng quả của nghiệp
ấy.

Như vậy:

Thích sự an lạc (thích
hưởng quả)
thì phải biết thích tạo mọi thiện nghiệp (gieo nhân).

Chán ghét sự khổ (không
thích quả)
thì phải biết chán ghét, không tạo mọi ác nghiệp (không gieo
nhân).

Bởi vì, sự công minh của nghiệp
không thiên vị một ai cả, dầu là Đức Phật hoặc chư bậc Thánh A-ra-hán.

Theo quan niệm Phật giáo “còn
nghiệp thì còn tái sanh luân hồi”
không hoàn toàn đúng; bởi vì, bậc
Thánh A-ra-hán
vẫn còn nghiệp cũ, nhưng sau khi tịch diệt
Niết Bàn (chết) không còn tái sanh kiếp nào khác nữa.

Nên hiểu đúng là: “còn
phiền não tham ái, thì còn tái sanh luân hồi”.
Cho nên, bậc Thánh
A-ra-hán đã diệt đoạn tuyệt mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót, đến
khi Ngài hết tuổi thọ, đồng thời cũng là lúc tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử
sanh luân hồi trong tam giới; mặc dầu nghiệp cũ của Ngài vẫn còn, nhưng tất cả
nghiệp ấy đều trở thành vô hiệu quả (ahosikamma).

Tất cả mọi thiện nghiệp, mọi ác
nghiệp
không nhất thiết đều phải cho quả cả thảy. Thiện nghiệp nào, ác nghiệp
nào có cơ hội, có năng lực, có đầy đủ nhân duyên, thì thiện nghiệp ấy, ác
nghiệp
ấy mới có cơ hội cho quả. Còn thiện nghiệp, ác nghiệp nào không có đủ
nhân duyên; thì thiện nghiệp, ác nghiệp ấy không có cơ hội cho quả.

Nhân duyên chính đó là tham
ái
.
Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, đến khi
tịch diệt Niết bàn (chết), tham ái dẫn dắt tái sanh kiếp sau không còn nữa, nên
chấm dứt khổ sanh giải thoát mọi cảnh khổ già, khổ bệnh, khổ
chết, mới có sự an lạc tuyệt đối, như Đức Phật dạy:

“Nibbānaṃ
paramaṃ sukhaṃ”.
“Niết bàn an lạc tuyệt đối”.

Bố
Thí
Bố Thí Ba La Mật

Bố thí là một hành động đem của cải
tiền bạc, sự hiểu biết của mình… ban bố cho người khác, chúng sinh khác, với
tâm tế độ để tạo phước thiện cho mình, để hưởng được quả báu tốt lành theo ý
nguyện
của mình.

Những thí chủ bố thí cầu mong được
giàu sang phú quý, trở thành phú hộ, vua chúa, hoàng hậu … hoặc cầu mong được
tái sanh lên cõi trời dục giới, trở thành vua trời, hoàng hậu của vua trời,
v.v…

Như vậy, sự bố thí ấy chỉ là phước
thiện
bố thí
bình thường (không đặc biệt) cho quả báu an lạc
trong cõi người, cõi trời dục giới mà thôi, vẫn còn phải chịu cảnh khổ tử sanh
luân hồi trong tam giới, vẫn chưa giải thoát khổ được.

Bố thí để trở thành bố thí ba
la mật
,
người thí chủ cần phải có 2 điều kiện:

Sự bố thí ấy không làm nơi nương nhờ
của tham ái (taṇhā), ngã mạn (māna)
tà kiến (diṭṭhi).

Sự bố thí ấy với tâm từ, tâm bi tế
độ
và có nguyện vọng mong đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, diệt
khổ
tái sanh,
để giải thoát mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong tam
giới
.

Với mục đích cứu cánh Niết Bàn ấy,
một số vị có nguyện vọng trở thành Đức Phật Toàn Giác, để tế độ chúng sinh cùng
chứng ngộ Niết Bàn. Một số vị có nguyện vọng trở thành Đức Phật Độc Giác, hoặc
bậc Thánh Thanh Văn Giác….

Để trở thành Đức Phật Toàn Giác,
hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc Thánh Thanh Văn Giác bậc nào, trước tiên đều cần
phải
tạo 10 pháp hạnh ba la mật làm nền tảng để chứng đạt đến sở nguyện của
mình.

10 pháp hạng ba la mật là:

1- Bố thí
ba la mật
(dāna pāramī).
2- Giữ giới ba la mật (sīla pāramī).
3- Xuất gia ba la mật (nekkhamma pāramī).
4- Trí tuệ ba la mật (paññā pāramī).
5- Tinh tấn ba la mật (vīriya pāramī).
6- Nhẫn nại ba la mật (khanti pāramī).
7- Chân thật ba la mật (sacca pāramī).
8- Chí nguyện ba la mật (adhiṭṭhāna pāramī).
9- Tâm từ ba la mật (mettā pāramī).
10- Tâm xả ba la mật (upekkhā pāramī).

Trong khi đang tạo, đang bồi bổ hạnh
ba la mật để cho đầy đủ, đều gọi là Đức Bồ Tát (Bodhisatta).

Đối với Đức Bồ Tát Toàn Giác (Sammā
Sambodhisatta),
ví như những tiền kiếp của Đức Phật Gotama của chúng ta,
còn là Đức Bồ Táttrí tuệ ưu việt hơn đức tin
tinh tấn. Ngài phát nguyện mong trở thành Đức Phật Toàn Giác
trong tâm suốt 7 a tăng kỳphát nguyện ra bằng lời nói để cho mọi chúng sinh
nghe biết suốt 9 a tăng kỳ. Trong hai thời kỳ này, Đức Bồ Tát vẫn còn là Đức Bồ
Tát
bất định (aniyatabodhisatta).

Đến thời kỳ được Đức Phật thọ ký,
Ngài là Đức Bồ Tát Sumedha đến hầu Đức Phật Dīpankara tạo duyên lành, Đức Phật
Dīpankara dùng Phật nhãn thấy rõ, biết rõ Ngài có nguyện vọng trở thành Đức
Phật
Toàn Giác, nên Ngài thọ ký rằng:

“Vị đạo sĩ Sumedha này trong
thời vị lai, còn 4 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa sẽ trở thành Đức Phật
Toàn Giácdanh hiệu Đức Phật Gotama”.

Sau khi được thọ ký, Ngài trở thành
Đức Bồ Tát cố định (niyatabodhisatta) tiếp tục bồi bổ 10 hạnh ba la mật
bậc thường, 10 hành ba la mật bậc trung và 10 hạnh ba la mật bậc thượng, cho
đầy đủ 30 hạnh ba la mật để trở thành Đức Phật Toàn Giác.

Như vậy, để trở thành Đức Phật Toàn
Giác
, Đức Bồ Tát Toàn Giác cần phải tạo 30 hạnh ba la mật từ khi phát nguyện
trong tâm suốt 7 a tăng kỳ, phát nguyện ra bằng lời nói suốt 9 a tăng kỳ
thời gian sau khi Đức Bồ Tát đã được Đức Phật thọ ký rồi, còn phải cố gắng tinh
tấn
bồi bổ thêm 30 pháp hạnh ba la mật suốt 4 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp
trái đất nữa. Đó là thời gian đối với Đức Bồ Táttrí tuệ ưu việt
hơn đức tintinh tấn.

Còn đối với Đức Bồ Tátđức
tin
ưu việt
hơn trí tuệtinh tấn, thì thời gian gấp đôi Đức Bồ Tát
trí tuệ ưu việt. Nghĩa là Đức Bồ Tátđức tin ưu việt cần
phải
tạo 30 hạnh ba la mật phát nguyện trong tâm suốt 14 a tăng kỳ; phát nguyện
ra bằng lời nói suốt 18 a tăng kỳ và sau khi đã được Đức Phật thọ ký rồi cần
phải
bồi bổ thêm 30 hạnh ba la mật suốt 8 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái
đất, để trở thành Đức Phật Toàn Giác.

Đối với Đức Bồ Táttinh tấn
ưu việt
hơn trí tuệđức tin, thì thời gian gấp đôi Đức Bồ Tátđức
tin
ưu việt. Nghĩa là Đức Bồ Táttinh tấn ưu việt cần phải tạo
30 hạnh ba la mật phát nguyện trong tâm 28 a tăng kỳ; phát nguyện ra bằng lời
nói
suốt 36 a tăng kỳ và sau khi đã được Đức Phật thọ ký rồi, cần phải bồi bổ
thêm 30 hạnh ba la mật suốt 16 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở
thành
Đức Phật Toàn Giác.

Đối với Đức Bồ Tát Độc Giác
(Pacceka Bodhi-satta)trí tuệ ưu việt hơn đức tintinh tấn, cần
phải
tạo 20 hạnh ba la mật (10 pháp hạnh ba la mật bậc thường, 10 pháp hành ba
la mật
bậc trung) suốt 2 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành
Đức Phật Độc Giác.

Đối với Đức Bồ Tát tối thượng
Thanh Văn
(Aggasāvakabodhisatta)trí tuệ ưu việt, cần phải
tạo 10 hạnh ba la mật suốt 1 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kieáp trái đất, để trở
thành
bậc Thánh tối thượng Thanh Văn.

Đối với Đức Bồ Tát đại Thanh
Văn
(Mahā-sāvakabodhisatta)trí tuệ ưu việt, cần phải tạo 10
hạnh ba la mật suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành bậc Thánh đại
Thanh
Văn.

Đối với Đức Bồ Tát Thanh Văn
hạng thường
(Pakaṭisāvakabodhasatta)trí tuệ ưu việt, cần
phải
tạo 10 hạnh ba la mật dưới 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành bậc
Thánh nhân hạng thường, v.v….

Trong 10 pháp hành ba la mật, bố thí
ba la mật
làm nền tảng hỗ trợ cho các pháp hạnh ba la mật khác. Các pháp hạnh
khác được phát triển tốt đều nương nhờ vào bố thí ba la mật.

1- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho bố
thí ba la mật
như thế nào?

Có số người đã từng tạo pháp hạnh bố
thí ba la mật
trong những tiền kiếp, kiếp hiện tại được tái sanh trong gia đình
giàu sang phú quý, có nhiều của cải, trong dòng dõi cao quý, được phần đông,
nhiều người kính trọng.

Số người ấy vốn có bản tánh hoan hỉ
trong hạnh bố thí ba la mật từ tiền kiếp, nay kiếp hiện tại này, bản tính hoan
hỉ
trong hạnh bố thí ba la mật ấy không mất đi, mà lại càng tăng trưởng.

Ví dụ:

Tích Đức Bồ Tát Vessantara tiền thân
Đức Phật Gotama của chúng ta, khi Ngài đầu thai vào lòng chánh cung hoàng hậu
Phussatī (hoàng hậu của đức vua Sivi trị vì xứ Sivi); đúng 10 tháng Ngài mới
sanh ra đời, vừa mới mở mắt Ngài đưa bàn tay và nói câu đầu tiên với Hoàng hậu
rằng:

“Amma! Dānaṃ dassāmi, atthi
kiñci te dhanaṃ”.

“Mẫu hậu ơi! Của cải mẹ có
những gì, cho con, con sẽ bố thí”.

Trong vòng tử sanh luân hồi của mỗi
chúng sinh, phần thân (sắc uẩn) thì thay đổi mỗi kiếp, song phần
tâm
(4 danh uẩn: thọ, tưởng, hành, thức) thì vẫn còn nguyện vẹn bản
tánh
cũ; tiền kiếp đã hoan hỉ trong hạnh bố thí, thì kiếp hiện tại cũng hoan hỉ
trong việc bố thí ba la mật hơn nữa.

Cho nên, bố thí ba la mật hỗ trợ cho
hạnh bố thí ba la mật là như vậy.

2- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho giữ
giới
ba la mật như thế nào?

Giữ giới là giữ cho thân
khẩu không phạm giới. Phạm giới hoặc không phạm giới do tác
ý
(cetanā) là chính.

Tác ý bất thiện tâm tạo ác nghiệp do
thân và khẩu gọi là phạm giới.

Tác ý thiện tâm tránh xa mọi hành ác
do thân: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm; và tránh xa mọi lời nói
ác do khẩu: không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời thô tục, không
nói lời vô ích, gọi là giữ giới.

Tác ý thiện tâm tránh xa cách sống
tà mạng do thân và khẩu hành ác; sống theo chánh mạng.

Như vậy, đối với người đã từng tạo
hạnh bố thí ba la mật trong những kiếp quá khứ, kiếp hiện tại được giàu sang
phú quý có nhiều của cải, đời sống đầy đủ sung túc, có điều kiện sống theo chánh
mạng
, hành theo chánh nghiệp và có chánh ngữ. Nhờ vậy, việc giữ giới ba la
mật
được thuận lợi
hơn những người nghèo khổ, thiếu thốn, làm việc không đủ
sống, bởi vì ít phước bố thí. Những người nghèo khổ cũng có thể giữ giới ba la
mật
được, nhưng không được thuận lợi như người giàu có.

Cho nên, bố thí ba la mật hỗ trợ cho
hạnh giữ giới ba la mật được thành tựu dễ dàng.

Ví dụ:

Tích Long vương Saṅkhapāla (tiền
thân
của Đức Phật Gotama) có nhiều oai lực, có thần thông, chán nản cảnh hưởng
sự an lạc cõi Long cung, có nguyện vọng giữ bát giới trong những ngày giới hàng
tháng, nên Long Vương xuất hiện lên cõi người để nguyện thọ trì bát giới cho
được trong sạch và đầy đủ.

Long Vương phát nguyện 4 điều rằng:

Người nào
cần đến da, thì lấy da.
Người nào cần đến thịt, thì lấy thịt.
Người nào cần đến gân, thì lấy gân.
Người nào cần đến xương, thì lấy xương.

Dầu phải hy sinh sanh mạng, ta quyết
tâm
giữ bát giới cho được trong sạch và đầy đủ.

3- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho xuất
gia
ba la mật như thế nào?

Có số người đã từng tạo bố thí ba la
mật
trong nhiều kiếp trong quá khứ, kiếp hiện tại được tái sanh trong gia đình
giàu sang phú quý, có nhiều của cải, cuộc sống đầy đủ sung túc, đến khi lớn lên
trở thành người chủ tài sản của ông bà, cha mẹ để lại. Họ tự suy nghĩ rằng: “Những
của cải, tài sản này từ tổ tiên, ông bà tích lũy truyền lại cho cha mẹ, nay cha
mẹ
truyền lại cho ta. Những người thân yêu chết chẳng ai đem theo được một món
của cải nào; về phần ta, đến khi chết cũng như vậy thôi, chẳng có sự lợi ích,
an lạc nào đáng kể. Điều tốt hơn, ta nên từ bỏ mọi thứ của cải này, đi xuất gia
hành phạm hạnh cao thượng”.

Hoặc đối với số người trong cuộc
sống đầy đủ, sung túc đi tìm đến những bậc Thiện trí, Bậc xuất gia lắng nghe
chánh pháp, nhận thức được rằng: “đời sống người tại gia có nhiều phiền
muộn
, phát sanh nhiều phiền não khổ tâm. Tốt hơn, ta nên từ bỏ nhà, bỏ tất cả
mọi thứ của cải đi xuất gia hành phạm hạnh cao thượng của bậc Thiện trí, mong
giải thoát khỏi tử sanh luân hồi…”.

Như vậy là nhờ bố thí ba la mật hỗ trợ
cho hạnh xuất gia ba la mật.

Ví dụ:

Tích đức vua Cūḷasutasoma (Đức Bồ
Tát
tiền thân của Đức Phật Gotama của chúng ta). Một hôm Đức Vua truyền bảo
người thợ hớt tóc rằng:

– Khi nào nhà ngươi nhìn thấy trên
đầu của Trẫm có sợi tóc bạc, thì nhà ngươi báo cho Trẫm biết ngay.

Một thời gian sau, người thợ hớt tóc
nhìn thấy trên đầu Đức Vua có sợi tóc bạc, liền tâu:

– Tâu Hoàng Thượng, hạ thần nhìn
thấy trên đầu Hoàng Thượng có sợi tóc bạc.

Đức vua truyền lệnh nhổ sợi tóc bạc
trình lên, Đức Vua cầm sợi tóc bạc mà suy tư rằng: “sự già đã chế ngự
thân ta rồi!”.

Sáng hôm sau lâm triều, Đức Vua cầm
sợi tóc bạc ấy phán các quan văn võ, vương gia, giai cấp Bà la môn rằng:

– Đây là sợi tóc bạc mọc trên đầu
Trẫm, Trẫm đến tuổi già rồi, Trẫm truyền cho các ngươi rõ, bây giờ Trẫm đi xuất
gia
hành phạm hạnh.

Mặc dầu Thái Thượng Hoàng, Hoàng
Thái Hậu, các quan trong triều, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa… khẩn cầu, năn
nỉ
Đức Vua đừng đi xuất gia trở thành đạo sĩ, nhưng Đức Vua quyết chí đi xuất
gia
hành phạm hạnh.

Đức vua truyền dạy, tuổi thọ con
người
ngắn ngủi, dù ở lại sống không bao lâu nữa cũng phải chết, từ biệt mọi
người
, Đức Vua khuyên dạy mọi người nên cố gắng tạo mọi thiện pháp, chớ nên dễ
duôi, quên mình tạo ác pháp sau khi chết, sẽ bị sa vào trong cõi ác giới: địa
ngục
, atula, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ lâu dài do ác nghiệp của mình đã tạo.

Đức vua Bồ Tát từ bỏ ngai vàng, cung
điện đi vào rừng Himavana xuất gia trở thành đạo sĩ.

4- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho trí
tuệ
ba la mật như thế nào?

Có số người đã từng tạo bố thí ba la
mật
trong nhiều kiếp trong quá khứ, kiếp hiện tại được tái sanh trong gia đình
giàu sang phú quý, có nhiều của cải, cuộc sống đầy đủ sung túc. Họ có điều kiện
thuận lợi theo học pháp học, để phát sanh trí tuệ hiểu biết do học; và theo hành
pháp
hành, nhất là pháp hành thiền tuệ, để phát sanh trí tuệ thiền tuệ trong
tam giới, thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; thấy rõ,
biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp,
sắc pháp; và trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới đó là 4 Thánh Đạo Tuệ và 4 Thánh
Quả
Tuệ, chứng ngộ Niết Bàn. Trí tuệ này là pháp hạnh trí tuệ ba la mật.

Như vậy, pháp hạnh bố thí ba la mật
hỗ trợ cho pháp hạnh trí tuệ ba la mật.

Ví dụ:

Tích Đức Bồ Tát Vidhūra, Đức Bồ Tát
Maho-satha, Đức Bồ Tát Senaka… (tiền thân Đức Phật Gotama của chúng ta), sanh
trong gia đình giàu sang, quyền quý, được học hànhtrí tuệ hơn người.

Còn số người nghèo khổ, cuộc sống
thiếu thốn, cơ hội học theo pháp học và hành theo pháp hành để phát sanh trí
tuệ
không dễ dàng. Trong đời, có những đứa trẻ rất thông minh, song sanh trưởng
trong gia đình nghèo khổ, nên không có cơ hội thuận lợi đi học như những đứa
trẻ con nhà giàu có.

Vì vậy, pháp hành trí tuệ ba la mật
được thuận lợi cần nương nhờ hạnh bố thí ba la mật.

5- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho tinh
tấn ba la mật
như thế nào?

Tinh tấntâm sở, khi đồng sanh
với ác tâm thì tạo ác nghiệp do thân, khẩu ý; khi đồng sanh với thiện tâm thì
tạo thiện nghiệp do thân, khẩu, ý.

Tinh tấn ba la mật đó là chánh tinh
tấn
(sammā-vāyāma), gồm 4 điều:

Tinh tấn
diệt ác pháp đã sanh.
Tinh tấn ngăn không cho ác pháp phát sanh.
Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sanh.
Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sanh.

Tinh tấn tiến hành thiền định để
chứng đắc các bậc thiền và tinh tấn tiến hành thiền tuệ để chứng đắc 4 Thánh
Đạo
Tuệ, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não tham ái, đó là tinh tấn ba la mật.

Có số người đã từng tạo bố thí ba la
mật
, kiếp hiện tại có nhiều của cải, cuộc sống đầy đủ sung túc, hỗ trợ cho hạnh
tinh tấn ba la mật được thành tựu dễ dàng hơn người nghèo khổ, đời sống thiếu
thốn
, cần phải tinh tấn trong công việc làm ăn để nuôi mạng.

Tinh tấn ba la mật như Đức Bồ Tát
thái tử Janaka, tinh tấn bơi lội trong biển đại dương suốt 7 ngày đêm không
ngừng nghỉ, làm động tâm chư thiên đến cứu thoát chết….

Tinh tấn ba la mật được thành tựu
cần nương nhờ bố thí ba la mật làm nền tảng.

6- Bố thí ba la mật hỗ trợ nhẫn nại
ba la mật như thế nào?

Pháp nhẫn nại là pháp chịu đựng mọi
cảnh trái ý nghịch lòng một cách tự nhiên, không hề phát sanh tâm không hài
lòng
. Pháp nhẫn nại đó chính là vô sân tâm sở (adosacetasika)
đồng sanh với đại thiện tâm.

Pháp nhẫn nại ở đây
không phải là nhẫn nhục,nhẫn nhục thì bên trong tâm còn ấm
ức, uất hận trong lòng; nhưng bên ngoài tỏ ra bình tĩnh, chưa biểu lộ ra bằng
hành động, lời nói. Còn nhẫn nại, bên trong chỉ có thiện tâm phát sanh, bên
ngoài thân và khẩu vẫn giữ được tánh tự nhiên; hành động và lời nói vẫn bình
thường
, không có gì thay đổi, đó là hạnh nhẫn nại ba la mật.

Có số người đã từng tạo bố thí ba la
mật
trong những kiếp quá khứ, kiếp hiện tại giàu sang quyền quý, cuộc sống đầy
đủ
sung túc, có điều kiện và cơ hội gần gũi thân cận với bậc Thiện trí, lắng
nghe học hỏi chánh pháp của bậc Thiện trí, được hiểu rõ pháp nhẫn nại
là một đức tính cao thượng mà chư Phật tán dương ca tụng, cho nên họ cố gắng
thực hành hạnh nhẫn nại ba la mật để trở thành đức tính cao quý của họ. Vì vậy,
mỗi khi gặp cảnh trái ý nghịch lòng, họ vẫn giữ thiện tâm trong sạch tự nhiên,
không hề phát sanh tâm không hài lòng (sân tâm) nơi đối tượng ấy, không tự làm
khổ mình, không làm khổ người.

Vậy, bố thí ba la mật hỗ trợ cho
hạnh nhẫn nại ba la mật.

Ví dụ:

Tích Đức Bồ Tát Khantivadī (tiền
thân
của Đức Phật Gotama) hành hạnh nhẫn nại ba la mật. Đức vua Kalāpu tức giận
Đức Bồ Tát, truyền lệnh cho người hành quyết chặt hai chân, hai tay, hai lỗ
tai, 2 lỗ mũi của Đức Bồ Tát, Ngài hành nhẫn nại ba la mật nên sân tâm không
phát sanh, dẫu thân của Ngài đau đớn đến cùng cực, Ngài phải viên tịch ngay
ngày hôm ấy.

Còn đức vua Kalāpu đã tạo tội ác
nặng, bị đất rút chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sanh vào địa ngục Avīci chịu
khổ do ác nghiệp của mình đã tạo.

7- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho chân
thật
ba la mật như thế nào?

Trong đời này có hai pháp chân thật:

Chân thật bằng lời nói (sammutisacca).
Chân thật nghĩa pháp (paramatthasacca).

Thế nào là chân thật bằng lời nói?

Người đời chế định ra tiếng nói để
thông tin, truyền đạt tư tưởng hiểu biết lẫn nhau; khi thấy, nghe biết thế nào,
nói đúng sự thật như thế ấy, không cố ý nói sai, nói dối lừa gạt người khác,
gọi là chân thật bằng lời nói.

Thế nào là chân thật nghĩa pháp?

Chân thật nghĩa pháp là pháp có thật
tánh
chân thật, thể bất biến, đó là 4 pháp: tâm, tâm sở, sắc pháp
Niết Bàn.
Phân ra làm hai loại:

* Chân thật theo thực tánh pháp (sabhāvasacca)
có 3 pháp:

Thiện pháp
cho quả an lạc.
Bất thiện pháp cho quả khổ.
Phi thiện, phi bất thiện pháp: là pháp không phải thiện cũng không phải bất
thiện
, đó là các pháp còn lại như: quả tâm, duy tác tâm, sắc pháp

* Chân thật theo Tứ thánh đế:

Khổ thánh
đế
.
Tập thánh đế.
Diệt thánh đế.
Đạo thánh đế.

Đức Bồ Tát hành hạnh chân thật ba la
mật
nói như thế nào, thì làm như thế ấy; làm như thế nào, thì nói
như thế ấy;
lời nóiviệc làm lúc nào cũng chân thật, không nói dối,
không làm dối.

Chân thật ba la mật là đã nói lời
chân thật, rồi làm đúng theo lời chân thật ấy, không phải nói mà không làm đúng
theo lời nói.

Pháp hạnh chân thật ba la mật được
thành tựu dễ dàng, do nương nhờ bố thí ba la mật làm nền tảng.

Ví dụ:

Tích Đức Bồ Tát Mahāsutasoma (tiền
thân
của Đức Phật Gotama) thực hành hạnh chân thật ba la mật. Đức Bồ Tát làm
vua trị vì kinh thành Indapatta.

Một hôm đức vua Bồ Tát Mahāsutasoma
đang làm lễ tắm tại hồ nước, thì kẻ sát nhân ăn thịt người tên Porisāda bắt
Ngài để giết, lấy máu tế thần rồi ăn thịt Ngài.

Trước khi làm lễ tắm, Ngài có hứa
với vị pháp sư Bà la môn rằng: khi hồi cung sẽ nghe pháp. Nay Ngài bị
bắt
, không giữ đúng lời hứa với vị pháp sư Bà la môn; muốn giữ đúng lời hứa,
nên Ngài xin kẻ sát nhân Porisāda, cho phép Ngài trở về cung nghe pháp đúng
theo lời đã hứa, rồi Ngài sẽ trở lại gặp kẻ sát nhân Porisāda. Tên sát nhân
Porisāda ban đầu không tin nơi Ngài, nhưng nhìn thấy Ngài vẫn tự nhiên không tỏ
ra
một chút sợ hãi đến sự chết, với oai lực từ lời chân thật của Ngài, khiến
tên sát nhân Porisāda tin theo, cho phép Ngài hồi cung.

Khi Đức vua Bồ Tát hồi cung, thỉnh
vị pháp sư lên ngồi trên ngai vàng thuyết pháp, còn Đức Vua ngự ở dưới thấp,
cung kính nghe pháp. Sau khi nghe pháp xong, giữ đúng lời hứa với kẻ sát nhân
Porisāda, Đức vua Bồ Tát trở lại tìm tên sát nhân. Kẻ sát nhân vô cùng kinh
ngạc
, không ngờ Đức vua Bồ Tát giữ đúng lời hứa đến gặp y, để y giết lấy máu tế
thần rồi ăn thịt.

Do oai lực hạnh chân thật ba la mật
của Đức Bồ Tát, kẻ sát nhân không dám giết Ngài, y kính xin Ngài thuyết lại bài
pháp mà Ngài đã nghe từ vị pháp sư Bà la môn.

Ban đầu Đức Bồ Tát không chịu
thuyết, bởi vì kẻ sát nhân đang hành ác pháp của người ác; còn thiện pháp của
bậc Thiện trí người ác không thể hiểu được.

Về sau kẻ sát nhân hồi tâm hướng
thiện, thiết tha khẩn khoản, yêu cầu Đức Bồ Tát thuyết pháp. Ngài nhận thấy kẻ
sát nhân biết phục thiện, nên Ngài thuyết pháp tế độ kẻ sát nhân cải tà quy
chánh
, thọ trì ngũ giới. Từ đó về sau không giết người ăn thịt nữa, trở thành
người thiện.

Đức Bồ Tát thực hành hạnh chân thật
ba la mật được thành tựu, nhờ hạnh bố thí ba la mật làm nền tảng.

8- Bố thí ba la mật hỗ trợ chí
nguyện
ba la mật như thế nào?

Chí nguyện ba la mật thường đi theo
ba la mật khác.

Ví dụ:

Tích Đức Bồ Tát Temiya, Thái tử của
đức vua Kāsika, Đức vua vô cùng yêu quý thái tử Temiya, chắc chắn sẽ truyền
ngôi báu cho Thái tử. Một hôm Đức Vua lâm triều, Thái tử nằm trên vế của Đức
vua, quân lính triều đình bắt được một nhóm trộm cướp đến trình Đức vua, Đức
vua truyền lệnh hành phạt bọn cướp. Thái tử nằm trên vế nghe rõ lời truyền lệnh
của phụ vương mình, tự nhiên cảm thấy sợ hãi, nghĩ rằng: “Phụ vương của
ta đã tạo ác nghiệp, khó tránh khỏi khổ trong cảnh địa ngục”.

Đức Bồ Tát nằm ngủ thiếp đi một lát,
khi tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên ngai vàng. Ngài nhớ lại tiền kiếp đã từng
làm vua 20 năm, tạo ác nghiệp, nên sau khi chết, do ác nghiệp cho quả tái sanh
vào địa ngục chịu khổ suốt 80.000 năm. Ngài suy tư rằng: “Nếu sau này
ta lớn lên nối ngôi vua, thì chắc chắn ta cũng sẽ sa vào địa ngục trở
lại”.
Đức Bồ Tát buồn lo, sợ hãi chưa biết làm thế nào để tránh khỏi
làm vua.

Khi ấy có một thiên nữ kiếp trước đã
từng làm mẹ Đức Bồ Tát, khuyên dạy Đức Bồ Tát rằng:

– Này Temiya con yêu quý! Con chớ
nên buồn lo sợ hãi, nếu con không muốn làm vua, con nên thực hành theo điều mẹ
khuyên dạy:

Con
không bại liệt, làm như người bại liệt.
Con không câm, làm như người câm.
Con không điếc, làm như người điếc.
Con không nên biểu lộ cho người khác biết mình là người có trí tuệ hơn
người.

Làm được như vậy, con chắn chắn
tránh được làm vua.

Lắng nghe lời khuyên dạy của vị
thiên nữ, Đức Bồ Tát vô cùng hoan hỉ rồi phát nguyện theo những
điều mà vị thiên nữ chỉ dạy, nghiêm chỉnh thực hành suốt 16 năm trường, không
một ai có thể phát giác ra được. Cuối cùng các quan tâu lên Đức Vua rằng:

Tâu Đại Vương, nếu để Thái tử tiếp
tục
sống trong cung điện, thì sẽ có ba điều tại hại:

Tai
hại
cho Đại Vương.
Tai hại cho Hoàng hậu.
Tai hại cho ngai vàng, giang sơn đất nước.

Vậy kính xin Hoàng thượng lấy xe chở
Thái tử đem chôn trong rừng sâu.

Đức vua sợ những điều tại hại sẽ xảy
ra, nên đành chuẩn tấu, truyền chỉ phán bảo quân lính trong triều đình chở Đức
Bồ Tát vào rừng để chôn.

Hôm ấy, Đức Bồ Tát hành chí
nguyện
ba la mật
đã thành tựu, suốt 16 năm không cử động, nay đến lúc
Đức Bồ Tát dùng tâm lực vận chuyển thân thể, bước xuống xe đi đi lại lại, đi
đến chỗ những người lính đang đào huyệt. Ngài hỏi rằng:

– Các ngươi đào huyệt này để làm gì?

Chúng tôi đào huyệt này để chôn
Thái tử Temiya, là người bại liệt, câm, điếc, bất hạnh cho triều đình. – Bọn
lính thưa.

– Này các ngươi, các người hãy xem,
ta chính là Thái tử Temiya, ta không phải là người bại liệt, không phải người
câm, điếc… sở dĩ ta có chí nguyện làm như người bại liệt, câm, điếc, là vì ta
không muốn làm vua. Hôm nay ta sẽ xuất gia trở thành đạo sĩ.

9- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho tâm
từ
ba la mật như thế nào?

Tâm từ ba la mật, là đại thiện tâm
mong cầu tất cả chúng sinh an lạc không oan trái lẫn nhau, không khổ thân,
không khổ tâm, mong cầu tất cả mọi chúng sinh tự mình giữ gìn thân tâm thường
được an lạc.

Tâm từ đó là vô sân tâm sở (adosacetasika)
đồng sanh trong đại thiện tâm.

Tâm từ khi biểu hiện ra nơi thân,
thì thân hành động hợp với tâm từ như giúp đỡ, bố thí những vật cần thiết cho
người ấy, chúng sinh ấy được an lạc.

Tâm từ khi biểu hiện nơi khẩu,
thì miệng nói lời hợp với tâm từ, đem lại cho người nghe sự lợi ích, sự tiến
hóa
, sự an lạc lâu dài.

Khi tâm từ phát sanh trong tâm,
thì làm cho tâm mình cảm thấy mát mẻ dễ chịu, rải tâm từ đến mọi người, mọi
chúng sinh, cầu mong cho tất cả chúng sinh được thân tâm thường an lạc, làm cho
người khác, chúng sinh khác cảm nhận được sự mát mẻ, an lạc, thích gần gũi thân
cận, thương yêu kính mến nhau.

Như vậy, hạnh tâm từ ba la mật này
cũng cần nương nhờ hạnh bố thí ba la mật làm nền tảng.

Ví dụ:

Tích Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma (tiền
thân
của Đức Phật Gotama) hành hạnh tâm từ ba la mật, khi Ngài ở
trong rừng không những chư thiên khắp mọi nơi kính mến Ngài, mà còn các loài
thú dữ cũng cảm mến Ngài. Khi Ngài đi vào rừng lấy nước, cả đàn thú rừng đủ
loại đi theo Ngài, quyến luyến Ngài không muốn rời.

Trong gia đình, thân bằng quyến
thuộc
tâm từ với nhau có phải không?

Trong gia đình, như vợ chồng thương
yêu
nhau, cha mẹ thương yêu con, anh em, chị em thương yêu nhau, ông bà yêu
cháu…; trong dòng họ, những người bà con thân bằng quyến thuộc thương yêu
nhau… tất cả mọi tình thương yêu ấy không phải tâm từ thật mà gọi là tâm
từ
giả.
Bởi vì, đó là biểu hiện tình thương với tham tâm, không phải
thiện tâm. Để xác minh, thực nghiệm điều này, khi tình thương (tham)
không được như ý, sẽ phát sanh không hài lòng, đó là sân tâm đối nghịch
với tâm từvô sân tâm.

Tâm từ giả, đó là tình thương với tham tâm, khi tham muốn không được
như ý, liền làm nhân để cho phát sanh sân tâm (quả).

Còn tâm từ thật đó là
sân
tâm sở đồng sanh với đại thiện tâm, mong cầu mọi điều an lành
đến tất cả chúng sinh không phân biệt thân hay thù, cho nên dù đối tượng thế
nào đi nữa, tâm tham (hài lòng), hoặc tâm sân (không hài lòng) không phát sanh,
đó là tâm từ thật.

10- Bố thí ba la mật hỗ trợ cho tâm
xả ba la mật như thế nào?

Tâm xả ba la mậtthiện tâm nghĩ
về tất cả chúng sinh một cách trung dung do suy nghĩ rằng:

– Mỗi chúng sinh có nghiệp là của
riêng
mình, cho nên, ta không thể làm cho chúng sinh được an lạc và cũng không
thể làm cho chúng sinh khổ. Sở dĩ chúng sinh được an lạc là do quả của thiện
nghiệp
của họ đã tạo; và chúng sinh chịu cảnh khổ cũng là do quả của ác nghiệp
họ đã tạo. Mỗi chúng sinh nương nhờ hoàn toàn nơi nghiệp của chính mình. Chúng
sinh
nào tạo thiện nghiệp, khi thiện nghiệp cho quả, thì hưởng được sự an lạc;
chúng sinh nào tạo bất thiện nghiệp hoặc ác nghiệp, khi ác nghiệp cho quả, thì
phải chịu khổ não.

Như vậy, sự an lạc, hoặc khổ não
quả của nghiệp mà do chính họ đã tạo.

Do nhờ suy nghĩ như vậy, nên có tâm
xả đối với tất cả chúng sinh. Gọi là hành hạnh tâm xả ba la mật.

Hạnh tâm xả ba la mật này là hạnh
cuối cùng nương nhờ các hạnh ba la mật khác, mà các hạnh ba la mật khác nương
nhờ
hạnh bố thí ba la mật. Như vậy, hạnh tâm xả ba la mật gián tiếp nương nhờ
hạnh bố thí ba la mật.

Ví dụ:

Tích Đức Bồ Tát Mahālomahaṃsa sanh
trong gia đình phú hộ. Khi trưởng thành Ngài chán ngán đời sống tại gia, từ bỏ
nhà đi xuất gia trở thành đạo sĩ hành hạnh tâm xả ba la mật, là tâm trung dung
đối với tất cả đối tượng tốt hoặc xấu.

Đức Bồ Tát đến sống nơi nghĩa địa
gom nhặt các bộ xương, lấy sọ người làm gối, lũ trẻ tinh nghịch ở trong xóm
nhìn thấy Ngài, thường đến quấy rầy Ngài như nhổ nước miếng vào người Ngài, bỏ
rác, thậm chí còn tiểu tiện, đại tiện gần nơi Ngài ở. Khi Ngài nằm, chúng lấy
cây cỏ xoáy vào hai lỗ tai của Ngài, chúng chơi đùa thích thú la hét om sòm;
còn đối với Đức Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại nhẫn nại, không hề sanh sân tâm,
không hài lòng gì cả.

Những bậc Thiện trí nhìn thấy Đức Bồ
Tát hành
hạnh cao thượng ít ai có thể sánh được, nên ngăn cấm lũ trẻ tinh
nghịch
kia, không được đến quấy rầy Ngài. Họ đem những vật thực, vật thơm đến
cúng dường Ngài, nhưng Ngài vẫn an nhiên tự tại, không hề phát sanh tham tâm,
hài lòng những vật cúng dường ấy, bởi vì Ngài hành hạnh tâm xả ba la mật.

Tóm lại, người nào có nguyện vọng
muốn giải thoát khỏi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài, để chứng
đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, đều cần phải tạo ít nhất là đầy đủ 10 pháp
hạnh
ba la mật làm nhân duyên để chứng đắc Thánh ĐạoThánh QuảNiết Bàn.

Nếu người nào mong cầu chứng đạt
Niết Bàn mà không tạo đầy đủ 10 hạnh ba la mật, người ấy cũng chỉ có mong, mà
không bao giờ chứng đạt Niết Bàn. Cũng như người nào muốn đến một nơi nào đó,
mà không chịu đi, thì cũng chẳng bao giờ đến nơi ấy.

Trong 10 pháp hạnh ba la mật, hạnh
bố thí ba la mật là hạnh ba la mật đầu tiên, làm nền tảng hỗ trợ cho các hạnh
ba la mật khác được dễ dàng thành tựu.

 

 

ĐOẠN
KẾT

Bố thí là một việc dễ làm, song bố
thí
để tạo được phước thiện không phải là việc dễ, mà được phước thiện vô lượng
lại càng khó hơn. Bố thí là một hành động từ thiện, một nghĩa cử hào hiệp đáng
tán dương ca tụng, xét về mặt hình thức. Bố thí để tạo phước thiện không chỉ
hình thức, mà chính là nội tâm, còn vật thí chỉ là một nhân
duyên
để tạo nên phước thiện, không phải là phước thiện.

Vậy phước thiện là gì?

Phước thiện chính là thiện
tâm
.
Trong thiện tâm (kusalacitta) hợp với nhiều tâm sở (cetasika),
mỗi tâm sở có mỗi tính chất, trạng thái khác nhau, nhưng cùng chung một đối
tượng với tâm.

Để tạo nên phước thiện bố thí, tác
ý
thiện tâm
(kusalacetana) đóng vai trò chính, còn tất cả vật
thí
nhân duyên phụ, cần phải nhờ đến người thọ thí,
khi ấy mới thành tựu được phước thiện bố thí.

Bố thí mà không tạo được phước
thiện
, ngược lại tạo nên tội lỗi, trong những trường hợp như sau:

Thí chủ bố thí với tâm tham
muốn cho người thọ thí thương yêu mình, nên bố thí những vật thí như: rượu,
thuốc lá, thuốc phiện, ma túy, heroin, các chất say, v.v… những vật thí này
làm cho người thọ thí phải phạm giới, mắc bệnh nghiện,
phát sanh những chứng bệnh khó chữa trị… gây ra hậu quả tai hại cho người thọ
thí trong kiếp hiện tại và kiếp vị lai. Như vậy, sự bố thí với tâm tham
muốn này không tạo được phước thiện, mà tạo nên tội lỗi thuộc về bất thiện
nghiệp
(ác nghiệp).

Người chủ tiệm lớn, nhìn thấy một
người ăn mày ăn mặc bẩn thỉu đứng trước cửa tiệm, người chủ phát sanh tâm sân
không hài lòng người ăn mày ấy, muốn xua đuổi y bằng cách đem tiền bạc, đồ vật
bố thí để cho y đi nơi khác. Như vậy, sự bố thí với tâm sân này,
không tạo được phước thiện, mà tạo nên tội lỗi thuộc về bất thiện nghiệp (ác
nghiệp
).

Bố thí để tạo nên phước thiện, cần
phải
có những điều kiện như sau:

Thí chủtác ý thiện tâm
trong sạch
hoan hỉ trong việc bố thí để tế độ, giúp đỡ người, hoặc
chúng sinh, với tâm từ hoặc tâm bi.

Vật thí là những vật hợp pháp, hợp luật đem lại sự lợi ích, an lạc
cho người thọ thí, hoàn toàn không đem lại sự tác hại cho người thọ thí trong
kiếp hiện tại và kiếp vị lai.

Người thọ thí, nếu là người có giới đức trong sạch, có thiện pháp cao
thượng, thì việc bố thí của thí chủ có được phước thiện vô lượng, có quả báu
lượng
trong kiếp hiện tạivô lượng kiếp vị lai.

Nếu người thọ thí là người không có
giới đức trong sạch, có ác pháp ô nhiễm, thì việc bố thí của thí chủ có được
phước thiện không nhiều, có quả báu không nhiều trong kiếp hiện tại và kiếp vị
lai
.

Tất cả chúng sinh nói chung, con
người
nói riêng, có của cải đầy đủ, giàu sang phú quý… chắc chắn là do quả
của phước thiện bố thí. Phước thiện bố thí cho quả báu trong kiếp sanh làm
người được giàu sang phú quý, có nhiều của cải tài sản; cho quả báu trong kiếp
hoá sanh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, có đầy đủ ngũ trần, hưởng sự an
lạc
tuyệt vời trong cõi trời ấy.

Dầu tái sanh làm súc sanh do ác
nghiệp
, song có một số loài súc sanh sống chung, gần gũi với con người, cũng
hưởng được quả báu của phước thiện bố thí, như con chó, mèo, trâu, bò, ngựa,
voi… được nuôi nấng chăm sóc tử tế, có chỗ ở đàng hoàng, có người săn sóc cẩn
thận
; thậm chí khi chúng mắc bệnh, có bác sĩ chữa trị.

Phước thiện bố thí có một năng lực
đặc biệtthí chủ có thể thành tâm hồi hướng phần phước thiện bố thí đến cho
thân bằng quyến thuộc từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ, đang sống trong
cảnh đói khát, khổ cực, khi họ hoan hỉ thọ hưởng phần phước thiện bố thí của
thân quyến hồi hướng đến cho họ, ngay khi ấy, họ được giải thoát khỏi kiếp sống
khổ cực đói khát ấy, được tái sanh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, hưởng
được mọi sự an lạc lâu dài trong cõi trời ấy.

Như vậy, phước thiện bố thí không
những đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho riêng mình, mà còn
cho tất cả chúng sinh khác hoan hỷ, cũng được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an
lạc
lâu dài nữa.

“Phước thiện bố thí” chỉ
con người trong cõi Nam thiện bộ châu (trái đất chúng ta đang
sống) có nhiều cơ hội thuận lợi để tạo nên phước thiện bố thí. Ngoài ra, còn
các châu khác [Tây ngưu hoá châu, Bắc câu lưu châu, Đông thắng thần châu] và 30
cõi khác [10 cõi dục giới, 16 cõi trời sắc giới, 4 cõi trời vô sắc giới] không
có cơ hội thuận lợi tạo nên phước thiện bố thí như:

Con người trong 3 châu khác đang
hưởng quả báu an lạc phước thiện của mình, nên không có cơ hội thuận lợi tạo phước
thiện
bố thí.

Chúng sinh trong 4 cõi ác giới
(địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh) đang chịu quả khổ do ác nghiệp của mình,
nên cũng không có cơ hội thuận lợi tạo phước thiện bố thí.

Chư thiên trong 6 cõi trời dục
giới
đang hưởng quả báu an lạc cõi trời do thiện nghiệp của mình đã tạo, nên
cũng không có cơ hội thuận lợi tạo phước thiện bố thí. Chư thiên nào muốn tạo
phước thiện bố thí, chư thiên ấy phải hiện xuống cõi người mới có cơ hội tạo
phước thiện bố thí.

Phạm thiên trong 16 cõi trời sắc
giới
và 4 cõi trời vô sắc giới đang hưởng quả báu an lạc trong bậc thiền sở đắc
của mình, nên cũng không có cơ hội thuận lợi tạo phước thiện bố thí.

Con người cõi Nam thiện bộ châu này,
tính chất đặc biệt hơn tất cả mọi chúng sinh trong các cõi khác về 2 cực:
cực thiện và cực ác.

1- Cực thiện: Con người trong cõi Nam thiện bộ châu siêu việt hơn các
chúng sinh khác, là có khả năng chứng đắc thành bậc Chánh Đẳng Giác, Đức Phật
Độc Giác, bậc Thánh tối thượng Thanh Văn, bậc Thánh đại Thanh Văn thuộc về siêu
tam giới pháp.

Và có khả năng trở thành Đức Chuyển
luân thánh vương
, chứng đắc tất cả 5 bậc thiền sắc giới, 4 bậc thiền vô sắc
giới, chứng đắc ngũ thông: thân túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông,
túc mạng thông, tha tâm thông… thuộc về tam giới pháp.

2- Cực ác: Con người trong cõi Nam thiện bộ châu có thể tạo trọng ác
nghiệp
gọi là pañcānantariyakamma: ngũ vô gián ác nghiệp: là giết cha,
giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm cho Đức Phật bầm máu, chia rẽ Tỳ khưu
Tăng. Trọng ác nghiệp này chắc chắn cho quả tái sanh vào đại địa ngục Avīci
chịu quả khổ suốt 1 antarakappa so với thời gian cõi người.

[Antarakappa: là khoảng thời gian
tuổi thọ con người sống lâu tột đỉnh a tăng kỳ năm (số 1 đứng đầu theo sau 140
số không (0) = 10**140), từ đó giảm dần giảm dần còn lại 10 năm, rồi từ 10 năm
tăng dần tăng dần đến a tăng kỳ năm; trải qua 1 chu kỳ thời gian như vậy, gọi
là antarakappa]

Con người cõi Nam thiện bộ châu có
khả năng biết rõ nhânkhông phải nhân; biết rõ sự
lợi
sự bất lợi; biết rõ thiện nghiệp bất
thiện nghiệp
(ác nghiệp).

Biết rõ nhân và không phải nhân: Tất cả các pháp phát sanh đều do từ nhân, con người trong
cõi Nam thiện bộ châu có khả năng tìm hiểu, khám phá biết rõ pháp này
phát sanh do từ nhân này,
không phải nhân khác. Nhân nào thì quả ấy,
quả luôn luôn phát sanh từ nhân của nó.

Biết rõ sự lợi và sự bất lợi: Con người trong cõi Nam thiện bộ châu có khả năng hiểu biết
sự lợi là quả của thân hành thiện, khẩu nói thiện, ý nghĩ
thiện; và sự bất lợi là quả của thân hành ác, khẩu nói ác, ý nghĩ
ác.

Biết rõ thiện nghiệpbất thiện
nghiệp
:
Nghiệp có 3 loại: thân nghiệp, khẩu
nghiệp
, ý nghiệp. Theo thật tánh pháp của mỗi loại nghiệp phân chia làm 2 loại:
thiện nghiệpbất thiện nghiệp (ác nghiệp).

Con người trong cõi Nam thiện bộ
châu có khả năng biết rõ thiện nghiệptác ý thiện tâm hành
thân thiện nghiệp: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm; tác ý thiện
tâm
hành khẩu thiện nghiệp: không nói dối, không nói lời đâm thọc chia rẽ,
không nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, không nói lời vô ích; tác ý thiện
tâm
hành ý thiện nghiệp: không tham lam, không thù hận, có chánh kiến… thuộc
về thiện pháp. Có khả năng biết rõ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp,
sắc giới
thiện pháp, siêu tam giới thiện pháp.

Và có khả năng biết rõ bất
thiện nghiệp
(ác nghiệp) là tác ý bất thiện hành thân ác nghiệp: sát
sanh
, trộm cắp, tà dâm; tác ý bất thiện hành khẩu ác nghiệp: nói dối, nói lời
đâm thọc
chia rẽ, nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích; tác ý
bất thiện hành ý ác nghiệp: tham lam, thù hận, tà kiến… thuộc về bất thiện
pháp (ác pháp).

Chúng ta đã là con người trong cõi
Nam thiện bộ châu, mọi cơ hội thuận lợi đang có đối với chúng ta, chúng ta nên biết
chọn lấy cơ hội thuận lợi ấy để tạo nên mọi thiện pháp, để nâng
đỡ
chúng ta trở nên con người cao thượng. Thật vậy, chỉ có thiện pháp
mới có khả năng nâng đỡ chúng ta từ cõi dục giới lên cõi sắc giới do nhờ sắc
giới
thiện pháp, và cõi vô sắc giới do nhờ vô sắc giới thiện pháp; từ phàm nhân
lên bậc Thánh nhân; từ quả Thánh bậc thấp lên quả Thánh bậc cao tột cùng do nhờ
siêu tam giới thiện pháp. Phẩm giá thấp hoặc cao của mỗi con người căn cứ vào
thiện pháp của người ấy, hoàn toàn không căn cứ nơi học vị bậc nào, nơi quyền
cao
chức trọng … Vậy, chúng ta nên cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện pháp, đó là
điều thiết yếu nhất trong cuộc đời của mỗi chúng ta.

Trong Phật giáo có đầy đủ 4 loại
thiện pháp: dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp
đặc biệt có siêu tam giới thiện pháp đó là: 4 Thánh Đạo Tâm. Người Phật tử
bậc xuất gia cũng như hàng tại gia cư sĩ có khả năng chừng nào, có thể phát
triển, tiến hóa đến chừng ấy, không bị hạn chế, có khả năng tiến hoá đến tột
cùng A-ra-hán Thánh Đạo, A-ra-hán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán tịch
diệt
Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Chúng ta nên có đức tin
trong sạch nơi Tam bảo: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, và tin nghiệp và quả của
nghiệp để làm nền tảng vững chắc cho mọi thiện pháp phát sanh và tăng trưởng.

Nếu có cơ hội thuận lợi bố
thí
,
thì nên bố thí để tạo phước thiện.

Nên giữ gìn giới cho
trong sạch, nghĩa là có tác ý thiện tâm giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi tội
ác
, cố gắng thân hành thiện, khẩu hành thiện để làm nền tảng cho pháp hành
thiện định, pháp hành thiền tuệ.

Nên tiến hành thiền định
để làm cho tâm được an tịnh, dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới, các bậc
thiền vô sắc giới; được hưởng sự an lạc trong kiếp hiện tại, và tái sanh kiếp
sau
làm phạm thiên trên cõi trời sắc giới, hoặc vô sắc giới tuỳ theo bậc thiền
sở đắc của mình, hưởng sự an lạc trong tầng trời ấy.

Nên tiến hành thiền tuệ
để làm cho trí tuệ thiền tuệ phát sanh thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của
danh pháp, sắc pháp; thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái
vô ngã của danh pháp, sắc pháp dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng
đắc
Thánh Đạo, Thánh QuảNiết Bàn. Cuối cùng đạt đến cứu cánh Niết Bàn giải
thoát
khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Đó là mục đích tối thượng của những
người Phật tử: bậc xuất gia và hàng tại gia cư sĩ.

Núi
rừng
Viên Không,
mùa hạ 2545
Tỳ khưu Hộ Pháp


Biên soạn xong tại núi rừng Viên
Không
, Tân Thành, Bà Rịa – Vũng Tàu, rằm tháng sáu năm Tân Tỵ, Phật lịch
2545/2001 (Kỷ niệm mùa nhập hạ lần thứ 35).

Và được Rakkhitasīla Antevāsika hoàn
thành
bản thảo xuất bản tại Tổ Đình Bửu Long, Q.9, Tp-HCM, trung thu năm Nhâm
Ngọ, Phật lịch 2546/2002 (Kỷ niệm mùa nhập hạ lần thứ 36).

TỔ
ĐÌNH Bửu Long
81 Tổ I, Thái Bình I, Long Bình,
Quận 9, Tp. Hồ Chí Minh.
Đt : (08) 732 5305; 732 5059