Thế Giới Vật Chất Và Phi Vật Chất

0
42

THẾ GIỚI
VẬT CHẤT VÀ PHI VẬT CHẤT

Hoang Phong


Chúng
ta
sống trong một thế giới gồm có hai thể dạng : vật
chất
và phi vật chất
. Tuy mang hai thể dạng khác biệt
nhau nhưng thật ra thế giới ấy khá đồng nhất mà Phật
giáo
gọi chung là thế giới luân hồi hay
ta bà
. Tuy thế người ta lại thường tách rời hai thể
dạng ấy và xem chúng thuộc vào hai « thế giới » riêng biệt
: thế giới vật lýthế giới tâm linh,
còn gọi là thế giới vật chấtthế giới
tinh thần. Sự phân biệt sai lầm hay thiếu chính
xác
đó còn có thể trở nên tệ hai hơn khi người ta tưởng
tượng ra một thế giới tâm linh phi vật chất biệt lập
bên ngoài tâm thức gồm có ma quỷ, thần linh, thiên đưòng,
địa ngục…, và không ngờ rằng cái thế giới tâm linh phi
vật chất ấy cũng có thể đang chuyển động trong tâm thức
của chính mình.

Bài
viết này nhắm vào chủ đích xác định hai thể dạng vật
chất
và phi vật chất trong cái thế giớichúng ta đang
sống dưới các khía cạnh triết học và khoa học để làm
đề tài suy tư và để so sánh với quan điểm của Phật giáo,
và sau cùng sẽ rút tỉa những gì thiết thực và hữu ích
góp thêm vào việc tu tập của một người Phật tử.

Định nghĩa
về thế giới vật chất và phi vật chất

 Trước
hết cũng nên định nghĩa thế nào là vật chất và phi vật
chất
. Đối với thế giới vật chất, có thể ta yên trí
nghĩ
rằng khỏi cần phải định nghĩa hay tim hiểu gì cả
vì cái thế giới đó đang hiện hữu sờ sờ trước mắt
và bất cứ ai cũng biết. Tuy nhiên cái thế giới ấy thật
ra đã bị thu hẹp rất nhiều bởi khả năng cảm nhận của
các cơ quan giác cảm, một người cận thị sẽ không nhìn
thấy được các vật thể ở xa chẳng hạn. Tuy nhiên khoa
học đã góp phần không nhỏ làm gia tăng khả năng hiểu biết
của con người về thế giới vật chất bằng các dụng cụ
như kính hiển vi, viễn vọng kính hoặc các máy móc đo đạt
khác, và từ đó đã mở rông thêm cái thế giới vật lý
chung quanh, kể cả việc theo dõi bằng máy móc sự vận hành
của tâm thức dưới một một vài khía cạnh nào đó.

Những
gì vượt ra ngoài « thế giới vật chất » thì chúng ta gọi
chung là « thế giới phi vật chất » bao gồm tất cả những
hiện tượng không hình tướng, không màu sắc, không âm thanh
và không sờ mó được, có nghĩa là vượt khỏi khả năng
cảm nhận của ngũ giác. Vậy thế giới ấy gồm có những
gì ? Nói một cách tổng quát thì tất cả mọi hiện tượng,
dù là vật chất hay phi vật chất trong thế giới này đều
được sinh khởi hay tạo tác bằng cách lệ thuộc vào nhiều
điều kiện. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma phân chia các hiện tượng
trong thế giới luân hồi thành ba thể loại : các hiện tượng
hình tướng, các hiện tượng tri thức và các hiện tượng
không phải hình tướng cũng không phải tri thức. Các hiện
tượng
hình tướng gồm các vật thể có hình dáng, màu sắc,
v.v…, có thể nhìn thấy bằng mắt hay sờ bằng tay. Các hiện
tượng
tri thức thì không có hình thể, không màu sắc…,
nói chung là không có đặc tính vật lý và không thể đo đạt
dược bằng dụng cụ. Nhóm thứ ba gồm các hiện tượng không
hình tướng cũng không tri thức, tức là các khái niệm mang
tính cách trừu tượng, chẳng hạn như nghiệp (karma),
thời gian, không gian, vị thế, thứ tự, các con số, cá thể,
sự sống, vô thường, sự sinh, già nua… Theo cách phân loại
trên đây thì thể loại thứ nhất thuộc vào lãnh vực vật
chất
, hai thể loại thứ hai và thứ ba thuộc vào lãnh vực
phi vật chất.

Tóm
lại
, tất cả những gì đang biến động trong tâm thức, kể
cả những khái niệm của sự hiểu biết dùng để xác định
những hiện tượng bên ngoài tâm thức đều thuộc vào thế
giới
phi vật chất. Những xúc cảm như lo âu, sợ sệt, thương
yêu
, giận dữ, khổ đau, hạnh phúc…, là những thành phần
của thế giới phi vật chất. Đồng tiền giấy hay đồng
tiền
bằng vàng ta đang cầm trên tay là vật chất, nhưng giá
trị
của chúng có tính cách quy ước thì lại thuộc vào lãnh
vực
phi vật chất. Những cơn ác mộng trong giấc ngủ hay
những ám ảnh khiếp đảm trong tâm thức một người bị
bệnh tâm thần hoặc những ảo giác thích thú của một người
dùng ma túy… đều thuộc vào « thế giới phi vật chất ». 

Theo
cách phân loại của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma như được trình
bày trên đây thì thời giankhông gian thuộc vào thế giới
phi vật chất, chúng không có hình tướng và cũng không phải
tri thức. Vậy thời giankhông gian thật sự là gì ? Câu
hỏi có thể làm cho nhiều người sửng sốt vì số đông
trong chúng ta vẫn yên trí rằng thời giankhông gian
những gì quá « đương nhiên » và bất cứ ai cũng biết.
Nhưng thật ra cho đến nay chưa có một triết gia hay một khoa
học gia nào hiểu được thời giankhông gian là gì. Từ
thời cổ đại cho đến nay đã có không biêt bao nhiêu triết
gia
và khoa học gia thay nhau đưa ra các giả thuyết và khái
niệm về không gianthời gian. Nhà toán học Hy Lạp Euclide
(~450 ~380 trước tây lịch) đề nghị không gian có ba chiều,
gần đây hơn thì nhà bác học Albert Einstein (1879-1955) gán
thêm cho cái không gian toán học của Euclide một chiều nữa
thời gian. Nhà bác học Isaac Newton (1643-1727) cho rằng không
gian
tính cách tuyệt đối, nhà bác học Gottfried Liebniz
(1646-1716) thì khẳng định không gian chỉ có tính cách tương
đối
, và nhà toán học kiêm vật lýtriết gia Henri Pointcaré
(1854-1912) lại cho rằng hình học không gian chỉ đơn giản
là một quy ước mà thôi. Đối với thời gian thì lại còn
phức tạp hơn nữa vì thời giantính cách « trừu tượng
» hơn không gian rất nhiều. Tóm lại, những gì vừa được
trình bày cho thấy chúng taxu hướng tin vào những sự
kiện
có vẻ như hiển nhiên được cảm nhận qua kinh nghiệm
thường nhật của các giác quan, nhưng thực sự thì chúng
không quá hiển nhiên như chúng ta tưởng. 

Đọc thêm: ●
TRÍ TUỆ TRONG PHẬT GIÁO – Hoang Phong

Sự
cấu hợp giữa thân xác và tâm thức :

Thân
xác vật chất còn được kết hợp với một thành phần
cùng
quan trọng nữa, đó là tâm thức. Kính sách nói rằng
cá thể con người có ba cửa ngõ : đó là thân xác, ngôn từ
tâm thức. Có thể không đến nỗi quá khó khi cần khép
hai cửa ngõ thân xác và ngôn từ để cho chúng nghỉ ngơi,
tuy nhiên đối với cửa ngõ tâm thức thì hết sức gay go.
Thí dụ một người ngồi thiền có thể giữ cho thân xác
bất động, miệng khép lại, nhưng tâm thức thì không mấy
khi chịu nghỉ ngơi. Vì thế tâm thứcthành phần mà người
tu tập khó nắm bắt và chủ động nhất. Sau đây là vài
lời giảng liên quan đến tâm thức của một đại sư Tây
tạng
là ngài Dilgo Khyentsé Rinpoché (1910-1991), rất uy tín đối
với giới Phật tử Tây phương :

«
Tâm
thức
đi ngang thân xác giống như một người khách bước
vào một gian nhà. Xuyên qua thân xác ấy, tâm thức nhận biết
được hình tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác. Khi tâm thức
ra đi thì thân xác sẽ hóa thành xác chết. Nó sẽ không còn
quan tâm đến cái đẹp hay cái xấu, lời lăng nhục hay ngợi
khen
, không thích thú khi được mặc quần áo lụa là, cũng
không đau đớn khi bị hỏa táng. Trong tình trạng đó, thân
xác là một vật thể không khác gì đất và đá. Khi thân
xác và tâm thức tách rời nhau, ngôn từ giữ một vị trí
trung gian giữa hai thể dạng cũng biến mất, giống như một
tiếng vang im bặt. Giữa ba thành phần thân xác, ngôn từ
tâm thức, thì tâm thức quan trọng hơn hết, tu tập Phật
pháp
(Dharma) chính là cách biến cải tâm thức ».
(trích
từ quyển Le trésor du coeur des êtres eveillés, Dilgo Khyentsé
Rinpoché, Sueil, 1996)

Ta
hiểu rằng tâm thức không phải là thân xác, tuy nhiên ta không
thể tách rời nó khỏi thân xác. Mỗi khi ta muốn nắm bắt
nó thì ta cũng không biết nó ở đâu. Nếu muốn tìm hiểu
và xác định nó thì ta cũng không biết nó thật sự là cái
gì. Nó không hình tướng, không màu sắc, không hàm chứa một
đặc tính vật chất nào. Ngài Long Thụ thì xem tâm thức đơn
giản
chỉ là một danh xưng.

Những
gì vừa nêu lên cho thấy việc tìm hiểu tâm thức rất khó
và việc tìm hiểu ấy giữ một vị trí quan trọng trong việc
tu tập Phật pháp. Tâm thức sẽ được trình bày trong các
phân đoạn dưới đây liên quan đến ngũ uẩn

Sự
chuyển tiếp liên tục giữa các thể dạng vật chất và phi
vật chất :

Hầu
hết chúng ta đều hiểu là thân xác một cá thể con người
được hình thành từ sự kết hợp giữa tinh trùng của cha
và noãn cầu của mẹ. Tuy nhiên ta vẫn có thể thắc mắc
tại sao lại xảy ra sự kết hợp đó để làm phát sinh ra
sự hiện hữu của ta hôm nay ? Tại sao chỉ có một con tinh
trùng nào đó trong số hàng triệu tinh trùng do cha ta phóng
ra lại chui lọt vào một cái noãn cầu của mẹ ? Đấy là
một biến cố gần như vô nghĩa so với trùng trùng điệp
điệp
các hiện tượng khác đang chuyển động trong thế giới
này, tuy nhiên đối với ta biến cố đó có thể là nguồn
gốc của cả một vũ trụlý do là sự hiện hữu của
vũ trụ này phát sinh tùy thuộc vào sự cảm nhận của chính
ta. Dù cho ta không quan tâm và thắc mắc về biến cố đó
đi nữa, nhưng các khoa học gia, triết gia, tư tưởng
gia, các nhà thần học… đã đưa ra không biết bao nhiêu triết
thuyết
để cố gắng giải thích các hiện tượng trong thế
giới
này, trong số đó có sự kết hợp giữa một tinh trùng
và một cái noãn cầu. 

Đối
tượng của khoa học giới hạn trong thế giới vật chất
và các thể dạng biến động của thế giới đó, vì thế
quan điểm của các khoa học gia cũng trở nên hạn hẹp hơn
và thông thường thì họ chỉ nêu lên các thuyết chính yếu
như ngẫu biến (hasard), hoặc thuyết quyết định (déterminisme)
liên quan đến quy luật nguyên nhânhậu quả. Các triết
gia
thì thả cho sự suy luận tung hoành mạnh hơn và đưa ra
nhiều triết thuyết đa dạng khác, chẳng hạn như các thuyết
định mệnh (fatalisme), thuyết tất yếu (nécessitarisme), thuyết
vô định (indéterminisme – một thuyết chủ trương ngược
lại với thuyết quyết định), thuyết hỗn độn (chaos), thuyết
tự chủ (liberté), thuyết sáng tạo hay tạo hóa (créationisme)
v.v… 

Người
tu tập không nên rơi vào những cái bẫy như thế, nếu rơi
vào đó thì cũng giống như một con hổ vướng vào lưới,
một con nai rơi xuống một cái hố ngụy trang, hay một con
cá chui vào rọ. Thay vì đi tìm sự giải thoát thì ta lại
rơi vào sự vướng mắc. Đức Phật luôn luôn cảnh giác các
đồ đệ của Ngài không được tham gia vào những biện luận
vô bổthuần lý như thế. Trước những câu hỏi được
nêu lên thuộc vào các lãnh vực ấy thì Đức Phật giữ yên
lặng và không trả lời. Thật ra những biện luận siêu hình
theo lối đó chỉ là cách nhào nặn một vài ý tưởng dựa
theo kinh nghiệm và sự hiểu biết cá nhân của mỗi triết
gia
để trình bày dưới những hình thức phức tạpcầu
kỳ
. Nếu ta cố tình tham gia vào đấy để tự nhào nặn
duy
của mình thì cũng rất có thể ta sẽ khám phá ra một
thế
giới muôn màu và muôn vẻ, những thật ra thì cái thế
giới
ấy rỗng tuếch. Phần lớn các triết thuyết không hàm
chứa điều gì thiết thực, đấy là chưa nói đến một số
triết thuyết đã từng làm phát sinh những chủ nghĩa tai hại
gây ra không biết bao nhiêu đỗ vỡ và đau thương cho nhân
loại
.


vậy
trước sự kiện một con tinh trùng này chui vào một cái
noãn cầu kia để làm phát sinh ra sự hiện hữu của ta hôm
nay thì ta phải hiểu như thế nào ? Tất nhiên là khó cho ta
tin có một vị thánh nhân hay một vị thần linh nào đó ngồi
bên cạnh giường cha me ta để chờ đúng lúc thuận tiện
mà tuyển chọn cho ta một con tinh trùng và một cái noãn cầu.
Cha mẹ ta cũng không nghĩ đến việc ấy vì họ còn bận công
việc của họ, dù cho họ có muốn thì cũng không làm được.
Riêng phần ta thì lúc đó ta « chưa » hiện hữu vậy làm
thế nào để tự chọn cho ta.

Thói
thường ta chỉ sống xuyên qua những kinh nghiệm của giác
cảm liên quan đến thế giới vật-chất và không hề quan
tâm
đến những gì thuộc vào thế giới phi-vật-chất. Chúng
ta
hãy lấy thí dụ về hình ảnh một đứa bé cắp sách đến
trường, nếu trước kia đứa bé không chịu cố gắng học
hành
thì hôm nay ta sẽ không biết đọc ? Hình ảnh đứa bé
đã hoàn toàn thuộc vào thế giới phi-vật-chất, tuy nhiên
ta vẫn cảm thấy có một sự liên tục nào đó giữa đứa
bé và sự hiện hữu của ta hôm nay. Hành động của đứa
bé trước đây liên hệ đến những gì mà ta đang thừa hưởng

Sở
ta cảm nhận được một sự liên tục nào đó trong quá
trình hiện hữu chính là nhờ vào tâm thức, và tâm thức
thì nhờ vào sự hoạt động của não bộ. Tuy nhiên ta không
thể nào bảo rằng một cá thể chỉ hiện hữu liên tục
trong các giai đoạn mà não bộ hoạt động, ngoài các giai
đoạn đó ra thì sự hiện hữu của ta không có. Tất cả
các giai đoạn như phôi, thai nhi, ấu nhi, vị thành niên, trưởng
thành
, già nua, bệnh tật… đều dự phần vào quá trình hình
thành và hủy hoại của một cá thể, tuy nhiên khả năng ý
thức
được sự liên tục giữa các thể dạng ấy chỉ có
thể phát hiện trong thời gian mà não bộ hoạt động bình
thường
. Trong các giai đoạn phôi, thai nhi thì não bộ chưa
có hoặc chưa hoạt động hữu hiệu, cũng thế trong các trường
hợp
não bộ bị chấn thương, đứt mạch máu não, hôn mê
hay là trường hợp bị bệnh tâm thần, bệnh alzheimer thì
não bộ không còn hoạt động hữu hiệu nữa. Mặc dù chưa
có não bộ hay não bộ không hoạt động hữu hiệu thì sự
liên tục trong quá trình hiện hữu của một cá thể vẫn
tiếp tục không gián đoạn. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma gọi đó
là dòng tiếp nối liên tục (continuum) của tri thức, dòng
liên tục đó không mang tính cách khởi thủy và nó kéo dài
xuyên qua các chu kỳ hiện hữu

Sự
chuyển tải của nghiệp :

Phần
trình bày trên đây giải thích về sự liên tục của các
thể dạng vật-chất và phi-vật-chất của một cá thể giới
hạn
trong một chu kỳ hiện hữu duy nhất. Tuy nhiên các thể
dạng hiển hiện liên tục của một cá thể cũng chuyển tiếp
liên kết với nhau từ chu kỳ này sang chu kỳ khác. Nghiệp
cũng theo đó mà hoán chuyển theo, từ chu kỳ này sang chu kỳ
khác.

Nếu
sự tương quan giữa nghiệp và quả tương đối dễ nhận
thấy
xuyên qua các thể dạng thuộc chung một chu kỳ, thí
dụ
như trường hợp đứa bé đến trường – người lớn
biết đọc, thì sự hoán chuyển của nghiệp từ chu kỳ này
sang chu kỳ khác có vẻ khó nhận thấy hơn. Chúng ta đều
hiểu rằng quy luật nguyên nhânhậu quảtính cách
vững chắc và toàn cầu, tác động trên tất cả các thể
dạng vật-chất và phi-vật-chất, xuyên qua không gianthời
gian
, vì thế nó không thể bị hạn chế và chỉ có giá trị
trong giới hạn của mỗi chu kỳ. Nếu quả chưa phát sinh trong
chu kỳ hiện tại thì nó sẽ phát sinh trong chu kỳ tiếp theo,
hoặc trong những chu kỳ xảy ra thật xa sau này khi đã hội
đủ cơ duyên, tức các điều kiện thích nghi. Trên phương
diện
« kỹ thuật » thì sự liên hệ giữa nghiệp và quả
xảy ra như thế nào ? Nghiệp được chuyển tải ra sao từ
một thể dạng này sang một thể dạng khác, từ chu kỳ này
sang chu kỳ khác ?

Nghiệp
là một hành động và tất cả mọi hành động đều để
lại dấu vết. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng rằng những dấu
vết do nghiệp tạo ra có thể hình dung như những « vết hằn
» in đậm trên dòng tiếp nối liên tục của tri thức. Dòng
tiếp nối ấy là cơ sở chuyển tải của nghiệp. Nhờ vào
một thể dạng nào đó một cá thể hành động và tạo ra
nghiệp, nghiệp lưu lại dấu vết trên dòng tiếp nối. Cũng
như tất cả các hiện tượng khác, thể dạng đó không thoát
khỏi
các nguyên lý vô thườngduyên sinh và sẽ biến đổi
khi các điều kiện tạo tác ra nó đổi thay. Tuy nhiên vết
hằn của nghiệp trên dòng tiếp nối vẫn còn nguyên vẹn
cho đến khi gặp được những điều kiện hay cơ duyên thích
nghi
để phát hiện thành quả trùng hợp với một thể dạng
mới của cá thể ấy. Sự phát hiện đó có thể xảy ra trong
thể dạng kế tiếp hay các thể dạng khác thuộc vào các
chu kỳ khác… Sự cố gắng học hành của một đứa bé trước
đây hôm nay giúp cho ta biết đọc. Những xúc cảm phát sinh
từ những gì ta đang đọc và có thể cả những hành động
cụ thể phát sinh từ những xúc cảm đó sẽ làm phát sinh
ra quả trong một thể dạng tiếp theo sau, thuộc vào chu kỳ
hiện hữu này hay trong những chu kỳ hiện hữu xa hơntrùng
hợp
với một thể dạng « khác » của chính ta trên dòng
tiếp nối.

Sự
phối hợp giữa tinh trùng và noãn cầu là một cơ duyên giúp
cho thể dạng phi-vật-chất cuối cùng trong quá trình hiện
hữu
trước đây của ta hiển hiện trở lại thành một thể
dạng vật-chất khi tinh trùng phối hợp với noãn. Sự tham
gia
của cha mẹ ta vào biến cố đó chỉ là những điều kiện
phụ thuộc còn gọi là cơ duyên. Nhìn trên một khía cạnh
khác, đó là cách mà cha mẹ ta tạo nghiệp mới cho mình và
đồng thời nhận lãnh hậu quả phát sinh từ những nghiệp
khác trong quá khứ của họ. Sinh ra ta họ phải nuôi nấng
và dạy dỗ, và sau này nếu ta trở thành một người con thông
minh
hiếu thảo hay là một người con ngu đần và khuyết
tật… thì đều tùy thuộc một cách « hợp lý » vào nghiệp
trước đây của cha mẹ ta và đồng thời của ta nữa. Tất
cả mọi hiện tượng trong vũ trụ đều tương liên với nhau,
nghiệp của cha mẹ ta và ta liên kết với nhau một cách chặt
chẽ. Không có một sức mạnh siêu nhiên nào chen vào những
biến cố ấy để sắp xếp, xét xử hay thưởng phạt cha
mẹ
ta và ta cả.

Nếu
suy luận xa hơn nữa và trên một bình diện khác, thì ta sẽ
hiểu rằng nhờ vào biến cố một tinh trùng phối hợp với
một noãn cầu mà ta được hưởng gia tài ADN (DNA) từ những
gien di truyền của cha và mẹ. Sự di truyền đó phù hợp với
nghiệp của ta trong quá khứ, có nghĩa là ta có thể sinh ra
cao lớn hay thấp lùn, xinh đẹp hay xấu xí, nhân từ hay hung
dữ, khoẻ mạnh hay khuyết tật… Và nếu tiếp tục nhìn
xa hơn nữa thì cha mẹ ta cũng thừa hưởng những gì từ ông
bà ta phù hợp với nghiệp của họ. Sự lệ thuộc như vừa
kể tiếp tục mở rộng ra cho đến gia tài di truyền ADN chung
của chủng loại, và xa hơn nữa là của tất cả chúng sinh
và sự sống, sự lệ thuộc đó buộc chặt ta với môi trường,
với thế giới vật-chất và phi-vật-chất…, có nghĩa là
với tất cả những gì đang chuyển động trong vũ trụ này….

Đọc thêm: ●
TRÍ TUỆ TRONG PHẬT GIÁO – Hoang Phong