Thấy Phật, Thấy Pháp

0
48

AI THẤY PHÁP NGƯỜI ẤY THẤY PHẬT,
AI THẤY PHẬT NGƯỜI ẤY THẤY PHÁP

Thích Hạnh Bình

Nội dung mà chúng ta
sẽ thảo luận trong bài viết ngắn này là “Ai thấy pháp là người ấy thấy Phật, ai
thấy Phật người ấy thấy pháp”. Thật ra chủ đề này không phải tác giả tự đặt mà
vốn là lời Phật dạy, được tìm thấy nhiều nơi trong kinh A hàm hay Nikaya.

Nguyên nhân đức Phật
nói bài pháp này, vì tôn giả Vakkali ở nhà thợ gốm, đang bị bịnh nặng, sắp lâm
chung
, nhưng lòng rất muốn diện kiến dung nhan đức Thế Tônđảnh lễ Ngài lần
cuối trước khi nhắm mắt lìa đời, nhưng không thể nào đến nơi Thế Tôn ở được,
cho nên Tôn giả Vakkali đã cho thị giả đến cung thỉnh đức Thế Tôn đến nơi mình
ở. Vì lòng từ mẫn đức Thế Tôn đã thân hành đến thăm Tỷ kheo Vakkali. Sau khi
đến đức Thế Tôn hỏi:


Này Vakkali, nếu ông không có gì trách mình về giới luật, vậy có gì phân vân
hay hối hận không ?


Đã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn, nhưng thân con
không đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn..


Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. Này
Vakkali. Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta, Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp.[1].

Trên
đây là đoạn đối thoại giữa Thế Tôn và Vakkali. Qua mẫu đối thoại này, nó gợi ý
cho chúng ta hiểu rõ một vài vấn đề căn bản trong Phật pháp. Vấn đề trước tiên
chúng ta cần xác định nơi đây là. Đức PhậtTỷ kheo Vakkali đứng hai vị
trí
khác nhau. Tỷ kheo Vakkali đứng từ góc độ tình cảm, có lòng kính ngưỡng,
muốn đảnh lễ và tận mắt nhìn dung nhan đức Phật lần cuối trước khi nhắm mắt lìa
trần
. Thế nhưng, đức Thế Tôn không đứng từ góc độ tình cảm này, an ủi Vakkali.

Ngược
lại Ngài đã đứng từ góc độ một vị Đạo sư đến thăm Vakkali lần cuối và giáo dục
Vakkali nhận chân được chân lý để được giác ngộgiải thoát, cho nên Ngài đã
nói câu: ‘có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này’ .

Theo
tôi lời nói này có hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất mà Ngài muốn trao truyền cho
chúng ta là, Ngài là con người như bao nhiêu con người khác, do vậy thân thể
của Ngài cũng giống như bao nhiêu thân thể khác, cũng cần có sự ăn uống ngủ
nghỉ, cũng có trạng thái bịnh hoạn ốm đau và bài tiết. Những chất được bài tiết
ra mùi tanh hôi cũng giống như mọi người khác. Không nên có suy nghĩ ngây thơ cho
rằng, đức Phật không còn những hiện tượng này.

Nếu
chúng ta có cho rằng, Phật và chúng sanh khác nhau, sự khác nhau đó cũng chỉ là
sự khác biệt giữa nhận thức, tức là sự khác biệt giữa người đã giác ngộ
(Buddha) và chưa giác ngộ. Người đã giác ngộ không còn những loại khổ về mặt
tâm lý, nhưng những loại khổ về mặt tự nhiên vẫn còn, như nóng lạnh, bịnh
hoạn.v.v…

Còn
người chưa giác ngộ, có cả hai loại khổ tự nhiên của vật lýtâm lý. Thật ra
nổi khổ lớn nhất của con người là nổi khổ về tâm lý, không phải vật lý. Thứ
hai, Ngài muốn nói rằng, Vakkali là người sống quá nặng nề về tình cảm, quá chú
trọng về mặt hình thức bên ngoài của Như Lai, không thấy cái giá trị đích thực
từ bên trong mà Ngài đã chứng được dưới cội cây Bồ đề. Cái giá trị của đức Thế
Tôn
chân lý không phải là 32 tướng tốt hay 80 vẻ đẹp. Thế thì Vakkali muốn
diện kiến cái thân tướng của Thế Tôn để làm gì? Có ích gì cho sự thuyên giảm
cơn bịnh trầm trọng mà ông đang gánh chịu? Có giúp gì cho cái chết sắp cận kề
mà Vakkali đang đối mặt ?

Trước
nổi đau khổ này, chỉ có giáo phápThế Tôn đã chứng mới có thể làm chấm dứt
hay tối thiểu cũng làm giảm bớt sự đau khổ của Vakkali, cái pháp đó, chân lý đó
Vakkali cần phải diện kiến thấy được trước khi qua đời, nếu không sống đời sống
xuất gia vô ích, không có lợi gì cho mình huống gì là làm lợi lạc chúng sinh.

Thế
thì chân lý mà Ngài chứng được dưới cội cây Bồ đề là gì ? Đó là đạo lý duyên
khởi
(pratiya-samutpada), nguyên lý vận hành của con ngườivũ trụ, trên thế
gian
không có một vật, một người nào sinh tồn hay biến mất mà không theo nguyên
tắc này. Đây chính là ý nghĩađức Phật trình bày trong “Kinh Tạp A hàm” với
nội dung như sau:

“Pháp
duyên khởi chẳng phải do ta làm ra, chẳng phải do người khác làm ra. Dù Như Lai
xuất hiện hay không xuất hiệnthế gian, pháp này vẫn tồn tại. Như Lai tự
giác
ngộ pháp này, thành đẳng chánh giác…”[2]

Giáo
đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi
nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do đức Phật tự mình sáng tạo ra mà
nó là nguyên tắc vận hành của con ngườivũ trụ, không có một cái gì một
người nào lại vận hành ngoài qui luật này, cho nên giáo lý duyên khởi được gọi
chân lý. Từ chân lý trong nhà Phật được mang ý nghĩa như vậy, không phải là
lời nói hồ đồ, thiếu cơ sở.

Căn
cứ từ giáo lý duyên khởi này, đức Phật chỉ ra bản chất con người không có cái
gì gọi là ngã (atmam) hay linh hồn trường cửu, các sự vật luôn luôn ở trong
trạng thái thay đổi chuyển dịch, sự chuyển dịch đó đức Phật gọi là vô thường
(anitya), không có một pháp nào đứng yên cố định. Sắc đẹp, sự giàu sang, địa
vị
…. dù chúng ta có cố giữ đến đâu, rồi cũng phải chịu đổi thay ở một lúc nào
đó. Sự khác biệt giữa người trí và kẻ ngu chính là sự nhận thức đúng hay sai,
có nghĩa là thái độ của chúng ta như thế nào về thực trạng này.

Người
trí chắc chắn không cưỡng ép làm một việc gì trái với qui luật, do vậy khi sự
vật vô thường chuyển dịch, người trí không vì vậy mà sinh buồn rầu lo âu hay có
thái độ chống đối, chỉ có kẻ ngu mới muốn bắt sự vật đứng yên theo ý mình. Muốn
mà không được là nguyên nhân sinh ra đau khổ.


lòng thương chúng sanh trầm luân trong đau khổ, đức Phật tùy theo căn cơ
trình độ khác nhau của mỗi loại chúng sanh, dùng mọi phương tiện khác nhau chỉ
cho chúng sanh thấy được chân lý này, để họ được giác ngộgiải thoát mà hình
thành Tông phái, phân chia có Tiểu có Đại.

Từ
điểm này nó gợi ý cho chúng ta hiểu, Pháp duyên khởi, vô thường, vô ngãchân
, những phương tiện hay những hình thức giáo dục khác nhau, nó không phải là
chân lý, vì nó chỉ có giá trị, và phù họp với một đối tượng cụ thểnhất định
nào đó, không thể là cái chân lý chung cho mọi con người và mọi xã hội khác
nhau, cho nên không được gọi là chân lý.


đây tôi muốn mọi người nên chú ý một điều rằng, Lòng ngưỡng mộ đó rất tốt và
rất cần, nhưng chúng ta không nên lẫn lộn lòng ngưỡng mộ này đồng nghĩa sự hiểu
biết
về Phật pháp. Xuất phát từ lòng ngưỡng mộ tôn sùng đó, chúng ta đã phát
ngôn rất bừa bãi, đôi khi có thương tổn đến Phật pháp.


dụ chúng ta thường nói rằng, Phật phápchân lý, trong khi đó chúng ta giới
thiệu
một số quan điểm về Phật pháp, nó hoàn toàn không liên hệgiá trị
với đời sống con người, đôi khi lại có hại cho cuộc sống. Trong khi đức Phật nổ
lực giới thiệu, làm cho con người thấy rõ được chân lý để được giác ngộgiải
thoát
thì chúng ta làm ngược lại giới thiệu với con người xã hội với những quan
điểm
mù mờ, đen tối, thiếu cơ sở, thiếu ánh sáng của khoa học.

Thế
thì những quan điểm đó làm sao gọi là chân lý được? Có thể điều đó đúng và họp
lý cho một phần tử nào đó trong xã hội, nhưng không phải là tất cả, cho nên
không thể gọi là chân lý. Đó chính là lý do tại sao đức Phật dạy: Tin ta mà
không hiểu ta là hủy báng ta. Hoạt động của khối óc và con tim là hai lãnh vực
khác nhau, cả hai đều cần cho sự sống của con người, nhưng không thể thay thế
cho
nhau.

Trái
tim mà thay cho khối óc suy nghĩ sự việc thì cuộc đời sẽ xuất hiện biết bao sự
lộn xộn và rối rắm; Khối óc mà thay thế cho trái tim làm việc thì cuộc sống của
con người chẳng khác nào như sinh hoạt của tòa án, cho nên chúng ta không nên
lẫn lộn giữa khối óc và con tim. Theo tôi, nên sống với nhau bằng trái tim và
nên làm việc bằng khối óc.

Qua
sự trình bày trên nó giúp chúng ta lý giải câu: Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta,
Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp. Ở đây khái niệm Ta chỉ cho đức Phật, như vậy
câu này được hiểu là Ai thấy pháp, người ấy thấy Phật; Ai thấy Phật, người ấy
thấy pháp. Pháp ở đây chỉ cho giáo pháp duyên khởi. Ai thấy được pháp duyên
khởi
, người ấy cũng thấy được trạng thái vô thường, vô ngã của vạn vật và ngay
cả bản thân mình.

Ai
đã thấy được vô thường vô ngã thì người ấy không thể chấp: “Cái này là của tôi
là tôi là tự ngã của tôi”, như vậy, được giác ngộgiải thoát. Ở đây, khái
niệm giác ngộgiải thoát là khái niệm mô tả về kết quả của sự thấy và biết,
từ trong nhà Phật thường dùngtrí tuệ, chính là kết quả sự tu tập của đức
Thế Tôn
dưới cội cây Bồ đề. Sự giác ngộ này đã làm cho chính Ngài thoát khỏi
mọi sự ràng buột khổ đau, cho nên gọi là giải thoát. Bất cứ ai giác ngộ như
Ngài cũng sẽ có những sự giải thoát như Ngài không cao không thấp.

Đương
thời cũng đã có nhiều người của nhiều giai cấp khác nhau thực hành lời dạy của
Ngài, cũng đã được giác ngộ giải thoát. Sau khi sống trong giáo pháp của Ngài,
được giác ngộ giải thoát, họ mới cảm thấy rằng, sự khác biệt giữa đường lối tu
tập của đạo Phật và các tôn giáo truyền thống Ấn độ rất xa. Đức Phật thì khuyên
con người “Đến đạo Phật để thấy và biết, giải quyết khổ đau, chứ không phải để
tin” còn các tôn giáo khác thì đặt nặng niềm tin niệm chú và cầu nguyện.

Đó
chính là lý do tại sao có nhiều người sau khi nghe đức Phật nói pháp bèn phát
biểu
:

“Thật
vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì
bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc
hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.
Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày,
giải thích.”[3]

Nhưvậy, điểm nổi bật của đức Phật Thích Ca Mâu Ni là sự giác ngộ giải thoát, không
phải là 32 tướng tốt hay 80 vẻ đẹp, nguyên tắc để trở thành bậc giác ngộ giải
thoát
chính là thấy được pháp duyên khởi vô thường vô ngã. Như vậy, ai muốn
thấy Phật thì người ấy phải thấy được pháp. Cũng vậy, ai đã thấy được pháp
duyên khởi
vô thường vô ngã cũng có nghĩa là người ấy đã thấy Phật, vì khái
niệm Phật với khái niệm pháp chỉ cho người thấy chân lýchân lý.

Như
vậy, tỷ kheo Vakkali nếu muốn diện kiến đức Thế Tôn cần nên diện kiến sự giác
ngộ
giải thoát, nếu như Vakkali muốn tỏ lòng ngưỡng mộ đức Thế Tôn thì
Vakkali nên thực hành giáo pháp của Ngài, nếu như Vakkali muốn đoạn trừ những
nổi khổ đau cho mình thì Vakkali chính mình phải giác ngộduyên khởi
thường
vô ngã., còn nếu như Vakkali muốn hóa độ chúng sanh thì trước tiên
Vakkali phải giác ngộ chân lý. Đó là nội dung và ý nghĩa câu: “Ai thấy pháp,
người ấy thấy Phật; Ai thấy Phật, người ấy thấy pháp” khi Ngài khuyên tỷ kheo
Vakkali lúc lâm bệnh.

Dẫu
rằng, đây là lời dạy của Thế Tôn cho Tỷ kheo Vakkali trong quá khứ. Tôi tin
rằng, nội dung và ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị thiết thực cho Phật giáo
ngày nay. Phải chăng chúng ta đang cố tô son phết vàng ca ngợi 32 tướng tốt của
đức Phật nhưng chúng ta lại vô tình hay cố ý quên đi giáo pháp mà Ngài đã giác
ngộ
?

Phải
chăng
với lòng kính ngưỡng chúng ta dùng mọi lời tán dương, giới thiệu tính
siêu việt của hệ thống triết lý nhà Phật, nhưng chúng ta quên rằng thế hệ tuổi
trẻ
ngày hôm nay là thế hệ được được trưởng thành trong xã hội tiến bộ về khoa
học kỷ thuật, và được đào tạo trong hệ thống giáo dục tiên tiến, có trình độ
chuyên môn cao, chúng sẽ khó chấp nhận những quan điểm mù mờ thiếu cơ sở khoa
học. Trong khi đó phần lớn của con người trong xã hội ngày nay, quan tâm đến
những vấn đềliên quan đến con ngườixã hội mà họ đang sinh tồn, không
phải là những vấn đề mang tính triết lý siêu hình.

Tôi
tin rằng, giáo lýđức Phật giác ngộgiáo lý cho con người, đối tượng mà
đức Phật giáo dụccon người. Dẫu rằng hệ thống giáo lý đó đề cập giải quyết
những vấn đề cụ thể trong quá khứ, đôi khi không còn phù họp cho con người
xã hội ngày nay, nhưng ngang qua những hình thức giào dục đó, nó vẫn ẩn chứa
một nguyên lý tinh thần giáo dụcđức Phật muốn gởi cho các thế hệ sau không
cùng xã hội và lãnh thổ. Nguyên lý đó, tinh thần đó có giá trị tuyệt đối, áp
dụng
cho mọi thời đạicon người.

 


[1]
H.T Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện Nghiên cứu Việt nam
Ấn hành, năm 1993, trang 219.

[2]
H.T Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp A hàm” tập 1, Viện nghiên cứu Phật
học
Việt nam ấn hành 1993, trang 635.

[3]
H.T Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện Nghiên cứu Việt nam Ấn
hành
, năm 1993, trang 219.