Tánh Không ( Súnyatà )

0
33
TÁNH KHÔNG (SÚNYATÀ)
Tỷ kheo Thích Chơn Thiện

I.
Khái quát

Trước
khi đi vào tìm hiểu Tánh Không, tưởng cần đi vào một số
nhận thức cơ bản về giáo lý Phật giáo để thấy rõ tính
truyền thống, tính rốt ráo về sự thật, và tính tác dụng
thiết thực của nó (Tánh Không), như :

– Sự giác ngộ tối hậu của Đức Phật.

– Sự giác ngộ vượt lên trên 62 Học thuyết đương thời
của xứ Ấn.

Mục đích nói Pháp của Đức Phật.

1.
Sự thật tối hậu

Tương
Ưng Bộ Kinh
II (Samyutta Nikàya, Vol. II., PTS, London…), phẩm
Tương Ưng Nhân duyên xác nhận bảy Đức Thế Tôn quá khứ
từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn
vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng
ngộ
sự thật Duyên khởi.

– Kinh
Tương Ưng Nhân duyên, Kinh Phật Tự Thuyết (Udàna, Khuddaka
Nikàya, Vol. I., PTS, London,…), Kinh Đại Duyên (Dìgha Nikàya),
Kinh Đại Bổn (Dìgha Nikàya) là các kinh giới thiệu rõ giáo
Duyên Khởi.

Trung
Bộ Kinh
I (Majjhima Nikàya, Vol.I, PTS, London,…), Tương Ưng Bộ
Kinh
III (Samyutta Nikàya, Vol.III, PTS, London,…) và Tiểu Bộ Kinh
I (Khuddaka Nikàya, Vol I, PTS, London… ) ghi lời dạy của Thế
Tôn
rằng:”Ai thấy Duyên Khởøi là thấy pháp. Ai thấy pháp
là thấy Phật “.

Thấy
Phật quả là thấy sự thật tối hậu. Và Duyên Khởi tánh
quả là Pháp tánh, Chân tánh, Không tánh, hay Phật tánh. Duyên
Khởi
tánh như vậy đồng nghĩa với Vô ngã tánh, Không tánh
hay Trung đạo nghĩa.

2.
Mục đích nói Pháp của Thế Tôn

Bài
pháp đầu tiên
, Sơ chuyển Pháp luân, được Thế Tôn giảng
tại vườn Nai, Baranàsi, nói về Khổ, nguyên nhân của Khổ,
con đường diệt Khổ. Thế Tôn, về sau đã nhiều lần
xác định Ngài chỉ nói về Khổ và con đường dập tắt
Khổ.

Đây
mục đích nói Pháp của Thế Tôn mà về sau chư Tổ, chư
vị Luận sư trung thành với tinh thần nói Pháp nầy. Đại
Long Thọ (Nagarjuna) cũng thế.

Tương
Ưng Bộ Kinh
IV (Samyutta Nikàya, Vol IV, PTS, London,…) ghi lời
dạy của Tôn giả Sàriputta, bậc Tướng quân Chánh pháp rằng
:

” Những
ai thuyết pháp để đoạn tận tham, những ai thuyết pháp để
đoạn tận sân, những ai thuyết pháp để đoạn tận si, những
vị ấy là những vị thuyết pháp ở đời.


Những ai thực hành đoạn tận tham, thực hành đoạn tận
sân, thực hành đoạn tận si, những vị ấy là những vị
khéo thực hành ở đời “.

Tăng
Chi Bộ Kinh
III (Anguttara Nikàya, Vol. III, PTS, London,…) ghi rằng
Thế Tôn dạy các vị Tỷ kheo một phần của ngày dùng để
học pháp, tụng pháp, tư duy về pháp, nói pháp, và một phần
của ngày sống độc cư, chuyên tâm tịnh chỉ, thì như vậy
có nghĩa là sống theo pháp. Thế Tôn đãø kết thúc lời dạy
bằng lời giáo giới :

” Này
các Tỷ kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà
trống. Này các Tỷ kheo, hãy tu thiền, chớ có phóng dật.
Chớ để về sau hối tiếc. Đây là lời giáo giới của
Ta dành cho các ông “.

Mục
đích
của nói pháp rõ là nói về đoạn tận tham, sân, si,
về pháp hành đoạn tận tham, sân, si.

3.
Sự giác ngộ tối thắng của Thế Tôn

Kinh
Phạm Võng
, Trường Bộ Kinh I (Brahmajàlasuttam, Dìgha-Nikàya,
Vol I, PTS, London,…) ghi lại sự kiện giác ngộ tối thắng
của Thế Tôn rằng : Các đạo sư phi Phật giáo do chấp trước
cảm thọ, chấp trước tri kiến của mình, nên không thể
vượt qua được Phi tưởng, phi phi tưởng xứ định ( không
thể vượt qua 5 thủ uẩn ) để vào Diệt thọ tưởng định,
nơi xuất khởi Chánh trí giải thoát. Đức Thế Tôn do vì
thấy rõ cái vô thường, hư vọng của các cảm thọtri
kiến
, Ngài không chấp thủ chúng, do đó đi vào chứng đắc
Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bản
kinh
cho thấy rõ : tham áichấp thủ kiến là nhân tố ngăn
che trí tuệ giải thoát cần được hiểu rõ và loại trừ.

4.
Nghe pháp

Thính
chúng
nghe Thế Tôn thuyết giảng ở nhiều cấp độ Định,Tuệ
khác nhau :

Tôn
giả Kiều Trần Như
vừa nghe Thế Tôn nói tổng quát về Tứ
đế
liền đắc Pháp nhãn (thấy rõ sự thật của pháp, dù
chưa có khả năng để an trú, thể nhập). Bốn ngày tiếp
theo
, nghe Ngũ uẩnVô ngã, thì tôn giả và bốn huynh đệ
đồng tu đều đắc quả A-La-Hán ( dứt sinh tử khổ đau )

Tôn
giả Xá Lợi Phất
(Sàriputta) và Mục Kiền Liên (Moggallàna)
vừa nghe bài kệ tóm tắt về Duyên Khởi liền đắc Pháp
nhãn.

Sau
đó, sau bốn tuần lễ vừa hầu quạt Thế Tôn vừa nghe pháp
thì tôn giả Xá Lợi Phất đắc đại tuệ, Đại A-La-Hán,
thấu suốt sự thật của pháp giới; tôn giả Mục Kiền Liên
thì hành thiền định liên tục tám ngày, dưới sự hướng
dẫn của Thế Tôn, mới đắc Đại A-La-Hán ( đệ nhị trí
tuệ, đệ nhất thần thông ).

Tôn
giả
Pukkusati, nghe Thế Tôn nói Kinh Lục Xứ – trong tư cách
người đi đường cùng trú mưa – trong căn lều trú mưa, liền
đắc quả Thánh A-Na-Hàm ( Bất Lai )


nhiều thành quả nghe pháp xẩy ra khác nhau: có trường hợp
có thể liễu ngộ ngay thực thướng, tiêu sạch các lậu hoặc;
trường hợp ngay khi nghe liền bừng ngộ thực tướng,
nhưng tâm thức còn vướng các lậu hoặc cần có thời gian
tu tập, để đoạn trừ ; có trường hợp sau khi nghe thì khởi
hoan hỷ, tín tâm, và cần một thời gian dài tu tập để phát
triển Văn huệ, Tư huệTu huệ. Như thế, không thể quả
quyết
rằng chỉ nghe pháp thôi thì không thể liễu hội, ngộ
nhập
Không Tánh (Súnyatà) hay Vô ngã tánh của vạn hữu. Cũng
không thể quả quyết rằng chỉ cần nghe pháp và trầm tư
về pháp là có thể ngộ nhập Không Tánh. Vấn đề còn tùy
thuộc
vào căn cơ, khả năng Định, Tuệ và thiên hướng tâm
của người nghe ( có người thuộc Tín căn; có người
thuộc Định căn; có người thuộc Tuệ căn …) Với việc
nghe giảng về Trung Luận và các Luận khác cũng thế.

II.
Khái niệm về Không Tánh ( Tánh Không )

Trung
Quán Luận
, phẩm XXIV, đoạn 18 viết :

” Chúng
nhân duyên sanh pháp

Ngã
thuyết tức thị Không.

Diệc
vi thị giả danh

Diệc
thị Trung đạo nghĩa ”

( Pháp
do các nhân duyên sinh

Ta
nói tức là Không

Cũng
gọi là Giả danh

Cũng
nghĩa Trung đạo )

Các
hiện hữu là do các nhân duyên phối hợp mà khởi sinh, chúng
không tự có.Vì thế các hiện hữu không thực có tự ngã,
tự tính. Nói khác đi, cái gọi là ngã tướng, ngã tính của
các hiện hữu là trống rỗng ( empty ), không thực hữu. Đại
luận sư
Long Thọ (Nagarjuna) gọi nó là Không, là Tánh Không
(Súnyatà). Cũng gọi nó là Giả danh (chỉ là tên gọi – mere
name); cũng là nghĩa Trung đạo (Duyên sinh)

Luận
lại viết ở đoạn 40, phẩm XXIV, Trung Quán Luận rằng
:

Thị
cố
kinh trung thuyết

Nhược
kiến nhân duyên pháp

Tắt
vi năng kiến Phật

Kiến
Khổ, Tập, Diệt, Đạo ”

( Thế
nên trong kinh nói

Nếu
thấy pháp nhân duyên

Thì
có thể thấy Phật


thấy Khổ, Tập, Diệt, Đạo)

Như
thế, Không Tánh của Trung Quán Luận đồng nghĩa với Pháp
tánh
(Dharmatà-Dhammatà) và với Phật tánh, Chân như tánh (Buddhatà),
Duyên khởi tánh (Paticcasamupadatà).

Tánh
Không
ấy, do vậy, ở ngoài tất cả ngã tính như thường,
đoạn; sinh, diệt; khứ, lai; nhất, dị; tốt, xấu; toàn, bất
toàn; v.v… như hai bài kệ đầu của Trung Quán Luận đã nói
:

1.
Bất sanh diệc bất diệt,

Bất
thường diệc bất đoạn,

Bất
nhất diệc bất dị,

Bất
lai
diệc bất xuất ”

2.
Năng thuyết thị nhân duyên

Thiện
diệt chư hý luận

Ngã
khể thủ lễ Phật

Chư
thuyết
trung đệ nhất ”

(
Không sanh cũng không diệt,

Không
thường cũng không đoạn,

Không
đồng nhất cũng không dị biệt,

Không
đến cũng không đi.

Nói
rõ thuyết nhân duyên ấy,
Khéo
dập tắt các hý luận.

Con
cúi đầu lễ Phật

Bậc
thuyết giảng đệ nhất trong các bậc thuyết giảng )

Tánh
Không
, tương tự Chân Như, Niết Bàn, ở ngoài thế giới khái
niệm của ngã tính. Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ
có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của
tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của
sự thể nhập (Penetration).

III.
Về ngã tính, ngã tướng, ngã tưởng

Kinh
Kim Cương Bát Nhã giới thiệu pháp hành cho các vị Bồ Tát
(Bodhisattvà) đoạn trừ chấp thủ (upàdàna), dập tắt các
ngã tưởng: ngã tưởng, nhân tưởng, chúng sinh tưởng, thọ
giả
tưởng, pháp tưởng, phi pháp tưởng, tưởng và phi tưởng.
Dập tắt các ngã tưởng để thể nhận sự thật vô ngã
của thực tại, để thể nhập thực tại như kinh đã viết
:

” Nhược
thông đạt vô ngã pháp giả, tức danh Đại Bồ Tát

(
Nếu thông rõ thực tạivô ngã thì gọi là Đại Bồ Tát,
vị đạt được trí tuệ ba-la-mật )

Chính
ngã tưởng là nhân tố ngăn che thực tại như thực. Nó đang
chế ngự tư duy ngã tính của con người, giam hảm tâm thức
con người vào vòng sinh diệt của sầu, bi, khổ, ưu, não.

Aristote,
một đại triết gia Hy Lạp, đã nêu ra ba nguyên lý cơ bản của tư duy, mà nếu muốn bác bỏ chúng thì tư duy cũng phải
vận hành trên chúng. Đó là :

1.
Nguyên lý Đồng nhất (Principle of Identity): Một vật được
gọi là A, thì mãi mãi phải là A thì tư duy mới hoạt động
được ( ký hiệu A = A )

2.
Nguyên lý phi mâu thuẩn ( Principle of non contradiction ): Một
vật là A hay B, mà không được khi thì gọi là A, khi thì gọi
là B.

3.
Nguyên lý Triệt tam ( Principle of Excluded Middle) : Một vật là
A hoặc B, mà không được vừa A, vừa B.

(
Spaulding, The New Rationalism, New York, Henry Holt & Company, 1918,
p. 106-107 )

Chỉ
trên ba nguyên lý đó thì tư duy mới có thể vận hành, con
người
mới có thể trao đổi, truyền đạt ý tưởng, kiến
thức
.

Ba
nguyên lý ấy hàm ngụ rằng mỗi hiện hữu phải có ngã tính
cố định, và thế giới của tư duythế giới đứng im
bất độngtư duy đã ngưng hẳn sự vận hành của thế
giới
– , giữa khi thực tại thì trôi chảy không ngừng. Thế
giới
trôi chảy có nghĩa là AĠ A ( hay AĠ A
). Điều nầy nêu rõ rằng tư duy về thực tại thì hoàn toàn
xa lạ với thực tại.

Chính
tư duy
hàm ẩn ngã tính ấy đã mở ra các dòng văn hoá, các
giá trị của ước lệ (convention), kéo theo các phản ứng
tâm lý của con người (tham, sân, si, ưa ghét, thù hận, v.v…)
tạo thành cuộc sống với các giá trị ảo đầy bóng tối
và khổ đau.

Luận
Long Thọ xiễn dương Tánh Không là nhằm đánh thức con
người
đi ra khỏi thế giới của tư duy của các ngã tính,
ngã tướng ảo ấy. Đi ra khỏi thế giới ấy là đi ra khỏi
tham, sân, si, sầu, bi, khổ, ưu, não. Tùy theo căn tánh định,
tuệ khác nhau mà người học và nghe về Tánh Không có thể
trực ngộ, trực nhập, hoặc thức tỉnh đi vào các công phu
hành Giới, Định, Tuệ và Tứ vô lượng tâm hầu có thể
trực ngộ, trực nhập Tánh Không về sau.

IV.
Tánh Không và kinh ngắn Không Tánh ( Cùlasunnata – Suttam,
Majjhima Nikàya, Vol. III )

Kinh
ngắn Không Tánh, Trung Bộ Kinh III, giới thiệu ” như thế nào
an trú Không ”

Thế
Tôn
dạy các đối tượng an trú của vị Tỷ Kheo thực hiện
an trú Không Tánh là các tưởng về Thôn, Rừng, Địa đại,
Tứ Không địnhVô tướng tâm định. Khi an trú
một đối tượng tưởng nào thì vị Tỷ kheo nhất niệm an
trú
(với tâm thức ở Tứ Sắc định) và nhất niệm giác
tỉnh
về sự thật Duyên Khởi của đối tượng (thấy rõ
“cái này có, cái kia có “). Với an trú ấy, thì đối tượng
đối với vị Tỷ kheo là thật có, không điên đảo, sự
thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không Tánh. Đây là đối
tượng an trú mà Phật và các bậc Thánh sau khi đã hoàn toàn
giải thoát vẫn tiếp tục an trú, gọi là Phật trú, Thánh
trú, hay Phạm trú.

Cho
đến
khi đối tượng an trú là ” vô tướng tâm định ” (hay
gọi là tác ý Vô ngã trong tất cả tướng) mà hành giả thức
tỉnh
rằng “Vô tướng tâm định” cũng là hữu vi, vô thường
và tâm rời khỏi dục lậu (ham muốn cõi Dục), hữu lậu
(ham muốn cõi Sắc), và vô minh lậu (ham muốn cõi Vô sắc)
thì vị Tỷ kheo thực sự giải thoát khỏi sinh tử, khổ đau.

Như
thế, có hai yếu tố tâm thức quyết định hành giả sẽ
an trú vững vào Không Tánh là :

Hành
giả
có khả năng thiền định ở Tứ Sắc định (nghĩa là
xả, và nhất tâm bất loạn)

Giác
tỉnh
về sự thật Duyên Khởi của đối tượng an trú.

An
trú
Không Tánh như vậy là an trú thật tánh, tâm thức sạch
hết các phiền não, lậu hoặc. An trú ấy cũng được gọi
thể nhập Không Tánh.

V.
Kết luận

Tánh
Không
như vừa được trình bày ở trên là Pháp tánh Duyên
Khởi
tánh. Mức độ liễu hội Tánh Không tùy thuộc vào cấp
độ Định, Tuệ của hành giả thuộc hàng phàm phu, Hữu học
hay Vô học. Với cấp độ phàm phu, tâm thức còn bị ràng
buộc
bởi Dục giới tâm (thiện,ác của Dục giới), nặng
tập khí chấp ngã, thì rất khó liễu hội Tánh Không. Với
hàng Thánh Hữu học, hành giả dù đã thể nhận rõ Tánh Không,
nhưng chưa đủû khả năng thể nhập. Với hàng Thánh Vô học,
do lậu hoặc đã được sạch trừ, nên hành giả còn điều
kiện
thể nhập Tánh Không.

Với
ai chưa thể nhập Tánh Không, thì cần tu thiền chỉThiền
quán
(Samatha và Vipassana) đi qua ba cấp độ tu tập :

1.
Loại trừ các tâm lý cấu uế, sản phẩm của Ngũ cái (trạo
cử
, hôn trầm, dục, sân, nghi)

2.
Hành Tứ Niệm Xứ để vào Tứ sắc định.

3.
Hành thiền quán Duyên sinhVô ngã từ tâm lý ở Tứ sắc
định cho đến khi tâm thức lìa khỏi Dục lậu, Hữu lậu
Vô minh lậu.

Cho
đến
đây, ta thấy công phu hành Thiền để an trú, hay thể
nhập
, Tánh Không thực sự dung thônggiáo lý của Thượng
tọa bộ
(Theravada) và Đại thừa (Mahàyana, hay Phật Giáo Phát
Triển). Tiểu thừa (hoặc Nguyên Thủy) hay Đại thừa là ở
khả năng thực hiện Định, Tuệ mà không thuộc phần giáo
. Tánh Khôngsự thật của vạn hữu, và sự thật chỉ
có một (không có hai), là nơi đến vắng mặt hết mọi phiền
não
, khổ đau.

Tỷ
kheo
Thích Chơn Thiện