Tâm Và Tướng

0
27

TÂM VÀ TƯỚNG
Thành Văn

 

Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm
tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả. Quả có quả lành, quả ác do
bởi
tâm lành ác sinh ra. Tu là sửa cái tâm; tức cái nhân để có thể nhận được quả
theo ý muốn.

Để cái tâm chạy theo trần cấu nhiều đời nhiều
kiếp thành thói quen, thành nghiệp. Nghiệp sẽ lôi kéo chúng sanh đi theo con đường
mòn nó đã vạch ra, không có gì cưỡng lại được.

Vấn đề rất sâu rộng. Ở đây người viết chỉ dám
bàn lướt qua mối tương quan nhân/ quả giữa tâm và tướng.

Trong dân gian quần chúng sáng tác ra rất
nhiều truyện ảnh hưởng đậm nét của tinh thần Phật giáo. Một trong những câu
chuyện
đó người viết được nghe kể như sau:

Xưa, có một chàng nho sinh nhà nghèo lắm,
không có tiền mua dầu thắp để học đêm. Mỗi tối chàng đều phải đến ngôi chùa gần
nhà để xin sư cụ cho học nhờ dưới ánh sáng của những ngọn đền dầu trong chùa.
Nhà nghèo, biết thân phận nên anh học trò sống rất khiêm cung, lễ phép với mọi
người
. Chàng cố công dùi mài kinh sử mong đến ngày lai kinh ứng thí, đỗ đạt ra
làm quan để trước ấm cái thân, sau là mở mày mở mặt với họ hàng làng nước

Trên con đường lên chùa, hàng ngày nho sinh
phải đi ngang qua một cái miễu thổ thần, trước miễu có pho tượng nhỏ bằng đất
nung. Pho tượng cũng mũ mãng cân đai, được đặt ngồi trên một bệ đá.

Nhiều năm trời như vậy, anh chàng chăm chỉ
học hành. Một hôm khi vừa đi ngang qua miễu chàng ngạc nhiên thấy pho tượng bỗng
nhiên đứng dậy, nghiêng người chào mình. Chàng ngạc nhiên lắm, bèn dừng chân lên
tiếng
lễ phép hỏi tượng:

– Tôi là gã nho sinh nhà nghèo, cơm ăn không đủ no, áo mặc
không đủ lành. Hàng ngày phải lên chùa nhờ ánh đèn dầu nơi cửa Phật để dùi mài
kinh sử. Bấy lâu nay đi ngang đây đều có nghiêng mình chào thần. Nay sao bỗng
nhiên thần đứng dậy như chiều thi lễ là tại lý do làm sao?

Tượng đất vẫn đứng vừa lên tiếng:

– Tôi vốn là thổ địa ở đây, hàng ngày chứng kiến ông qua
lại. Trước đây thấy ông là nho sinh, tướng
nghèo hèn, bần bạc. Lúc sau này bỗng tướng đổi khác. Tuy vẫn quần manh, áo vá, ốm
yếu xanh xao, nhưng vẻ mặt và dáng đi đã lộ ra cách quyền quý giàu có. Tôi tra
sổ thiên đình, thấy ông được thượng đế cho đỗ trạng nguyên kỳ này. Ông sẽ xuất
chính làm quan to, cai quản cả vùng này. Tôi là thổ địa ở đây tất dưới quyền
cai quản của ông, nên đứng dậy chào ông là vì thế.

Sinh nghe thổ địa nói thế lòng mừng khấp
khởi
. Ít lâu sau chàng đâm chểnh mảng chuyện học hành. Hàng ngày vẫn đến chùa
xin học nhờ, nhưng đi trễ về sớm, không chuyên cần như xưa. Trước đây tính tình
khiêm cung. Ai nói phải quấy gì cũng vâng dạ, kính già yêu trẻ. Nay, nghĩ mình
sắp trở thành giai cấp cha mẹ dân (dân chi phụ mẫu), nên cử chỉ thái độ thường
tỏ ra khinh bạc. Không vừa lòng ai điều gì thường buông ra lời đe dọa.

Thời gian cứ thế trôi. Gần đến ngày triều đình
mở khoa thi, nho sinh mừng thầm trong bụng ngày vinh hiển sắp đến. Thi đỗ ra làm
quan, tha hồ võng lọng, vợ đẹp con xinh, của cải do dân đút lót chất đầy kho
tha hồ ăn xài.

Lòng nghĩ thế, nên tuy vẫn hàng ngày ôm sách
lên chùa học nhờ, nhưng mặt mày trở nên vênh váo, mắt chỉ nhìn lên, nên không để
ý
thấy tượng thổ địa vẫn chỉ ngồi im, không còn đứng dây chào khi thấy sinh đi
ngang qua nữa.

Kịp gần đến ngày lên đường lai kinh ứng thí,
một bữa đi ngang qua miễu sinh chợt để ý
thấy chuyện thay đổi ấy nơi thổ địa, bèn lên tiếng hỏi:

– Trước ta đi ngang qua tượng vẫn đứng dậy chào. Nay sao
lơ là, không chào nữa, là cớ làm sao?

Tượng vẫn ngồi, từ tốn trả lời: – Trước đây
ông chăm chỉ học hành, lòng dạ khiêm cung, biết kính trên nhường dưới, nên cảm động
đến trời. Thượng đế cho ghi tên ông vào bảng vàng, thi đỗ làm quan. Nay ông đổi
tính, tâm địa ngạo mạn, bỏ bê học hành, thượng đế giận, ngài đã cho xóa tên ông
trong bảng vàng rồi. Ông vẫn là bần sĩ, sao tôi lại phải chào ông?

Nho sinh nghe xong, mặt mày biến sắc, nhưng
biết đã quá trễ. Kỳ thi ấy sinh cũng lều chõng đi thi, nhưng chẳng đỗ đạt gì.

Trong dân gian từ đó mới có câu “Chưa đỗ ông
nghè đã đe hàng tổng”. Vẫn chàng nho sinh ấy, nhưng tướng thay đổi theo tâm. Tâm
lành sanh tướng tốt. Tâm ác hiện tướng xấu là thế. Sách cũng có câu: “Hữu tâm vô
tướng
, tướng tự tâm sinh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt” (Có tâm không tướng,
tướng tự tâm mà sinh. Có tướng, nhưng không có tâm, tướng sẽ theo tâm mà diệt đi).

Trên đất Mỹ, ở một số nơi như thư viện, trường
học, hội quán… người ta thấy có trưng bày những câu châm ngôn thế này:

Watch your thoughts, they become
words.

Watch your words, they become
actions.

Watch your actions, they become
habits.

Watch your habits, they become
character,

Watch your character, it becomes
your destiny.

(Tạm dịch: Hãy canh chừng những tư tưởng
của bạn/ Nó sẽ trở thành lời nói. Hãy canh chừng lời nói/ Chúng sẽ phát ra thành
hành động. Hãy canh chừng hành động/ Chúng sẽ thành thói quen. Hãy canh chừng
thói quen của bạn/ Chúng sẽ tạo nên nhân cách. Hãy coi chừng nhân cách bạn/ Nó
sẽ trở thành số mệnh của bạn đấy.)

Bên dưới ghi tên tác giả là Frank Outlaw. Tuy nhiên nhiều người cho rằng
nguồn gốc câu ấy không rõ ràng. Có người bảo câu ấy là của Thánh Gandhi.

Cho dù ai nói thì những phát biểu trên cũng
phù hợp với quan niệm “Vạn pháp do tâm” của Phật giáo. Cái người ta gọi là số mệnh
chẳng phải do một Thượng đế hay ông trời nào áp đặt, nó hình thành từ chính
tưởng
chúng ta.

Ở đây sẽ bàn về hai phương diện: tâm linh và khoa tâm lý học.

Người học Phật, không ai là không biết, một trong những luận đề cơ bản vị
bổn sư
đức Phật cho đến các tổ sau này đều dạy tín đồ rằng “tâm là gốc của vạn
pháp” (vạn pháp do tâm tạo). Các pháp khởi sinh, biến hóa, lành dữ đều do tâm.
Người tu hành, trước hết là tu tâm. Sửa chữa, uốn nắn ngay từ cái tâm. Khi cái
tâm đã ngay chính, mọi pháp theo sau sẽ trở nên ngay chính, trong đó có hình tướng.

Đức Phật, bậc đại giác đã hoàn toàn làm chủ
tâm. Ngài đã tu tập trong nhiều kiếp, gột rửa tâm trở nên hoàn toàn trong sạch,
nên trong kinh sách mô tả Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Những tướng tốt, vẻ đẹp
của Phật là gì người theo Phật đã biết. Tựu trung đó là những nét thánh thiện,
tốt lành gây nên lòng kính ngưỡng, mến mộ nơi kẻ nhìn. Đấy là một sắc tướng hoàn
hảo
theo một quan niệm nào đó của thế gian tương đối. Thực tế, khi đạt quả vị
Phật, Đức Thế tôn đã vượt thoát ra khỏi mọi pháp thế gian. Ta thường nói “không
thể nghĩ bàn”.

Cho nên nói “Phật có đầy đủ 32 tướng tốt và
80 vẻ đẹp” cũng chỉ là cách nói ước lệ nhằm thỏa mãn sự ngưỡng vọng của người
phàm phu chúng ta đối với bậc giác ngộ mà thôi. Chứ Phật đã nhập Niết bàn, tức chân
tuyệt đối, vượt khỏi sự phân biệt, đối đãi nhị nguyên. Nên làm gì còn có đến
32 tướng, 80 vẻ dáng khác nhau?

Đến chùa chiền của những quốc gia khác
nhau chúng ta thấy hình dáng vẻ mặt các pho tượng Phật cũng khác nhau. Người nước
nào thì tạc tượng mang vẻ mặt người nước đó. Tượng Phật ở Thái Lan có khuôn mặt
của người Thái. Tượng Phật ở Trung Hoa có vẻ mặt người Trung hoa. Phật ở Nhật Bản,
Đại Hàn, ở Việt Nam
đều có vẻ mặt khác nhau, mang đường nét của người nam nước ấy.

Từ đức Phật đầu tiên là người Ấn Độ, khi
Phật giáo truyền qua các nước khác, nhân dạng ngài cũng đổi theo, trở thành người
của nước khác.

Sau này giả sử đạo Phật trở nên thịnh hànhÂu Mỹ, các tượng Phật sẽ có
nét mặt của người Âu Mỹ. Tướng Phật theo tâm chúng sanhthành hình. Chùa chiền
cũng vậy. Trang phục người tu sĩ và hàng phật tử cũng thế, đều theo tâm mà biến
hiện.

Nói theo khoa tâm lý học, tư tưởng mỗi con
người
dự phần rất lớn tạo ra hình tướng của chính cá nhân con người ấy. Có những
đứa bé khi còn nhỏ rất xinh đẹp, khi lớn lên mặt mũi, hình dáng thay đổi, không
còn đẹp nữa, do bởi hoàn cảnh sống thay đổi. Những va chạm trong đời sống tạo nên
trạng thái tâm lý thích ứng với hoàn cảnh. Do tâm địa, do nghề nghiệp mà những đường
nét trên khuôn mặt, trong phong thái cử chỉ mà tạo thành tướng trạng.

Khoa
bói toán, xem tướng chẳng qua cũng dựa trên những kinh nghiệm nhiều đời đúc kết
lại để diễn giải dựa trên các quy luật về tâm lý.

Trong các truyện cổ tích và sau này truyện đem
vào phim ảnh, các mụ phù thủy đều mang một nhân dáng và khuôn mặt xấu xí đanh ác:
thân thể gầy gò, lưng còng, mặt mũi xương xẩu, má hóp, mũi như sống dao, khoằm
xuống như mỏ diều hâu, đôi mắt lộ, tóc tai bơ phờ…Dĩ nhiên hình ảnh bà phù thủy
được mô tả trong phim, truyện đều đã được người nghệ sĩ sáng tạo ra cố tình làm
nổi bật cái tâm độc ác của mụ.

Trong thực tế, những kẻ mang tâm địa độc ác
dù không đến nỗi luôn luôn phải mang bộ mặt xấu xí, nhưng trên nét mặt những hạng
người ấy vẫn để lộ những nét hung dữ. Kẻ ác trong đầu họ thường suy nghĩ căng
thẳng
những mưu kế hại người. Tâm lý thù hằn ảnh hưởng trên các tuyến nội tiết
và cơ thể họ thường xuyên tiết ra các độc tố, tràn vào trong máu, khiến sắc mặt
họ thường u hãm, chứ không được tươi nhuận. Mắt nhìn thường đổ hào quang sắc lạnh.
Kẻ khác nhìn vào có cảm giác ớn sợ.

Ngược lại, một người có tâm địa hiền lương,
thường nghĩ đến điều lành, họ có tâm lý thoải mãi thư giãn, các cơ bắp, nhất là
các cơ vùng mặt không ở trong trạng thái co thắt, nên khuôn mặt họ thường đầy đặn,
sắc mặt tươi tắn, nhìn tự nhiên ta có cảm tình. Đối với nữ giới, có thể họ không
đẹp, nhưng vẫn ưa nhìn. Ta gọi là có duyên. Phụ nữ có duyên, mặt mũi phúc hậu,
khi lập gia đình họ thường có cuộc sống bình lặng hạnh phúc, ít gặp trắc trở bất
hạnh
trong hôn nhân.

Ngày nay khoa học tiến bộ, con người
tham vọng làm chủ mọi thứ bằng khoa học. Khoa giải phẫu thẩm mỹ có thể sửa chữa
một số khuyết tật trên thân thể con ngườiquả thật nó đã đạt được một số thành
quả
. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ ta sẽ thấy những kết quả đạt được rất hạn chế. Những
bộ phận thân thể được cắt xén, tỉa gọt, căng kéo không duy trì được hình dáng tự
nhiên
lâu dài. Nó thường để lại những di chứng và khi hết tác dụngtrở thành
thảm họa như nhăn nhúm, chảy xệ, biến dạng…cho chủ nhân chúng. Điều này rất dễ
nhận thấy.

Trong khi đó, những người áp dụng phương
pháp
tu dưỡng nhằm sửa chữa cái phần tâm linh như thiền, yoga lại có thể đạt được
kết quả khả quanlâu dài hơn nhiều. Người ta thấy có những phụ nữ ở tuổi thất
tuần, nhưng cử chỉ vẫn linh hoạt, khuôn mặt vẫn gọn ghẽ xinh xắn mịn màng như
tuổi 50. Đó là sự thật. Tuy nhiên, nhiều khi con người ta không đủ tin tưởng
kiên nhẫn để thực hành. Hơn nữa sẵn tiền bạc, họ đi đến các thẩm mỹ viện cho
nhanh và tiện.

Trong văn hóa dân gian của Việt Nam cũng như một
số các quốc gia Á châu khác, người ta có phong tục khi người phụ nữ mang thai,
gia đình thường chọn những hình vẽ những đứa bé xinh đẹp bụ bẫm để treo trong
phòng người mẹ. Nếu người mẹ thực sự không làm nghề gì xấu ác và có tâm địa hiền
hậu
, thường họ sẽ sinh được những đứa con đẹp đẽ gần giống trong tranh vẽ.

Chính
tâm
lý (tâm) của người mẹ mang thai sẽ tạo thành hình tướng (tướng) đứa con qua
những biến đổi bí mật trong từng tế bào của cơ thể họ.

Người ta còn tránh không để cho thai phụ phải
chứng kiến chuyện dữ, phải nghe những lời ác. Sự hiểu biết về tâm lý trong văn
hóa
Việt Nam
như vậy không hề kém so với những kiến thức về tâm lý học hiện đại.

Ngoài ra, trong dân gian còn có những hiện
tượng
đôi khi khó giải thích, nhưng qua chiêm nghiệm, người ta vẫn phải tin là
có thật. Chẳng hạn như người làm nghề đồ tể giết heo nhiều năm thường có khuôn
mặt phảng phất như mặt heo. Người ta cho rằng chính sự ám ảnh tâm lý trong một
thời gian dài đã tạo ra những đường nét trên khuôn mặt người đồ tể. Những người
chuyên làm thịt chó bán cũng thường mang bộ mặt hao hao giống loài vật họ giết.
Rõ rệt nhất là những người làm nghề giết chó bán thịt đi đến đâu là chó sủa ran
đến đó. Khi họ xuật hiện nhiều con chó bỗng nhiên sợ hãi quíu cả chân, đuôi cụp
xuống, sủa không thành tiếng.

Các vị chân tu đạo hạnh cao cả, công đức sâu
dầy, nhiều khi sống rất âm thầm, ẩn dật, không hề có quyền chức địa vị, họ ăn mặc
đơn sơ giản dị, nhưng người phàm phu khi được diện kiến bỗng nẩy sinh lòng tôn
kính
, mến mộ. Dường như xung quanh họ tỏa ra một lớp sóng từ rất lạ khiến người
khác cảm thấy an lạc, dễ chịu. Những người như vậy không nhất thiết phải là những
chức sắc có địa vị cao trong các giáo hội. Có thể họ chỉ là một bà lão bình thường,
như Mẹ Théresa chẳng hạn hay sư cụ ở một ngôi chùa hẻo lánh ít ai lui tới. Chuyện
về các thánh tăng thì vô số. Nhưng trong đời sống ai may mắn mới có duyên được
diện kiến một vị chân tu./.

Thành Văn

Aug.,
2012