Tam Pháp Ấn

0
34

TAM PHÁP ẤN
(Three
Characteristic marks of the Buddha’s Teachings
)
Thích Nguyên Tạng

Niềm
tin
là đức tính cao quý, cần thiết và rất quan trọng trong đời sống của
người Phật tử. Niềm tin đóng một vai trò quan trọng mà ai cũng có để giúp người
ấy đến với Phật quả. Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng:” niềm tin
mẹ đẻ của công đức”. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả
phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực
tế
trí tuệ đúng như thật.

Trên tinh thần
đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 49 năm, người
học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Pháp Ấn . Trong Phật Giáo có hai loại Pháp ấn: Nhất Pháp Ấn
Tam Pháp Ấn. NHẤT PHÁP ẤN là nói đến Kinh Điển liễu nghĩa của Bắc Truyền Phật Giáo.
Nhất Pháp ẤnThật Tướng Ấn tức là lấy thật tướng của các pháp làm gốc,
nên nói nghĩa lý thật tướng của các pháp là ấn tín của hệ thống tư tưởng Phật
giáo
Đại Thừa. Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật
giáo
Đại Thừa đều xem là tà thuyết.

TAM PHÁP ẤN
dành riêng cho Kinh Điển bất liễu nghĩa của Nam Truyền Phật Giáo. Bài viết này
sẽ trình bày sơ lược về TAM PHÁP ẤN.

Ấn (印¡) có nghĩa là con dấu, hay con mộc, để chứng nhận chính
thức
cho một tổ chức, một đoàn thể nào đó, thứ hai, ấn là nói lên chủ trương,
đường hướng được đưa ra trong tổ chức đó. Chữ ấn ở đây được dùng như một
danh từ trừu tượng để làm tròn hai nhiệm vụ : chứng tín cho những Kinh điển
hiện hànhlời Phật dạy, thứ hai là chỉ cho tư tưởng chủ đạo của Kinh Điển
Nam Truyền Phật Giáo
. Tam Pháp Ấn đó là:

Chư Hành
Vô Thường

Chư Pháp Vô Ngã
Niết Bàn
Tịch Tĩnh

Kinh điển của
Tiểu Thừa Phật giáo được ấn định bởi ba Pháp Ấn trên, nếu không như thế
thì chính là tà thuyết.

I/CHƯ HÀNH VÔ THƯỜNG :

Các hành
thường
( Phạn: Anitya sarvasamskarah, Pali: anicca, E: impermanence), còn gọi
Nhất thiết hành vô thường ấn, Nhất thiết hữu pháp vô thường ấn, gọi tắt là
Vô Thường ấn): Tất cả các pháp hữu vithế gian đều vô thường, dời đổi,
biến chuyển, sinh diệt không ngừng. Chúng sinh không nhận biết điều này nên đối
với vô thường mà lầm chấp là thường, nên triền miên thống khổ, vì thế Phật nói
thường
để phá chấp thường của chúng sinh.

Vô thường là là
đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là thành, trụ, hoại,
không arises, dwells, passes away, emptiness ). Từ tính vô thường ta có thể suy
ra hai đặc tính kia là Khổ ( dukkha) và Vô ngã ( anatman). Vô thườngtính
chất
cơ bản của cuộc sống, không có vô thường thì không có sự tồn tại,
thường
cũng chính là khả năng dẫn đến giải thoát . Có tri kiến vô thường, hành
giả
mới bước vào Thánh đạo. Vì thế tri kiến vô thường được xem là tri kiến của
bậc Dự lưu. (Impermanence is the basis of life, without which existence would
not be possible; it is also the precondition for the possibility of attaining
liberation. Without recognition of anitya there is no entry into the
supramundane path, thus the insight leading to “ stream entry”).

* Vô thường
có hai loại:

a). Sát na vô
thường
, chỉ cho sự biến hóa trong từng sát na, có sinh, trụ, dị, diệt.

b) Tương tục
thường
, chỉ trong một thời kỳ có 4 tướng sinh, trụ, dị, diệt nối tiếp nhau.

* ba
loại vô thường
:

a) Niệm niệm
hoại diệt vô thường
: trong từng sát na nhỏ nhất đều ẩn chứa sự hoại diệt
vô thường.

b) Hòa hợp ly
tán vô thường
: mọi sự vật hiện tượng hòa hợp để rồi ly tán, tan rã, vô thường.

c)Tất cánh như
thị
vô thường : chân lý về sự vô thường trong cuộc đời này là như thế. Sự
thường
luôn luôn có mặt.

Trong Kinh Niết
Bàn
( quyển 4) Phật nói về Vô thường như sau:

Chư hành vô thường
Thị sinh
diệt
pháp

Sinh diệt
diệt dĩ

Tịch diệt vi
lạc

Các hành
thường

Là pháp sinh
diệt

Sinh diệt
hết rồi

Tịch diệt
vui.

Thiền Sư Vạn
Hạnh
đời nhà Lý ( 1010 -1225) trước giờ thị tịch đã nhắc nhở chúng đệ tử về sự
vận hành của vô thường qua bài kệ :

Thân như
điện ảnh hữu hoàng vô,

Vạn mộc xuân
vinh thu hựu khô.

Nhậm vận
tịnh suy vô bố úy,

Thịnh suy
như lộ tháo đầu phô”.

Thân như
bóng chóp chiều tà

Cỏ cây tươi tốt qua thu rụng rồi
Xá chi suy
thạnh việc đời

Thạnh suy
như hạt sương rơi đầu cành.

Kinh Kim
Cang
cũng nói :

Nhất thiết
hữu vi pháp

Như mộng
huyễn bào ảnh

Như lộ diệc
như diễn

Ứng tác như
thị
quán.

(Tất cả pháp
hữu vi
, như chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, ảnh tượng, sương mai, điện chớp,
rất cần phải có cái nhìn như thế)

Các pháp
thế gian thuộc hữu vi

Như đêm đông
giấc mộng đông thùy

Như đồ giả
dối
không bền chắc

Như bọt nước
tan mất cấp kỳ.

Như bóng
trong gương nào phải có

Như sương
giọt nắng chẳng còn chi

Như luồng
điện chớp làm gì có

Nhận xét như
vầy
mới thật tri.

Nhận thức được
như thế để không khỏi đau khổ, lo âu, sợ hãi khi vô thường đến.

II/ CHƯ PHÁP VÔ NGÃ:

Các pháp vô ngã
( Phạn : Niràtmànahsarva-dharmàh), còn goiï là nhất thiết pháp vô ngã ấn, gọi
tắt là Vô ngã ấn). Tất cả các pháp hữu vithế gian nói chung đều là vô ngã,
không có chủ thể nhất định, chúng sinh không rõ biết nên đối với tất cả pháp
lầm chấp là có chủ thể, vì thế Phật nói Vô ngã để phá trừ chấp ngaõ của chúng
sinh
.

Vô ngã
(Nonself- Anatman) là một giáo lý căn bản của Đạo Phật, cho rằng, không có một
Ngã ( atman), một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm
trong mọi sự vật. Theo Đạo Phật, cái ngã, “cái tôi” cũng chỉ là một tập hợp của
“ năm nhóm” (Ngũ uẩn – Five aggregates – Skandha), luôn luôn thay đổi,
mất mát và vì vậy “ tôi” chỉ là giả hợp, gắn liền với cái khổ đau, không
có chủ thể nhất định. Ví dụ, con người được cấu tạo bằng một tổng thể ngũ uẩn :
Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn.

Sắc uẩn:
chỉ cho phần vật chất, thân thể như mắt, tai, mũi, lưỡi, đầu, mình, tứ chi

Thọ uẩn:
là chỉ cho toàn bộ cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu hay khó chịu hay
trung tánh.

Tưởng uẩn:
nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị… kể cả nhận biết ý
thức
đang hiện diện.

Hành uẩn:
vận hành của tâm lý, chỉ sự hoạt động của tâm sau khi có tưởng, ví dụ như đánh
giá
, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác..

Thức uẩn:
bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: ý thức của mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý.

Qua sự phân
tích chi tiết của năm uẩn trên ta không thấy cái uẩn nào là của ta, vậy
lâu nay ta lầm tưởng uẩn này là thật có để rồi ta tự gây đau khổ cho mình và
cho người.

III/ NIẾT
BÀN
TỊCH TỈNH:

Niết bàn tịch
tĩnh
(Phạn: Satamnirvanam, còn gọi là Niết bàn tịch diệt ấn, Tịch diệt niết-bàn
ấn, còn gọi là Diệt, Diệt Tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất Sinh,, Viên Tịch, Giải
thoát
, Vô vi , An lạc , từ phổ biến và gọi tắt là Niết bàn. Tất cả chúng sinh
không rõ biết khổ đau sinh tử cho nên tạo nghiệp, trôi lăn trong ba cõi, sáu
đường
, vì thế Phật nói Niết Bàn tịch diệt cho chúng sinh quy hướng.

Niết bànmục
tiêu
tối hậu phải đạt được của tất cả những đệ tử Phật, dù họ thuộc về tông
phái
nào, Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Niết bàn được
xem là đoạn tuyệt vòng luân hồi ( Samsara) và đi vào một thể tồn tại khác (
Nibbana is departure from the cycle of rebirths and entry into an entirely
different mode of existence). Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba độc: tham, sân và
si ( desire, hatred & delusion). Đồng thời Niết Bàn có nghĩa là không còn
chịu sự tác động của nghiệp (Karma/action), không còn chịu quy luật của
nhân duyên, ở trạng thái vô vi, tức là đặc tính thiếu vắng sự sinh, trụ, dị,
diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Còn theo Phật giáo Đại Thừa, Niết Bàn được
xem là sự thống nhất với cái Nhất thể tuyệt đối ( sự bình đẳng của chúng sinh-
Sattvasamata), sự thống nhất luân hồi với dạng “ chuyển hóa” của nó. Niết bàn
được xem như sự lưu trú trong tính tuyệt đối, sự an lạc khi thấy mình cùng một
thể
với tuyệt đối, khi thấy mình giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi biến tướng
của tham ái.

Có hai
loại Niết Bàn:

a) Hữu dư Niết bàn :

Tiếng phạn :
Savupadisesa-Nibbana: Niết bàn còn tàn dư, Niết bàn trước khi tịch diệt. Niết
bàn
này là trạng thái của các thánh nhân đã loại bỏ phiền não, không còn tái
sinh
. Các vị này còn sống trên đời nên vẫn còn ngũ uẩn, còn có nhân trạng, nên
gọi là “ hữu dư”.

b)Vô dư Niết bàn :

Tiếng phạn:
Anupadisesa-nibbana: là Niết bàn không còn – ngũ uẩn, mười hai xứ, mười tám
giới
và các căn. Niết bàn Vô Dư đến với một vị A La Hán sau khi viên tịch,
không còn tái sinh. Loại Niết Bàn này cũng được gọi là Niết Bàn toàn phần hay
Bát Niết Bàn.

Bát Chánh
Đạo

con đường đưa tới Niết bàn:

Kinh Tăng Nhất
A Hàm
( số 18), các vị Tỳ kheo hỏi Tôn giả Xá Lợi Phật về Niết Bàn: “ Bạch Đại
Đức
, làm thế nào để an trụ trong Trung đạo, làm thế nào để tuệ nhãn sanh, làm
thế nào để trí tuệ sinh và làm thế để đưa tới Niết bàn”. Ngài Xá Lợi Phật trả
lời
: “ Này chư Hiền giả, đó là con đường Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư
duy
, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệmchánh
định
. Đó chính là con đường đưa hành giả vào trung đạo, làm cho tuệ nhãn sinh,
làm cho trí tuệ sinh và làm cho an trụ vào Niết bàn”.

Bát Chánh Đạo :
con đường tám nhánh giải thoát khỏi khổ đau để đạt đến Niết bàn, là chân
cuối trong Tứ Diệu Đế. Bát Chánh Đạo là một trong 37 Bồ Đề Phần. Đó chính
là: 1. Chánh kiến: gìn giữ một quan niệm xác đáng về giáo lý; 2. Chánh tư duy:
suy nghĩa hay có một mục đích đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách
không sai lầm; 3. Chánh ngữ: không nói dối, không nói lời phù phiếm; 4 Chánh
nghiệp
: không phạm các giới luật; 5. Chánh mạng: tránh các nghề nghiệp giết hại
như đồ tể, thợ săn, buôn bán vũ khí, thuốc phiện; 6. Chánh tinh tấn: siêng năng
phát triển nghiệp tốt, loại bỏ nghiệp xấu; 7. Chính niệm: tỉnh giáctu tập
trên ba nghiệp: thân, khẩu và ý; 8. Chánh định: tập trung tâm ý để đạt bốn tầng
thiền xuất thế gian. Bát Chánh Đạo không nên hiểu là những “ con đường” riêng
biệt mà chính là ba môn họchành giả phải thực hành triệt để xuyên qua Giới
( gồm chánh ngữ, chánh nghiệp & chánh mạng), Định ( gồm Chánh tinh tấn,
chánh niệm & chánh định) và Tueä (gồm Chánh kiến & chánh tư duy). Chánh
kiến
điều kiện tiên quyết để đi vào Thánh Đạođạt đến Niết bàn.

Kết luận : Trong Kinh
Trung Bộ, Đức Phật dạy: “ Này chư Tỳ kheo, từ xưa cho đến nay, ta chỉ nói
lên hai vấn đề: Khổ và phương pháp diệt khổ”. Khổ là các hành vô thường, các
pháp vô ngã ( pháp ấn thứ 1 và 2), và phương pháp diệt khổ chính là Niết bàn
tịch tĩnh ( pháp ấn thứ 3).

Cuộc sống hiện
nay và ngày mai vô cùng náo động và cuồng nhiệt, con người luôn đánh mất mình
trong mọi sát na của đời sống vật chất, phù du giả tạm này, để rồi cuối cùng phải
chịu sự chi phối, hành hạ của vô thường, khổ đau, của sinh tử luân hồi. Tam
pháp ấn
giáo lý căn bản của Phật giáo giúp cho chúng ta suy ngẫm và áp
dụng
vào trong đời sống của chính mình, để cho đời mình bớt khổ./.

 

Tham khảo từ
các tài liệu : Phật Học Phổ Thông ( HT Thiện Hoa); Từ Điển Phật Học ( Chân
Nguyên
– Nguyễn Tường Bách; The Encylopedia of Eastern Philosophy and Religion
( Ed. Stephan Schumacher & Gert Woerner)