Quan Điểm Về Nghiệp Của Phật Giáo Có Sự Khác Biệt Như Thế Nào So Với Quan Điểm Số Mạng Của Nho Giáo?

0
36

Đáp
: Mỗi cá nhân có một cấu trúc tâm sinh lý, hoàn cảnh
điều kiện sống hoàn toàn khác nhau. Cùng là con người, nhưng
giữa họ có sự bất đồng rõ rệt giữa giàu nghèo, xấu
đẹp, khỏe mạnh và đau yếu, trường thọchết yểu,
thành công và thất bại, hạnh phúc và khổ đau… Đây là
những nghi vấn ngàn đời mà từ lâu các hệ tư tưởng triết
học
, tôn giáo đã cố công đi tìm lời giải đáp. Ở đây,
Phật giáo giải thích căn nguyên của sự dị biệt đó bằng
thuyết Nghiệp hoàn toàn khác biệt với quan niệm Số mệnh
của Nho giáo.

Theo
quan điểm của Nho giáo, khái niệm Số mạng được
dẫn xuất từ lý thuyết Thiên mệnh, tức là mệnh trời.
Căn cứ vào lý thuyết Thiên mệnh, thì Trời được xem
như
một quan tòa công minh, cầm cân nảy mực phán xét mọi
việc
. Trời quyết định mọi sự thành công hay thất bại
trong đời sống của con người. Điều này, trong tác phẩm
Luận ngữ, thiên Nhan Uyên, Khổng Tử cho rằng: “Sống
chết
có số mạng, giàu sang tại Trời
” (Tử sanh hữu
mạng, phú quí tại Thiên) Con người không thể cãi lại mệnh
Trời, “Trời kêu ai người nấy dạ”. Mọi cố gắng
của con người không ngoài ý Trời. Chính ngay bản thân mình,
Khổng Tử cũng thừa nhận: “Năm ta mười lăm tuổi chỉ
để tâm vào việc học, năm ba mươi tuổi đã đủ lực mà
lập thân, năm bốn mươi tuổi tâm trí đã đủ sáng suốt,
năm năm mươi tuổi, ta hiểu được mệnh trời..
.” (Ngô
thập hữu ngũ, nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập
nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri Thiên mệnh”… Luận ngữ, thiên
Vi Chính). Có thể nói, theo quan niệm của Nho giáo thì con người
cần phải đặt hết mọi niềm tin vào ý chí của Trời. Cũng
theo Khổng Tử thì việc hiểu biết mệnh trời như một điều
kiện
để trở thành con người hoàn thiện: “Không hiểu
mệnh trời, không xứng đáng là người quân tử
” (Bất
tri mạng, vô dĩ vi quân tử dã – Luận ngữ, thiên Nghiêu Viết).

Như
vậy, quan điểm về Thiên mệnh xét đến cùng thì luôn mang
tính chất tiêu cực, thụ động, cứng nhắc; triệt
tiêu
mọi nỗ lực chuyển hóa, hướng thiện của con người.

Con người khi mới sinh ra thì đã có một số mệnh an bài
và được định đoạt bởi ý chí của một đấng siêu nhiên. Một khi đã đặt trọn niềm tin của mình vào đấng siêu
nhiên
, vào số phận, số mạng thì con người đành phải chấp
nhận
xuôi tay, giao phó toàn bộ đời mình cho một đấng quyền
năng
quyết định.

Trái
với
những quan điểm đó, Phật giáo không chủ trương
không chấp nhận số mệnh
. Con người hiện hữu trong
dòng sống sinh động với các đặc tính khác nhau là kết
quả của Nghiệp
được tạo tác bởi chính họ trong hiện
tại
quá khứ. “Con người là chủ nhân của Nghiệp,
là kẻ thừa tự Nghiệp.
..” (Kinh
Tiểu Nghiệp Phân Biệt – Trung Bộ III
).

Nghiệp
là hành động có tác ý, hay hành động phát sinh từ tâm được
thể hiện qua hành động (Thân nghiệp), ngôn ngữ (Khẩu nghiệp)
tư duy (Ý nghiệp). Nghiệp lựcsức mạnh của Nghiệp,
động lực thúc đẩy, dẫn dắt để hình thành một thân
phận
chúng sanh. Nghiệp do mình tạo ra rồi trở lại chi phối
chính mình. Nghiệp có nhiều loại, mỗi loại có một tính
chất
công năng khác nhau. Hai loại Nghiệp chính thường
được đề cập là Dẫn nghiệpMãn nghiệp. Dẫn nghiệp
là Nghiệp do con người tạo ra trong đời sống hiện tại
hay quá khứ thông qua thân, khẩu và ý hoặc thiện hoặc ác,
để rồi chính Nghiệp này dẫn dắt con người ấy sanh vào
một trong sáu nẻo của Lục đạo (Trời, Người, A tu la, Súc
sanh
, Ngạ quỷĐịa ngục ). Tuy nhiên, cùng là người nhưng
có người khỏe mạnh, người lại ốm đau; người đẹp,
kẻ xấu; người này sang trọng, người kia lại nghèo hèn
và tất cả những sai biệt ấy là quả báo của Mãn nghiệp.

Con
người
tạo ra Nghiệp và sẽ không thể và không bao giờ trốn
thoát
được những Nghiệp do mình gây tạo ra. Tuy nhiên,
cũng cần phải thấy rằng, quan điểm về Nghiệp của Phật
giáo
không giống như Định mệnh hay Số mệnh. Điểm khác
nhau cơ bản giữa Nghiệp và Số mệnh ở chỗ, Nghiệp do chính
con người tạo tác, có tính chất duyên sinh, bất định tính
vô ngã nên Nghiệp có thể chuyển hoá được. Do đó, con
người
có thể thay đổi, chuyển hóa Nghiệp báo của chính
mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện hoặc ngược
lại.

Năng
lực
chuyển hóa Mãn nghiệp trở thành tốt hơn hoặc xấu
đi được gọi là Năng tiêu nghiệp. Tác dụng của Năng tiêu
nghiệp trong đời sống hiện tại rất lớn. Một người có
tư chất thông minh và cơ thể khỏe mạnh là kết quả của
Mãn nghiệp. Thế nhưng, người ấy không lo học tập, rèn
luyện

thân thể lại còn sống buông thả, đắm say tửu sắc, ma
túy
… Kết quả từ chỗ khỏe mạnh anh ta trở nên ốm yếu,
tiều tụy; từ chỗ thông minh thành ra ngu đần, thác loạn.
Năng tiêu nghiệp đã làm tiêu hủy Nghiệp tốt của người
này. Ngược lại, một người với quả báo Mãn nghiệp
cơ thể ốm yếu, tật bệnh nhưng nhờ biết giữ gìn sức
khỏe
, luyện tập dưỡng sinh, ăn uống điều độ, làm việc
giờ giấc, thì không những khỏe mạnh, chiến thắng bệnh
tật, thậm chí còn trường thọ. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện
chỉ có một phần ba lá phổi mà vẫn làm việc bình thường; Stephen William Hawking – nhà vật lý vĩ đại người Anh của
thế kỷ này – tuy bị liệt toàn thân chỉ còn ba ngón tay nhưng
vẫn liên tục đưa ra nhiều phát minh quan trọng…. là những
thí dụ điển hình của Năng tiêu nghiệp theo hướng tích
cực
.

Đối
với Dẫn nghiệp, một loại Nghiệp có cường độ mạnh trong
việc quyết định hướng tái sanh nhưng vẫn chuyển hóa được.
Trong sách Đồng Mông Chỉ Quán, ngài Trí Giả đại sư
kể chuyện một Sa di yểu mạng nhưng nhờ cứu sống một
đàn kiến nên được chuyển Nghiệp. Đáng lẽ, vị Sa di này
phải chết trong vòng một tuần lễ lại được sống an ổn,
trường thọ. Năng lực chi phối Dẫn nghiệp là Năng hủy
nghiệp. Một người thọ mạng vẫn còn, nghiệp lực của
Dẫn nghiệp (Tái sanh nghiệp) vẫn còn nhưng vì người này
trong đời trước hoặc ngay trong đời này đã tạo ra những
Nghiệp cực mạnh, có khả năng tiêu hủy đời sống của
họ, khiến họ có thể mất mạng như thường. Đó là những
trường hợp đột tử, bất đắc kỳ tử, tai nạn… Đây
không phải là số mệnh,định mệnh hay tới số, tận số.
Phật giáo gọi là Nghiệp, tác động của Năng hủy nghiệp
đã tiêu hủy một Dẫn nghiệp được tạo ra trước đó,
chấm dứt một đời sống. Năng hủy nghiệp trong trường
hợp
này giống như cơn gió thổi tắt đèn trong khi đèn vẫn
còn dầu và tim đèn.

Tựu
trung, Nghiệp theo Phật giáo là một cơ chế vận hành của
đời sống được khám phá bởi tuệ giác của Đức Phật
chứ không phải một tín ngưỡng vu vơ, siêu hình và hoàn
toàn
khác biệt với quan niệm Số mệnh của Nho giáo. Nghiệp
tuy có năng lực mạnh mẽ, chi phốiquyết định đời
sống
của chúng sanh trong hiện tại và tương lai nhưng Nghiệp
có thể chuyển hóa và thay đổi được thông qua nỗ lực
tu tập của cá nhân, chứ không cứng nhắc, tiêu cực như
Số mệnh. Thuyết Nghiệp rất tích cực, khoa học và công
bằng
. Nó tôn vinh trách nhiệmgiá trị con người, thúc
đẩy
con người hướng thiện, sống đạo đức, theo lẽ phải.
Thuyết Nghiệp khích lệ con người hành động và tiến bộ,
hoàn toàn vắng mặt bóng dáng tiêu cực, yếm thế.