Quan Điểm Của Daisetz Suzuki Về Công Án

0
29
QUAN ĐIỂM CỦA DAISETZ SUZUKI VỀ CÔNG ÁN
Hà Minh Triết


blankCuốn
Essays in Zen Buddhism”của soạn giả Daisetz Teitaro Suzuki,
mà dịch giả Trúc Thiên và thượng tọa Tuệ Sỹ dịch là
Thiền Luận, thượng tọa Thích Nguyên Tạng dịch là
Khái luận Phật giáo Thiền“, — (hoặc nếu muốn, cũng
có thể dịch là “Những bài tiểu luận về Thiền Phật
giáo
”) –, là bộ sách có nội dung gồm nhiều bài tiểu
luận, không chỉ riêng viết về những đề tài trực tiếp
liên
hệ đến Thiền như thiền Công Án, thiền Chỉ Quán,
mà còn đề cập đến cả những tài liệu gián tiếp liên
hệ
đến Thiền và Chứng Ngộ, thí dụ các kinh liễu nghĩa
như kinh Lăng Già, kinh Đại Bát Nhã, kinh Hoa Nghiêm, Quán Kinh,
và các tông phái như tông Hoa Nghiêm, tông Thiên Thai, tông Tịnh
Độ
, … vân vân….và cũng có lược qua các đề tài về
các môn phái Thiền khác tại Nhật như Thiền trong Kiếm thuật,
trong Võ đạo, trong Trà đạo, … vân vân….

Trong
số rất nhiều đề tài khác nhau đó, nơi Thiền Luận bộ
Trung, Tiểu Luận 1, Phần 1 với tên “Kinh nghiệm siêu việt
tri kiến”, soạn giả Suzuki và dịch giả Tuệ Sỹ đã dùng
tới trên 200 trang sách để trình bày về một phương tiện
Chứng Ngộtu tập Công Án, trong
đó soạn giả Suzuki nói rất rõ về tầm quan trọng của Nghi
Tình
và chủ trương không thể dùng tâm ý thức, suy tư tìm
hiểu
, kiến giải, để tu trong pháp môn khán Công Án, Thọai
Đầu.

Đọc
đến đây, có thể ai đó đã lắc đầu nhăn mặt rằng: “Thiền
sao mà “luận” được, sai rồi, sai rồi”. Nếu quả
có người nghĩ như thế thì tôi mong rằng chúng ta nên nhìn
vào thực tế, đừng để những vướng mắc của thành kiến
che mất cánh cửa Văn, Tư, Tu, vì chẳng riêng gì “Thiền”
có thể “luận”, mà Đại sư Tăng Triệu còn “luận”
luôn cả đến “Bát Nhã Vô Tri”, Niết Bàn Vô Danh” (Bát
Nhã Vô Tri Luận
, Niết
Bàn Vô Danh Luận
, trong bộ Triệu Luận, Đại Chánh
tân tu Đại Tạng Kinh, mục số 1858, thiền sư Hám Sơn lược
giải, thiền sư Thích Duy Lực dịch, Từ Ân Thiền Đường
ấn hành).

Ngoài
ra
, bồ tát Long Thọ (Nāgārjuna) còn “luận” luôn cả
đến Đại Bát Nhã (Mahā Prajñā Pāramitā), tức là “Trí
Tuệ
Bát-nhã Ba-la-mật
”, bằng bộ “Đại
Trí Độ Luận
”. Đến Bát Nhã Vô Tri, Niết bàn
Vô Danh, Trí Tuệ Bát Nhã, Tri Kiến Phật còn “luận” được
thì chẳng nên phê phán việc soạn giả Suzuki viết “Essays
in Zen Buddhism
” và các dịch giả Trúc Thiên và Tuệ Sỹ
đã dịch là Thiền
Luận
.

Tóm
lại
, nếu muốn giải thích cho người khác thấu triệt được
vấn đề gì thì phải “luận giải, do đó,
trong Tam Tạng Kinh Điển của nhà Phật gồm “Kinh, Luật,
Luận
” mới có tạng thứ ba tên là Tạng Luận.

Nay
xin trở về đề tài chính. Mở đầu chương “Tu Tập
Công Án: Phương Tiện Chứng Ngộ
”, soạn giả Suzuki
nói về “Thánh Trí Tự Chứng” (Ngộ), và để
giải thích thế nào là “Tự Chứng”, ông đã
trích dẫn kinh Hoa Nghiêm:

“Thiện
Tài Đồng Tử hỏi: Môn giải thoát này làm sao để hiện
tiền? Làm sao để chứng đắc?

“Diệu
Nguyệt trưởng giả đáp: Một người thân chứng hiện tiền
môn giải thoát này khi nào người ấy phát khởi tâm Bát nhã
Ba La mật
(Prajna-paramita) và cực kỳ tương thuận; rồi thì
người ấy được chứng nhập trong tất cả những gì mà
mình thấy và thấu hiểu.

“Thiện
Tài Đồng Tử lại thưa: Có phải do nghe những ngôn thuyết
và chương cú về Bát-nhã Ba-la-mật mà được hiện chứng?”

“Diệu
Nguyệt đáp: Không phải. Tại sao thế? Bởi vì Bát-nhã Ba-la-mật
thấy suốt thể tánh chân thật của các pháp mà hiện chứng
vậy.

“Thiện
Tài thưa: Há không phải do nghe mà có tư duy và do
duy
biện luận mà được thấy Chân Như là gì? và há đây
không phải là tự chứng ngộ?

“Diệu
Nguyệt đáp: Không phải vậy.
Không hề do nghe và tư duy mà được tự chứng ngộ
.
Này Thiện nam tử, đối với nghĩa
này ta phải lấy một thí dụ, ngươi hãy lắng nghe!

“Thí
dụ như trong một sa mạc mênh mông không có suối và giếng,
vào mùa xuân hay mùa hạ khi trời nóng, có một người khách
từ Tây hướng về Đông mà đi, gặp một gã đàn ông từ
phương Đông đến, liền hỏi gã rằng: “Tôi nay nóng và
khát nước ghê gớm lắm; xin chỉ cho tôi nơi nào có suối
trong và bóng cây mát mẻ để tôi có thể uống nước, tắm
mát, nghỉ ngơi và hoàn toàn tươi tỉnh lại?”

“Gã
đàn ông ấy theo lời yêu cầu, liền chỉ dẫn cặn kẽ cho
người khách rằng: “Cứ tiếp tục đi về hướng Đông,
rồi sẽ có con đường chia làm hai nẻo, nẻo phải và nẻo
trái. Bạn nên hãy theo nẻo bên phải và gắng sức mà đi
tới chắc chắc bạn sẽ đến một nơi có suối trong và bóng
mát.

“Này
thiện nam tử, bây giờ ngươi có nghĩ rằng người khách nóng
khát, từ Tây đến, khi nghe nói đến suối mát và những
bóng cây, liền tư duy về việc đi tới đó càng nhanh càng
tốt, người ấy có thể trừ được cơn khát và được mát
mẻ
chăng?

“Thiện
Tài đáp: “Dạ không; người ấy không thể làm thế được;
bởi vì người ấy chỉ trừ được cơn nóng khát và
được mát mẻ khi nào theo lời chỉ dẫn của kẻ kia mà đi
ngay đến dòng suối rồi uống và tắm ở đó.

“Diệu
Nguyệt: “Này thiện nam tử, đối với Bồ tát cũng vậy
không phải chỉ do nghe, tư duy và huệ giải mà có thể chứng
nhập
hết thảy pháp môn. Này thiện nam tử, sa mạc là chỉ
cho sinh tử; người khách đi từ Tây chỉ cho các loài hữu
tình
; nóng bức là tất cả những sự tướng mê hoặc; khát
tức là tham và ái; gã đàn ông từ Đông đến và biết rõ
đường lối là Phật hay Bồ tát đã an trụ trong nhất thiết
trí
, các ngài đã thâm nhập Chân Tánh của các pháp và Thật
Nghĩa bình đẳng; “giải trừ
khát cháy và thoát khỏi nóng bức nhờ uống dòng suối mát”
là chỉ cho sự Chứng Ngộ Chân Lý bởi chính mình vậy.


(Thiền
Luận bộ Trung
, trang 22)

Để
nhấn mạnh và làm sáng tỏ sự Chứng
Ngộ
vốn không liên quan đến ngôn ngữ, văn tự
,
ông Suzuki tiếp:

…”…Từ
trích dẫn này chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng môn giải
thoát
Bát- nhã ba-la-mật phải
được chứng ngộ bằng kinh nghiệm cá biệt của mình; còn
như chỉ có nghe và học hỏi thôi thì chúng ta không cách gì
thâm nhập vào giữa lòng chân tánh của thực tại.
Người ta có thể hỏi, tại
sao không thể vươn tới chân lý tự chứng bằng tri kiến?
Câu hỏi này được trả lời ở một đoạn khác trong kinh
Hoa nghiêm
.

“Chân
tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một,
không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực
Tại
) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ
khác cũng như cho chính mình; hoàn toàn không thiên lệch với
ý tưởng đây kia, giống như mọi vật đều sinh trưởng từ
lòng đất. Chính Thực Tại hay Pháp Tánh, không phải hữu
tướng
, cũng không phải vô tướng; thể của nó như hư không
,
vượt ngoài tri kiếnliễu
giải
; pháp ấy vi diệu, khó
lấy văn tự mà diễn nói.

Tại
sao thế? Bởi vì nó siêu việt hết thảy cảnh giới của
văn tự; siêu việt hết thảy cảnh giới của ngôn thuyết;
siêu việt hết thảy các cảnh giới ngữ nghiệp vận hành;
siêu việt hết thảy các cảnh giới của hí luận, phân biệt
tư lương; siêu việt hết thảy các cảnh giới của tầm tư
và tính toán, siêu việt cảnh giới sở tư của tất cả chúng
sinh
ngu muội; siêu việt cảnh giới của hết thảy phiền
não
tương ưng ma sự; siêu việt hết thảy cảnh giới của
tâm thức
…”…

(Trang
24, sđd)

Với
quan niệm phải bác bỏ tri kiến
trong sách vở khi tham thiền
,
soạn giả Suzuki viết:

“Bài
thuyết pháp sau đây của Hoàng Long Tử Tâm Ngộ Tân Thiền
(1044-1145) cho thấy không gì diễn ra trong lòng của
một kẻ học Thiền chân thật
:

“Này
chư Thượng tọa, thân người khó được, Phật pháp khó nghe.
Thân này không nhắm đời nay độ, còn đợi đời nào độ
thân
này? Nay còn sống đó, các ngài hãy tham thiền đi, tham
thiền
là để buông bỏ. Buông bỏ cái gì? Buông bỏ tứ đại,
ngũ uẩn, buông bỏ bao nhiêu nghiệp thức từ vô lượng kiếp
đến nay
; hãy nhìn xuống dưới gót chân của mình mà
suy xét cho thấu đáo để thấy đạo lý ấy là gì? Suy tới
suy lui hốt nhiên tâm hoa bừng nở, chiếu khắp mười phương.
Sự chứng ngộ thì không thể trao truyền, dù chính các ngài
biết rõ nó là cái gì ?

“Đây
là lúc các ngài có thể biến đất lớn thành vàng ròng, quậy
sông dài thành biển sữa. Há không sướng khoái bình sinh sao!
Vậy thì đừng phí thì giờ niệm ngôn niệm ngữ mà
hỏi đạo hỏi thiền nơi sách vở; bởi vì đạo thiền không
ở nơi sách vở. Dù cho thuộc lòng một bộ Đại tạng
cũng như Bách gia chư tử, chẳng qua là những lời rỗi rãi,
khi chết chẳng dùng được gì
”.
(Trang
28, sđd)

Để
sáng tỏ quan điểm về bác bỏ mọi sự tìm tòi trên bình
diện tri kiến, ngưng lại thói quen
”tâm viên ý mã”,
ông Suzuki nhấn mạnh:

Kẻ
thù
tai hại nhất của kinh nghiệm Thiền là trí năng

với bản chấttác dụngphân biệt chủ khách. Do đó
người ta phải cắt bỏ bớt trí năng phân biệt nếu muốn
khai triển ý thức Thiền, và công án được nêu cao để thực
hiện
mục đích này.

Khi
khảo sát chúng ta nhận thấy ngay rằng giải thích của trí
năng
không có tác dụng gì hết trong công án. Lưỡi dao trí
năng
không đủ sắc bén để chẻ đôi công án hầu nhìn thấy
nội dung của nó, bởi vì một công án không phải là một
mệnh đề luận lý mà là sự diễn đạt của một tâm trạng
nào đó kết quả từ pháp môn Thiền. Chẳng hạn, có quan
hệ luận lý nào giữa “Phật” và “ba cân gai”? hay giữa
“Phật tính” và “vô” hay giữa “mật chỉ của Bồ-đề-đạt-ma”
và “cây bách”?

Trong
một tác phẩm Thiền mang danh là Bích Nham Lục, Viên Ngộ đưa
ra nhưng ghi nhận sau đây về “ba cân gai” đồng thời cho
thấy công án được giải thích ra sao bởi các môn đệ «
tà Thiền » không đủ sức nắm vững Thiền.

“Có
một số người thời bấy giờ không lãnh hội chân chính
công án này; đấy là vì không
có kẽ hở nào cho trí năng của họ cắn răng
.
Bởi vậy ta nói nó rất ư nhạt nhẽo vô vị. Cổ nhân đã
có nhiều câu trả lời cho câu hỏi: “Phật là gì?”. Vị
thì nói: “Ngài ngồi trong Phật điện”. Vị thì bảo: “Một
người có 32 tướng tốt”. Vị khác: “Cây roi bằng rễ
tre”. Nhưng, không ai hay hơn Động Sơn: “Ba cân gai”;
bất chấp cái phi lý của nó; cắt đứt mọi đường lối
biện bác.
(Trang 136 sđd)

Câu
trích sau đây càng cho thấy Suzuki quyết liệt bác bỏ sự
vận hành của trí năng trong Công Án:

“Đứng
về mặt thủ pháp, công án được nêu ra cho kẻ sơ cơ
là để “hủy hoại gốc rễ của sự sống”, “giết chết
đầu óc so đo đốn ngã tâm trí hiện hành tử vô thủy”,
v.v… Sự diễn tả như vậy có thể dồn người ta vào tử
lộ
, nhưng đích ý là vượt lên những giới hạn của trí
năng
, và chỉ có thể vượt qua những giới hạn này khi nào
người ta dốc hết toàn lực, tận dụng những năng lực tâm
thần
vốn có
…”…
(Trang
137 sđd)

Trong
tiểu mục “Những chỉ thị thực tiễn đối với tu tập
công án”, soạn giả Suzuki viết:

”Một
Thiền sư trên núi Hoàng Bá, khoảng đầu nhà Tống, chỉ thị
về lối học Thiền như sau:

“Này
chư huynh đệ! Có thể chư vị thích nói về Thiền, về
Đạo chửi Phật, chửi Tổ nhưng đến khi tính lại, các thứ
Thiền đầu môi chót lưỡi của chư vị nào có ích chi. Như
thế chỉ làm mờ mắt kẻ khác, nhưng nay chư vị sẽ thấy
rằng mình tự làm mờ mắt mình
. Này chư huynh đệ!
Lúc thân thể còn khang kiện hãy cố mà hiểu biết chân chính
Thiền là gì. Quả tình, cái ổ khóa đó chẳng phải khó mở
xoay vào cho lắm, mà chỉ vì chư vị không quyết lòng sống
chết
với công phu; rồi khi không biết làm sao để chứng,
chư vị lại bảo “Khó lắm, khó lắm, sức ta không làm nổi”.
Thật là vô lý! Nếu chư vị quả thật là những kẻ trượng
phu
, chư vị sẽ thấy ra ý nghĩa công án của mình. Một thầy
Tăng hỏi Triệu Châu: con chó có Phật tính không?” Châu đáp
“Vô”. Rồi, bây giờ chư vị hãy chuyên tâm vào chữ VÔ
này cả ngày lẫn đêm; dù đi, đứng hay nằm, ngồi suốt
trong mười hai thời; dù cả khi mặc áo, ăn cơm, đại tiện,
tiểu tiện, hãy chú tâm nhất định nơi công án. Hãy tận
lực ghi nhớ nó mãi trong lòng. Ngày qua tháng lại, cho tới
khi tâm của chư vị được nhồi lại thành một khối, thì
hoa lòng bỗng nhiên bừng nở – tỏ ngộ cái tâm cơ của Phật
và Tổ. Bấy giờ, kể từ nay, khắp trong thiên hạ chẳng
còn một lão Thiền sư nào mà mắt chư vị được nữa”

Nhấn
mạnh
điều sai lầm khi dùng tâm Ý thức nghiên cứu suy tư,
một hình thức ”giải công án”
,
soạn giả Suzuki viết:

”Trong
trích dẫn sau đây rút ra từ cuốn Đại Huệ Phổ Thuyết
gồm các bài pháp của thiền sư Đại Huệ, ngài còn nêu lên
một công án khác cho vị tăng thị giả của mình là Tịnh
Quang:

“Pháp
không do kiến văn giác tri mà biết thấu rõ. Nếu pháp kiến
văn giác tri mà thấu rõ, đấy chỉ là kiến văn giác tri
thôi; hoàn toàn không phải là pháp. Bởi vì pháp
không
ở nơi những cái mà người ta nghe từ kẻ khác hay học
tập bằng thế trí. Bây giờ, người hãy bỏ đi những gì
thấy, nghe và suy nghĩ, mà thấy nhưng gì trong chính ngươi.
Chỉ có chân không, vô vật, không thể bắt nắm được, không
thể nghĩ tưởng đến được. Tại sao? Bởi vì đó là nơi
siêu việt giác quan. Nếu giác quan mà với tới nơi này được,
thì đó là cái có thể nghĩ tưởng, có thể bám víu; và như
vậy, nó nằm trong vòng sống chết.

“Điều
cốt yếu là khép chặt các giác quan, và biến tâm thức thành
như một khúc cây. Khi khúc cây này đột nhiên trỗi dậy và
khua vang, ấy là ngươi như sư tử cất tiếng rống tự do,
tự tại, không ai quấy phá, hay như một con voi vượt qua sông
chẳng e dè dòng nước chảy xiết. Đấy là lúc không còn
dao động, không còn tạo tác…..”….

(Trang
142 sđd)

Soạn
giả Suzuki ca ngợi:

”Đại
Huệ không mệt mỏi nhắc nhở môn đệ của mình sự
quan trọng của chứng ngộ siêu việt ngôn ngữ biện biệt,
vượt ngoài giới hạn của tâm hành.
..”

”Nơi
khác, Đại Huệ nói: “Hãy kiên
trì
công án trong suốt cả bình sinh. Nếu một niệm khởi
lên, đừng cố ý dẹp xuống, mà cứ cố giữ công án hiện
tiền
với tâm. Dù khi đi khi đứng hay nằm ngồi, chú tâm
không gián đoạn
. Đến khi bắt
đầu thấy nó không còn hương vị gì hết, ấy là lúc thời
quyết định đang đến; đừng để nó vuột mất. Đến
khi một vật đột nhiên chớp lên trong tâm ngươi, ánh sáng
của nó sẽ sáng rực cả vũ trụ, và ngươi sẽ thấy rằng
quốc độ của chư Phật hoàn toàn hiện lên trên đầu một
sợi tóc, và bánh xe Chánh pháp vĩ đại đang quay trong một
hạt bụi…”…

(Trang
146 sđd)

Ông
Suzuki cũng dẫn chứng lời thiền sư Không Cốc Long khuyên
các sư tăng:

“Cái
của
Triệu Châu, trước khi các thầy thấu triệt nó, thì nó như
một hòn núi bạc hay như một bức tường sắt (đứng chắn
lối của các thầy). Nhưng khi các thầy tiến tới với cái
ngày
qua ngày, cố bước vào trong lòng của nó, đừng để một
khoảnh khắc dừng nghỉ, thời cơ tối thượng nhất định
sẽ đến, như một cơn lụt tràn ngập; và rồi các thầy
sẽ thấy rằng bức tường sắt hay hòn núi bạc chẳng chút
đáng sợ. Điều quan trọng là đừng tin gì ở cái
học, cái hiểu, mà hãy để hết tâm trí vào việc giải quyết
vấn đề sanh tử.

Đừng
phí thì giờ ngồi suy nghĩ về cái “vô”, hãy như một tên
si ngốc không khác, đừng cố giải quyết sai lầm bằng
duy
biện biệt
. Hãy kiên quyết
để hết tâm chí mà thấu cái vô. Rồi đột nhiên, khi các
người buông tay xuống, toàn thể tâm thức hoàn toàn đảo
ngược
và kể từ đây các người nhận thấy vô cùng minh
bạch
nơi chốn tận cùng của nó …”…(Trang 147 sđd)

Ông
kết thúc bằng bài pháp của thiền sư Bạch Ẩn với lời
lẽ như sau:

“Tôi
kết luận vắn tắt chương này với một đoạn trích từ
tác phẩm của Bạch Ẩn Huệ Hạc, cha đẻ của phái Thiền
Lâm
Tế Nhật Bản ngày nay. Trong trích dẫn này chúng ta sẽ
thấy tâm lý của Thiền tiến hành ra sao vốn chẳng có thay
đổi nhiều qua hơn một nghìn năm, từ thời Huệ Năng
các môn đệ Trung Hoa của ngài:

“Nếu
các ngươi muốn đạt được đạo lý thanh tịnh của vô ngã,
thì hãy cứ một lần buông tay rơi trên vực thẳm, rồi các
ngươi sẽ bừng tỉnh trỗi dậy trở lạithành tựu bốn
đức thường, lạc, ngã, tịnh. Thế nào là buông tay xuống
vực thẳm? Giả sử có người dạo bước giữa những hòn
núi xa xôi, nơi chưa từng có ai lưu lạc đến. Người ấy
đến bên bờ một vực thẳm không đáy, đá lởm chởm, rong
rêu phủ kín, vô cùng trơn tuột, không biết đặt chân đâu
cho vững; y không thể đi tới, không thể bước lui, cái chết
đối diện. Nguồn hy vọng độc nhất là giữ lấy sợi dây
sẵn trong tay; sinh mệnh của y gởi vào sợi dây này. Nếu
y bất cẩn buông tay, thân thể y sẽ lao thẳng xuống vực,
xương thịt sẽ tan ra từng mảnh.

Người
học Thiền cũng vậy. Khi y bám chặt công án trong tay, rồi
y sẽ thấy rằng mình đã bước tới cực độ khẩn trương
của tinh thần và đang ở trong bước đường cùng. Như một
người bị treo lơ lửng trên vực thẳm, chẳng còn biết phải
làm gì. Trừ những cảm giác bồn chồn bất an, từng lúc
và từng lúc, y giống như một người đã chết. Đột nhiên
y thấy thân và tâm của mình bị quét ra khỏi cuộc sống
cùng lúc với công án. Đấy gọi là “buông tay”; khi các
ngươi tỉnh khỏi cơn si ngốc và lấy lại hơi thở, giống
khi uống nước chỉ mình biết là lạnh. Đó là một niềm
vui khôn tả”
.
(Trang
152 sđd)

Về
tầm quan trọng của Nghi Tình trong phương pháp tu khán Công
Án
, Thoại Đầu, soạn giả Suzuki viết:

– Hãy nhận xét những câu nói của thiền sư Đại Huệ trong
Đại Huệ Phổ Thuyết như:

…“… Nhặt ra cái điểm suốt đời nghi ngờ và đặt nó ngay
trước mặt
”. Đó là Thánh hay phàm? Hữu hay vô? Hãy
đẩy câu hỏi đó đến cùng. Đừng sợ rơi vào cái không:
hãy tìm xem cái gì nuôi dưỡng nỗi sợ hãi này. Đó là cái
không, hay không phải?” …

Đại
Huệ
không bao giờ khuyên chúng ta chỉ việc đề khởi công
án
hiện tiền; trái lại, ngài bảo chúng ta hãy đặt nó vào
ngay trong tâm bằng tất cả
sức
mạnh
của nghi tình. Một khi công án
được chỉ trì bởi một tinh thần như thế, ngài nói, nó
“giống như một ngọn lửa cháy lớn
đốt cháy tất cả những con sâu hí luận đang xăm tới.”
Nếu không có sự phấn khích nghi tình mang màu sắc triết
lý này, chẳng công án nào có thể đứng vững trước tâm
thức. Vì vậy, lời nói thông thường của các Thiền sư
cho rằng: “Trong sự tham thiền, điều
trọng yếu nhất là giữ vững nghi tình; nghi tình càng mạnh,
ngộ càng lớn, quả thực, chẳng bao
giờ có ngộ mà không có nghi, vậy, hãy bắt đầu bằng cách
dọ hỏi vào ý nghĩa của công án
”.
(Trang
182 sđd)

Về
từ ngữ “nghi tình”, nơi Thiền Luận bộ Thượng, trang
413, dịch giả Trúc Thiên đã định nghĩa như sau:

Đại
nghi
, hoặc nghi tình, nghi niệm, nghi đoàn
đây không liên
hệ
gì đến cái doute philosophique của Descartes. Thiền tông
đặt nghi tình làm một trong ba điều kiện thiết yếu để
tham công án, đó là đại ý chí, đại tin tâm, đại nghi tình.
Nghi tình là nguồn kích động lực thúc đẩy hành giả từng
giây từng phút nhảy sấn vào hư vô, dầu đó là địa ngục
cũng mặc. Nên thiền sư Huệ Khai, trong Vô môn quan, nói: “Hãy
đem hết ba ngàn sáu trăm khớp xương, tám vạn bốn ngàn lỗ
chân lông đúc thành khối nghi tình công phá vào chữ “Vô”
ấy của Triệu Châu. Ngươi hãy như người nuốt phải viên
sắt nóng, trạo trực ói tới ói lui vẫn không mửa ra được,
có thế mới gội sạch hết kiến thức chồng chất bấy lâu.
để rồi nổ bùng lên như trời long đất lở. Chừng như
ngươi vừa đoạt được cây đao thanh long của Quan Công cầm
tay qua ải gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, được
tự tại ngay tại đầu bờ sanh tử, dạo nỗi vui du hí qua
sáu nẻo luân hồi, bốn đường sanh hóa”
.

Để
nhấn mạnh thêm tầm tối quan trọng của “Nghi Tình” trong
Công Án
, ông Suzuki dẫn chứng một loạt những lời
khai thị của các thiền sư danh tiếng:

“Theo
Cao Phong Nguyên Diệu (1238-1295) chúng ta được biết như vầy
:

Công
án
tôi thường đặt cho các môn nhân là: “Vạn pháp quy Nhất,
Nhất quy hà xứ?” Tôi khuyên họ hãy tham cứu câu này.

Tham
cứu
câu ấy tức là đánh thức một mối nghi tình lớn đối
với ý nghĩa cứu cánh của công án. Vạn pháp thiên sai vạn
biệt được quy về Một, nhưng rồi Một trở về đâu? Tôi
bảo họ, hãy đem hết sức mạnh bình sinh mà đeo mối nghi
tình
này, đừng lúc nào xao lãng. Dầu đi, đứng, nằm, ngồi
hay làm các công việc, đừng để thời giờ luống trôi qua.
Rồi ra cái Một trở về đâu?

Hãy
cố mà tìm một câu trả lời chính xác cho câu hỏi này. Đừng
buông trôi mình trong cái vô sự; đừng luyện tập tưởng
tượng phiêu du, mà hãy cố thực hiện cho được cái trạng
thái
toàn nhất viên mãn bằng cách đẩy nghi tình lướt tới,
bền bỉ và không hở. Rồi các ngươi sẽ thấy mình như một
kẻ bịnh ngặt, chẳng còn muốn ăn uống gì nữa. Lại như
một thằng khờ, không hiểu cái gì ra cái gì hết. Khi công
phu
đến đây, giờ là lúc tâm hoa của các người bừng nở.

Cổ
Âm Tịnh Cầm
thiền sư, khoảng cuối thế kỷ XV, nói về
sự tu tập công án như vầy:

Công
phu
có thể được thực hành tốt đẹp nhất là ở nơi không
tiếng động và tạp loạn: hãy dứt bỏ tất cả nhưng
điều kiện quấy nhiễu, hãy dừng lại suy tư và nghĩ tưởng,
để hết tâm trí vào việc tiến hành công án, đừng bao giờ
buông thả nó ra khỏi trung tâm của thức, dù khi đi đứng
hay nằm ngồi vẫn vậy
. Đừng bao giờ quan tâm đến
việc mình đang ở trong cảnh ngộ nào, dù khi xứng lòng hay
trái ý, mà luôn luôn hãy cố giữ lấy công án trong lòng,
phản quan tự chiếu, và tự hỏi ai là kẻ đang theo đuổi
công án chẳng biết mệt thế, và tự hỏi như vậy không
ngớt.

Cứ
tiến hành như thế, hết sứchăng hái, nghi chính kẻ đang
nghi, chắc chắn sẽ đến lúc không còn nghi vào đâu được
nữa, tuồng như các ngươi đã đi đến chính tận nguồn của
dòng suối và thấy mình đang bị những ngọn núi vây hãm
chung quanh. Đây là lúc gốc cây cùng với sắn bìm chằng chịt
gãy đổ, tức là khi sự phân biệt chủ khách hoàn toàn bị
xáo trộn, khi kẻ bị nghi và cái bị nghi hòa hợp thành một
khối duy nhất. Một khi thức tỉnh tự sự hợp nhất này,
cái ngộ lớn hiện đến, mang sự thanh bình cho nghi tình
tham cứu của các ngươi
”.

Thiên
kỳ Thụy
hòa thượng thị chúng:

Hãy
gột sạch khỏi tâm tất cả khôn ngoan lừa lọc, dứt mình
ra khỏi tham sân do chấp ngã, và đừng để những mối nghĩ
phân hai quấy phá, để cho tâm thức được lau chùi sạch
sẽ. Khi đã thanh lọc được như vậy rồi, hãy đề khởi
công án trước tâm: “Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ
?”

“Hãy
nghiền ngẫm vấn đề này từ thủy chí chung hoặc bằng nhiều
nghi vấn, hoặc đơn độc một suy nghĩ, hoặc chỉ nghiền
ngẫm
cái Một ở nơi đâu. Bất cứ bằng cách nào cứ để
cho hết thảy đầu mối của các câu hỏi ghi đậm trên ý
thức
của các ngươi khiến cho nó trở thành cái độc nhất,
là cái đích chú tâm. Nếu các ngươi để phân biệt
lý luật xen vào chuỗi dây liên tục bền bỉ của những nghi
tình
, kết quả sẽ làm sụp đổ hết cả công trình tu tập.

“Một
khi các người chẳng được công án trước tâm, chẳng có
cơ duyên nào để chứng ngộ hết. Muốn chứng ngộ mà không
công án, chẳng khác nào nấu cát mà mong thành cơm.

Cái
cốt yếu bậc nhất là khơi dậy cái đại nghi và gắng thấy
rằng rồi cái Một quy về đâu. Lúc nghi tình được giữ
linh hoạt liên tục khiến cho những giải đãi, hôn trầm,
tán loạn không còn cơ hội móng khởi; không cần tìm kiếm
ráo riết, rồi thời cơ cũng sẽ đến, đây là lúc tâm hoàn
toàn
nhập định. Thế là dù đi hay đứng, nằm hay ngồi mà
không phải để ý hẳn vào những việc đang làm ấy, cũng
không hay biết mình đang ở đâu, Đông hay Tây, Nam hay Bắc;
quên luôn cả lục tình; ngày đêm như nhau cả.
Nhưng
đây chỉ mới nửa đường của ngộ, nhất định chưa phải
ngộ hoàn toàn. Các người cần phải nỗ lực kỳ cùng và
quyết liệt để xuyên qua đây, một trạng thái siêu thoát
nơi đó hư không sẽ bị đập vỡ thành từng mảnh và vạn
hữu
đều được quy về cái bình đẳng toàn diện. Đấy
lại như mặt trời ló dạng khỏi mây mù, thì các pháp thế
gian
hay xuất thế gian đều hiện ra rõ rệt”.

Sở
Sơn Thiệu Kỳ
Thiền Sư:

“Người
sơ cơ cần nhất là phải có một vật để mà nắm vào Thiền;
và vì thế họ được dạy cho pháp môn niệm Phật. Phật
tức Tâm. Tâm tức Phật. Tâm và Phật từ đâu mà có? Có
từ tâm. Tâm ấy không phải là tâm, không phải Phật, không
phải vật. Vậy, là cái gì?

Muốn
thấy ra, hãy vứt bỏ đi tất cả những chữ đã tích chứa
do học tập, tri thức, kiến giải; hãy chỉ hoàn toàn chuyên
chú
vào một câu hỏi: “Ai đang niệm Phật?” Hãy để cho
nghi tình này nghi đến cực độ; đừng say sưa theo những
nghĩ tưởng mê lầm; đừng để cho những ý tưởng phân biệt
cùng khởi lên
. Một khi công phu bền bỉ, liên tục
không gián đoạn, thì Thiền định của các người tất nhiên
sẽ được thuần thục, và nghi tình của các ngươi nhất
định
bùng vỡ dữ dội. Rồi
các ngươi sẽ thấy rằng Niết bàn (Nirvana) và sinh tử, cõi
tịnh
độ và cõi uế trược, chỉ là hí luận, và ngay từ
đầu chẳng cần gì giải thích hay bình chú, và thêm nữa,
Tâm không thuộc cảnh giới tâm ý thức, do đó là BẤT KHẢ
ĐẮC
.”
(Trang
186, sđd)

Soạn
giả Suzuki giải thích thêm:

“Sự
phát khởi của lối thực tập công án hoàn toàn là một sự
tăng trưởng tự nhiên trong lịch sử của Thiền. Muốn thế,
nhiệm vụ của một công án đầu phải là cốt tạo ra, gần
như giả trang, cùng một trạng thái ý thức như đã được
kinh nghiệm bởi các Thiền sư xưa một cách ngẫu nhiên. Đấy
phương tiện đẩy nghi tình vào một điểm tập trung hay
“đại nghi”. Nơi công án, không có đầu mối hợp lý để
tựa vào bằng trí năng và biện luận…


(Trang
194, sđd)

Một
trong những bức thơ, đề cập đến các phước báo của phép
Niệm Phậtcông án, Bạch Ẩn viết:

Trong
việc học
(Thiền), cái hệ trọng nhất là cường độ
mãnh liệt của nghi tâm. Vì vậy, người ta nói Nghi mạnh thì
Ngộ lớn, và có một nghi tâm khá mạnh thì chắc chắn được
ngộ lớn. Lại nữa theo Phật Quốc thiền sư, lỗi lầm lớn
nhất (với thiền giả) là thiếu một nghi tâm đặt trên công
án
. Khi nghi tâm của họ lên đến điểm ngưng chú cao chót
thì có cơ bùng vỡ.
Giả sử có một trăm, và cả đến
một nghìn thiền giả như thế, ta đoan chắc mỗi người sẽ
đi tới chỗ cứu cánh. Khi thời cơ của đại nghi xuất hiện,
họ cảm thấy mình như đang ở giữa hư không, mở rộng cả
bốn phương và trải rộng đến vô cùng; họ không biết mình
sống hay chết; họ cảm thấy trong suốt lạ thường và dứt
khỏi mọi uế trước, tựa hồ đang ở trong một cái bồn
pha lê, hay hãm mình trong một khối băng cứng mênh mông; lại
y như một người mất hết cảm giác; ngồi thì quên đứng,
mà đi thì quên ngồi.

“Không
một tư tưởng, không một xúc cảm nào móng khởi trong tâm,
cái tâm giờ đây hoàn toàn độc nhất chuyên vào công án
mà thôi. Lúc bấy giờ, đừng sợ hãi, đừng phân biệt cứ
thẳng đường mà tiến tới công án, rồi đột nhiên họ
nghiệm thấy như có một sự bùng nổ, tựa hồ cái chậu
băng giá vỡ tan từng mảnh, tựa hồ một cái lầu ngọc bị
lung lay, và hiện tượng này được kèm theo một cảm giác
hoan lạc bao la chưa từng kinh nghiệm trong suốt bình sinh…


vậy
, các ngươi nên đặt nghi vấn vào công án VÔ và nhìn
xem có ý gì trong đó. Nếu nghi tâm của các ngươi không hề
bị xao lãng, luôn luôn chăm chú trên chữ VÔ, dứt hết mọi
ý niệm, xúc cảm và tưởng tượng, chắc chắn các ngươi
sẽ đạt đến chỗ hoàn toàn ngưng chú… Đấy tất cả là
do sự hiện diện của nghi tâm trong các ngươi; vì nếu không
nghi tâm thì không đi tới chỗ cao tột này và ta đoan chắc
với các ngươi, nghi tâm là đôi cánh mang các ngươi đi đến
cùng đích
.”

(Trang
198, sđd)

Kết
thúc
phần nói về tầm tối quan trọng của “Nghi Tình”
trong khán Công Án, Thoại Đầu, tác giả Suzuki viết:

“Trong
một tác phẩm tựa đề “Bác Sơn tham thiền cánh ngữ”,
những lời cảnh tỉnh về tham Thiền của Bác Sơn; tác phẩm
thuộc triều Minh, vấn đề nghi tình được thảo luận rất
kỹ, lược nêu như sau: “Trong công phu chứng Thiền,
điều cần thiếtnuôi dưỡng một khát vọng mãnh liệt
muốn hủy diệt cái tâm còn trong vòng sống chết. Khi khát
vọng này được khơi dậy, hành giả nghe ra tuồng như mình
đang bị một ngọn lửa hừng hực vây phủ. Y muốn trốn
chạy nó nhưng không thể được, đứng im ra đấy không thể
được, suy nghĩ vớ vẩn không thể được, mong chờ tha lực
cũng không thể được. Để khỏi mất thì giờ, y phải vận
hết sức bình sinh mà nhảy xổ ra, không e dè gì đến hậu
quả
.

Một
khi khát vọng ấy được nuôi dưỡng, phải khơi dậy nghi
tình
và giữ vững nó trong lòng, cho đến phút chót khi đi
tới một giải đáp. Mối nghi này nhắm từ chỗ “sinh từ
đâu đến, chết đi về đâu” và luôn luôn được nuôi dương
bởi khát vọng muốn vượt lên trên sống chết. Cái đó khó
lắm, trừ phi nghi tình được thuần thục và tự bùng vỡ
thành một trạng thái chứng ngộ.

Phương
pháp
làm thuần thục cốt ở chỗ :
1
Không bận lòng đến những pháp thế tục.
2.
Không đắm mình trong trạng thái tịch mặc.
3.
Không dao động bởi vạn vật.
4.
Luôn luôn tự cảnh tỉnh, như mèo rình chuột.
5.
Tập trung tâm lực vào công án.
6.
Không cố gắng giải quyết công án bằng trí năng trong khi
chẳng có trình tự luận lý nào trong đó.
7.
Không có mổ xẻ nó.
8.
Không coi nó là một trạng thái vô hành.
9.
Không coi trạng thái sáng tỏ tạm thời là cứu cánh.
10.
Không đọc công án y như tuồng niệm Phật hay tụng chú (dharani).

Khi
những chỉ dẫn này được thi hành nghiêm chỉnh, hành giả
chắc chắn đưa nghi tâm đến chỗ thuần thục. Nếu không,
không những không khơi dậy nổi nghi tình, hành giả còn dấn
bước vào những chốn lầm lạc và sẽ không bao giờ có thể
vượt khỏi sự ràng buộc của sống chết, nghĩa là không
chứng được đạo Thiền
”…

(Trang
200, sđd)

Sau
khi lược sơ 200 trang của chương “Tu Tập Công Án: Phương
Tiện
Chứng Ngộ”, qua những trích dẫn kể trên, có
lẽ chúng ta đã thấy rõ rằng:

1
Tác giả Suzuki chủ trương “không thể dùng tâm ‎ý‎
thức, suy tư tìm hiểu, kiến giải, để khán Công Án, Thọai
Đầu”.

2
– Đề lên rất cao tầm quan trọng của “nghi tình” trong
khán Công Án.

3
– Ông không dạy “giải công án
”. Suốt 200 trang
trình bày về “Tu Tập Công Án: Phương Tiện Chứng Ngộ”,
tác giả Suzuki không hề chủ trương “giải công án”.

Không những thế, ông còn chống lại sự giải thích công
án
qua những dòng như: “…kẻ thù tai hại nhất của
kinh nghiệm Thiền là trí năng, và … giải thích của
trí năng không có tác dụng gì hết trong công án…”…

Như
thế, nếu có ai “cho là” một cách sai lầm rằng soạn giả
Suzuki dạy “giải công án”, có lẽ là do người đó chưa
hề “đọc” Thiền Luận của ông Suzuki, mà chỉ đoán mò
rằng vì ông Suzuki là người Nhật, nên dạy “giải công
án”!


Nhật có trường thiền dạy giải công án, cho là giải được
càng nhiều, càng tốt. Nhưng soạn giả Suzuki không
hề “dạy” ai “giải công án” trong Thiền Luận
,
không những thế trong những dẫn chứng, chúng ta đã thấy
tác giả bác bỏ việc giải công
án
một cách kịch liệt
.

Tóm
lại
, có một số thiền sư dạy giải công án tại Nhật,
nhưng không có nghĩa là tất cả các thiền sư Nhật đều
dạy giải công án. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này
tại tu viện Shasta, là một chi nhánh của Soto Zen bên Nhật.
Thiền viện tọa lạc trên núi Shasta, tiểu bang California. Đạo
hữu
Danny Việt (có một số bài đăng trong Thư viện Hoa Sen)
đã từng tới đó tu học, viết rằng “không hề có
chuyện “giải công án
”. Ở đó thiền sinh theo phương
pháp
của thiền sư Đạo Nguyên truyền lại là “Chỉ Quán
Đả Tọa” (Shikantaza meditation). Phương pháp này không “khán”
hoặc “giải công án” gì cả”.

Thành
kiến
cũng tức là biên kiến, là ác kiến, là tai họa trong
tu thiền vì nó “chấp chặt” vào một quan điểm nào đó,
không cần biết là đúng hay sai, — trong khi tu Thiền thì lại
chủ trương “phá chấp” triệt để. Thành kiến về một
điều gì đó, không tự mình tìm hiểu đúng sai, tức là tự
mình đã bịt mất một con mắt tìm chân lý, uổng phí lời
đức Phật dạy trong bài kinh Kalama, không thấy được ánh
sáng của Sự Thật.


Minh Triết
؀