Niết Bàn Và Sự Chấm Dứt Luân Hồi

0
31

NIẾT-BÀN
VÀ SỰ CHẤM DỨT LUÂN HỒI

Thích
Hiển Chánh


bậc giác ngộ, các tiếp xúc chỉ còn là các kinh nghiệm đơn
thuần
, không có mặt của các phản ứng tình cảm và cũng
không có sự chấp thủ từ các phản ứng này gây ra, nhờ
vào sự chánh niệm và sự tuệ tri sự vật như chính bản
chất
của chúng là . . . Tham ái bị phá vỡ. Chấp thủ không
còn chân đứng. Sanh tử đành phải vẫy tay chào từ biệt
vĩnh viễn, không nuối tiếc!

Như
được ghi chép trong kinh điển Phật giáo, điều kiện để
con người và các loài hữu tình khác tồn tạitham ái
hay chấp thủ về sự sống (bhava-ta?à). Niết-bàn trái lại
là sự chấm dứt các tham áichấp thủ đó. Một trong
các đặc tính của niết-bàn là chấm dứt toàn bộ dòng tiếp
nối
của tái sanh (saịsàra) hay tái hiện hữu (bhavacakka).
Nếu đau khổ (dukkha) được tạo nên hay được định nghĩa
bằng sự sanh (jàti), già (jarà), chết (mara?ị ), sầu (soka),
bi (parideva), khổ (dukkha), ưu (domanassa) và não (upàyàsa),1 thì
sự chấm dứt của toàn bộ khối đau khổ (anto dukkhassa)2
là niết-bàn. Nói cách khác, niết-bàn là sự diệt tận dòng
chảy của tái hiện hữu (bhavanirodho nibbànaị ),3 hay sự chấm
dứt
của chuỗi vận hành sanh và tử (jàtimara?ssa antaị ).
Theo học thuyết nghiệp và tái sanh, một chúng sanh được
sanh ra là do các trói buộc của vô minh (avijjà), tham ái (ta?à)
chấp thủ (upàdàna). Sự chứng đạt niết-bàn trái lại
bao gồm sự diệt trừ trọn vẹn các trói buộc này bằng
cách phát triển tuyệt đối tuệ giác (vijjà) và trí tuệ
(pagagà). Đó là tiến trình chấm dứt luân hồi. Đức Phật
và các vị A-la-hán khác đã diễn tả một cách sinh động
kinh nghiệm về sự chấm dứt luân hồi bằng các câu Cảm
Hứng Ngữ
(Udàna): “sanh đã tận, đời sống thánh đã hoàn
thành
, điều cần làm đã làm, không còn phải tái sanh nữa.”4

Khái
niệm vòng sanh tử ở đây nên được hiểu dưới góc độ
ở tương lai hơn là ở hiện tại. Nghĩa là, đức Phật, đức
Như Lai
, bậc A-la-hán, bậc giác ngộ, những người đã chứng
đạt niết-bàn không thể thoát mình khỏi trạng thái già,
bệnh và cuối cùng phải chết. Tiến trình của cái chết
được bắt đầu ngay khi con người được sanh ra trong đời,
và như là quy luật duyên khởi tương thuộc không thể tránh
khỏi
, con người không thể vượt qua nó được. Bậc giác
ngộ
khác chúng ta ở chỗ các ngài không còn phải đối đầu
với sự sanh, già, bệnh và chết ở tương lai và rồi ở
những kiếp sống sau tương lai đó nữa. Nói khác, nếu khát
vọng cho sự sống (bhava-ta?à) là một yếu tố của tái sanh
thì sự diệt trừ tận gốc khát vọng đó sẽ giải thoát
ta khỏi sự tái hiện hữu trong tương lai. Cần ghi nhận rằng
khi biết rõ cái chết là không thể tránh khỏi, mà con người
cứ tiếp tục tái sanh như kết quả của khát vọng hiện
hữu
(bhava-ta?hà), đức Phật và các bậc A-la-hán không phải
mất thời giờ lo lắng về cái chết, cũng không cần phải
nỗ lực một cách vô ích để xa lánh cái chết. Hơn bao giờ
hết, đức Phật đã chỉ ra cho chúng ta con đường vượt
thoát khỏi đau khổ bằng cách hành trì chánh niệm và tỉnh
giác
trong từng phút giây của sự sống, tại đây và bây
giờ.

Theo
Phật giáo, luân hồi có mặt như là hệ quả của luật nghiệp
báo
. Tình trạng của đời sống hiện tại của con người
tùy thuộc vào hành vi có chủ ý (cetanà) trong cả quá khứ
và nhất là hiện tại. Năng lực của hành vi có chủ ý sẽ
phân định tình trạng của con người trong hiện tại và tương
lai. Vì thế, “các chúng sanh là những kẻ phải thừa tự tài
sản
hành vi của mình.”5 Vòng tái hiện hữu (bhavacakka) được
mô tả trong chuỗi duyên khởi (Paỉiccasamuppàda), bao gồm 12
mắc xích bắt đầu từ sự thiếu trí tuệ (avijjà) hành (sa?hàra),
thức (vigagàza), tâm-vật-lý (nàma-ràpa), sáu giác quan (salàyatana),
tiếp xúc (phassa), cảm thọ (vedanà), tham ái (ta?à), chấp thủ
(upàdàna), tái hiện hữu (bhava), sanh (jàti), già và chết (jarà-mara?).6
Cội nguồn của chuỗi vận hành này chỉ có thể bắt đầu
bằng tính tương thuộc duyên khởi đa chiều và đa dạng,
trong đó, thức phân biệt (vigagàza) là một. Trong đạo Phật,
thức phân biệt (vigagàza) tạo nên trạng thái hiện hữu (bhava)
trong đời sau, mặc dù đạo Phật không thừa nhận một tác
nhân
thực thể trong đầu thai, theo nghĩa một chủ thể thường
hằng
bất biến. Thức như loại thực phẩm (vigagàzahàro,
thức thực) được trích dẫn như là nguyên nhân trực tiếp
của sự tái hiện hữu mới trong luân hồi ở tương lai.7
Chính ý thức tồn tại này (saịvattanika vigagàza) đã chịu
trách nhiệm cho sự tái hiện hữu.8 Hơn nữa, trong tiến trình
của tái hiện hữu (bhava), thức (vigagàza) không chỉ hoạt
động
đơn độc. Nó được sự hỗ trợ song hành của các
năng lực vô minh (avijjà), sự chủ ý (kamma/cetanà), tham ái
(ta?à) và chấp thủ (upàdàna). Như vậy luân hồi được điều
kiện
hóa bởi năm yếu tố sau đây, vô minh (avijjà), thức
(vigagàza), sự chủ ý (kamma), tham ái (tazhà) và chấp thủ
(upàdàna) trong đó các yếu tố 2-4 là quan trọng hơn hết,
như đoạn kinh dưới đây mô tả: “nghiệp (kamma) là mảnh
đất (khettaị ); thức (vigagàza là hạt giống (bìjaị) và
tham ái (tadhà) là độ ẩm (sineho). Do bị vô minh (moha) chi
phối
, tham ái trói buộc, thức được hình thành trong thế
giới
thấp kém (hìnàya dhàtuyà).”9 Ở đây, nghiệp, thức
tham ái là bộ ba yếu tố chịu tránh nghiệm của tái sanh.
Hành vi (kamma) đã tạo tác trở thành năng lực của con người,
được thức phân biệt duy trì, mang theochuyển hóa (vigagàza).10
Để chứng đạt niết-bàn chúng ta không nên vận hành thức
trong quỹ đạo của tái hiện hữu (vigagàzaị bhave na tiỉỉdhe).11
Như vậy nhờ vào sự diệt trừ sạch (nirodha) bộ ba yếu
tố
này, sanh, già và bệnh chết không có mặt trong hiện hữu
ở tương lai. Đây là điều được đức Phật trình bày trong
đoạn kinh dưới đây:

Chính
bản thân ta chịu sanh, già, bệnh, chết, sầu khổphiền
não
, khi nhận chân được sự nguy hiểm của chúng, ta đã
tìm kiếm cái không bị sanh (ajàta), không bị già, (ajara) không
bị bệnh (abyàdhiị ), không bị chết (amata), không bị sầu
khổ
(asokaị), không bị phiền não (asankiliỉỉdhaị ), sự
an tịnh tối thượng vượt thoát khỏi mọi trói buộc — ta
đã chứng đạt niết-bàn. Tuệ nhãntuệ tri sau đây đã
xuất hiện trong ta; sự giai thoát của tâm trở thành bất
động
. Đây là đời sống cuối cùng. Ta không còn phải tái
sanh
nữa.12

Nói
tóm lại, đối với bậc giác ngộ, người đã chứng đạt
niết-bàn chuỗi duyên khởi 12 mắc xích (paỉiccasamuppàda)
đã bị chặt đứt từng khúc. Ở đây, vô minh (avijjà) tên
trọng não mặc dù không phải là nguyên nhân đầu tiên đã
được chuyển hóa thành trí tuệ hay tuệ giác (vijjà/pagagà),
11 mắc xích còn lại đã trở nên bất lực và không thể
liên kết với nhau được nữa, như một đầu tàu xe lửa
đã tách khỏi đường rây, các toa còn lại không sao chạy
được. Ở bậc giác ngộ bây giờ các tiếp xúc (phassa) chỉ
còn là các kinh nghiệm đơn thuần, không có mặt của các
phản ứng cảm xúc và cũng không có sự chấp thủ từ các
phản ứng này gây ra, nhờ vào sự tuệ tri sự vật như chính
bản chất của chúng (yonisa manasikàra, như lý tác ý) và sự
chánh niệm (sati). Các cảm giác (vedanà) theo sau đó cũng được
chuyển hóa. Tham ái (tadhà) bị phá vỡ. Chấp thủ (upàdàna)
không còn chân đứng. Sanh tử đành phải vẫy tay chào từ
biệt vĩnh viễn không nuối tiếc!

Chú
thích:

1.
D. II. 305.

2.
Ud. 80.

3.
II. 117.

4.
M. I. 4: Khìzà jàti vusitaị brahmacariyaị kataị karanìyaịn
paraị itthatt ayàti.

5.
M. III. 203; MLS.III.249: “Này bà-la-môn, nghiệp là kẻ thừa tự
của chúng sanh, nghiệp là dòng họ, nghiệp là bà con, nghiệp
là viên thẩm phán (kammapatisarana). Nghiệp làm cho chúng sanh
thiên sai vạn biệt, trở nên cao thượng hay thấp kém.”

6.
S. II. 2ff.

7.
S. II. 13: vigagàdahàro . . . punabbhav àbhinibbattiyà paccayo.

8.
M. II. 262.

9.
A. I. 223: “Ito kho ònanda kammaị khettaị vigagàdhaị bìjam
tanhà sineho avijj ànìvarananànaị sat ànaị sattànaị tanh
àsagagàojan ànaị majjhim àya dhàtuyà vigagànaị patiỉhitaị
.”

10.
S. II. 97; S. IV. 86.

11.
Sn. 1055.


12.
M. I. 167; MLS I. 211.