Niết Bàn Trong Trung Quán Luận

0
31


NIẾT BÀN TRONG
TRUNG QUÁN LUẬN

Gs Trần Ngọc Ninh

Trung-quán-luận
hay Trung-quán Ngâm khúc (Madhyamaka-káriká) là một tập thơ của Nàgàrjuna để
giảng Giáo lý của đức Phật. Tập thơ viết vào khoảng thế kỷ II sau KT, đã được
Kumarajiva (Cưu-ma-la-thập) dịch Hán văn và gần đây được T.tọa Thích Viên Lý
dịch sang Việt văn. Huyền Trang đời Đường gọi Nàgàrjuna là Bồ-tát Long-thọ.
Trung-quán-luận là triết lý mở đầu Phật giáo Đại thừa, tức là Bồ-tát thừa.

Bài dưới đây
trích từ một cuốn sách sẽ xuất bản.

Phẩm XXV (Quán
Niết-bàn, Nirvàna Pariksa) tiếp theo Quán Thánh-đế để giảng về Niết-bàn như một
sắc thái hiện thực được của Chân-đế.

Niết-bàn hay
Nát-bàn (Nibbàna, Nirvàna) là một cõi ẩn (với nghĩa là không hiển hiện) mà chỉ
có những ai đã được Chính đẳng Chính giácthành Phật, hay ít ra đã rời bỏ
được hết các phiền trược (ràng buộc), đoạn diệt được tham ái, không còn hệ lụy
bởi những lậu hoặc, mới thấy và nhập vào được. Trong Niết-bàn, không có sự khổ
đau, không có sự biến hoại, không có sự giao động, không có sự sống chết.

Niết-bàn là Cõi
ngoài Cõi Ta-bà (Samsàra) và là Chân không. Ta-bà Samsàra là cõi ta đang sống ở
trong, được định bằng ba tính (Tam-tướng, Trilaksana): vô thường, khổ đau,
ngã
, trong đó sự sống và sự chết đi theo những vòng gọi là “luân hồi” mãi mãi
không thôi.

Đạo Phậtcon
đường
với một Giáo pháp để sống và tu tập, khởi thủy với mục đích là thoát ra
ngoài Cõi Samsàra và nhập được vào Cõi Nibbàna, Nirvàna.

Nàgàrjuna đã
thu tất cả cõi Samsàra, tức là thế giới như chúng ta đang sống, thấy và biết,
trong một chữ Không. Không cũng là điều kiện tiên quyết để ta có thể từ cõi
Samsàra hiện sinh chuyển sang cõi Nirvàna (Niết-bàn).

Nay ta theo lời
giảng của Nàgàrjuna về Niết-bàn.

Tôi bỏ khúc 1
là lời trách của đối phương và bắt đầu ngay với lời của Nàgàrjuna:

2. Nếu vạn pháp
không Không
Tất không sinh,
không diệt,
Đoạn trừ gì, bỏ
gì,
Để Niết-bàn được
nhập?

(Vì vạn pháp
trong cõi hiện sinh là Không và có sinh có diệt nên mới có thể có được Bát
Chánh Đạo
để diệt khổgiải thoát con người vào cõi Niết-bàn).

Có sinh có diệt
đồng nghĩa với vô thường. Không là không có tự tính tự hữu, không có ngã, và vì
thế cũng đồng nghĩa với vô thường.

Đoạn trừ gì?
Đoạn trừ tham, sân, si; đoạn trừ sự tham ái.
Phá bỏ gì? Phá bỏ
các chấp kiến; phá bỏ các phiền trược (ràng buộc). Không tạo nghiệp.

Sự đoạn trừ và
phá bỏ là điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ để nhập Niết-bàn. Sự tu hành còn
đòi hỏi giới, định, tuệ.

Niết-bàn là gì?

3. Không bỏ
cũng không đạt,
Không đoạn cũng
không thường,
Không sinh cũng
không diệt,
Đó là cõi Giải
thoát
.

(Niết-bàn là
phiên âm Pàli và Sanskrit-ngữ. Hán văn gọi là cõi Đoạn diệt hay cõi Giải
thoát
).

Ba câu đầu là
ba cặp định tính (attributs), đối nghịch nhau. Cả sáu định tính kể ra đều là
Không cả. Niết-bàn là cõi không thể tả được. Tính từ, trạng từ của ngôn ngữ
để tả những tính cách (qualité) hay định tính (attribut) tương đối và có thứ
bực. Niết-bàn là “cái” không tĩnh từ, trạng từ, vì ra ngoài mọi sự đối đãi hay
so sánh:

Không rời bỏ,
lẽ ra thì là đạt, là đến là tới; nhưng cũng không đạt, không đến, không tới;

Không cắt đứt
(đoạn diệt) lẽ ra thì là thường tại, thường hằng; nhưng cũng không thường.

Không sống lẽ
ra thì là chết, không sinh lẽ ra thì là diệt; nhưng cũng không diệt, không
chết.

Niết-bàn là
“cái” không thể tả ra được bằng lời. Nhưng có Niết-bàn hay không có Niết-bàn?
Nàgàrjuna trình bày sự biết của Ông trên nhiều khía cạnh, mỗi cạnh với bốn câu
hỏi, trong mười bốn khúc ca ngâm (4-18) mà tôi chia ra như sau để cho rõ nghĩa
(Chúng sinh: theo Cưu-ma-la-thập).

4. Niết-bàn
không hiện hữu (abhàva):
Hiện hữu thì già
chết
Không có gì hiện
hữu

Thoát được sự lão
diệt.

5. Nếu Niết-bàn
hiện hữu (bháva)
Thì là pháp do
duyên (C: hữu vi)
Hiện hữu không do
duyên (C: Hiện hữu không hữu vi)
Pháp ấy chưa đâu
thấy.

6. Nếu Niết-bàn
hiện hữu,
Thì sao không
tương liên?
(C: Không thụ
chấp)
Hiện hữu không
tương liên,
(C: Hiện hữu không
thụ chấp)
Pháp ấy chưa đâu
thấy.

Ba khúc này
(4-5-6) giảng về sự không hiện hữu của Niết-bàn. Niết-bàn không hiện hữu vì ba
điều hay ba lý do:

1. Cái gì hiện
hữu
thì có biến hoại, nghĩa là có già, có chết (có thành cũ, rồi bị hủy diệt),
mà Niết-bàn thì không biến hoại;
2. Cái gì hiện hữu
đều do nhân do duyên sinh khởi, Hán văn dịch là “hữu vi” nghĩa là có cấu tạo,
mà Niết-bàn thì không do duyên sinh, tức là vô vi, vô cấu (ba từ ngữ này đồng
nghĩa);
3. Cái gì hiện hữu
đều tương liên, tương đối, Hán văn dịch là thụ (thọ) chấp, với nghĩa là “lãnh
thụ và chấp thủ”.

Sự dịch ba khúc
này có những khó khăn đặc biệt, trước hết vì ngôn từ triết lý cổ ấn và Phật
giáo
(sanskrit-ngữ) rất khúc mắc, và ngôn từ Hán văn của Cưu-ma-la-thập lại cô
đặc đến độ tối nghĩa. Nàgàrjuna dùng từ / bhàva /, Hán văn dịch là /hữu/,
/coming to be/. Thích Viên Lý dịch là /thật hữu/, tôi dịch là /hiện hữu/ không
có một từ dịch nào đúng với sanskrit /bhàva/ cả.

Trong câu thứ
ba của mỗi khúc, Nàgàrjuna dùng từ /bhàvo/. Bhàvo/ là danh từ, còn /bhàva/ là
cận danh từ (adjective, ngữ pháp cổ gọi là tĩnh từ, hình dung từ, trạng từ).
Cưu-ma-la-thập dịch là /hữu pháp/. Anh văn dịch là /existent entily/. Là sát theo
ngữ pháp. Tôi dịch là /hiện hữu/ nếu là văn suôi thì tôi để vạch nối; hay viết
liền /hiện hữu/ nếu là sách triết chuyên môn; nhưng vì dịch thơ nên tôi bỏ vạch
nối); vị trí của /hiện hưu/ trong câu là vị trí danh từ, tiếp theo câu sau lại
có danh từ /pháp/, tôi nghĩ rằng đủ để các độc giả nhận /hiện hữu/ ở câu ba là
danh từ.

Lại có hai từ
/abhávo/ và /abháva/ trong sách MMK của Nàgàrjuna. Đầu phần [a-] nghĩa là
‘không’ Hán văn dịch là /vô/ trước một danh từ và /bất/ trước một cận từ, nhưng
có khả năng thu lại là /vô/ khi là /vô hữu/. Việt ngữ dịch là /không hiện hữu/
khi là cận từ (adjective) hay động từ (verb) và vô hiện hữu khi là danh từ
(noun), trừ khi theo sát Hán văn. Nhưng Hán văn, dịch là /hữu/ và /vô hữu/,
không thể phân biệt giữa /be/ và /exist/ hay /become/ là những từ đối nghịch
trong ngôn ngữ thông thường và hoàn toàn trái ngược nhau trong ngôn từ triết
học
. Anh văn dịch /abhàva/ là /non-existent/ và /abhàvo/ là /non-existent
entity/. /Non-being/ (Pháp: non-étant hay no-être) hoàn toàn khác.

Ở nhiều phần
trên ta lại đã thấy /svabhàva/ ‘tự hữu’ ‘tự tính’, (self-nature, essence).

Đi sâu hơn nữa vào
vấn đề Niết-bàn và Chân đế (Đệ Nhất Nghĩa đế), sự khó khăn sẽ lớn dần thêm nữa
vì Việt ngữ chỉ mới được dùng vào triết học trong một thời gần đây và chưa có
được một triết gia nào đáng kể trong lịch sử tư tưởng của thế giới, nên ngôn
ngữ
có phần yếu kém.

Tôi dịch lại
sáu khúc đầu (1-6) thành văn suôi cho rõ nghĩa và giảng thêm về triết lý Phật
giáo cùng với triết lý Nàgàrjuna.

Nàgàrjuna đối
diện
với người công kích thuyết Không tính. Cả hai ở trong thế giới hiện sinh
mà tất cả chúng ta cũng đang, cùng đang lặn ngụp, ăn làm, xoay sở, cười đùa,
vùng vẫy, lo lắng, sợ hãi, vật lộn, cho đến khi hai tay buông xuôi. Đây là cõi
Sa-bà (Ta-bà – mà đạo Phật gọi là Samsara (cõi Luân hồi) ta tạm coi là cõi đời.
Báo chí, tivi cho ta thấy một số lặt vặt và vụn vặt những chuyện và hình ảnh hằng
ngày
của Sa-bà địa, nhưng quan trọng hơn với ta là những ồn ào náo nhiệt của
chợ búa, đường sá và của nội tâm ta. Mắt ta thấy, tai ta nghe, lòng ta giao
động
. Ta lăng quăng trong thành phố nhung nhúc, với cái cảm tưởng rằng mình tự
do
như con bọ gậy trong vại nước, hay một hạt bụi bị xô đẩy bởi các đụng chạm
với các phân tử trong một vũng đục.

1. Người đối
thủ
nói:
Niết-bàn là cõi
Đoạn diệt, đó là nghĩa từ nguyên của chữ Nibbàna mà chính đức Phật đã dạy.
Nhưng mà đoạn diệt cái gì, khi tất cả đều Không và không sinh không diệt như
ông nói?

2. Nàgàrjuna
trả lời, dùng đúng câu nói của đối thủ chỉ đổi đi một chút.
Niết-bàn là cõi
Đoạn diệt, như đức Phật dạy. Nhưng mà đoạn diệt cái gì nếu tất cả không là
Không và không sinh không diệt như ông nghĩ? [“Không” là không có tự tính
được sinh ra trong những hoàn cảnh gọi là “nhân duyên”. Vì có sinh ra nên mới
có mà diệt đi. Vì hễ có sinh thì phải có diệt, nên mới có thể diệt được: hoặc
là diệt khi chưa sinh, không cho sinh, bằng cách cắt đứt các nhân duyên (tham, sân,
si, tham ái) và không tạo nghiệp (giới luật/vô-vi), hoặc là rập tắt khi mới
chớm]. Ông hãy nghe tôi nói cho ông biết về cảnh Niết-bàn.

3. Niết-bàn là
cõi Không – luân hồi (Không Hiện sinh, vô- Samsara). Cái gì Cõi luân hồi là,
cái ấy Cõi Niết-bàn không là. Trong cõi Niết-bàn, không có sự từ bỏ, cũng không
có sự đạt tới (Cưu-ma-la-thập: không có sự chứng đắc, cũng không có sự đạt
đến”); không có sự dứt đoạn, cũng không có sự hủy diệt. Ba cặp niệm trong cõi
đời hiện hữu, hiện sinh. Cõi Niết-bàn không có những đối nghịch ấy.

[Sự từ bỏ và sự
chứng đắc là hai mục tiêu đối nhau của đời sống, trong đó có sự tu hành cũng
như các ước nguyện khác, như thi đỗ làm quan hay thu tài lộc làm giàu. Trong
Niết-bàn, không có sự tham ái, kể cả sự cầu đạo; Giáo lý là cái bè đã được bỏ ở
ngoài bờ.]

Đoạn và thường
là hai chấp kiến đối nghịch của trí thức trong cõi hiện sinh. giữa hai cực đoan
ấy, tâm trí người ta giao động với những lo sợ và ước mong. Ngày mai sẽ biến
loạn hay an bình? Năm nay liệu trời có yên lành hay lại mưa nắng thất thường
gây ra nhiều tai họa cho người, vật và mùa màng? Và câu hỏi tối hậu: người ta
chết là hết, hay vẫn còn và còn phải chịu những hình phạt hay tưởng tưởng về
những việc làm khi còn sống? Trong cõi Niết-bàn, đoạn hay thường đều trở nên
nghĩa
trước sự êm ả của tâm hồn không ước ao, ghen tị, mở rộng với đất trời, cây
cỏ, không phân biệt cái dụng với cái thể, cái lợi với cái hại, không coi nhẹ sự
mềm mại của cọng sen trắng trước sự hùng vĩ của ngọn núi cao ngất trời xanh.

Trong Cõi đời,
hễ có sinh thì có tử, không có một tế bào hay một con người nào đã có sống mà
không sẽ chết, không có vật chất nào có thành mà không biến hoạitiêu tan. Và
với mỗi sinh biệt tử li, là con người có tình, làm sao tránh khỏi những đau
thương
nhớ tiếc. Trong cõi Niết-bàn, mười một chiều vật lý tương đối đã bị xóa
nhòa
, bốn năng lượng căn bản của vũ trụ được hợp làm một, sự sống muôn màu là
những dòng đời liên tục đan kết vào nhau không đứt đoạn cho đến vô tậnthời
gian
tràn ngập mà vô hướng; tình yêu độc cực và ô nhiễm bởi ngã mạn chỉ còn là
đống rơm rác héo khô đã trút bỏ ở cõi xưa, vì ở đây chỉ có những tâm Bồ-đề
trong suốt mở rộng cho tất cả và mỗi chúng sinh còn bị trói buộc trong vòng tranh
đấu
với lo sợ và khổ đau. Ở đây, có sự hạnh mà không có sự ham, kể cả sự ham
cái hạnh của Giải thoát, một sự hạnh vô biên vô cùng, không có lời để tả vì không
giới
hạn trong năm uẩn và không có dấu vết của thời gian. Sự mĩ diệu của cái
thực, gột sạch hết những u ám của tính hữu dụng và trị giá tiền bạc, vượt lên
trên các giả tạo ảo huyễn tinh vitài tình nhất của văn minh. Sự tử sinh
không có vì không có sinh nên không có tử, người ta chỉ gõ vào gốc ngọc lan mà
nói rằng con hồ điệp bữa qua nay đã thành ông Trang Châu đang lượn trong gió ở bể
Bắc].

4-5-6. Cõi sống
của ta, loài người, và của chúng sinh là thuộc về Samsara (cõi Luân hồi). Nói
theo đời nay, thì là sinh cầu của trái đất (Biosphere), gồm tầng ngoài cùng của
vỏ địa cầu và tầng dưới cùng của khí quyển bao quanh quả đất.

Khi trái đất
mới thành thì còn nóng quá nên không thể có được sự sống. Theo khoa học hiện
đại
, sự sống bắt đầu có vào cuối thời tiền – cambrien (pre-cambrian) dưới những
hình thức nguyên sinh mà nay ta chưa biết rõ, chủ yếu… có lẽ là những dây DNA
(Deoxyribonucleic acid), từ đó thành những tế bào đơn độc, rồi biến đổi, trong
những điều kiện dị biệt của mặt đất, thành những thực vậtđộng vật của ngày
nay.

Bằng cách nào
sự sống phát khởi? Đức Phật dạy rằng khởi thủy là Vô minh, tôi hiểu là sự Hỗn
mang Nguyên thủy, từ đó duyên Hành, và ở đây tôi hiểu là cái đặc sự
(singularity) tạo ra sự sống ở mặt đất. Trong một Kinh (Patikasutta, K. Balê,
Digha-nikaya 24: 15-17), đức Phật giảng rằng sự sống từ một thế giới khác đang
co rút (chuyển hoại) di cư đến đây. Các nhà sinh hóa học Tây phương xưa nghĩ
rằng trong đống bùn lầy ựa ra từ các núi lửa, những đụng chạm vô số của các
phân tử đã làm thành một chất nguyên sinh. Nhưng gần đây, người ta đã ngã sang
giả thuyết rằng sự sống có một nguồn gốc ngoài địa cầu, và được đưa đến mặt đất
bởi một hòn thiên thạch người ta gọi là “sao băng”. Một phi thuyền hiện đang đi
dò xét hành tinh Mars (mà ta gọi theo Trung quốc một cách rất sai lầm là “Kim tinh”)
để hy vọng khám phá ra một bằng chứng cho giả thuyết này.

Samsara như vậy
là có một khởi thủy. Thành hình trong sự vần xoay của mặt trời, nó đã là chỗ để
chúng sinh ở đậu và biến hình biến dạng thành ngàn vạn loài, ăn lẫn nhau mà sống.
Trong vũ trụ, nó chỉ là một cục vật chất đã được vê tròn để cho quay dưới sức
hút của nhật cầu, theo những định luật thiên cơ mà Newton đã khám phá ra. Nhưng mặt khác, nó đã
thành quả đất “của” loài người và về phương diện ấy, Samsara và tất cả những gì
trong cõi Samsara đều theo luật của đức Phật (vô thường, đau khổ, vô ngã) mà Nàgàrjuna
viết lại là:

1. Hoại diệt
(lão tử) (khúc 4)
2. Duyên sinh (hữu
vi
) (khúc 5)
3. Tương liên (thụ
chấp) (khúc 6)

Không cần phải
nói, chúng ta hiểu rằng ba điểm của Nàgàrjuna đồng trị và đồng nghĩa với ba
điểm của Thế Tôn và cả sáu điểm làm cho Samsara là cõi hiện hữu, hiện sinhhiển
hiện
.

Nirvàna (Niết-bàn)
là cõi Không-Samsara. Nirvàna là cõi:

1. Không hoại
diệt
(khúc 4)
2. Không duyên
sinh
(khúc 5)
3. Không tương
liên (khúc 6)

Tức là cõi
không vô thường, không đau khổ, không vô ngã, và không hiện hữu.
Không hoại diệt
hay không già chết (lão tử) chỉ là một cách khác để nói rằng Niết-bàn không vô
thường, và vì thế không khổ đau.

Không duyên
sinh
là ở ngoài vòng nhân duyên. Người ta biết và khoa học đã lập những thuyết1
khả tin ở ngoài sự sáng thế bởi một Đấng hóa công rằng thế giới đã khởi sinh
rồi thành và rồi sự sống đã bắt đầu và biến hóa với những nhân, những duyên tuy
dị thường nhưng không phải là siêu nhiên thần bí. Vũ trụthế gian thì thế,
nhưng Niết-bàn thì không có nhân, có duyên, không có cấu tạo (vô vi) vì rằng
không vô ngã, không vô tự tính.

Không tương
liên nghĩa là tự tại, tự chứng, có mà không phải dựa vào cái gì khác ở ngoài mà
có; tất cả những gì ở trong cũng tự nhiên tự có chứ không có vì một lý do gì, nhưng
lợi ích cho tự ngã hay sinh mệnh của ai trong cõi hiện sinh. một bông hồng
là một bông hồng là một bông hồng chứ không phải là một tặng vật hay một món
trang sức. Một dòng sông là một dòng sông và không còn là một con đường biết
đi. Và các sao trên trời có thể lấp lánh như những hạt kim cương trên những mắt
của lưới Indra làm thành bằng những siêu thằng năng lượng mà không còn bị lợi
dụng
vào việc bấm số cho những người cầu tài cầu lợi2.[2]

7. Niết-bàn
không hiện hữu
Hẳn cũng phải
không hữu?
Niết-bàn không hiện
hữu

Cõi Niết-bàn không
Không
.

8. Niết-bàn nếu
không
hữu,
Sao thể không
tương liên?
(C: không thụ
chấp).
Cái gì không tương
liên
(C: không thụ
chấp)
Không thể nào
hữu
.

9. Cái gì đến
và đi
(C: sinh và diệt)

Đều duyên sinh
biến hoại
Không do nhân do
duyên
Niết-bàn là chính
cõi.

Ba khúc này
(7-8-9) bề ngoài có vẻ như nghịch với ba khúc trên (4-5-6) nhưng thực ra vẫn
nối tiếp sự biện luận trước. Ba khúc trên xoay quanh sự nhận xét rằng Niết-bàn
là cõi không hiện hữu nên (vì) không hoại diệt, không duyên sinh, không tương
liên. Ba khúc sau nói rằng Niết-bàn không tương liên, không duyên sinh, không
biến hoại nên là Cõi không Không, vì cõi hiện sinh Samsara là cõi Không (không
tự tính).
Niết-bàn, cõi không
Không
, là cõi thực hữu.

7. Nàgàrjuna mở
đầu bằng sự chọi hai tính cách của Niết-bàn, với hai từ ngữ: sự hữu và sự không
hiện hữu. Hai câu đầu.

Niết-bàn không
hiện hữu
Hẳn cũng phải
không hữu.
Là Nàgàrjuna giả
danh
đối thủ luận rằng “Niết-bàn không hiện hữu, chắc hẳn là vì không có
Niết-bàn”. Đó là ý nghĩ tự nhiên của người thường, chỉ tin rằng cái gì mình
thấy được, nắm được, thì mới là có thực. Chẳng hạn như mùi hương của bó hồng,
họ không biết rằng đó là vật chất cho đến khi khoa học cân được khí hương. Còn
như lương tâm của con người ta, tuy rằng không ai thấy và khoa học chưa bao giờ
cân được, nhưng đã làm người thì ai cũng có ít nhiều. Ấy là ta hy vọng như thế!
Nàgàrjuna khẳng định ngay rằng Niết-bàn không hiện hữu, nhưng không thể không
có. Samsara có hiện hữu và là Không (không có tự tính) còn Niết-bàn thì không
hiện hữukhông Không.

8-9. Nàgàrjuna
tiếp tục chứng minh rằng Niết-bàn không phải là vô hữu. Nếu vô hữu thì làm sao
Niết-bàn có thể không tương liên, ở ngoài mọi tương đối trói buộc. Không có một
cái gì không tương liên mà lại có thể vô hữu.

Cũng vậy, tất
cả những gì có đến có đi, có sinh có diệt, tức là tất cả các pháp trên đời, đều
duyên sinh (có nhân, có duyên, và dựa vào nhau) và đều biến hoại (có lão, có tử
và bị đào thải, tiêu diệt).

Niết-bàn và tất
cả những gì trong cõi Niết-bàn đều ở ngoài vòng nhân duyên nên không có sự
tương liên tương đối và không có sự sinh sự tử; vì lẽ ấy cũng không có sự tái
sinh
luân hồi. Niết-bàn không hiện hữu và là cõi vô sinh.
Garfied đưa ra một
cách hiểu khác về khúc 9

9. (dG)- Cái gì
đến và đi
Là tương liên biến
hoại

Khi không liên
không biến,
Niết-bàn chính là
cõi. (dG).

Theo Garfield
thì hai câu trên nói về cõi Samsara (và tất cả chúng ta có lẽ đều đồng ý nếu
không
chống đối Phật giáo quan đến triệt để rằng trên cõi Hiện sinh này, cái gì
đến rồi đi (sinh ra và già, chết) đều tương liên và chịu sự biến hoại. Nhưng
nếu bỏ hết các chấp kiến vật hóa (reification) đi, thì không còn thấy sự tương
liên và biến hoại nữa, cõi đời này và sự sinh hoạt trong đó liền trở thành
Niết-bàn. Thế giới là cõi Luân hồi hay cõi Giải thoát tùy theo ta còn những
chấp thủ (thiên kiến) hay đã đoạn diệt hết các chấp trong ta.
*
10. Trong Kinh Đạo
sư dạy
Phải diệt hữu, phi
hữu

Vậy Niết-bàn là
cõi
Không hữu cũng
không vô.

Đây là chính
lời của Thế Tôn dạy Vacchagotta. Sau đó, Vacchagotta xin quy y, được chấp nhận
và nhanh chóng đạt Giải thoát.

Không hữu,
không phi hữu là một công thức quan trọng và Nàgàrjuna nói lại điều ấy dưới
hình thức phản nghịch trong bốn khúc liền:

11. Và Niết-bàn
chẳng phải
Vừa hữu lại vừa vô

Vừa hữu và vừa vô

Không phải là giải
thoát
.

12. Nếu
Niết-bàn mà lại
Vừa hữu vừa phi
hữu

Thì không không
tương liên,
Tương liên là hữu
(thụ chấp).
Tương liên và có
thụ chấp là khởi sinh trong vòng nhân duyên của cõi đời. Ở trên đã nói, hữu
cũng bị sự tương liên (Interdépendence) (khúc 6) mà phi hữu cũng tương liên
(khúc 8), và cả hai phải chịu sự sinh diệt (khúc 9).

13. Làm sao là
Niết-bàn
Lại vừa hữu vừa
vô?
Niết-bàn không cấu
tạo

(là vô vi)
Hữu, vô đều cấu
tạo

(hữu vi)

Vẫn biện luận
theo đường ấy: Ở trong vòng nhân duyên tức là có sự hữu vi, sự cấu tạo, hay như
ta nói đời nay, có một cơ cấu, và có bị sự biến hóa, sự hoại diệt khi cơ cấu bị
phá hay bị hủy.

14. Niết-bàn
sao có thể
Đã hữu lại còn vô?

Hữu vô không chung
đụng
Như ánh nắng với
tối.
Vừa hữu lại vừa vô
là một sự nghịch lý như trời tối giữa trưa hè hay đang đêm lại có nắng.
*
Đối phương lập lại
lý lẽ cuối cùng này của Nàgàrjuna và hỏi lại hai điều.
Nếu Niết-bàn vừa
phi hữu và phi vô (phi phi hữu) mà lập thành được, thì cái vừa hữu vừa vô (phi
hữu
) cũng lập thành được, tại sao (ông lại nói rằng) không?

15. Ông nói rằng
Niết-bàn
Phi hữu, phi phi
hữu

Thì hữu và phi
hữu
,
Tại sao lại không
được?
Và có ai là người
đã thấy được cái Niết-bàn phi hữu phi vô mà ông nói?

16. Nói rằng
Niết-bàn là
Không có lại không
không

Ai là người chứng
ngộ

Cái không có,
không không?
*
Đến lúc quyết liệt
vì đối phương đòi sự thực chứng tức là sự Chính đẳng Chính giác Chân đế,
Nàgàrjuna phải viện dẫn chính đức Như lai, rồi nói dến sự chứng ngộ của chính
mình.

Trước hết, đức
Thế Tôn
được kể ra như hiện thân của Niết-bàn, và đây có lẽ là lần đầu tiên mà
pháp thân (dharmakaya) và báo thân (Sambhogakaya) của đức Phật được nói tới một
cách minh bạch, trừ có những danh từ chỉ thành hơn một thế kỷ sau:

17. Khi đức
Phật
tịch diệt,
Không biết Ngài
còn, mất
Hay vừa còn vừa
mất
Đã mất mà không
mất?

18. Khi Ngài
đang tại thế,
Ngài có hay là
không,
Hay vừa có vừa
không
Hoặc không nhưng
không không không?
Và sau là Niết-bàn
trong sự thực chứng của Bồ-tát Nàgàrjuna;

19. Niết-bàn
với thế gian
Không mẩy may khác
biệt
Giữa thế gian,
Niết-bàn
Không một chút sai
khác

20 Biên giới
của Niết-bàn
biên giới cõi
thế;
Không chút nào sai
biệt

Giữa hai lằn giới
ranh.

Những gì mà
Nàgàrjuna nói ra ở đây, trong bốn khúc ngâm tụng này, sau những khúc nói về
Chân đếTục đế (phẩm XXIV: 8,9,10), có thể nói là cốt tủy của triết học
gàrjuna, nên tôi muốn lưu ý quý độc giả.

Trước hết về
chính bản thân đức Thế Tôn. Khi Thế Tôn tại thế, một vài môn đồ hỏi Ngài về
tình trạng của Ngài sau khi Ngài diệt độ. Mỗi lần được hỏi, Ngài im lặng và chỉ
một lần Ngài nói rằng “khi nào thấy Pháp thì thấy ta, khi nào thấy Ta thì thấy
pháp” (Samyutta nikáya 22-87). Lúc Ngài sắp nhập Đại bát Niết-bàn, Ananda xin
Ngài cho một lời chỉ giáo, Ngãi cũng nói:

Này Ananda, hãy
tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương
tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương
tựa, chớ nương tựa một gì khác.
(Digha-nikàya=Trường
bộ XI Kinh Đại Bát Niết-bàn, 3:26)

Trong vị trí
của người trần, ta có thể nghĩ rằng những lời nói quá cao siêu này của Thế tôn
đã mở cửa cho tin tưởnglý thuyết Tam thân của Phật tổ. Giống như trong các
đạo khác, những cao đồ đã thành đạo, thấy pháp, và những tín đồlòng tin
mãnh liệt rất có thể đã nhìn thấy Phật hiện ra, không những trong những thế kỷ
sau khi Ngài tịch diệt, mà ngay cả đời nay giữa chúng ta. Sự nẩy nở huy hoàng
của những dòng nghệ thuật Phật giáoẤn Độ, Lanka, Thái Lan, Miến Điện,
Indonesia, Cambodia, Trung Á, Tibet, Mongolia, Trung Hoa, Korea, Nhật Bản, Việt
Nam
, với không biết bao nhiêu trăm ngàn nghệ sĩ vô danh đã tạc tượng Phật vào
núi đá và lấy đá núi ra để tạc tượng Phật, đủ để chứng tỏ những ước vọngvui
mừng
của những quần chúng ở giải lục địa đông đảo nhất của thế giới này.

Quan niệm “Pháp
thân” (Dharma-káya) của Phật Tổ thành hình từ đó. Bắt nguồn từ lời của Phật,
nuôi dưỡng bởi lời dạy của Tăng già, hiển hình trong lòng kính tin của đại
chúng
vô số vạn kiếp, Pháp thân thành cái thân siêu thế của đức Phật, tràn ngập
khắp không gian của sự sống và vĩnh cửu cùng với thời gian vĩnh cửu của thế
giới
. Pháp (Dharma/Dharma) không những là Giáo phápNhư lai đã dạy, mà còn
tinh túy của luật pháp thế tụcgiới luật tu hành. Với hai ý nghĩa, vừa
tôn giáo vừa đạo lý, Pháp thân của Như Lai là cái thân hiện hữu ở khắp nơi mà
không ai trông thấy, nhưng biết hết hiểu hết (toàn giác ), thương yêu hết,
không bỏ một ai và không phân biệt riêng ai trong cả ba ngàn thế giới (khúc
17).

“Báo thân”
(Sàmbhogika-káya) của Phật Tổđức Phật tại thế, sau khi Ngài thành Đạo
lên đường giảng Giáo pháp mà Ngài đã lập thành. /Báo/ là hưởng. Sau khi đã
thành tựu được các ước nguyện qua hằng sa kiếp tu hành bố thícuối cùng đạt
chứng
Chính đẳng Chính
giác
, Bồ-tát trong xác thân của Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhatta) thành Phật. Khi
ấy, Ngài nhập Pháp giới (Dharmadhatu), hưởng sự trong lành và sáng lạn của Pháp
giới
, sự toàn giác thuần trí của Pháp giới, sự tịch tịnh yên ả của pháp giới.
Và trong mấy tuần liền không rời Cõi trên (cõi phi tưởng phi phi tưởng và diệt
thọ tưởng của Thiền định) trước khi tự ý trở về cõi trần tục trong cái thân xác
cũ để giảng dạy Đạo pháp vô thượng. Báo thân là cái thân hai thể, đã là Phật và
vẫn là người, ở ngoài sự sinh tử nhưng vẫn già, vẫn khổ, vẫn bệnh, vẫn chết
(khúc 18). Vì chúng sinh. Cho mãi mãi.

Asanga (
trước
) và Vasubandhu (Thế Thân) sau này sẽ dạy thêm về Hóa thân (Nirmàna-kaya)
để lập thành thuyết Tam Thân (Tri-kaya) của Phật tổ. Hóa thân là Ngài trước khi
thành Đạo, theo nghĩa hẹpThái tử Siddhatta của lịch sử hay Bồ-tát thác sinh,
theo nghĩa rộng là tất cả những kiếp chúng sinh trong các Jakarta mà Ngài đã
trải qua từ sau khi được gặp Như lai Nhiên Đăng cho đến khi từ gốc cây Bồ-đề
Ngài đứng dậy. Báo thânđức Phật lịch sử đã lập ra Giới pháp và Tăng. Còn
Pháp thânPháp tính (Dharmatà) tràn ngập khắp Pháp giới (Dharma-dhatu) để
dìu dắt chúng sinh vào cõi Giải thoát qua ba thừa (Thanh văn, Bồ-tát và Kim
cương
).

Cõi Giải thoát
là Cõi mà đức Phật sau khi thành đạt Chính đẳng Chính giác đã vào rồi lại ra,
rồi vào ra khi nào muốn trong năm mươi năm dạy Pháp cho Tăng giàquần chúng
đau khổ ở một vực sống giữa hai con sông Grandka và Yamuda. Nó cũng là Cõi mà
các môn đồ đã gặt quả Arahan của thể nhập vào khi thiền định. Niết-bàn là tên
Đức Thế Tôn đã dùng để gọi Cõi giải thoát. Nàgàrjuna giảng về Niết-bàn như đã
được thực chứng và những lời của Bồ-tát nói vang lên một cách bất ngờ kỳ diệu
rằng “Niết-bàn với thế gian là một là không phải là hai cõi địa ký khác nhau”.

Sự khải thị này
chấm dứt những giả thuyết cho rằng người ta phải rời hẳn khỏi cõi Hiện sinh, cả
tâm lẫn thân, để nhập vào cõi Niết-bàn, như trong Brahma-Hindu giáo hay Islam
giáo, phải chết đi thì atman hay linh hồn của mình mới bay lên và nhập vào cõi
Trên của Chúa Trời Brahma và Allah. Cũng chấm dứt nhưng ước vọng mộng mị của
những nhà cách mạng vị thành niên, muốn tạo dựng Niết-bàn dưới thế. Niết-bàn là
cõi thế, không cần phải với tay lên mà kéo nó xuống, Niết-bàn là ngay đây, chỗ
này, và khắp mọi nơi, Tây phương, Đông phương Bắc phương, Nam phương, Trung
phương cũng như Địa ngục.

Nàgàrjuna đã
thuyết minh từng bước dần dần cho chúng ta thấy rõ để quyết tâm đoạn diệt với
những tàn độc phi lý vô nghĩa của sự hiện sinh mà tìm sự giải thoát ngay tại
đây, ngay bây giờ và có được sự tĩnh tịnh an lạc vô biên của Niết-bàn.

Phẩm II, Bồ-tát
giảng rằng không có sự di động cũng không có sự an trụ . Trên cõi sống của ta,
chúng ta đều thấy, chỉ có sự rẫy rụa, sự vùng vẫy, sự ngược suôi không đi đến
đâu. Nhưng Niết-bàn không ở đâu khác là khắp chung quanh ta và với những người
thân của ta, các người đang cùng sống với ta, mà không ai, trong sự ngọ nguậy,
khuấy động liên tục của cuộc đời, có thể thấy được.
Phẩm XXIV (Quán
Thánh đế), sau khi giảng về hai Chân lý trong giáo pháp (Tục đếChân đế),
Bồ-tát lại nói thêm:

10. Phải y cứ
Tục đế,
Mới ngộ được Chân
đế
,
Không chứng được
Chân đế,
Không thể có Giải
thoát
.

Tục đếChân
của thế gian, tức là Không tính và sự tương liên của vạn pháp. Chân đế
chân lý thâm sâu, tối cao, tối hậu, ở ngoài sự diễn tả nhị nguyên của ngôn ngữ thế
tục
, mà chỉ những ai đã trút bỏ được các ác căn, các chấp kiến, các lậu hoặc,
mới thấy được cái Thực không vị kỷ như Chân, cái đẹp siêu thế vô ích.

Nhưng Tục đế
Chân đế không cách biệt, không riêng rẽ. Phải dựa vào Tục đế mới thấy được Chân
đế
; rời bỏ được hư vô chủ nghĩa và tự hữu chủ nghĩa, bước lên cái bục của Trung
quán
thì mới chứng được Chân đếthực hiện được Niết-bàn trong tâm. Vì Trung
quán
không phải theo thông lệcon đường ở giữa. Trung quáncon đường giữa
và ở trên, vượt ra ngoài và lên trên mặt đường thế tục, sau khi đã biết rằng
tất cả những gì ta thấy đều Không và Không cũng là Không (XXIV, 18).

Đến phẩm này
(XXV) quán Niết-bàn, Nàgàrjuna mới đi vào sự giải thích rõ rằng có Niết-bàn, và
Niết-bàn với cõi Samsara không có một mảy may khác biệt. Cũng không cần phải
rời cõi thế này để sang cõi Giải thoát. Hai cõi là một, chung một biên giới.
Cõi thế là cõi hiện sinh của ta, trong đó ta sống, ta làm việc, ta lo lắng
vui chơi, ta yêu, ta ghét và hờn giận và uất ức và hy vọngước mong. Cái ta
bao trùm cả nhân gianmọi vật, mọi sự được nhồi cho một tự hữu phản ảnh của
ngã. Lột cái màn che phủ ấy đi, thấy tất cả đều Không, đó là Chân đế, là Chân
không
, là Niết-bàn. Niết-bàn là trong tâm. Niết-bàn ở khắp mọi nơi. Niết-bàn là
cõi thế.

Bồ-tát có vào
Niết-bàn không? Bồ-tát không vào Niết-bàn. Bồ-tát ở cõi thế cho đến khi nào hết
sự khổ đau trên nhân gian. Bồ-tát chối Niết-bàn để ở cõi thế toàn thân toàn
thể
, chịu sự khổ đau thay cho chúng sinh hay cứu độ những người oan khổ. Sau
Nàgàrjuna, Asanga (Vô trước) sẽ giảng Niết-bàn Vô trú. Niết-bàn Vô trú
(ApratisthitaNirvàna) là Niết-bàn của Báo thân Như lai và của Quán Thế Âm
Bồ-tát. Niết-bàn Vô trú chỉ có thể có nếu Niết-bàn và thế gian là một.

21. Kiến giải
sau khi chết
Về hữu biên,
biên

Về thường trụ, bất
biến

Niết-bàn, đều sai
hết.

22. Hữu biên
hay vô biên
Vừa hữu lại vừa
vô,
Vô hữu lại vô vô,

Không tính xóa đi
cả.

23. Đồng nhất
hay dị biệt
Thường tại hoặc
thường

Vừa thường vừa
thường

Không thường, không
thường.

24. Trị bình
mọi lý thuyết
Diệt trừ mọi ảo
huyễn,
Không bao giờ, ở
đâu,
Đức Phật nói một
câu.

Bốn khúc cuối
cùng
của Phẩm Quán Niết-bàn nhắc lại những chấp kiến về vật chất và về thế
giới
, những chấp kiếnđức Phật đã kể ra trong kinh Brahmajalasutta
(Digha–Nikàya 2) nhưng im lặng không giảng khi các môn đồ nêu lại và hỏi. Thế
giới
vạn phápTục đế với cái màn vô minh phủ lên, dầy đặc với những ảo
kiến mà cả triệu năm làm người đã dựng lên trong xã hội, trong ngôn ngữ, trong
tâm trí, đến cả trong tiềm thứcsúc sinh thức. Niết-bàn cũng không khác, vì
Niết-bàn với Sa bà là một, không mảy may dị biệt. Sa bà là Không, Niết-bàn cũng
là Không và ở một từng siêu thế, là Chân không.

Vì thế nên nói
rằng trong năm mươi một năm tại thế giảng Giáo pháp cho người đời, đức Phật đã
nói hết mà chưa hề nói một câu.

Chú thích:
Bản Hán văn
của Trung luận theo Cưu-ma-la-thập được in lại đầy đủ trong Trung luận
(Madhyamakakàrikà) của Thích Viên Lý (Viện triết lý Việt Nam & Triết học
thế giới xuất bản 1994). Mọi đối chiếu phải trở về gốc là bản ấy. Tôi chép lại
Niết-bàn Phẩm, đệ nhị thập ngũ, theo âm Hán Việt mà xin cảm ơn vị hữu học ẩn
danh
đã duyệt lại bản phiên âm (đánh số thêm để dễ so sánh)

Trong việc
dịch và giảng Trung quáng Ngâm khúc của Nàgàrjuna, tôi còn dựa vào bản dịch Anh
văn từ bản Tibet-ngữ (Jay T. Garfield-The Fundamental Wisdom of the Middle Way,
Oxford University Press 1995) và sách của Murti (là học trò của Ramakrisman)
giảng theo bản Sanskrit-ngữ. Các điều sai biệt là do ý kiến riêng.

[1] Laplace (1749-1827) nói với Napleon: “Thưa Hoàng Thực
(trong khoa học) chúng tôi không cần đến giả thuyết Tạo hóa”

[2] Đó là ý
nghĩa
của lời đức Phật: người ta nhìn thấy các pháp như thực. Niết-bàn là cõi
Chân như trong đó người ta thấy cái Chân thực Chân mỹ bằng chân tâm và được
hưởng chân hạnh phúc không tương liên, tương đối và vô chấp.