Những Nghiên Cứu Phật Học Trong Ba Mươi Năm

0
41

Edward Conze
NHỮNG NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
TRONG BA MƯƠI NĂM

Thích Nhuận Châu dịch

VÀI DÒNG VỀ TÁC GIẢ


Edward Conze (1904-1979)

 

edward_conzeedward_conzeGiới Phật tử và những người quan tâm đến
Phật học ở miền Nam trước 1975, nhất là giới sinh viên Đại học Vạn HạnhVăn
Khoa
Huế, Sài gòn, chắc ai cũng quen thuộc với tên tuổi nầy qua tác phẩm Buddhism–Its
Essence and Development;
được chuyển ngữ sang tiếng Việt do Chân Pháp
Nguyễn Hữu Hiệu, một gương mặt nổi bật của khung trời Vạn Hạnh hồi đó, với nhan
đề Tinh hoa và sự phát triển của Đạo Phật. Trong suốt gần 25 năm sau,
chúng ta ít thấy bản dịch nào của E. Conze xuất hiện, nhưng sự cống hiến của
Ông trong lĩnh vực nghiên cứu Phật học không dừng lại ở những gì chúng ta biết
được một cách đầy thán phục với phong cách của bậc thầy qua tác phẩm hiếm hoi
chúng ta được tiếp cận về Ông.

Điều đáng thán phục nhất là ông không
dừng lại ở phong cách của một nhà nghiên cứu, một học giả tinh thông, mà ông đã
tiến rất xa, vượt qua các học giả cùng thời với ông và nổi tiếng trên nhiều
lĩnh vực, để thực sự làm một hành giả thể nhập. Điều nầy thể hiện qua những
trang khảo cứu của ông, khi đề cập đến phần uyên áo của tư tưởng, ông bao giờ
cũng giữ một tinh thần tôn kính đúng mực, không bao giờ có sự phê phán thiên lệch
dựa trên tư kiến. Chúng ta để ý qua những vấn đề ông trình bày trong tập sách
mỏng nầy, khi đề cấp đến những vấn đề tế nhị như Tiểu thừa, Đại thừa, ông không
bao giờ có ý phê phán chủ quan, hoặc nói theo những người khác đã nói, mà luôn
luôn thể hiện tấm lòng tôn trọng giáo pháp. Hoặc khi đề cập đến những vấn đề
rất phức tạp như Mật tông, ông luôn luôn có cách lý giải rất sáng suốt, tinh tế
để người đọc không bị rơi vào sự hiểu lầm, không nhìn đạo Phật bằng định kiến
hoặc hiểu bằng khái niệm.

Tuy nhiên, Ông
cũng có những nhận xét rất sâu sắc và táo bạo, như khi ông nhận định về Thân
Loan
, người xiển dương Tịnh độ Chân tông Nhật Bản, và sự đối chiếu với phương
pháp
hành trì của Phật giáo Thượng toạ bộTích lan:

Chủ nghĩa duy lý chính thống của Phật giáo
Tích Lan có cái nhìn về đạo Phật vốn như bị cắt xén và bần cùng hoá như tính
chất
duy tín ngưỡng (fideism) của Thân Loan, và không ngẫu nhiên mà cả hai
(Thân LoanPhật giáo Tích Lan) đều được đặt vào vùng địa lý ngoại vi của thế
giới
Phật giáo
.” (Thirty
years of Buddhist studies).

Sở dĩ thành tựu được những điều đáng nói
trên, là do ông đã chuyên tâm tu tập đạo Phật thật sự như một hành giả. Đó là
thời gian ông đã thực hành theo tinh thần của ngài Phật Âm (Buddhaghoṣa) trong
luận giải mang tính chỉ nam đối với Phật
giáo
Nguyên thuỷ là Thanh tịnh đạo luận (Visuddhimarga), mà trong thời
gian
chiến tranh, ông đã sống và tu tập thiền định trong một chiếc xe lưu động
caravan tại khu rừng New Forest. Ông đã áp dụng phương pháp thiền tập theo sự hướng
dẫn của Ngài Phật Âm qua bộ luận nầy và ít nhiều đã đạt được một vài mức độ khả
quan
trong kinh nghiệm hành thiền. Ông chia xẻ cảm nhận của mình về bộ luận nầy
như sau: “… Như tất cả những tác giảthế gian này, Buddhaghosa cũng có
những khuyết điểm. Nhưng đó chỉ là những lỗi nhỏ, và ông đã soạn một trong
những tác phẩm đạo học vĩ đại nhất của loài người. Nếu phải chọn một cuốn sách
độc nhất để mang theo với mình ra một hoang đảo thì đây sẽ là cuốn sách của
tôi” (…Like all human authors, Buddhaghosa has his faults. But these are
minor irritants, and he has composed one of the greatest spiritual classics of
mankind. If I had to choose just one book to take with me on a desert island,
this would be my choice) ”

Và người đã có ảnh hưởng lên tâm thức ông
nhiều nhất, như để tạo một lực phóng cho ông đến chân trời cao rộng đấy vinh
quang
nầy chính là D.T. Suzuki, sự tiếp xúc ý nghĩa đầu tiên của Conze đối với
Đạo Phật vẫn là ở tuổi trung niên, tức là đầu Thế chiến thứ hai và nhất là khi
ông đọc các tác phẩm của D.T Suzuki. Và từ đó, Edward Conze đã cống hiến trọn
đời
mình cho Phật Giáo, nổi bật nhất là phiên dịchchú giải Kinh Bát Nhã. Chúng
ta
thấy được tinh thần đó qua lời đề tặng D.T Suzuki nhân kỷ niệm sinh nhật thứ90 của ông trong tác phẩm The Development of Prajñāpāramitā Thought, do
Yamagucchi biên tập, ấn hành ở Kyoto năm 1960.

Sau nầy, sự ngưỡng mộ đầy tinh thần tri
ân
đó đã làm cho hai người gắn kết với nhau để tạo ra được nhiều hoa trái, đó
là sự cộng tác để hình thành tác phẩm On Indian Mahāyāna Buddhism, hoàn
thành
năm 1968.

Chúng ta nghe một người cùng thời với
Conze, Tiến sĩ Arthur Waley nhận định về phong cách và tư tưởng ông như sau:
“Đối với Tiến sĩ Conze, những câu hỏi mà Phật Giáo đặt ra và trả lời là những vấn
đề
sống động và ông luôn luôn liên kết
những câu hỏi này với lịch sử và với thực tại.”

Về văn hệ Bát-nhã, Edward Conze là người
thẩm quyền hàng đầu về Kinh Bát Nhã (Mahāprajanapāramitā Sūtra). Trong tác phẩmWisdom Books
ông nói về những kinh sách dung chứa tất cả những giáo lý cốt tủy của Đại Thừa
mà trong nhiều thế kỷ đã được phổ biến ở Trung Hoa, Nhật Bản, Mông CổTây
Tạng
. Ông làm cho những giáo lý này dễ hiểu bằng cách giải thích tất cả những
từ ngữđa số những luận điểm trong Kinh Kim Cương (Diamond Sutra) và
Tâm Kinh Bát Nhã (Heart Sutra). Các nhà nghiên cứu Phật Giáo nói rằng “đây là
chiếc chìa khóa vô giá đưa đến trí huệ hoàn hảo vốn là điều quan tâm của tất cả
những nhà tư tưởng sáng tạo.” (this is an invaluable key to that perfection
of wisdom which was once the concern of every creative thinker
). Ông là giáo sư Ấn Độ họcĐại học Washington.
Ông có công trong việc thiết lập một chương trình Tiến sĩ Phật Học. Dù thế nào
đi nữa, thành quả thực sự của ông trên hai mươi năm sau đó là phiên dịch và sớ
giải hoàn tất 30 kinh sách các loại thuộc hệ tư tưởng Bát-nhã, kể cả hai bản
kinh
quan trọng nhất của Đại thừa Phật giáoBát-nhã Tâm kinh (Hṛdaya)
Kinh Kim Cang.

Trong hai thập niên sáu mươi và bảy mươi,
ông đã đi diễn thuyết ở nhiều trường Đại học ở Mỹ, và ông đã được các sinh viên
nhiệt liệt tán dương công đức, nhưng ông lại bị Ban Giám Hiệu các trường Đại
học
và một số đồng nghiệp phản đối.

Ông là người đã góp phần đưa đạo Phật vào
Âu Châu, tiếp sức cho công trình bậc Thầy đi trước là Suzuki. Ông nói về Phật
giáo
Âu Châu như sau: “Các nhà truyền giáo Dòng Tên (Jésuit) của Ky-tô giáo
trong thế kỷ 17 và thế kỷ 18 đã biết khá chính xác về đạo Phật Trung Hoa và
Nhật Bản, nhưng một triết gia người Đức, Athur Schopenhauer, là người đầu tiên
làm cho Âu Châu biết về Phật giáo như một tín ngưỡng sống thực. Không biết gì
về kinh sách Phật Giáo, chỉ được hướng dẫn bởi triết lý của Kant, một bản dịch
tiếng La Tinh từ một bản dịch tiếng Ba Tư của Áo nghĩa thư (Upaniṣad) của Ấn Độ
giáo
và sự thất vọng với cuộc đời, đến năm 1819, Schopenhauer đã lập một hệ
thống
triết lý với chủ trương “Phủ nhận ý chí sống” (Negation of the Will to
live
) và xem sự cảm thông là hạnh cứu rỗi độc nhất, và do đó có khuynh hướng
rất giống tinh thần từ bi của Đạo Phật. Những ý tưởng của Schopenhauer được
trình bày một cách sống động và dễ đọc đã có ảnh hưởng lớn ở Lục địa Âu Châu.
Richard Wagner đã có ấn tượng mạnh mẽ với giáo lý Phật giáo và trong những năm gần đây Albert Schweitzer
sống một cuộc đời giống Schopenhauer đã đề ra”.

Đối với Phật tử châu Âu, những trứ tác
của ông là tài liệu nghiên cứu tu tập Phật pháp quý báu không thể bỏ qua được.

Ông sinh ngày 18-03-1904 tại Forest Hill,
Lewisham, London trong một gia đình gốc Đức. Cha của ông trước la một nhân viên
ngoại giao, sau lại quản lí một quan toà tại Düs seldorf, CHLB Đức. Conze trưởng
thành
và được giáo dục tại Đức (lúc này mang tên Eberhard thay vì Edward sau
này) và nơi đây, ông sớm biểu hiện những cá tính đặc thù: sự cảm nhận nhạy bén
cho những vấn đề xã hội, lòng căm phẫn trước những trào lưu ‘ái quốc cực đoan
của toàn Đức quốc xã’, lòng yêu thiên nhiên và một cuộc sống tĩnh mịch ở thôn
quê.

Năm lên 13, Conze đã có dịp nghe chút ít
về Phật giáo. Ông học triết, tâm líẤn Độ học tại những đại học Tübingen,
Heidelberg, Kiel và Köln. Tại Hei delberg, Max Walleser – một trong những người
đầu tiên dịch kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sang tiếng Đức – đã hướng dẫn ông vào
Đại thừa Phật pháp (1924/25) và qua Heinrich Rickert, ông cũng có dịp làm quen
với Thiền tông (j: zen). Năm 1928, ông làm luận án Tiến sĩ tại Köln với tựa đề Danh
từ Huyền học của Franciscus Suarez S. J. (g: Der Begriff der Metaphysik bei
Franciscus Suarez S.
J.).

Ông là một trong những học giả, dịch giả
Phật giáo vĩ đại nhất ở Tây Phương. Là nhà nghiên cứu đứng đầu trong tất cả các
tông phái Phật Giáo, ông thông thạo những ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Trung Hoa,
Tây Tạng, Mông CổNhật Bản

Năm 1932, ông cho xuất bản tác phẩm Phương
thức đối lập. Bình luận về lí thuyết Duy vật biện chứng (g: Der Satz von Wider spruch.
Zur Theo rie des Dialek ti schen Mate rialismus
). Từ 1933 trở đi, ông sinh
sống bằng cách dạy tâm lítriết học tại Oxford và London. Các tác phẩm của
D. T. Suzuki và một học giả Ấn Độ Har Dayal lại hướng dẫn ông trở về với Phật
giáo
. Từ 1943-49, ông nghiên cứu rất nhiều về Ấn Độ học, gia nhập giáo hội Phật
giáo
tại London (e: Buddhist society) và cũng tổ chức nhiều buổi thuyết giảng.
Trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, ông đã cho xuất bản khoảng 20
quyển sách và hơn 100 tiểu luận về những vấn đề của Phật giáo và chính những
tác phẩm này đã làm cho tên ông lan truyền khắp mọi nước. Ông đã từng thuyết
giảng
tại Wisconsin, Madison (Wisconsin, 1963/64), Washington, Seattle
(Washington, 1965/68), Bonn (1969/79) và Berkeley, Santa Barbara (1972/ 73).

Năm 1973, Conze đình chỉ việc thuyết
giảng
, lui về quê nhà tại Sherborne, Somerset và từ đây chuyên chú vào việc
nghiên cứu Phật học. Trọng tâm nghiên cứu của ông chính là tư tưởng Bát-nhã
ba-la-mật-đa
, và về vấn đề này, ông đã xuất bản hàng loạt tiểu luận. Ông cũng
đã dịch sang Anh ngữ và xuất bản nhiều bộ kinh thuộc hệ này.

Năm 1979, ông cho ra hồi kí với tựa đề The
Memoirs of a Modern Gnostic
. Ông luôn luôn tự cho mình là một người có cá
tính mâu thuẫn. Conze có một cái nhìn, một cảm nhận sâu sắc cho những vấn đề,
nhân sinh quan khác biệt của thế kỉ này. Quyển hồi kí của ông đã chứng tỏ khả
năng, nghệ thuật ‘bao dung nhiều quan điểm’ của ông. Đối với Conze, lối sống
thể chấp nhận được là lối sống của người Anh> Đạo lí có thể chấp nhận được
Phật pháp.

Ông là một con người tiên phong, người mở
đường, và là một tấm gương sáng ngời cho thế hệ Phật tử Tây Phương sau ông
trong việc học hỏi, nghiên cứu, dịch thuật và tu tập theo Phật Giáo. Ông đã làm
việc không mệt mỏicống hiến hết tài năng của mình cho nền Phật Học Tây Phương
cho đến hơi thở cuối cùng, ông qua đời ngày 24 tháng 9 năm 1979 tại nhà riêng
của ông ở Sherborne, thành phố Dorset, phía Tây Nam Anh Quốc, thọ thế 75 tuổi.

Trong số những tác phẩm khác để lại cho
đời của ông là bản dịch “Hiện Quán Trang Nghiêm Luận” (Abhisamayālaṃkāra-śāstra)
xuất bản 1954; Selected Saying) xuất bản năm 1955; “Kinh Kim Cương
Bát-nhã” (Vajracchedika Prajñāpāramitā) biên tậpchuyển ngữ năm 1957;
“Tiểu Phẩm Bát Nhã” (Aṣṭasahasrika Prajñāpāramitā), bản dịch năm 1958; Buddhist
Scriptures
biên tập năm 1959; The Prajñāpāramitā Literature, xuất
bản năm 1960; A Short History, xuất bản năm 1961; The Large Sutra on
Perfect Wisdom
, xuất bản 1961; “Thủ bản Gilgit Tiểu Phẩm Bát-nhã; The
Gilgit Manuscript of the Aṣṭadasasahasika Prajñāpāramitā
) biên tập và dịch
năm 1962.

 

Tổng hợp theo tài liệu:
William Peiris (1973) The Western
Contribution to Buddhism.(1973). Motilal Banarsidass Publications, Delhi, India
• Sangharakshita (1996) Great Buddhists of the
Twentieth Century. Windhorse

Người dịch

Thích Nhuận
Châu

XEM NỘI DUNG PHIÊN BẢN PDF: NHỮNG NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC TRONG BA MƯƠI NĂM