Ngày Xuân Mạn Đàm Về Sự Học

0
29
tuyentapmungxuan3tuyentapmungxuan3

NGÀY XUÂN MẠN ĐÀM VỀ SỰ HỌC
Thích Hạnh Chơn

tuyentapmungxuan3muaxuanmandamvesuhoc-contentMùa xuânthời gian bắt đầu của một năm.
Không biết tình cờ hay hữu ý, sự sắp xếp trên lại có ý nghĩa tiềm ẩn khá
thú
. Không ai phủ nhận rằng mùa xuân là mùa mát mẻ, ấm áp thích hợp cho sự sinh
sôi nảy nở của các loài thực vật và cả động vật. Mùa xuân, với đời người, được
ví cho tuổi trẻthời gian đẹp và nhiều ước mơ, hy vọng cho một tương lai tươi sáng. Thiên nhiên của mùa xuân ưu đãi cho
động-thực vật phát triển thì sức sống của tuổi xuân ưu đãi cho con người cơ hội
thăng hoa, tiến triển. Nếu như động-thực vật tự thích nghi cao theo bản năng
sinh tồn thì con người tự thích nghi không chỉ bằng bản năng mà quan trọng hơn
là bằng ý chínghị lực. Phương tiện con người thực hiện ý chí vươn lên không
gì khác hơn là sự học (giáo dục), và sự tu (thực tập), để hướng đến sự thành
đạt
(chứng ngộ). Nhân dịp xuân về, người viết xin được mạn đàm về sự học trong
Phật giáo cùng chư pháp hữu.

Sự học và mục đích

con người, ai cũng phải học.
Từ thuở còn thơ ta đã phải học: học
nói, học đi, học ăn. Lớn lên chút nữa ta lại được dạy ‘học gói, học mở’, tức là
học cách ứng xử khéo léo, lịch sự, tế nhị, phép tắc. Cho nên, câu thành ngữ
‘học ăn, học nói, học gói, học mở’ ra đời nhằm nhắc mỗi người phải học để biết
cách sống lịch thiệp, cách ứng xử sao cho có văn hóa. Đây là cái học cơ bản để
làm người. Khi tới tuổi đến trường, trừ một số ít bất hạnh, còn lại đều được
cha mẹ hay người thân đưa đến lớp, đến thầy để xin học. Sự học từ đó cứ tiếp
tục
cho hết cuộc đời. Cho nên, Lê-nin đã nói: “Học, học nữa, học mãi”. Câu châm
ngôn
luôn đúng cho tất cả những ai phấn đấu vươn lên trong cuộc sống.

Về sự học, có
hai quan điểm tranh biện được đưa ra. Một bên cho rằng sự học là gian khổ nhưng
kết quả ngọt ngào như ngạn ngữ Hy Lạp viết: “Học vấn có những chùm rễ đắng cay,
nhưng cho hoa quả ngọt ngào”. Bên kia thì phản biện rằng học là vui, là hạnh
phúc
ngay chứ không phải trước khổ rồi sau mới có hạnh phúc như quan niệm ‘khổ
để tu hành, khổ hóa vui’. Sự tranh biện sẽ không có hồi kết nếu không đặt nó
vào mục đích, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nào đó để suy xét. Nếu học để trả nợ,
học để có nhiều kiến thức để tranh luận, học để có bằng cấp đi làm kiếm tiền,
học để thăng quan tiến chức… thì rõ ràng sự học có ‘những chùm rễ đắng cay
nhưng cho hoa quả ngọt ngào’. Ngược lại, học để hiểu, để sống, để áp dụng ngay
trong lúc học như học thở, học ăn, học làm việc trong chánh niệm thì cái học đó
đâu thể gọi là khổ. Cái học ấy có hạnh phúc ngay tức thời chứ không cần phải
trải qua khổ nhọc rồi mới có hạnh phúc. Cái học này sư ông Làng Mai đã chứng minh
là đúng.

Thế thì trong
Phật giáo, mục đích của sự học là gì? Tổ Khánh Anh đã dạy: “Tu mà không học là
tu mù, học mà không tu là đãy sách.” Lời dạy của Tổ khá rõ ràng để trả lời câu
hỏi ấy. Mục đích của sự học trong đạo Phật không gì khác hơn là để hiểu đúng
những lời dạy của Đức Phật để áp dụng vào trong từng suy nghĩ, từng lời nói,
từng hành động của mỗi con người trong đời sống hàng ngày. Hiểu và áp dụng đúng
lời Phật dạy đòi hỏi hành giả phải có trí tuệ. Trí tuệ thường do thể nghiệm
bằng thiền quán mà có chứ không chỉ là kiến thức thu nhận được từ bên ngoài.
vậy
, ‘Duy tuệ thị nghiệp’ là kim chỉ nam của Phật giáo. Sứ mạng của sự học,
theo kinh điển Pāli, được kết thúc khi vị ấy chứng ngộ thánh quả A-la-hán(1). Bậc A-la-hán còn được gọi là bậc vô học. Theo thiển ý của người viết, bậc
A-la-hán không phải là không còn học gì nữa mà là không cần học các pháp đoạn
trừ phiền não vì vị ấy đã hoàn toàn đoạn tận kiết sử, chứng được tâm giải thoát
tuệ giải thoát. Các vị A-la-hán vẫn tiếp tục học ở phương diện khác như về
trí tuệ Bồ-tát, và trí tuệ Phật. Nếu cho rằng A-la-hán không cần học gì nữa thì
tại sao các ngài như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên,… còn phải nghe Đức Phật thuyết
pháp
suốt cả đời, và tại sao không có sự ngang bằng về trí tuệ giữa các vị
A-la-hán. Do đó, sự học trong Phật giáo chỉ kết thúc khi chứng quả vị Phật(2).

Sự học của Đức Phật trước khi giác ngộ

Sự học của Thái
tử
Tất Đạt Đa (Siddhattha) là xuất chúng và đáng được kính ngưỡng. Trước
khi
giác ngộ, Đức Phật là một thái tử. Các
tài liệu hiện có không ghi chép rõ ràng về sự học của Thái tử. Tuy nhiên, theo
suy luận của các nhà nghiên cứu thì thái tử chắc chắn đã hấp thụ một nền
giáo
dục
vững chắc của hoàng gia và của giai cấp quý tộc chiến sĩ(3). Với đặc
ân
hưởng thụ một nền giáo dục truyền thống quý tộc, thái tử chắc
chắc học các môn học như luật, phong tục tập quán, nghệ thuật quản lý quốc gia,
ngữ pháp, logic, nghệ thuật và cả khoa học… Nói chung, thái tử là một thanh
niên trí thức, lịch sự(4). Theo Phật học phổ thông, thái tử
thông minh xuất chúng, học với thầy nào, về văn chương hay võ nghệ, chỉ ít hôm
là thầy không đủ sức dạy. Cho đến vị thầy danh tiếng nhất thời bấy giờ là
Sằn-đề-đề-bà cũng chịu khuất phục trước sức học của thái tử(5).

Sau khi xuất gia, du sĩ Siddhattha tiếp tục tìm
cầu học đạo. Siddhattha đã đến học với hai vị thầy nổi tiếng vào hàng bậc nhất
lúc bấy giờ, lần lượt là Alarama Kalama và Uddaka Ramaputta. Thái tử đã học hết
tất cả giáo lý của hai vị thầy này trong thời gian ngắn và cũng đã chứng ngộ
ngang bằng với họ. Cuối cùng, không còn ai có thể làm thầy nên Siddhattha đã
quyết định tự tìm chân lý. Sơ lược qua Sự học của thái tử và sau đó là du sĩ,
ta thấy Siddhattha học không mệt mỏi, và học rất xuất sắc. Từ đó, có cơ sở để
nói rằng nền minh triết đồ sộ, có một không hai của nhân loại do Đức Phật để
lại một phần nhờ Sự học của Thế Tôn trước khi xuất ly trần tục. Như vậy, sự học
hoàn toàn rất quan trọng trong sự nghiệp tu tậphành đạo.

Sự học của chư tôn đức Việt Nam
đương đại

Vào thời đương đại ở Việt Nam, sự học cũng rất
được chư tôn đức coi trọng và tuân hành. Có thể kể về hai tấm gương tiêu biểu của
Phật giáo Việt NamHòa thượng (HT) Thích Trí TịnhHòa thượng Thích Minh Châu.

Sự học của HT.Trí Tịnh bắt đầu bằng những khó khăn
nhưng kết quả rất đáng tự hào. Xuất gia ở chùa Vạn Linh núi Cấm nên HT phải xin
về Sài Gòn tìm học kinh luật. Nghe tin ở Huế có trường Phật học, HT đã quyết
định
khăn gói tìm ra xứ Thần kinh để học. Nhờ sự giúp đỡ của quý tôn đức, HT
được nhận vào trường trung đẳng tại chùa Tây Thiên và sau đó, vào cao đẳng Phật
học
chùa Báo Quốc. Với sự siêng năng chăm học, HT đã chứng tỏ là một trong số
học Tăng ưu tú của trường. Sau khi tốt nghiệp, HT đã đảm nhiệm nhiều chức vụ
liên quan đến giáo dụcphiên dịch kinh điển ở các trường viện như Phật Học
viện
Hải Đức, Huệ Nghiêm, Đại học Vạn Hạnh… Ngoài ra, HT đã tự trau dồi và
phiên dịch tổng cộng 15 dịch phẩm kinh sách. Sự học của Ngài có thể nói là rất
đáng cho đàn hậu tấn học noi gương(6).

May mắn hơn quý tôn đức khác, HT.Minh Châu được
đào tạo trường lớp và đỗ bằng tú tài toàn phần trước khi xuất gia. Là một
, ngài đã tham gia phong trào nghiên cứu đạo Phậthọc hỏi giáo lý với bác
Lê Đình Thám và nhiều tôn đức khác ở Huế. Sau khi xuất gia, HT tham gia
giảng dạy và viết báo cho các tạp chí Phật giáo. Sau đó, HT xuất dương du học ở
Sri Lanka và Ấn Độ. HT đỗ bằng Tiến sĩ Phật học tại Đại học Bihar và vinh dự
được Tổng thống Ấn Độ đích thân trao văn bằng. Về nước, HT đã cống hiến rất
nhiều cho nền Phật học nước nhà, đặc biệtphiên dịch gần hết tạng kinh Pāli
sang tiếng Việt. HT còn là tác giả của hơn 25 tác phẩm sách Phật giáo bằng
tiếng Việt và Anh. Sự học của HT thuộc loại chuẩn theo trường lớp, văn bằng học
vị. Sự cống hiến vĩ đại của Ngài không phải từ sự học chuẩn mực ấy sao?!(7).

Sự học của Tăng Ni ngày nay

Về sự học của Tăng Ni, có sự
tranh luận xảy ra khá dài. Đó là sự tranh luận về ‘học cốt để tu không cần bằng
cấp’ và học phải có bằng cấp chuẩn rõ ràng. Có lẽ, ta nên xét bối cảnh của nó.
Thời xưa, sự học được Đức Phật và chư Tổ trực tiếp giảng dạy và xác nhận khả
năng tu chứng của đệ tử. Khi một vị được xác chứng tức là vị ấy được tín nhiệm
bổ xứ đi hành đạo. Thời nay, sự học như thế không còn phổ biến nhiều và người
đảm trách vai trò như chư Tổ cũng hiếm thấy. Đó là lý do 4 Học viện và hơn 30
Trường Trung cấp Phật học ra đời. Đã là trường thì nó phải có tiêu chí đánh
giá
, trong đó bằng cấp là tiêu chí không thể thiếu để xác nhận trình độ, khả
năng chuyên môn của học viên. Trường lớp nếu đào tạo chuẩn, có chất lượng đàng
hoàng thì Tăng Ni sẽ có đủ năng lực hành đạo có thể chấp nhận được. Tuy nhiên,
có một điều làm người viết ngạc nhiên nên muốn chia sẻ ra đây để cùng suy nghĩ.
Có nhiều vị đã trải qua trên dưới tám năm ngồi ở các cấp học từ sơ, trung, cho
đến
cao đẳng Phật học nhưng khi thi vào Học viện thì lại trượt. Trong khi đó,
có những vị chỉ học hết phổ thông và tự học Phật pháp lại có thể dễ dàng đủ
điểm vào Học viện. Sự học như vậy phải chăng là đáng quan ngại?!

Sự học lạc điệu với tôn chỉ ‘tông môn’: Tăng Ni Việt Nam hầu hết đều thừa nhận
thuộc dòng Lâm Tế hay Tào Động, tức là hai dòng thiền từ Trung Quốc truyền qua
Việt Nam. Thế nhưng, khi được hỏi thì đa số lại thừa nhận rằng đang tu theo
pháp môn Tịnh độ. Nói một cách ví von là con cháu đã tự thay đổi pháp môn nhưng
vẫn giữ dòng họ. Vì đã thay đổi pháp môn nên không mấy Tăng Ni học về tôn chỉ
của hai dòng thiền này. Về pháp môn Tịnh độ, căn cứ vào kinh A Di Đà thì
hành giả phải thành tựu tín-nguyện-hạnh. Trong đó, hạnh là niệm Phật đến nhất
tâm bất loạn
(được gọi là chánh hạnh), tức tương đương chánh niệm, chánh định
trong Bát chánh đạo; và làm tất cả các việc lành (gọi là trợ hạnh). Niệm Phật
để nhứt tâm tức chánh định, hành giả có thể hiểu và thực hành được. Còn về
phương pháp làm các việc lành, và việc gì gọi là lành thì trong kinh A Di Đà
không định nghĩa. Tuy nhiên, mặc dù nói tu theo Tịnh độ nhưng Tăng Ni hầu như
không
đi theo con đường đó mà học tất cả các kinh điển, cả tạng Pāli và Đại
thừa
. Do đó, Phật giáo nguyên chất đã bổ sung kịp thời, góp phần định hướng
hành giả tu Tịnh độ đúng đắn theo tinh thần Phật dạy. Sự lạc điệu này là một
điều may mắnthú vị.

Sự học thiếu hoạch định và thiếu tính chất ứng dụng:
Hiện nay, với số lượng làm tròn khoảng 50.000 Tăng Ni, trong đó số người đang
theo học tại các trường chưa tới 1/3(8). Trường thì cứ mở ra nhưng
sự hoạch định chương trình đào tạo để bổ sung nhân sự chăm lo công tác Phật sự
thì chưa được quan tâm. Chưa có sự khảo sát nào để xác định Phật giáo đang cần
nhân sự về ngành nào, bao nhiêu, để đào tạo
bổ sung vào. Giữa trường Phật họcGiáo hội, như thế, chưa có sự hợp tác chặt
chẽ. Về mặt ứng dụng thì rõ ràng sự học hiện nay nặng về trau dồi kiến
thức
hơn là tiêu hóa kiến thức.

Lời kết

Sự học là một quá trình liên tục nhằm bồi bổ kiến
thức
từ chỗ không biết đến thông thạo về các lĩnh vực theo học. Nó giúp chuyển
hóa
con người từ bình dân thành trí thức, từ vô văn phàm phu thành bậc thánh đa
văn
, và cuối cùng theo Phật giáoquả vị Chánh đẳng chánh giác. Nhờ sự học mà
Đức Phật thông thạo tất cả các lĩnh vực; nhờ sự học mà chư Tổ luận giải nhiều
bộ luận có giá trị muôn đời; nhờ sự học mà chư tôn đức đã đóng góp cho nền Phật
học
Việt Nam những dịch phẩm vô giá. Đặc biệt, sự học đúng phương pháp là nền
tảng vững chắc cho sự thành công trong mọi lĩnh vực, kể cả Phật quả. Tầm quan
trọng của sự học như thế đủ biết.

Ngày nay, Tăng Ni không ngừng nỗ lực học tập để
trau dồi kiến thức, chuyển hóa thân tâm, hoằng truyền Chánh pháp. Nền Phật học
nước nhà đang từng bước nâng cấp để hoàn thiện vai trò quan trọng của nó. Nếu
như vai trò của nền giáo dục thế tụcđào tạo các nhà khoa học, triết gia,
quản lý,… thì nền Phật họcsứ mạng đào tạo những bậc thầy tâm linh, bậc
thánh. Do vậy, nền Phật học phải trung thành với chất lượng thật để duy trì
niềm tin yêu vốn được tín nhiệm. Sự giả dối, nếu có, trong nền giáo dục Phật
giáo
là sự phá sản. Mùa xuân về mang bao niềm ước vọng. Sự học chân thành luôn
mang lại niềm vui!

 Chú thích

(1)  A-la-hán có 3 nghĩa là Sát tặc, tức là giết
sạch hết giặc phiền não trong tâm; Vô sanh, tức là Niết-bàn; và Ứng cúng, là
bậc xứng đáng thọ nhận cúng dường. Như vậy, A-la-hán chưa phải là bậc Chánh
đẳng chánh giác
, tức là quả vị Phật.

(2)  Xem
thêm kinh Tăng chi I, chương 2; kinh Pháp môn căn bản, kinh
Hữu học
, kinh Đại phương quảng thuộc kinh Trung bộ.

(3)  Narada, The Buddha and His Teachings, (Taiwan,
1988), tr.6.

(4)  Charles S. Prebish and Damien Keown, Introducing
Buddhism
, (New York and London: Routlegde, 2006), tr.28.

(5)  Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông, tập
I, NXB Tôn Giáo, 2012 (tái bản), tr.27.

(6)  http://www.giaohoiphatgiaovietnam.vn/nhanvat-tieubieu/100-nhan-vat-tieu-bieu-cua-ghpgvn.html.

(7) http://www.giacngo.vn/lichsu/nhanvat/2012/09/02/1E5412/.

(8)  Dựa
trên
số lượng Tăng Ni tại các Học viện, Trường Cao đẳng, Trung cấp và các lớp
Sơ cấp.

Thích Hạnh Chơn
(Nguyệt San Giác Ngô)