Lục Tổ Huệ Năng

0
31

LỤC TỔ HUỆ NĂNG: PHÁP MÔN VÔ NIỆM
Tâm Thái
Mục Lục
Pháp
Bảo Đàn Kinh
Thần
Hội
Pháp Ngữ
“Đốn
ngộ nhập đạo yếu môn” của Huệ Hải (Đại Châu):

 

Có hai vị giữ địa vị quan trọng trong Thiền tông là tổ Bồ Đề Đạt
Ma
(?-532) và Lục tổ Huệ Năng (638-713). Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã có công đặt nền
móng
cho ngôi nhà Thiền tông, và tổ Huệ Năng được coi như người đã xây cất nên
ngôi nhà kỳ diệu đó để còn lưu truyền đến ngày nay . Cuốn Pháp Bảo Đàn kinh ghi
về cuộc đời của tổ Huệ Năng cùng những bài pháp của tổ rất đầy đủ. Pháp tu của
tổ Huệ Năng được ghi rõ là:


niệm
làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc.”

Trước
khi tìm hiểu về pháp môn Vô niệm xin đọc phần trích dẫn lời giảng của Lục tổ
các thiền sư:

—o0o—

Pháp Bảo Đàn
Kinh

“vô
niệm là đối với niệm mà không niệm”,

“đối
trên các cảnh tâm không nhiễm gọi là vô niệm. Đối trên niệm thường lìa
các cảnh, chẳng ở trên cảnh mà sanh tâm. Nếu chỉ trăm vật chẳng nghĩ, niệm phải
trừ hết, một niệm dứt tức là chết, rồi sẽ sanh nơi khác, ấy là lầm
to”,

“Này
Thiện tri thức, thế nào lập vô niệm làm tông? Chỉ vì miệng nói thấy tánh, người
mê ở trên cảnh có niệm, trên niệm lại khởi tà kiến, tất cả trần lao vọng tưởng
từ đây mà sanh”,

“Này
Thiện tri thức, vô là vô việc gì? niệm là niệm vật nào? Vô đó là không có hai
tướng, không có các tâm trần lao; niệm là niệm Chân như Bản tánh. Chân như tức
là thể của niệm, niệm tức là dụng của Chân như, Chân như Tự tánh khởi niệm,
không phải mắt tai mũi lưỡi hay khởi niệm, Chân như có tánh cho nên khởi niệm,
Chân như nếu không có tánh thì mắt tai sắc thanh chính khi ấy liền hoại.”

“Này
Thiện tri thức, Chân như Tự tánh khởi niệm, sáu căn tuy có thấy nghe hiểu biết
mà không nhiễm muôn cảnh, mà Chân tánh thường tự tại, nên kinh nói “hay khéo
phân biệt các pháp tướng mà đối với nghĩa đệ nhất không có động”.

“Sao
gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước, ấy là vô niệm,
dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng không dính mắc tất cả chỗ, chỉ thanh tịnh nơi
bản tâm khiến sáu thức ra sáu cửa đối trong sáu trần không nhiễm không tạp, đi
lại tự do, thông dụng không kẹt, tức là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi
vô niệm hạnh.”

“ông
nên biết, Phật vì tất cả người mê nhận thân năm uẩn hòa hợp làm thể tướng của
mình, phân biệt tất cả pháp cho là tướng ngoại trần, ưa sanh, ghét tử, niệm
niệm
đổi dời, không biết là mộng huyễn hư giả”.

“Này
Thiện tri thức, người ngộ được pháp vô niệm thì muôn pháp đều thông, người ngộ
được pháp vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật, người ngộ được pháp vô niệm
thì đến địa vị Phật.”

—o0o—

Thần Hội
Pháp Ngữ

“Chẳng
chấp hình tướng, tức gọi là Như Như. Sao gọi là Như Như? Tức là Vô Niệm.
niệm
là gì? Tức là chẳng niệm nhớ việc có hay không. Chẳng niệm nhớ việc lành
hay xấu. Chẳng niệm nhớ có biên tế hay không biên tế. Chẳng niệm nhớ có hạn
lượng hay không hạn lượng. Chẳng niệm nhớ Bồ Đề. Chẳng dùng Bồ Đề làm tâm.
Chẳng lấy Niết Bàn làm niệm. Đó là vô niệm, cũng là Bát Nhã Ba La Mật.”

“Vô
niệm tức là không có cảnh giới hay đối tượng nào cả. Nếu còn một cảnh giới, tức
chẳng tương ưng với vô niệm.”

“Người
khéo thấy vô niệm, thì sáu căn chẳng ô nhiễm. Thấy vô niệm, tức hướng đến Phật
trí
. Thấy vô niệm, gọi là thật tướng. Thấy vô niệm, tức là nghĩa trung đạo đệ
nhất. Thấy vô niệm thì trong một lúc đầy đủ hằng sa công đức. Thấy vô niệm, hay
sanh tất cả Phật pháp. Thấy vô niệm, tức nhiếp hết thảy pháp.”

“Lại
nữa, kinh Duy Ma Cật thuyết rằng ‘Điều phục tâm kia, tức là pháp Thanh Văn.
Chẳng điều phục tâm kia, tức là pháp người ngu’. Các nhân giả dụng tâm, tức là
dùng pháp điều phục. Nếu dùng pháp điều phục, sao gọi là giải thoát?”

—o0o—

“Đốn
ngộ nhập đạo yếu môn” của Huệ Hải (Đại Châu)

Thiền
Huệ Hảiđệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất, cháu đời thứ ba của Lục Tổ Huệ Năng.

***”
Vô niệm là ở tất cả chỗ mà không tâm, không tất cả cảnh, không có những nghĩ
cầu, đối các cảnh sắc hằng không khởi động. Được vô niệm gọi là chân niệm. Nếu
dùng niệm khởi nghĩ làm niệm là tà niệm, chẳng phải chánh niệm.”

***”Người
được vô niệm, sáu căn không nhiễm, tự nhiên được vào tri kiến chư Phật.”

***”-
Đã nói vô niệm làm Tông, chưa biết vô niệmvô niệm nào ?


niệm
là không tà niệm, chớ chẳng phải không chánh niệm.

– Thế
nào là tà niệm ? Thế nào là chánh niệm ?

– Niệm
có, niệm không, là niệm tà, chẳng niệm có không là niệm chánh; niệm thiện, niệm
ác là niệm tà, chẳng niệm thiện ác là niệm chánh; cho đến niệm khổ vui, sanh
diệt
, thủ xả, oán thân, yêu ghét thảy đều là niệm tà, chẳng niệm khổ vui… là
niệm chánh.

– Thế nào là chánh niệm ?
Chánh niệm là chỉ niệm Bồ-đề .
– Bồ-đề có thể được chăng ?
– Bồ-đề không thể được.
– Đã không thể được làm sao chỉ niệm Bồ-đề ?


Bồ-đề chỉ là danh tự giả lập, thật không thể được. Cũng không có trước sau
được. Vì không thể được nên không có niệm. Chỉ cái không niệm ấy gọi là chân
niệm. Bồ-đề không có chỗ niệm. Không có chỗ niệm tức là tất cả chỗ không tâm,
ấy là không có chỗ niệm.”

***- Tâm trụ chỗ nào là trụ ?
– Tâm trụ chỗ không trụ là trụ.
– Thế nào là chỗ không trụ ?
– Chẳng trụ tất cả chỗ, ấy là trụ chỗ không
trụ.
– Thế nào là chẳng trụ tất cả chỗ ?


Chẳng trụ tất cả chỗ là : Chẳng trụ nơi lành dữ, có không, trong ngoài, chặng
giữa, chẳng trụ không, cũng chẳng trụ chẳng không, chẳng trụ định, cũng chẳng
trụ chẳng định, tức là chẳng trụ tất cả chỗ. Chỉ cái chẳng trụ tất cả chỗ, ấy
là chỗ trụ. Người được như thế, gọi là tâm không trụ. Tâm không trụ là tâm
Phật
.”

***”Nếu
tự biết rõ ràng tâm chẳng trụ tất cả chỗ, gọi là rõ ràng thấy được bản tâm,
cũng gọi là rõ ràng thấy tánh vậy. Chỉ cái tâm chẳng trụ tất cả chỗ ấy, tức là
tâm Phật, cũng gọi là tâm giải thoát, tâm Bồ-đề, tâm vô sanh, sắc tánh không.
Kinh nói : “chứng vô sanh pháp nhẫn” đó vậy.”

————-
Một thiền sư Nhật bản đương thời là thiền sư Kōshō
Uchiyama, thuộc dòng Tào Động (Nh. Soto), có viết cuốn sách “Opening the
Hand of Thought, Approach to Zen” trong đó sư có trình bày về pháp tu
niệm
như sau:

***”
Khi chúng ta tọa thiền (zazen) có nghĩa là mọi ý nghĩ phải ngưng bặt và đầu óc
trống rỗng phải không? Không, dĩ nhiên là không phải thế. Khi mà chúng ta còn
sống thì các ý nghĩ khởi lên là điều tự nhiên, ngày cả khi tọa thiền cũng vậy.
Điều quan trọng là để chúng tự đến và đi mà ta không theo đuổi chúng hoặc dẹp
trừ chúng.”

***”Nếu
niệm khởi thì chúng ta có phải gắng để dẹp nó không? Nếu làm như vậy tức là
chúng ta lập ra ý nghĩ là phải dẹp niệm đó”

`Lấy
một thí dụ trong cuộc sống là lái xe hơi. Khi chúng ta lái xe mà trong đầu suy
nghĩ
đủ thứ chuyện thì sẽ bị rối loạn, căng thẳng và nguy hiểm cho việc lái xe.
Muốn giữ cho an toàn thì cần phải thư dãn và tỉnh giác.”

***”Tọa
thiền là để cho bản thể biểu hiện một cách tự nhiên và thanh tịnh”.

***”Niệm
khởi là điều tự nhiên. Nhưng khi chúng ta bám vào niệm đó, chạy theo chúng thì
chúng ta đang suy nghĩ.”

***”Thế
nào là buông xả các niệm? Khi chúng ta suy nghĩsuy nghĩ về một cái gì
đó. Nghĩ về cái gì là dùng ý nghĩ để bám vào cái đó. Không bám vào cái đó
tức là buông xả.”

Thí dụ
niệm “A” (bông hoa) khởi lên khi ta nhìn thấy bông hoa. Nếu có niệm
“A1” (bông hoa này đẹp) tiếp theo sau thì đó là suy nghĩ, dính mắc.
Sau niệm A1 sẽ lại tiếp tục A2, A3 … Tức là dù có niệm A nhưng nếu khôngsuy
nghĩ
nào tiếp theo thì niệm A sẽ tự biến đi nếu ta không dính mắc vào nó. Như
vậy là ta buông xả suy nghĩ.

so
sánh
những trạng thái biến đổi trong tâm ta như là quang cảnh thiên nhiên: có
những lúc trời xanh quang đãng, có lúc mây mù, có lúc mưa bão … những cảnh đó
đến rồi tự nó đi, không có gì ta phải bận tâm dính mắc.

*

Việc tìm hiểu được rõ ràng về pháp “Vô
niệm” không phải là dễ dàng, nhưng ít nhất cũng có thể thấy được một số
sai lầm.

Tổ Huệ
Năng
đã chỉ rõ: “Đối trên các cảnh, tâm không nhiễm gọi là vô
niệm”,”Đối trên niệm thường lìa các cảnh, chẳng ở trên cảnh mà sanh
tâm”. Tổ không có nói là phải diệt trừ hết niệm, tổ nói thêm: “một
niệm dứt tức là chết, rồi sẽ sanh nơi khác” tức là tổ biết rằng suy nghĩ
là cái chức năng tự động của bộ óc con người, chỉ khi chết thì mới hết suy
nghĩ
.

Có một
số người đã dản dị cho rằng Vô là không, Niệm là ý nghĩ, cho nên họ cố gắng để
khi ngồi thiền thì ghìm không cho một ý nghĩ nào nổi dậy, để tâm trống rỗng và
cho như vậy là Định hoặc là chứng đắc. Ngăn cản bộ óc không cho nó nghĩ ngợi
thì không khác nào nín thở vậy, dù cho có nín thở được một lúc thì rồi cơ thể
cũng lại phải tiếp tục thở. Dù cho có ngăn chặn bộ óc không cho nó nghĩ ngợi
thì rồi sau một thời gian nó vẫn tự động khởi nghĩ. Đó chỉ như là lấy đá đè cỏ
vậy. Kinh này còn ghi thêm: “Nếu trăm vật chẳng nghĩ, chính khi đó khiến
cho niệm bặt đi, ấy là pháp phược, ấy gọi là biên kiến.”, “chớ có
trăm vật chẳng nghĩ, mà đối với đạo tánh sanh chướng ngại”. “Này Thiện tri thức, lại có người dạy ngồi khán tâm quán tịnh, không động
không khởi, từ đây mà lập công khóa, người mê không hiểu liền chấp thành ra
điên cuồng; những người như thế này thật là đông, dạy nhau như thế, nên biết đó
là lầm lớn.” Như vậy điều cần ghi rõ là đối với niệm cần giữ cho tâm không
nhiễm, chứ không phải trừ bỏ hết mọi niệm. Tâm không nhiễm là khi đối cảnh
không để cho tâm vọng động.

Kinh
có ghi: “vô niệm là đối với niệm mà không niệm”, “trong mỗi niệm
không nghĩ cảnh trước, nếu niệm trước, niệm hiện tại, niệm sau, trong mỗi niệm
tương tục không dứt gọi là hệ phược (trói buộc)”. Thiền sư Huệ Hải cũng
giúp soi rõ thêm về việc phân biệt các niệm:

“-
Niệm có, niệm không, là niệm tà, chẳng niệm có, không là niệm chánh; niệm
thiện, niệm ác là niệm tà, chẳng niệm thiện ác là niệm chánh; cho đến niệm khổ
vui, sanh diệt, thủ xả, oán thân, yêu ghét thảy đều là niệm tà, chẳng niệm khổ
vui… là niệm chánh.”

Cũng
nên nhắc lại cùng với ý trên là việc thượng tọa Huệ Minh đuổi theo tổ Huệ Năng
với ý định là dành lại y bát mà tổ đã được tổ Hoằng Nhẫn trao cho. Tổ Huệ Năng
bảo Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản
lai diện mục
của Thượng tọa Minh?” Đó chính là Vô niệm, tổ chỉ nói
tới thiện và ác, nhưng đó là nói cho gọn, ý nghĩa xa hơn là nói về tất cả những
ý kiến đối đãi nhau. “Vô” là không khởi những niệm đối đãi như
thiện/ác, có/không, yêu/ghét, sanh/diệt, oán/thân, khổ/vui … chứ không phải dẹp
trừ tất cả các niệm. Nhưng nếu dùng trí huệ để dẹp những niệm đối đãi đó thì
cũng không đúng, tổ giảng: “Phiền não tức là Bồ-đề, không hai, không khác,
nếu dùng trí huệ chiếu phá phiền não, đây là kiến giải của hàng Nhị
thừa”.

Người
Vô niệm không phải là ngây ngây ngô ngô, không biết gì hết. Tổ nói: “sáu
căn tuy có thấy nghe hiểu biết mà không nhiễm muôn cảnh”. Gọi là Vô niệm
nhưng sáu căn vẫn có “thấy nghe hiểu biết” (kiến văn giác tri) chứ
đâu phải là không “thấy nghe hiểu biết” như gỗ đá, chỉ có khác là
“không nhiễm”. Cư sĩ Thiền tông Bàng Uẩn cũng có nói: “không
cùng muôn pháp làm bạn” là cùng ý đó. Được như vậy mới có thể nói:
“đối trên các cảnh tâm không nhiễm gọi là vô niệm. Đối trên niệm thường
lìa các cảnh, chẳng ở trên cảnh mà sanh tâm”.

Thiền
Thần Hội là một đệ tử xuất sắc của tổ, đã có công trong việc truyền bá pháp
môn
của tổ, và cũng có nghi vấnThần Hộidự phần nào trong việc sửa đổi
cuốn Pháp Bảo Đàn kinh. Sư đã giảng về Vô niệm một cách sâu sắc như nói rõ
niệm
Bát Nhã Ba La Mật, là Phật trí. Tu Vô niệm là chẳng niệm Bồ đề, Bồ đề
tâm
, Niết bàn. Như vậy sư đã thấy rằng có Vô niệm thì đạt được trí Bát Nhã, lúc
đó không còn có niệm nào khác, ngay cả Bồ đề tâm, Niết bàn nữa.

Trong
kinh “Văn Thù sư lợi sớ thuyết Ma ha Bát Nhã Ba La Mật” ngài Văn Thù
có nói: “Không thấy Bồ tát pháp, cũng không thấy tu hạnh bồ đề và người
chứng quả bồ đề.”

Nên
lưu ý là có ý kiến cho rằng pháp “kiến tánh” của Thiền tông tức là
“phát bồ đề tâm”, nói như vậy là chưa hiểu rõ về Thiền tông. Tuy rằng
“phát bồ đề tâm” là pháp tu quan trọng, nhưng cũng cần biết là mỗi
tông phái đạo Phật có đường lối tu khác nhau dù rằng cứu cánh là một.

Nhưng
cũng sẽ có câu hỏi được nêu ra là, nếu không dứt niệm chẳng lẽ để cho niệm khởi
triền miên mà không lo diệt trừ hay sao. Tổ chỉ rõ là “Ngoài nếu chấp
tướng
, trong tâm tức loạn”, vì vậy nên cần hiểu rõ pháp “Vô
tướng” của tổ. Thiền sư Thần Hội cũng nói: “Các nhân giả dụng tâm, tức
là dùng pháp điều phục. Nếu dùng pháp điều phục, sao gọi là giải
thoát?”

Những
vọng niệm chỉ là do tâm mình tạo ra, rồi lại lo diệt chúng, như vậy chỉ là cái
vòng luẩn quẩn. Tổ chỉ rõ là vọng niệm là do tự tánh, Phật tánh khởi nên chứ
đâu phải là cái gì riêng biệt ngoài tự tánh “tất cả muôn pháp đều từ nơi
Tự tánh khởi dụng”. Ngay nơi sóng mà thấy nước, không cần phải bỏ
hay diệt trừ sóng mới thấy nước. Tự tánh là cái thể của muôn pháp, những vọng
niệm
là tướng của tự tánh biến hiện. Nếu chỉ chấp vào tướng thì vọng niệm vẫn
khởi, vì vậy phải thấy rõ tự tánh, đạt tới Vô tướng, Vô trụ thì mới không có
vọng niệm, chứ không phải là chỉ lo diệt trừ vọng niệm.

Thiền
Uchiyama, với tên cuốn sách là “Opening the Hand of Thought” dùng
một hình ảnh tượng trưng là, ta thường nắm chặt lấy những suy tính, tư duy, vậy
muốn hành Thiền thì phải mở nắm tay ra để buông xả những thứ đó. Sư cho rằng
tâm mỗi người, với đủ thứ khái niệm, ưa thích riêng biệt, khả năng rất hạn chế.
buông bỏ được thì tự tánh, tức bản thể, chân tánh, Phật tánh, của mình mới
có dịp biểu lộ một cách vô ngại. Sư thấy rằng khi ngồi thiền thì niệm có khởi
ta chỉ coi chúng như những đám mây trên trời, chúng đến rồi tự động đi.
“Bộ óc của ta nó không ngưng hoạt động, cũng như dạ dầy không ngưng tiêu
hóa
. Niệm có khởi thì chỉ cần không chạy theo chúng, không dính mắc, không nắm
chặt
lấy chúng, chứ cũng không cần phải lo diệt trừ chúng. Chỉ biết ngồi thiền
mà không quan tâm đến những sự hoạt động đó của bộ óc.”

Để nói
rõ thêm về pháp tu Vô niệm, tổ Huệ Năng chỉ rõ thêm hai pháp là Vô tướng
Trụ
để làm sáng tỏ thêm.

Tổ
nói: “Đối trên các pháp mỗi niệm không trụ, tức là không phược (không bị
trói buộc), đây là lấy vô trụ làm gốc”. Không trụ vào các Niệm nên không
còn bị dính mắc, bị chi phối. Còn làm sao không trụ? Tổ chỉ thêm:

“chấp
tất cả tướng tức tâm, lìa tất cả tướng tức Phật”

“ngoài
lìa tất cả tướng gọi là vô tướng, hay lìa nơi tướng tức là pháp thể thanh tịnh,
đây là lấy vô tướng làm thể” . Đó cũng là theo ý kinh Kim Cang:

“Phàm
sở hữu tướng giai thị hư vọng. (nghĩa: Phàm những gì có tướng đều là hư
vọng”) (Kinh Kim Cang, đoạn 5)”

Nếu
không
thấy các pháp là hư vọng, vẫn chấp chặt vào các tướng của muôn pháp và
trụ vào đó thì chẳng bao giờ đạt được Vô niệm, dù tìm mọi cách để bặt đường suy
nghĩ
.

ý
kiến
lại nói Vô tướng là thấy người mà không cần biết đó là đàn ông hay đàn bà,
không cần biết tên người đó là gì … Những ý kiến kỳ lạ như vậy không phải là
không có, chỉ những người không chịu tìm hiểu mới làm như vậy.

Thiền
Huệ Hải còn nói rõ về Vô trụ: “Tâm không trụ là tâm Phật.”

“Người
đời do mê bên ngoài nên chấp tướng, mê bên trong nên chấp không. Nếu hay nơi
tướng mà lìa tướng, nơi không mà lìa không thì trong ngoài chẳng mê”

“Nếu
ở tất cả chỗ mà không trụ tướng, ở trong tướng kia, không sanh yêu ghét, cũng
không thủ xả, chẳng nghĩ các việc lợi ích thành hoại v.v… an nhàn điềm tịnh,
hư dung đạm bạc, đây gọi là nhất tướng tam-muội.”

Nói tóm lại tổ Huệ Năng, qua cuốn Pháp Bảo Đàn kinh
đã chỉ cho chúng ta pháp môn Vô niệm, Vô tướng, Vô trụ và đưa Thiền tông lên
một bước tiến quan trọng. Vô niệm không có nghĩa đơn giản là kềm giữ để không
có niệm nào. Niệm vẫn luôn tự khởi do hoạt động của bộ óc con người, trong đời
sống hàng ngày vẫn cần có những sự suy tính, phân biệt, như là đói thì nghĩ đến
ăn, mệt thì nghĩ đến ngủ. Nhưng nếu coi kỹ lại thì thấy trong đầu chúng ta,
ngày cũng như đêm, lúc nào cũng ồn ào đủ mọi thứ chuyện, không lúc nào ngừng.
Vô niệm là không có những tà niệm, như thiền sư Huệ Hải đã nói. “Vô niệm
tức là không có cảnh giới hay đối tượng nào cả.” Đứng về phương diện kinh
điển
mà nói thì đó là pháp môn “bất nhị”, là trí bát nhã.
**

Tài liệu trích dẫn:

Pháp Bảo Đàn kinh, do HT Thích Thanh Từ
dịch. (Những chữ in nghiêng trong bài là trích ra từ cuốn này.)
Đốn ngộ nhập đạo yếu môn, do HT Thích Thanh Từ dịch.
Thần Hội pháp ngữ, do tỳ kheo Thích Hằng Đạt dịch.
Kinh Kim Cang, do HT Thích Thanh Từ dịch.
– Kinh Văn Thù sư lợi sớ thuyết Ma ha Bát Nhã Ba La Mật, do HT Thích Minh Lễ
dịch.
– Opening the Hand of Thought, Approach to Zen, của thiền sư Kōshō Uchiyama.

—o0o—

HẾT