Lễ Hội Và Công Đức

0
30

LỄ HỘICÔNG ĐỨC
Cư Sĩ Nguyên Giác

Ông bà mình có câu “Có đức mặc sức mà hưởng.” Lời
nói
này đã bày tỏ lòng tin sâu vào luật nhân quả của nhà Phật, và có xuất xứ từ
nhiều lời dạy trong Kinh Phật.

Thời gian qua, nhiều Phật Tử đã đóng góp trong các
Phật sự như xây chùa tháp, cung nghinh xá lợi Phật, chiêm bái Phật Ngọc Hòa
Bình, dự lễ hội hoa đăng, cúng dường trai tăng, vân vân… Một số người không
hiểu đã gọi như thế là tu kiểu hình tướng, không thật là tu trí tuệ giải thoát.
Lời phê bình đó chứa đầy ngộ nhận. Ngày xưa, khi Bồ Đề Đạt Ma nói việc xây chùa
của Lương Võ Đế là “không có công đức,” thực ra là nêu lời khai ngộ, để thúc đẩy
vua xa lìa cái chấp vào công đức đó thì mới có thể giải thoát.

Công đức — tiếng Anh là merit — là kết quả có từ
những thân, khẩu, ý thiện lành, sẽ trổ quả trong kiếp này và sẽ mang theo sang
kiếp sau. Công đức như thế sẽ giúp người tu trên đường giải thoát. Nếu không
đủ phước, chắc chắn không thể nào tu nổi. Thí dụ, nếu sinh vào một bộ lạc trong
rừng sâu Châu Phi, tất không hề biết gì tới các tiện nghi xã hội văn minh, và pháp
Phật cũng khó gặp trong đời.

Thí dụ, nếu sống ở núi rừng Đắc Lắc, luyện được đôi
chân leo núi, gỉỏi vác nặng và đi chạy nhanh nhẹn. Nhưng cũng không thể nào bằng một cô gái yếu đuối ở Sài Gòn lái
chiếc xe máy hay xe hơi. Mới biết, dù tập luyện giỏi, cũng không bằng có phước.
Tương tự, kinh doanh giỏi, cuối đời có nhiều tàì sản, cũng không bằng người
sinh vào nhà hoàng tộc.

Người có phước đức sẽ có nhiều nhân duyên dễ tu học
hơn, bởi vì nếu phải lao động ngày đêm mà vẫn không nuôi nổi gia đình, chuyện
tu học tất nhiên trở ngại. Đôi khi nhờ phước đức tới sớm, nghiệp dữ có thể hoãn
được. Cũng như một người dân ở Campuchia mang nợ hay làm tội, trốn sang Sài Gòn
sống, không ai biết quá khứ, sẽ được hưởng phước của một người dân Sài Gòn, cho
tới khi nào về lại Nam Vang mới bị đòi nợ.

Kinh Tăng Chi Bộ, bản do Hòa thượng Thích Minh Châu
dịch Việt, nơi Chương VIII Tám Pháp

phần (VI) (36) Phước Nghiệp Sự, có viết, trích:

“1.- Này các Tỷ-kheo, có ba căn bản làm phước. Thế
nào là ba?
2. Căn bản làm phước do bố thí, căn bản làm phước do
giới đức, căn bản làm phước do tu tập.”(hết trích)

Chữ “tu tập” đó được hiểu là thiền định,
có khi được hiểu là thiền tâm từ.

Nhiều người thường chấp rằng tu theo Phật là cần phải
tìm một gốc cây hay hang núi để ngồi Thiền, còn mọi pháp khác chỉ là hình tướng
không cần thiết. Thực ra, nghĩ như thế là sai lầm lớn, khi tách biệt tướng với
tâm. Chỉ cần nhớ rằng, Ngài Mục Kiền Liên là đạị đệ tử của Phật, thần thông đệ
nhất, vẫn không cứu nổi mẹ khi bà cứ đưa cơm lên là thành lửa cháy. Lúc đó, Phật
mới dạy là cần gây dựng công đức, bằng cách cúng dường trai tăng, mới cứu nổi mẹ.

Hòa thượng Thích Minh Châu trong tác phẩm “Đạo Đức
Phật
Giáo và Hạnh Phúc Con Người,” nơi chương 16, đã viết, trích:

“…Tôn giả Mục-kiền-liên là một đệ tử lớn của đức
Phật
, và được suy tôn là bậc thần thông đệ nhất. Sau khi chứng quả A-la-hán.
Ngài dùng thiên nhãn quan sát khắp các cõi sống thì thấy mẹ mình đang bị nạn
đói khát dày vò trong cõi sống quỷ đói. Tôn giả bèn cầm bát cơm xuống cõi quỷ
đói đưa cho mẹ. Mẹ cầm lấy bát cơm đưa vào miệng, thì cơm hóa thành than hồng
cháy đỏ không tài nào ăn được. Tôn giả Mục-kiền-liên không biết làm sao được,
bèn trở về xin Phật ra tay cứu giúp. Đức Phật nói: “Mẹ ông bao nhiêu đời sống
xan tham keo kiệt, nên phải chịu khổ báo là quỷ đói, một mình ông không thể cứu
nổi mẹ đâu. Phải nhân ngày rằm tháng bảy tổ chức cúng dường đức Phậtchúng
Thánh
Tăng mười phương nhờ vào sức mạnh chú nguyện của đức Phậtchúng Tăng
mười phương thì mẹ ông mới có thể siêu thóat được
“.

Tôn giả Mục-kiền-liên vâng lời đức Phật dạy, đến
ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ ra hạ của chư Tăng, đem thức ăn, đèn, sáp,
hương hoa… đặt vào chậu lớn, cúng dường trai Tăng. Bà mẹ của Tôn giả Mục-kiền-liên
nương nhờ vào uy lực của giới đứcphước đức của chư Tăng mười phương, và
cũng nương nhờ vào công đức bố thí và lòng chí thành của Tôn giả Mục-kiền-liên,
mà sớm thoát khỏi nỗi khổ của quỷ đói, nỗi khổ ví như nỗi khổ của người bị treo
ngược
, siêu thăng lên các cõi lành
…” (hết trích — nguồn: http://old.thuvienhoasen.org/daoducphatgiao-minhchau-04.htm)

Theo báo
Tibet Sun ngày 26-7-2010, Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi lễ khánh thành tượng Đức
Di
Lạc Bồ Tát (Maitreya) cao 100 feet (30.4 mét) tại Nubra Valley, Ấn Độ, với nhiều ngàn vị sư,
quan chức và dân chúng tham dự, đã cảm ơn
ban tổ chức và những người xây tượng, nói, “Họ đã làm được nhiều công đức… Người
ta sẽ được công đức đi nhiễu quanh tượng, và vì tượng cao nên có thể được ngắm
từ xa, người nhìn ngắm tượng cũng sẽ có công đức…”

Như thế, chúng ta hiểu được vì sao Phật Tử thành kính
tham dự các lễ hội Phật Giáo.

Đức Đạt Lai Lạt Ma viết trong cuốn “The
Compassionate Life,” với các dòng chữ sau này đưa vào sưu tập “Dalai Lama Quote
of the Week” đã ghi rằng khi những kẻ thù nghịch gây tổn thương chúng ta, chúng
ta
có thể mang ơn họ vì đây là cơ hội để tu hạnh kham nhẫn của bồ tát, “bởi vì
công đức gây dựng từ pháp tu kham nhẫn chỉ có thể có cơ duyên cho mình tu là từ
kẻ thù nghịch gây ra, nói nghiêm khắc là, chúng ta nên hồi hướng công đức của
chúng ta để xin lợi ích cho kẻ đối nghịch.”

Theo truyền thống Phật Giáo Thái Lan, cụ thể có những
cách vun trồng công đức như sau, theo thứ tự, trích:

“1. Xuất gia, thọ đại giới.
2. Góp tiền xây chùa.
3. Có một con trai đi tu, làm sư.
4. Hành hương các chùa Phật Giáo khắp Thái Lan.
5. Đóng góp sửa chùa.
6. Cúng thực phẩm hàng ngày cho các vị sư, và cho các
ngày lễ linh thánh.
7. Trở thành một sa di.
8. Vào chùa tu các ngàỳ lễ quan trọng, và giữ bát
quan trai giới
các ngày này.
9. Giữ 5 giới trong mọi thời.” (hết trích — nguồn,
sách “Monks and Magic” của B.J. Terwiel, http://www.thaibuddhist.com/making-merit.html)

Đọc kỹ, các điều trên cũng tập trung vào ba căn bản:
bố thí, giữ giới luật, tu tâm từ bi.

Tại Quận Cam, Nam California, người viết có quen thân
một vị cư sĩ, tác giả nhiều sách nghiên cứu Phật Học. Vị này có một cậu con trai,
đã tập cậu bé từ nhỏ là mỗi khi vào chùa là rút ít tiền ra đưa vào thùng công đức và đọc lời nguyện, “Con nguyện xin mọi
người
được OK, hạnh phúc, khỏe mạnh và sẽ thành Phật
.” Vị cư sĩ đó cũng đã dạy con tạo dựng công đức.

Giữ giới là một công đức có đầy oai lực, không hình
tướng
, nhưng sẽ tác động vào thế giới các cõi. Như khi Ngài Angulimala được Đức
Phật
chỉ dạy cách chú nguyện để cứu một sản phụ. Ngài Angulimala là kẻ đã giết nhiều người để tìm xâu 1.000 ngón
tay làm tràng hoa, và đã rượt theo Đức Phật để tìm giết người cho đủ số thì được
Đức Phật cảm hóa và cho theo thọ học giáo pháp. Tòan văn ghi trong Trung Bộ
Kinh
, kinh thứ 86.

Bản văn của Ngài Walpola Piyananda Thera như sau, trích
dịch
:

Ngài Angulimala không an tâm, bởi vì ngay cả khi thiền
định
đơn độc ngài vẫn thường nhớ tới quá khứ và những tiếng kêu khóc thảm
thương
của các nạn nhân của ngài. Vì ảnh hưởng nghiệp dữ của ngài, trong khi đi
khất thực trên đường ngài vẫn cứ trở thành mục tiêu cho dân chúng chọi đá và
đánh gậy, và rồi ngài trở về tu viện Jetavana với đầu thương tích, máu chảy,
mình đầy vết cắt, vết bầm, và được Phật nhắc nhở: “Con ta, Angulimala
. Con đã
xa lìa các ác pháp rồi. Hãy kiên nhẫn. Đây là ảnh hưởng các ác pháp con đã làm
trong kiếp này. Nghiệp dữ của con lý ra sẽ làm con đau khổ xuyên qua vô lượng
kiếp
, nếu ta không gặp con.”

Một buổi sáng, trong khi đi khất thực tại Savatthi,
ngài Angulimala nghe có người khóc đau đớn. Tới gần, ngài thấy một sản phụ đang
lên cơn đau sản nạn, và gặp trở ngại khi sinh nở, thì ngài mới phản ánh rằng tất
cả chúng sinh đều chịu khổ cả. Xúc độnglòng từ bi, ngài tới gặp Đức Phật
kể về cơn đau của phụ nữ tội nghiệp kia. Đức Phật mới khuyên ngài đọc tụng các
lời sự thực sau đây, và sau này các lời này được gọi là Angulimala Paritta (Hộ
Kinh Angulimala
). Tới trứơc người phụ nữ đang đau đớn kia, ngài ngồi trên một
chỗ cách biệt sản phụ bởi một bức màn, và nói lên những lời sau này:

“Chị ơi, từ ngày tôi trở thành một a la hán,
Tôi đã không cố ý hủy diệt
Sinh mạng của bất kỳ chúng sinh nào.
Với sự thật này, xin nguyện cho chị an lành,
Và xin nguyện cho em bé chưa sanh của chị an lành.”
Ngay tức khắc, sản phụ sinh ra bé sơ sinh dễ dàng. Cả
mẹ và con đều an lành và khỏe mạnh. Ngay cho tới bây giờ, nhiều vị vẫn còn đọc
hộ kinh này, như tụng đọc thần chú.
Ngài Angulimala ưa thích sống trong đơn độcẩn dật.
Về sau, ngài viên tịch bình an. Là một bậc a la hán, ngài đã thể nhập đại bát niết bàn. (hết trích dịch)

Như thế, công đức giữ giới có oai lực như thế.

Đặc biệt, tạo dựng công đức cần nhất là tâm thành.
Như Đại Sư Sogyal Rinpoche đã kể trong
cuốn “The Tibetan Book of Living and Dying” (Tạng Thư Sống Chết), kể về thời Đức
Phật
, có một bà cụ ăn mày thường nhìn thấy các vua, hoàng tử, dân chúng cúng dường
Phật
chư tăng, nhưng bà cụ không có gì để cúng. Tới khi ăn xin đủ để có một
đồng chì, mới mang ra người bán dầu để mua dầu cúng Phật. Người bán nói là tiền
này không đủ mua gì cả, nhưng khi nghe nói bà cụ sẽ cúng Phật, người bán mới tặng
bà cụ số dầu cần thiết. Bà cụ mang dầu về tự viện, thắp ngọn đèn, đặt trước Đức
Phật
phát nguyện, “Con không có gì để cúng trừ chiếc đèn nhỏ này. Qua lễ cúng
dường
, trong tương lai con nguyện tỉnh thức mãi với đèn trí tuệ, cho con cứu tất
cả chúng sinh ra khỏi nơi tối tăm. Con nguyện cứu họ ra khỏi mọi trở ngại, và đưa
họ sang bờ giảỉ thoát.”

Đêm đó, dầu tất cả các đèn khác cạn và tắt. Nhưng ngọn
đèn
của bà cụ xin ăn vẫn cháy vào lúc bình minh, khi đệ tử Phật là ngài Maudgalyayana
vào để dọn tất cả đèn. Khi ngài thấy chỉ có một ngọn đèn còn sáng, với dầu đầy,
mới tìm cách làm tắt hoàì mà không được, dù là thổi hay lấy tay dập. Đức Phật mới
nói rằng Maudgalyayana không tắt nổi đèn nàỳ, dù là lấy tất cả nước ở đại dương cũng không dập tắt nổi, vì đèn này được
cúng với tâm ý thanh tịnh.

Như thế, hãy suy nghĩ: với tâm thành, chỉ cúng một ngọn đèn, mà đã có
cơ duyên để đời đời tu học thành tựu trí tuệ, huống gì là với tâm thành để cúng
dường
trong lễ hội hoa đăng.

Như thế, tu thiền tới mức đại thần thông như ngài Mục
Kiền Liên
, khi cứu mẹ phải nhờ vào oai lực của pháp cúng dường trai tăng.

Như thế, những pháp mà người khác tưởng như là lễ hội
chấp theo hình tướng thực ra lại là cơ duyên giải thoát vô biên. Chỉ cần với tâm
chí
thành, thanh tịnh.

Kinh sách liên quan:

Kinh
Angulimàla (Angulimàla sutta)
TẠNG THƯ SỐNG CHẾT