Kinh Veranjaka-sutta Và Kinh Nakulapita-sutta

0
35

KINH VERANJAKA – SUTTA
(và KINH NAKULAPITA – SUTTA)

Hoang Phong

Veranja
là một địa danh, vào thời kỳ của Đức Phật thì có thể đấy là tên của một thôn ấp
hay một ngôi làng thế nhưng ngày nay thì địa danh này không còn nữa. Nhà sư Tích
Lan
Môhan Wijayaratna gọi kinh Veranjaka-Sutta
“Kinh về các nam Thiên Nhân và
các nữ Thiên Nhân”
. Kinh này được ghi chép trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya, quyển III, 57-59, ấn bản PTS, 1885-1910). Sở dĩ phải
trình bày dài dòng như trên đây là vì có một bản kinh khác cũng mang tên là
kinh Veranjaka-Sutta, thế nhưng dài hơn
và được xếp vào Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya, tập I, kinh số 42), và đã
được Hòa Thượng Thích Minh Châu Việt dịch trong Đại Tạng Kinh Việt Nam (Kinh
Trung Bộ, người đọc có thể xem kinh này trên các trang web thuvienhoasen,
quangduc…). Rất có thể là cả hai bản kinh trên đây đã được Đức Phật thuyết giảng
chung trong dịp Ngài tiếp xúc với các vị “chủ gia đình” lưu ngụ tại
Veranja, thế nhưng lại cũng có thể là vì hai bản kinh dài ngắn khác nhau nên đã
được xếp vào hai Bộ kinh khác nhau chăng?

Dưới đây là phần chuyển ngữ bản kinh
Veranjika Sutta ngắn tức là “Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ
Thiên
Nhân”
. Phần chuyển ngữ chủ yếu được dựa vào hai bản dịch: một từ
tiếng Pa-li sang tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna, (Sermons du Bouddha, nxb Cerf, 1988, tr. 67-69), và một từ bản dịch từ
tiếng Pa-li sang tiếng Anh của hai nhà sư Tích Lan là Nyanaponika Thera và
Bhikkhu Bodhi thực hiện (Samyutta Nikaya, Part III, Chap. I, Div. I, selected
and translated from the Pali by Nyanaponika Thera and Bhikkhu Bodhi).

Veranjaka
Sutta

Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân
(Anguttara Nikaya, III, 57-59, PTS, 1885-1910)

Tiết 6-1

“Có một lần Đấng
Thê Tôn đang du hành trên con đường cái nối liền giữa Mandura và Veranja, thì vào
lúc ấy có một đám đông các vị chủ gia đình cùng với các bà vợ của họ cũng cùng đi
trên trục lộ quan trọng này.

“Đấng Thế Tôn rời
khỏi đường cái và ngồi xuống một chiếc ghế được đặt dưới một gốc cây cạnh bên vệ
đường. Trông thấy Đấng Thế Tôn ngồi [nghỉ chân], đám người chủ gia đình cùng với
các bà vợ bèn tiến đến gần, họ đảnh lễ Đấng Thế Tôn rồi lùi lại và ngồi sang một
bên. Khi họ đã an tọa thì Đấng Thế Tôn cất lời với họ như sau:

Tiết 6-2

“Này các người chủ gia đình, có bốn cách sống chung (trong cuộc sống
lứa đôi). Vậy bốn cách sống ấy là gì? [Đấy
là] một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống
như một xác chết; một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn
bà giống như một nữ thiên nhân; một người đàn ông giống như một thiên nhân sống
với một người đàn bà giống như một xác chết; một người đàn ông giống như một
thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân.

Tiết 6-3

“Này các người chủ gia đình, [vậy] một người đàn ông giống như một
xác chết sống với một người đàn bà giống như một xác chết là thế nào? Trong trường
hợp
ấy, này các người chủ gia đình, người chồng là một kẻ sát sinh, hắn phạm
vào tội ăn cắp, vướng vào hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng những thức
uống
làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn là người hung dữ gây ra khổ đau
cho người khác, sống với tâm địa ô uế, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ.

Tiết 6-4

“Vợ
hắn cũng là một kẻ sát sinh, ăn cắp, vướng vào hành vi tính dục bất chính, nói
dối
, dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn là
người hung dữ gây ra khổ đau cho người khác, sống với tâm địa ô uế, nhục mạ người
tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, đấy chính là một người đàn
ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một xác chết.

Tiết 6-5

“Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một
xác chết sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân là thế nào?
Trong trường hợp ấy người chồng là một kẻ sát sinh, phạm vào tội ăn cắp, vướng vào
những hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng những thức uống làm say sưa khiến
bị lầm lẫnxao lãng, hắn là người hung dữ gây ra khổ đau cho người khác, sống
với tâm địa ô uế, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ.

Tiết 6-6

“Trong khi đó thì vợ hắn là người không sát sinh, không phạm vào tội
ăn cắp, tránh được những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng
những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa
tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành
các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, chính đấy là một người đàn ông giống
như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân
.

Tiết 6-7

“Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một
thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một xác chết là thế nào? Trong
trường hợp ấy, người chồng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được
những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm
say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn sống với tâm địa tinh khiết, không
gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ.

Tiết 6-8

“Trong khi đó thì vợ hắn sát sinh, phạm vào tội ăn cắp, phạm vào những
hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng nhưng thức uống làm say sưa khiến bị
lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa ô uế, gây ra khổ đau cho người
khác, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, chính
đấy là một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống
như một xác chết.

Tiết 6-9

“Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một
thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân là thế nào?
Trong trường hợp ấy, người chồng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp,
tránh được những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức
uống
làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn sống với tâm địa tinh khiết,
không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu
.

Tiết 6-10

“Vợ hắn cũng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được
nhưng hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm
say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa tinh khiết, không
gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này
các người chủ gia đình, chính đấy là một người đàn ông giống như một thiên nhân
sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân.

“Này
các người chủ gia đình, đấy là bốn cách sống chung (trong đời sống lứa
đôi)”
.

 

Vài lời ghi chú

Trên bình diện tổng quát
thì các bài thuyết giảng của Đức Phật hầu hết đều nhằm vào các chủ đề thật khúc
triết và những khái niệm thật căn bản trong giáo lý, chủ yếu là nhắm vào những
người xuất gia, tức là những môn đệ của Ngài. Tuy nhiên người ta cũng tìm thấy một
số bài giảng dành cho người thế tục, nhắm mục đích giúp họ mang lại hạnh phúc
sự hài hòa trong gia đình, thực thi một cuộc cuộc sống đạo đức, ý thức được bổn
phận của họ trong cộng đồng xã hội.

Theo dòng tiến hóa của
xã hội hơn hai ngàn năm trăm năm, tất nhiên các quan niệm về gia đình, đạo đức,
phong tục cũng đã biến đổi không ngừng để thích nghi với các nền văn hóa khác
nhau và các chủng tộc khác nhau. Thế nhưng trên căn bản thì các quy luật đạo đức
quy định cho nếp sống gia đình và cách xử thế giữa con người với nhauĐức Phật
chủ trương vẫn còn giữ được giá trị đến ngày nay. Những gì mà Ngài thuyết giảng
và chỉ dạy cho những con người thời bấy giờ đôi khi cũng khiến chúng ta phải bàng
hoàng
vì ngỡ rằng Ngài đang thuyết giảng cho chính chúng ta hôm nay.

Trong số những bài thuyết
giảng
ở cấp bậc “thấp” tức mang tính cách đại chúng, dành cho người
thế tục, Đức Phật đã nêu lên rất nhiều chủ đề khác nhau liên quan đến gia đình,
xã hội, sự giao tiếp giữa con người với nhau. Đôi khi Ngài giảng rất chi tiết
đưa ra nhiều thí dụ rất cụ thể về các cách xử thế cần phải chọn. Trong quyển sách
trên đây, Môhan Wijayaratna có trích dẫn một số kinh thuộc vào lãnh vực này, chẳng
hạn như Đức Phật dạy một vị chủ nhân phải làm thế nào để tạo ra sự hợp tác tốt đẹp
với người làm công (kinh Sigalovada-sutta,
Digha Nikaya. III, 180), người chủ
gia đình nên làm thế nào để mọi người chung quanh kính mến mình (kinh Vasala-sutta, Suttanipata, v. 116-142), làm thế nào để tránh khỏi cảnh sa sút
nghèo đói (kinh Parabhava-sutta, Suttanipata, 91-115), phải dùng đồng tiền
như thế nào (kinh Vyaggapajja-sutta, Anguttara Nikaya. IV, 281-282), v.v…

Tóm lại Đức Phật không
những chỉ thuyết giảng những gì thật cao siêu mà Ngài cũng đã mang lại những giải
pháp
cụ thể giúp người thế tục đạt những khát vọng đôi khi rất đơn sơchân
thật
của họ, chẳng hạn như trong câu chuyện khá cảm động sau đây ghi lại trong
một bản kinh thật ngắn là Nakulapita-Sutta
(Anguttara
Nikaya
. II, 61-62). Đấy là câu chuyện của một đôi vợ chồng đã lớn tuổi thế
nhưng vẫn quấn quýt bên nhau, họ hỏi Đức Phật phải làm thế nào để họ còn tiếp tục
tìm thấy nhau trong các kiếp sống tương lai. Vì bản kinh không quá dài do đó cũng
xin chuyển ngữ toàn bộ như dưới đây để thay cho phần kết luận và cũng để bổ túc
thêm cho bản kinh Veranjaka-Sutta đã
trình bày trên đây. Phần chuyển ngữ được dựa vào bản dịch từ tiếng Pa-li sang
tiếng Anh của Nyanaponika Thera và Bhikkhu Bodhi (An anthology of Suttas from
the Anguttara Nikāya”,
selected and
translated from the Pāli by Nyanaponika Thera and Bhikkhu Bodhi, Edited by
Nyanaponika Thera):

 

Nakulapita-Sutta

Kinh “Làm thế nào để gặp lại nhau trong các kiếp
sống tương lai”
(Anguttara Nikaya, II, 61-62, PTS, 1885-1910)

“Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga,
gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển, nơi hang Bhesakala. Một
hôm, vào lúc tinh sương, Đấng Thế Tôn khoác thêm tấm y thượng (áo ấm) lên người,
cầm bình bát và đi đến nhà một người chủ gia đình tên là Nakulapita. Khi đến
nhà người này thì Đấng Thế Tôn ngồi vào chiếc ghế dành riêng cho Ngài.

Người
chủ gia đình Nakulapita và người nội trợ là Nakulamata (tức là vợ của
Nakulapita), cả hai cùng tiến đến gần Đấng Thế Tôn vái chào Ngài rồi ngồi sang
một bên. Sau khi an tọa Nakulapita cất lời thưa với Đấng Thế Tôn như sau:

“Bạch
Thế Tôn, từ ngày con đem người nội trợ Nakulamata, lúc ấy còn trẻ dại, về sống
nơi căn nhà này với con, con xin thú nhận rằng cho đến hôm nay con chưa bao giờ
lừa dối vợ con dù chỉ trong tư tưởng, huống chi bằng hành động thì lại còn khó
để mà xảy ra hơn nữa. Bạch Thế Tôn, chúng con hằng mong ước lúc nào cũng nhìn
thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy nhau trong kiếp sống
tương lai”.

Sau
đó lại đến lượt người nội trợ Nakulamata cất lời thưa với Đấng Thế Tôn như sau:

“Bạch
Thế Tôn, từ khi con còn con gái và được mang về căn nhà này để chung sống với
người chồng trẻ tuổi của con là Nakulapita, con xin thú nhận rằng cho đến hôm
nay con chưa bao giờ lừa dối chồng con dù chỉ trong tư tưởng, huống chi bằng
hành động thì lại còn khó để mà xảy ra hơn nữa. Bạch Thế Tôn, chúng con hằng
mong ước lúc nào cũng nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy
nhau trong kiếp sống tương lai”.

Đấng
Thế Tôn
bèn cất lời với họ như sau:

“Này
cả hai gia chủ, nếu cả vợ lẫn chồng ước mong lúc nào cũng nhìn thấy nhau cho đến
hết kiếp sống này và còn muốn tiếp tục nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương,
thì phải có cùng một niềm tin, một lòng rộng lượng như nhau, noi theo một nền đạo
đức
như nhau, thực hiện được một trí tuệ như nhau; [được như thế] thì cả hai sẽ
nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy nhau trong kiếp sống
tương lai”.

Nếu Đức Phật đã từng chứng
minh
cho chúng ta thấy qua hệ thống giáo lý siêu việtvô cùng sâu sắc các
quy luật toàn cầu chi phối sự vận hành của cả vũ trụ này, chẳng hạn quy luật tương
liên, hiện tượng vô thườngbản chất trống không của vạn vật…, khiến cho các
khoa học gia, triết giahọc giả Tây phương ngày nay phải kinh ngạcthán
phục
, thì trong kiếp nhân sinh của Ngài, Ngài cũng đã từng ngồi xuống để lắng
nghe những con người thật bình dị, đơn sơ và chất phác thổ lộ những ước mơ thật
tự nhiênchân thật của họ.

Tuy những ước mơ ấy phản
ảnh
bản chất bám víutrói buộc đưa họ quay trở lại với thế giới ta-bà, thế
nhưng Đức Phật không làm gì khác hơn được và đã chỉ cách cho họ để có thể tiếp
tục
nhìn thấy nhau, bằng cách hướng họ vào con đường của đạo hạnh, từ bitrí
tuệ
. Đấy là con đường giúp cho họ đến một ngày nào đó sẽ tìm thấy sự giải thoát
tối hậu. Dù cho con đường ấy có thật dài đi nữa, thế nhưng đấy cũng là những gì
có thể giúp họ mang lại một ý nghĩa nào đó cho sự sống này, và nhất là sẽ giúp
cho họ không nhìn thấy nhau “giống
như hai xác chết”
đang sống cạnh nhau trong kiếp nhân sinh này của họ.

Bures-Sur-Yvette, 11.11.11
Hoang Phong