Kinh Trường A Hàm

0
34

KINH TRƯỜNG A HÀM
Hán Dịch: Phật Đà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ

kinhtruongaham-thichtuesykinhtruongaham-thichtuesy

PHÀM
LỆ

1. Bản
dịch Việt, Trường A hàm, được thực hiện theo bản Hán
dịch Trường A hàm kinh 長 阿 含 經, 22 quyển, do Phật-đà-da-xá
佛 陀 耶 舍 (Buddhayaśsa) tuyên đọc thuộc lòng (ám độc)
bản Phạn, và Trúc Phật Niệm truyền dịch sang Hán văn.

2.
Về để bản, bản dịch Việt căn cứ trên ấn bản “Đại
chánh Tân tu Đại tạng kinh” 大 正 新 修 大 藏 經, 100 tập,
mỗi tập hơn 1000 trang chữ Hán cỡ 10pt. Trong đó, “A hàm
bộ” gồm hai tập, 151 kinh (No.1- No.151). Trường A hàm kinh
(No.1), thuộc “A hàm bộ” I, tập 1, từ trang 1-149.

3.
“Đại chánh Tân tu Đại tạng kinh”, từ No.2-No.25, là những
bản Hán dịch lẻ tẻ các kinh thuộc Truờng A hàm. Đây là
những bản kinh thuộc nhiều bộ phái khác nhau, do đó nội
dung chứa đựng ít nhiều dị biệt. Trường A hàm hiện tại
được phần đông các nhà nghiên cứu cho rằng thuộc Pháp
tạng bộ
(Dharmagupta), tức cùng bộ phái với Tứ phần luật
四 分 律 (Đại chánh, tập 22, No.1428). Công trình Việt dịch
trong hiện tại chỉ thực hiện trên bản Hán Trường A hàm
(Đại chánh, No.1). Các bản Hán dịch lẻ tẻ khác (Đại chánh,
No.2-151) được dùng làm tư liệu đối chiếu.

4.
Về xử lý văn bản trong khi phiên dịch, phần lớn căn cứ
công trình hiệu đínhđối chiếu của Đại chánh. Ngoài
ra
, tham khảo thêm các công trình hiệu đínhđối chiếu
khác, trong đó chủ yếu:

Phật
quang
Đại tạng kinh, A hàm bộ 佛 光 大 藏 經, 阿 舍 部;
Phật quang xuất bản xã, Đài bắc, 1993.

Trường
A hàm kinh
長 阿 舍 經, bản dịch bạch thoại, Thích Ngộ
Từ
(Shi Wu Ci) 釋 悟 慈; Đài nam, 1997.

-“Kokuyaku-issaikyoâ”,A-gom-bu,Choâ-a-gon-kyoâ,
國 譯 一 切 經 阿 舍 部, 長 阿 經, bản dịch tiếng Nhật
của Shin-Ô Iwano 岩 野 真 雄; Tokyo 1969.

5.
Giữa các ấn bản có những điểm khác nhau, bản Việt sẽ
lựa chọn hoặc hiệu đính theo nhận thức của người dịch.

6.
Trong bản Hán, nếu chỗ nào xét thấy văn dịch hay từ ngữ
không phù hợp với giáo nghĩa truyền thống phổ biến, người
dịch sẽ tham khảo các Kinh, Luật, Luận cần thiết để hiệu
chính. Những hiệu chính này được giải thích ở phần cước
chú.

7.
Bản Hán dịch thực hiện căn cứ trên sự truyền khẩu. Do
đó những từ phát âm tương tự dễ đưa đến ngộ nhận,
như sam Pāli hay sama và samyak; cala và jala; muti và muṭṭhi,v.v…

Trong
những trường hợp này, người dịch sẽ tham chiếu các kinh
tương đương, các bản Hán biệt dịch, suy đoán tự dạng
nguyên thủy có thể có trong Phạn bản để hiệu chính. Những
hiệu chính này đều được ghi ở phần cước chú.

8.
Do các truyền bản khác nhau giữa các bộ phái, để có nhận
thức
về giáo nghĩa nguyên thuỷ, chung cho tất cả, cần có
những nghiên cứu đối chiếu sâu rộng. Công việc này ngoài
khả năng hiện tại của các dịch giả. Tuy nhiên, trong trường
hợp
có thể, những điểm dị biệt giữa các truyền bản
sẽ được ghi nhậnđối chiếu. Những ghi nhận này được
nêu ở phần cước chú.

9.
Bản Hán dịch được phân thành 22 quyển. Bản dịch Việt
không chia số quyển như vậy, nhưng sẽ ghi ở phần cước
chú mỗi khi bắt đầu một quyển khác.

10.
Nội dung bản Hán dịch được xếp thành bốn phần, mỗi
phần gồm số kinh nhiều ít khác nhau. Bản dịch Việt giữ
nguyên sự phân chia này.

11.
Các bản Hán biệt dịch được dùng làm tài liệu tham chiếu
đều là các ấn bản của Đại chánh Đại tạng kinh. Số
quyển được dẫn sẽ ghi là “Đại” theo sau là số La-mã
chỉ thứ tự số quyển. Thí dụ: Đại XXII, nghĩa là, Đại
chánh Tân tu Đại tạng kinh, tập thứ 22. Mặc dù ấn bản
Đại tạng này được tái bản nhiều lần, với nhiều nhà
xuất bản khác nhau, nhưng số quyển và số trang mỗi quyển
được xem là cố định. Do đó, trong các trích dẫn không
cần thiết ghi năm và nơi tái bản.

12.
Mỗi trang của ấn bản Đại chánh chia làm ba phần. Trong trích
dẫn, các phần này được ghi là a, b, và c ngay sau số trang.
Trường hợp cần thiết, có thể ghi cả số dòng. Thí dụ:
Đại X, tr.125b, hay Đại X, tr,125b24.

13.
lý do phải thường xuyên di chuyển trú xứ, mà khi di chuyển
không thể mang theo các tài liệu cần thiết, do đó, khi tham
chiếu
các bản Pāli tương đương, người dịch đã phải
sử dụng nhiều ấn bản Pāli khác nhau. Chủ yếu là ấn bản
Latinh, ấn bản Devanagari, và bản CD Rom. Số trang, số đoạn
các bản không đồng nhất. Do đó các trích dẫn Pāli đối
chiếu
thường không thống nhất. Khi nào điều kiện thuận
tiện
, hoàn cảnh cho phép, những sự bất nhất này sẽ phải
được chỉnh lý cho thống nhất.

14.
Phần lớn các từ Phật học trong bản Hán dịch này không
phổ biến. Do đó có thể gây khó khăn cho việc đọc và nghiên
cứu
. Trong các trường hợp như vậy, tuy vẫn giữ nguyên dịch
ngữ của bản Hán, nhưng dịch ngữ tương đương thông dụng
hơn sẽ được ghi trong phần cước chú. Trong trường hợp
có thể, sẽ ghi luôn dịch giả của những dịch ngữ này
xuất xứ của chúng từ bản dịch nào để tiện việc
tham khảo.

15.
Theo thói quen, trong các bản dịch Việt từ Hán văn, những
từ phiên âm tiếng Phạn đều được viết hoa, không phân
biệt
từ riêng hay từ chung. Thí dụ, do trang phục dị biệt,
trong Hán văn không từ nào chính xác tương đương với uttarāsaṅga
của tiếng Phạn, nên phần lớn được phiên âm là uất-đa-la-tăng,
và trong các bản dịch Việt, từ phiên âm này luôn luôn viết
hoa. Bản dịch Việt Trường A hàm sẽ cố gắng chuẩn hóa
cách viết các từ , phiên âm, cũng như các từ dịch nghĩa,
để có thể phân biệt từ riêng và từ chung.

– Vì
tiếng Phạn là ngôn ngữ đa âm tiết, trong khi Hán là ngôn
ngữ
đơn âm. Để phiên âm một tiếng Phạn, cần nhiều từ
Hán. Những từ Hán phiên âm này sẽ được liên kết nhau
bằng dấu nối. Thí dụ: Xá-lợi-phất, là phiên âm của một
từ tiếng Phạn: Śāriputra (Skt) hay Sāriputta (Pāli). Nhưng nếu
viết Xá-lợi Tử, đó là hai từ ghép với nhau, một từ phiên
âm, và một từ dịch nghĩa. Sự phân biệt này rất cần thiết
để tránh nhầm lẫn đã xảy ra như từ đàn việt, được
giải thíchbố thí để siêu việt tam giới, do nhận thức
rằng từ này ghép một phiên âm Phạn của dāna (bố thí)
và một từ nghĩa Hán. Thực tế, nếu đàn-việt được viết
với dấu nối, nhất định đó là phiên âm của dāna-pati
(thí chủ).

– Những
từ phiên âm, nếu là từ riêng, không phân biệt nhân danh
hay địa danh, đều được viết với chữ hoa ở đầu. Các
chữ tiếp theo đều viết thường và liên kết với nhau bằng
dấu nối. Nếu tên riêng do ghép nhiều từ Phạn, mỗi từ
bắt đầu bằng chữ hoa ở phiên âm. Thí dụ: Ni-kiền-đà
Nhã-đề Tử
, cách viết cho thấy có ba từ Phạn ghép lại
với nhau: Nirgrantha-Jñaṭi-putra.

– Những
tên riêng được dịch nghĩa, nếu là địa danh, chỉ chữ
đầu được viết hoa, và không có dấu nối. Thí dụ: Vương
xá thành
. Nhưng nếu là tên người, tất cả đều viết hoa,
không có dấu nối. Thí dụ: Khánh Hỷ.

16.
Cuối cùng là các sách dẫn. Sách dẫn chủ yếu lá các từ
Hán, bao gồm danh từ Phật học, nhân danh và địa danh. Một
số từ không phải là thuật ngữ, nhưng trong Hán dịch tối
nghĩa, cần suy đoán nguyên hình tiếng Phạn để xác định
ngữ nghĩa. Những từ này cũng được liệt kê trong bảng
sách dẫn.

17.
Một số câu dịch Hán văn tối nghĩa, cần đối chiếu Pāli
để suy đoán cú pháp Phạn bản, tìm ý nghĩa gần chính xác
để chuyển thành Việt ngữ. Một số câu như vậy cũng được
liệt kê trong phần sách dẫn các từ Hán.

18.
Mỗi từ Hán trong bảng sách dẫn đều có phụ chú Pāli và
Sanskrit để tiện việc tham chiếu.

19.
Tài liệu đối chiếu chủ yếu là Pāli, nếu có phụ chú
Skt. thì phần lớn là suy đoán. Vì vậy, ở đây chỉ đưa
ra một sách dẫn Pāli, xem như bổ túc cho sách dẫn từ Hán
dịch.

Quảng
Hương
Già-lam

Mùa
an cư
, Pl. 2543

Tuệ-Sỹ
cẩn chí

Giới
thiệu
Kinh Trường A-hàm:

Kinh
Trường A-hàm, tiếng Phạn là Dìghàgama, tiếng Pàli là Digha-nikàya,
gồm 22 quyển, do Ngài Phật-đà Da-xá và Trúc Phật Niệm cùng
dịch vào năm Hoằng Thỉ thứ 15 đời Dao Tần (413), hiện
được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập 1. Sở
nói “Trường” là vì do soạn tập những kinh điển dài
nhất trong A-hàm mà thành. Theo Tứ Phần Luật 54, Ngũ Phần
Luật
30, Luận Du-Già-Sư-Địa 85, nguyên do có chữ “Trường”
là vì tổng tập những kinh lớn (dài). Tát-Bà-Đa Tỳ-Ni Tỳ-Bà-Sa
1 thì cho rằng Trường A-hàm là phá dẹp các tà thuyết của
ngoại đạo. Luận Phân Biệt Công Đức thì cho rằng “Trường”
nghĩa là nói những việc lâu xa, nghĩa là trải qua nhiều kiếp
vẫn không dứt. Nói chung về phần định danh, các kinh luận
nói khác nhau, xong đại để vẫn vậy.

Toàn
kinh chia làm 4 phần, gồm 30 kinh. Trong đó, phần thứ nhất
nói về bản thủy và sự tích của Đức Phật; phần thứ
hai nói về việc tu tập các hạnh và cương yếu giáo pháp
của Phật thuyết; phần thứ ba nói về các luận nạn đối
với ngoại đạodị thuyết; phần thứ tư ghi chép về
tướng trạng khởi nguyên của thế giới (Vũ trụ).

Kinh
này tương đương với Trường Bộ
(Pàli: Digha-nikàya) trong 5 bộ của hệ Nam truyền. Trường
Bộ
gồm có 3 phẩm, 34 kinh, tức Giới Uẩn Phẩm (gồm 13 kinh),
Đại Phẩm (10 kinh) và Pàli phẩm (11 kinh). Nhưng Thế Ký Kinh
trong Trường A-hàm thì không có trong Trường Bộ. Theo Mục
Lục
Tam Tạng (Anh văn) của học giả Nhật Bản là Nanjò Fumio,
nếu đối chiếu 34 kinh bản Pàli với 30 kinh bản Hán dịch
thì chỉ có kinh thứ 6 bản Hán dịch và kinh thứ 10 bản Pàli
là có mối quan hệ rõ ràng, còn các kinh khác thì không nhất
trí
với nhau. Nhận xét của một số học giả nổi tiếng
khác của Nhật Bản thì ôn hòa hơn, tức cho rằng các kinh
tương tợ nhau.

Đặc
biệt
có Kinh Thất Phật trong Trường A-hàm (Trung Quốc gọi
là Biệt Sanh Kinh) được trích riêng ra để dịch rất nhiều
(21 loại). Các học giả Tây phương thường dùng bản chép
tay Pàli, hiệu đính, phiên dịch rồi xuất bản cũng nhiều,
như Dialogues of Buddha, 1909 – 1921, do học giả người Anh là
Rhys Davids và phu nhân là J.E. Carpenter phiên dịch; Dic Reden des
Gotamo Buddhos, 1907 – 1918, do K..E. Newmann dịch sang tiếng Đức;
Das Buch der langen Texte des Buddhist Kanon Leipzig, 1913, do O. Franke
dịch sang tiếng Đức. Ngoài ra còn có bản chú thích Trường
Bộ
Sumangalavilàsinì của Đại luận sư của Tích Lan sống
vào thế kỷ V là ngài Phật Âm (Buddhaghosa), được hai vợ
chồng Davids xuất bản vào năm 1986.

Trong
các bản Sankrit mới phát hiện ở Tân Cương, Trung Quốc
kinh tương đương với Chúng Tập Kinh (Sangìti-sutta) – kinh thứ
9 của bản Hán dịch, và tương đương với một đoạn kinh
Atànàtiya-sutta – kinh thứ 32 bản Pàli, được học giả R.Hoernle
thu lục trong tác phẩm Manuscrip Remains of Buddhist Literature found
in Eastern Turkestan,Vol.1.

Ngoài
ra
trong Đại Tạng Kinh của Tây TạngHdus-pa chen-pohi
mdo
tương đương với Đại Hội Kinh – kinh thứ 19 trong
Trường A-hàm; Tshans-Pahi dra-bahi mdo tương đương với
Phạm Đôĩng Kinh – kinh thứ 21 trong Trường A-hàm; Lcan-lo-can-gyi
pho-bran-gi mdo
tương đương với Antànàtiya-sutta trong Trường
Bộ
.

Thích
Nguyên Hiền



THƯ
MỤC ĐỐI CHIẾU: TRƯỜNG A-HÀM – DĪGHANIKĀYA


1.
Phật thuyết Trường A-hàm kinh
, 22 quyển, Hậu Tần (Hoằng
thủy 14 – 15; Tl. 412 – 413), Phật-đà-da-xá (Buddhayasa) và
Trúc Phật Niệm dịch.

2.
Pāli : Dīghanikāya
(Sanskrit: Dīrghāgama):

a)
Ấn bản Devanagari, 3 tập, Pàli Publication Board (Bihar Government),
1958.

b)
Ấn bản Roman, Trường bộ kinh
(Thích Minh Châu)
, Pàli-Việt đối chiếu, Ban Tu thư,
Viện Đại học Vạn hạnh, 4 tập; tập I, 1965, tập II, 1967,
tập III, 1972, tập IV, 1972.

c)
Ấn bản CD-ROM, Chaṭṭha Saṅgāyana CD-ROM (Version 1.1).

1 Đại
bản kinh
D.
14. Mahāpadāna.
2 Du
hành
kinh
D.
16. Mahāparinibbāna;
D.
17. Mahāsudas -sana.
3 Điển
Tôn kinh
D.
19. Mahāgovinda.
4 Xà-ni-sa
kinh
D.
18. Janavasabha.
5 Tiểu
duyên kinh
D.
24. Agañña.
6 Chuyển
luân Thánh vương
tu hành kinh
D.
26. Cakkavattī.
7 Tệ-tú
kinh
D.
23. Payāsi.
8 Tán-đà-na
kinh
D.
25. Udumbarikasīhanāda.
9 Chúng
tap kinh
D.
33. Saṃgīti.
10 Thập
thượng kinh
D.
34. Dasuttara.
11 Tăng
nhất kinh
không
có.
12 Tam
tụ
kinh
không
có.
13 Đại
duyên phương tiện kinh
D.
15. Mahānidāna.
14 Thích
Đề-hoàn Nhân vấn kinh
D.
21. Sakkapañha.
15 A-nậu-di
kinh
D.
24. Pāṭika.
16 Thiện
sanh kinh
D.
31. Siṅgalovāda.
17 Thanh
tịnh
kinh
D.
29. Pāsādika.
18 Tự
hoan hỷ kinh
D.
28. Sampadānīya.
19 Đại
hội kinh
D.
20. Mahāsamaya.
20 A-ma-trú
kinh
D.
3. Ambaṭṭha.
21 Phạm
động kinh
D.
1. Brahmajāla.
22 Chủng
Đức kinh
D.
4. Soṇaḍaṇḍa.
23 Cứu-la-đàn-đầu
kinh
D.
5. Kūṭadanda.
24 Kiên
cố kinh
D.
11. Kevada.
25 Lõa
hình phạm chí kinh
D.
8. Kassapa.
26 Tam
minh
kinh
D.
13. Tevijjā.
27 Sa-môn
quả
kinh
D.
2. Sāmaññaphala.
28 Bố-tra-bà-lâu
kinh
D.
9. Poṭṭhapāda.
29 Thế
ký kinh
không
có.

THƯ
MỤC ĐỐI CHIẾU: DĪGHANIKĀYA – TRƯỜNG A-HÀM

1 Brahmalāla-suttaṃ

(Skt.
Brahmajāla-sūtra).
(21)
Phạm động kinh.
2 Sāmaññaphala-suttaṃ. (27)
Sa-môn quả kinh.
3 Ambaṭṭha-suttam. (20)
A-ma-trú.
4 Soṇadaṇḍa-suttam. (22)
Chủng Đức kinh.
5 Kūṭadanda-suttam. (23)
Cứu-la-đàn-đầu kinh.
6 Mahāli-suttam. Hán:
không có.
7 Jāliya-suttam. Hán:
không có.
8 Mahāsīhanāda-suttam

(Kassapa-sīhanāda).
(25)
Lỏa hình Phạm chí kinh.
9 Poṭṭhapāda-suttam. (28)
Bố-tra-bà-lâu.
10 Subhasuttam. Hán:
không có.
11 Kevaḍḍa-suttam

(Kevaddha-suttam).
(24)
Kiện Cố kinh.
12 Lohicca-suttam. (29)
Lộ-già kinh.
13 Tevijjā-suttaum. (26)
Tam minh kinh.
14 Mahāpadāna-suttam. (1)
Đại bản kinh.
15 Mahānidāna-suttam. (13)
Đại duyên phương tiện kinh.
16 Mahāparinibbāna-suttam. (2)
Du hành kinh.
17 Mahāsudassana-suttam. (2)
Du hành kinh.
18 Janavasabha-suttam. (4)
Xà-ni-sa kinh.
19 Mahāgovinda-suttam. (3)
Điển Tôn kinh.
20 Mahāsamaya-suttam. (12)
Đai hội kinh.
21 Sakkapañhā-suttam. (14)
Thích Đề-hoàn Nhân vấn kinh.
22 Mahāsatipaṭṭhāna-suttam. Hán:
không có.
23 Pāyasi(rājañña)-suttam. (7)
Tệ-tú kinh.
24 Pāthika-suttam

(Pāṭika-suttam).
(15).
A-nậu-di kinh.
25 Udumbarika(sīhanāda)-suttam. (8)
Tán-đà-na kinh.
26 Cakkavatti-suttam. (6)
Chuyển luân Thánh vương tu hành kinh.
27 Aggañña-suttam. (5)
Tiểu duyên kinh.
28 Sampasadānīya-suttam. (18)
Tự hoan hỷ kinh.
29 Pāsādika-suttam. (17)
Thanh tịnh kinh.
30 Lakkhaṇa-suttam. Hán:
không có.
31 Siṅgālovāda-suttam

(Siṅgāla).
(16)
Thiện Sanh kinh.
32 Aṭanāṭi-suttam. Hán:
không có.
33 Saṅgīti-suttam. (9)
Chúng tập kinh.
34 Dasuttara-suttam. (10)
Thập thượng kinh.

Source:
http://www.phatviet.com

Xem
kinh tương đương:

Kinh
Trường Bộ, HT. Thích Minh Châu