TIỂU SỬ Tỳ Kheo Thích Hồng Tại Tức ĐOÀN TRUNG CÒN (1908-1988) Nhà Phật Học Miền Nam.
Học giả Đoàn Trung Còn
(1908-1988) Photos: Bình Anson (2008)
Thật là
thiếu sót, nếu chúng ta không đặt cho nhà học Phật Miền Nam Đoàn Trung Còn một
chỗ xứng đáng với công đức của ông, mặc dù việc tìm hiểu, sưu tập còn gặp nhiều
khó khăn, từ gia đình cũng như đệ tử nối pháp, vẫn chưa công bố những chi tiết
để làm sáng tỏ công nghiệp hoằng dương chánh pháp của ông.
Mặc dù
vậy, chúng tôi cố gắng ghi chép những gì thu thập được, những thiếu sót, những
chi tiết chưa sáng tỏ, mong được nhiều vị đóng góp thêm để bổ sung cho được đầy
đủ hơn, để làm thành một tấm gương sáng, cho người học Phật noi theo.
Ông
Đoàn Trung Còn sinh năm 1908 tại Thắng Nhì, Vũng Tàu. ông có bằng Thành Chung
(Diplomat), rồi đi làm tư chức tại Sàigòn.
Ông bắt
đầu viết về đạo Phật, năm 1931 cho xuất bản các sách: Chuyện Phật đời xưa,
Văn Minh Nhà Phật Qua Tàu, Triết Lý Nhà Phật do nhà Agence Saigonnaise
de Publicité ấn hành.
Sau đó
ông cho xuất bản tiếp các sách như: Truyện Phật Thích ca (1932) Tăng
đồ Nhà Phật (1934), Các Tông Phái Đạo Phật ở Viễn Đông (1935).
Sau ông
thành lập nhà xuất bản lấy tên là Phật Học Tùng Thơ để xuất bản những Kinh,
sách Phật Giáo do ông soạn, dịch, còn những Kinh sách do chư Tăng hay cư sĩ
khác soạn, dịch ông xuất bản trong Phật Học Thơ Xã. Ông cũng xuất bản những
sách Khổng giáo hay Hán văn dưới tên nhà xuất bản Trí Đức Tòng Thơ.
Ông lập
gia đình với bà Lê Thị Tàu, quê ở An Giang, sinh được hai người con, một trai,
một gái. Bà mất năm 1985.
Ông
dùng nhà riêng tọa lạc tại 143 đường Đề Thám (Dixmude cũ), Quận nhứt, Sàigòn để
làm nhà Xuất bản Phật Học Tòng Thơ.
Năm
1955, ông hợp tác cùng với chư Tăng và thân hữu thành lập Hội Phật Giáo Tịnh Độ
Tông Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Giác Hải, Phú Lâm Chợ Lớn.
Theo
Nội Quy của Hội Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam ghi trong Điều I như sau:
Điều I:
(bổ túc khoản I trong Bản Điều Lệ)
Tịnh Độ
Tông Việt Nam cũng có thể gọi là Hội Phật Giáo Tịnh Độ Việt Nam, Phật Giáo Tịnh
Độ Tông Việt Nam, Giáo Hội Tịnh Độ Tông, hoặc vắn tắc là Tịnh Độ Tông.
Bản
Điều Lệ của Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam soạn thảo ngày 30-10-1954, Bộ Nội Vụ cho
phép Hội hoạt động theo đơn xin thành lập của những vị sau đây:
1. Ông
Đoàn Trung Còn, 46 tuổi, sanh ngày 2.11.1908 tại Thắng Nhì (Vũng Tàu), Giám đốc
Phật học Tòng thư, 143 đường Dixmude Sàigòn. Ký tên không rõ.
2. Ông
Nguyễn Văn Vật, pháp danh Chơn Mỹ, 43 tuổi, sanh năm 1911 tại Chợ lớn, Trụ trì
chùa Giác Hải (Phú lâm Chợ Lớn). Ký tên bằng hán tự.
3. Ông
Nguyễn Văn Thiệu, Pháp danh Chơn Minh, 44 tuổi sanh năm 1910, tại Tân Hưng (Sa
Đéc), Trụ Trì chùa Giác Chơn 67/B đường Renault, Chợ Lớn. Ký tên bằng hán
tự.
4. Ông
Lý Trung Hiếu, 60 tuổi, sanh ngày 21.11.1894 tại Trường Thạnh (Cần Thơ), Đốc
công Sở công chánh, nhà riêng 262 đường Chasseloup-Laubat, Sàigòn. Ký tên không
rõ.
Kiểm nhận để đính kèm nghị định số 8 BNV/CT ngày nay
Saigon ngày 25 tháng 2 năm 1955
T.U.N. Thủ Tướng Chánh Phủ
Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ
Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ
Ký tên không rõ
Quốc Gia Việt Nam
Bộ Nội Vụ,
Bộ Trưởng
Sau
nầy, năm 1959 ông xây cất chùa Liên Tông tại số 145 Đề Thám, Giáo Hội Tịnh Độ
Tông dời trụ sở về đây hoạt động. Từ năm 1960 đến 1987 chư Hòa Thượng Thích
Giác Ý, Hòa Thượng Thích Hồng Ảnh, Thượng Tọa Thích Tuệ Đức đã thay nhau trụ
trì chùa Liên Tông, nay là Đại Đức Thích Thiện Huệ.
Trong
Giáo Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam, ông Đoàn Trung Còn giữ chức Trị Sự Trưởng Ban
Chấp Sự Trung Ương.
Đầu
thập niên 70, ông Đoàn Trung Còn xuất gia, thọ giới trở thành tu sĩ Thích Hồng
Tại. Dầu đất nước trải qua cuộc bễ dâu, ông vẫn âm thầm sáng tác cho đến ngày
viên tịch năm 1988. Giáo Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam tổ chức tang lễ của ông tại
chùa Liên Tông sau đó di quan đến nơi hỏa táng ở đồi khuynh diệp của Bác sĩ Tín
ở Xa Lộ Biên Hòa.
Tỳ kheo
Thích Hồng Tại, Trị sự Trưởng Tịnh Độ Tông Việt Nam được hệ phái Tịnh Độ Non
Bồng (núi Dinh – Bà Rịa) tôn vinh lên ngôi vị Hòa Thượng sau khi ngài viên tịch.
Có bằng
Thành Chung, nên ông Đoàn Trung Còn thông thạo Pháp Văn, với vốn Hán Văn học ở
nhà trường ông đã trao dồi thêm nên có thể dịch Kinh Phật và sách Hán văn, ông
tự học chữ Phạn, cho nên kinh Phật dịch ra ông còn chua thêm chữ Pháp và chữ
Phạn .
Nhiều
Kinh sách của ông in đến lần thứ hai và cũng có kinh sách in lần thứ ba như quyển
Tăng Đồ Nhà Phật, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Các Kinh sách
ông soạn dịch, có bộ Phật học từ điển (3 quyển), chẳng những được tái bản trong
nước và cả ở hải ngoại, thật là một công trình quí giá, chứng tỏ ông nghiên cứu
nghiêm túc, có phương pháp, hiểu rộng và chuyên sâu giáo lý đạo Phật.
Những
kinh, sách do tự ông hay cộng tác với người khác soạn dịch, xuất bản trong Phật Học Tòng Thơ gồm có:
1. Truyện Phật Thích Ca
2. Du lịch xứ Phật
3. Đạo lý nhà Phật
4. Chuyện Phật đời xưa
5. Văn minh nhà Phật.
6. Triết lý nhà Phật.
7. Lịch sử nhà Phật.
8. Pháp giáo nhà Phật
9. Tăng đồ nhà Phật (1934)
10. Các tông phái đạo Phật.
11. Diệu pháp liên hoa kinh (1936).(In lần thứ ba 1969)
12. Một trăm bài kinh Phật.
13. Na Tiên Tỳ kheo kinh.
14. Mấy thầy tu huyền bí.
15. Tam bảo văn chương.
16. Pháp Bảo đàn kinh, cùng dịch với Huyền Mặc Đạo Nhơn (1947)
17. Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt.
18. Quán Vô Lượng Thọ kinh. Hán Việt (1947)
19. Địa Tạng kinh. Hán Việt.
20. Di Lặc kinh. Hán Việt. (in lần thứ hai, 1949)
21. Bồ Tát Giới kinh. Hán Việt (1953)
22. Qui nguyên trực chỉ.
23. Phật Học từ điển. Việt, Hán, Pháp, Phạn (1963)
24. Yếng sáng Á châu
25. Kim cang kinh. Hán Việt
26. Chư Kinh tập yếu (A Di Đà Kinh, Phổ môn, Tứ thập nhị chương kinh, Phật Di
giáo kinh, Vô lượng nghĩa Kinh). Hán Việt
27. Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh Hán Việt (1971)
28. Đại Bát Niết Bàn Kinh Hán Việt.
Những kinh, sách, tranh tượng do
người khác viết, vẽ xuất bản trong Phật
Học Thơ Xã gồm có:
1. Sự tích Phật A Di Đà.
2. 48 lời nguyện của Phật A Di Đà.
3. A Di Đà Kinh (in chung trong Chư Kinh tập yếu)..
4. Kinh Tam Bảo (Di Đà, Hồng danh, Vu lan, Phổ môn, Kim cang)
5. Phật pháp vở lòng.
6. Sách nấu đồ chay.
7. Khuyên tu Tịnh độ.
8. Thành Đạo.
9. Học Phật Chánh pháp. (Sa môn Hiển Tánh) (1942)
10. Quan Âm thị Kính.
11. Nước Ấn độ trước Phật.
12. Quan Âm linh xăm.
13. Tượng Phật A Di Đà.
14. Tượng Phật Thích Ca.
15. Tượng Phật bà Quan Âm.
Những
sách Khổng giáo, Hán văn do ông Đoàn Trung Còn soạn dịch xuất bản trong Trí Đức Tòng Thơ gồm có:
1. Truyện đức Khổng tử
2. Nhị thập tứ hiếu (Hán Việt)
3. Hiếu Kinh (Hán Việt).
4. Tam tự Kinh (Hán Việt).
5. Tứ thơ: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử (Hán Việt).
6. Tam thiên tự (3 cuốn: 1 cuốn in theo xưa Hán Việt, 1 cuốn in theo Tiểu tự
điển Hán Việt Pháp, 1 cuốn in theo Tiểu tự điển Pháp Hán Việt)
7. Minh Đạo Gia Huấn (Hán Việt)
8. Ngũ thiên tự: 2 quyển: 1 quyển theo xưa, 1 quyển theo lối tự điển Hán, Việt,
Pháp
9. Học Chữ Hán một mình.
Nhờ
những Kinh điển ông soạn dịch từ năm 1931, giúp cho nhiều người hiểu được giáo
lý đức Phật, ông góp công không nhỏ trong sự nghiệp canh tân Phật giáo Việt Nam
từ thập niên 30 trở về sau nầy. Thiền tông hay Tịnh Độ tông cũng đều là tông
phái lớn, lâu đời của Phật giáo Bắc Tông. Cho nên sự nghiệp truyền bá Phật
Pháp, xiển dương Tịnh Độ, ông đáng được tôn vinh một Phật tử chân chánh, một Tỳ
kheo giới đức.
Soạn ngày 23 tháng 8 năm 2002
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông
(http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-76_4-14134_5-50_6-1_17-126_14-1_15-1/)
|