Kinh Kim Cang Lược Giải

0
34

KINH KIM CANG
LƯỢC GIẢNG

Đồng Mai

Đức
Phật
thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc
sống hạnh phúc
, cảnh giới niết bàn. Cảnh giới an vui hạnh phúc này còn gọi là
niết bàn là do chính chúng ta tạo ra, không phải là ở một nơi xa xăm nào đó
hoặc là ai đó ban thưởng đến cho chúng ta.

Tôi xin dùng
tất cả sự hiểu biết của mình xin lược giảng bộ kinh này, xin quý vị không nên
chấp vào từ ngữ mà nên hiểu theo ý nghĩa của kinh và lời giảng, nếu có gì sơ
sót xin quý vị hoan hỷ bỏ qua. Sau khi đọc xong kinh này, xin quý vị hãy gởi
tới nhiều người khác để họ có cơ hội đọc kinh này. Phước đức gởi kinh này
cho nhiều người khác rất nhiều không sao kể hết. Kinh này là kinh đại
thừa
, nếu vị nào sau khi đọc xong kinh này mà sợ hãi hoặc giận thì cố tập làm
sao như mình chưa đọc qua kinh này, và cố gắng giữ tâm mình thanh tịnh.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.

Tháng 2, năm
2004

Đồng Mai

ĐOẠN 1:
NGUYÊN DO CỦA PHÁP HỘI.

Tôi nghe như
vầy
: Một hôm đức Phật ở nước Xá-vệ (Srŕvasti) tại rừng Kỳ-đà (Jeta) trong vườn
Cấp Cô Độc cùng với chúng đại Tỳ-kheo là một ngàn hai trăm năm mươi vị. Khi ấy
gần đến giờ thọ trai, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào đại thành Xá-vệ khất thực.
Trong thành ấy, Ngài theo thứ lớp khất thực xong, trở về nơi chúng ở. Thọ trai rồi,
Ngài dẹp y bát, rửa chân, trải tòa ngồi.

Đoạn này tả
về bối cảnh nơi thuyết pháp của Phật, nơi có đức Phật ở rừng Kỳ Đà trong vườn
Cấp Cô Độc cùng với 1250 vị tỳ kheo. Câu kế tả cảnh khất thực theo thứ tự của
Đức Phật và các vị tỳ kheo. Câu quan trọng nhất trong đoạn này là “Thọ
trai rồi, Ngài dẹp y bát, rửa chân, trải tọa ngồi”. Ý nói đức Phật từ từ
theo thứ tự mà làm, không có vội vã, đặc biệt là không có người khác làm thay
cho Ngài. ñoạn này cũng nói lên sự bình đẳng giữa Phật và các vị Tỳ
Kheo
.

ĐOẠN 2:
THIỆN HIỆN THƯA HỎI.

Khi ấy trưởng
lão
Tu-bồ-đề (Subhuti) ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo
bên mặt, gối mặt quì xuống đất, chấp tay cung kính bạch Phật rằng: “Thế
Tôn! Rất ít có, đức Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị
Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác
nên làm sao trụ, làm sao hàng phục tâm kia?” Đức Phật bảo:
“Lành thay, lành thay! Này Tu-bồ-đề, như lời ông nói, Như Lai khéo hộ niệm
các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát, nay ông hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ
vì ông mà nói. Người thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác
nên như thế mà trụ, như thế mà hàng phục tâm kia”. – “Xin vâng, bạch
Thế Tôn! Con nguyện thích được nghe”.

Các vị Bồ tát
đuợc tả ở đây là các vị Tỳ kheo, những người giải thoát hay là có đuợc an vui
tự tại từ 80% trở lên.

Khi thấy đức
Phật
an trụ tâm vào từng hành động của Ngài như là đắp y, khất thực, thọ trai,
dẹp y bát, rửa chân, trải tọa ngồi…. Ngài Tu-bồ-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
chấp tay cung kính bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Rất ít có, đức Như Lai khéo
hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Người thiện
nam
, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên làm sao trụ,
làm sao hàng phục tâm kia?”

Khi nghe Ngài
Tu-bồ-đề hỏi như vậy đức Phật liền nói “Lành thay, lành thay! Này
Tu-bồ-đề, như lời ông nói, Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc
các vị Bồ-tát, nay ông hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông mà nói”

Đức Phật rất
hoan hỷ khi biết Ngài Tu-bồ-đề hiểu được ý của mình. Phật đã dùng phương pháp
tu thiền, là trong lúc đi đứng nằm ngồi, Ngài cột tâm vào từng hành động của mình
để giáo hóa các vị tỳ kheo kia. Đức Phật nói: “Người thiện nam, thiện nữ
phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên như thế mà trụ, như thế mà hàng
phục tâm
kia”. “Như thế mà trụ, như thế mà hàng phục tâm kia.”
“Như thế” ở đây có nghĩa là hãy làm theo Ngài là khi đắp y, ta biết ta
đang đắp y, khi khất thực, ta biết ta đang khất thực, khi thọ trai, ta biết ta
đang thọ trai, khi rửa chân, ta biết ta đang rửa chân, khi trải tọa ngồi, ta
biết ta đang trải tọa ngồi, … Ngài dạy chúng ta nên cột tâm mình vào từng
hành động của mình để hàng phục cái tâm vọng tưởng. Cuối cùng Ngài Tu-bồ-đề
thưa “Con nguyện thích được nghe”.

ĐOẠN 3:
ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG

Phật bảo
Tu-bồ-đề : Các vị Bồ-tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các
loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh
chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có
tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, ta đều khiến
vào vô dư Niết-bàn mà được diệt độ đó. Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên
chúng sanhthật khôngchúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề,
nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức
chẳng phải là Bồ-tát.

Các vị Bồ tát
lớn
được nói ở đây là các vị Tỳ kheo, những người có được an vui tự tại và có
giác ngộ được từ 90% trở lên.

Đức Phật đã
lặp lại ý trên là các vị Bồ-tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có nghĩa
là nên theo phương pháp tu thiền là trong lúc đi đứng nằm ngồi, các vị Bồ tát nên
cột tâm mình vào từng hành động của mình để hàng phục cái tâm vọng tưởng
kia.

Đức Phật
một người bình thường như chúng ta thì lý do gì mà Ngài nói Ngài độ được tất cả
các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc
sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có
tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, vào vô du
Niết-bàn?

Để giải thích
rõ câu này tôi xin đưa ra một ví dụ điển hình. Ví dụ như có một bình nước uống
bằng nhựa, sau khi người ta uống nước xong thì họ bỏ bình nhựa đi. Vì cần chất nhựa,
người ta nấu lại (recycle) bình nhựa và có thể chế biến nó thành đồ chơi, thau
nhựa, ly nhựa, chén nhựa. Nói chung là tất cả đồ dùng bằng nhựa.
Như vậy có nghĩa là tùy theo môi trường và nhân duyên thì bình nước có thể biến
thành
đồ chơi, thau, ly, chén,… Mặc dù bị chế biến thành ly, chén, đồ chơi,…
nhưng chất nhựa vẫn không thay đổi. Tương tự như vậy, con người chúng ta sau
khi thân này hoại đi thì cũng tùy theo nhân duyênchúng ta sẽ có thể vãng
sanh
thành loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm
ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc
không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, nhưng cái tâm chân thật,
tâm bồ đề đó vẫn theo chúng ta từ đời này sang đời khác. Nếu ta giữ vững chân
tâm
thì dù ta ở bất cứ loài nào, tâm thanh tịnh của ta vẫn được đem qua từ đời này
sang đời khác, khi ấy ta vẫn giác và sẽ độ cho tất cả chúng sanh vào vô dư Niết
Bàn
. Chính vì ta sẽ có thể sanh là loài sanh bằng trứng, bằng thai, …. mà đức
Phật
dạy chúng ta nên ăn chay, không nên ăn mặn, để giới hạn việc sát sanh càng
nhiều càng tốt.

Tóm lại, Ngài
dạy chúng ta nên giữ vững chân tâm, vì cái tâm đó sẽ theo ta từ đời này sang
đời khác. Có câu “Cha mẹ sanh con, trời sanh tánh.” Không phải có ông
Trời nào ban cho ta cái tánh mà là cái tâm tánh của chúng ta từ quá khứ nó theo
chúng ta mãi mãi từ đời này sang đời khác.

“Diệt độ như
thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sanhthật khôngchúng sanh được diệt
độ
. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngă, tướng nhân, tướng
chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải là Bồ-tát.” Nếu vị Bồ tát thấy
mình độ chúng sanh thì sẽ dễ sanh tâm cống cao ngã mạn, thì khi ấy tâm không
còn được thanh tịnh nữa. Người đó không thể gọi là Bồ tát được. Trong
đoạn này đức Phật dạy cho chúng ta về sự liên quan mật thiết giữa các chúng
sanh
với nhau. Ví dụ như ở một làng này, có một ông nhà giàu và còn lại là nhà
nghèo. Nếu ông nhà giàu này thương yêu và giúp đỡ những người nghèo thì ngược
lại ông ta sẽ được những người nghèo thương yêu, kính nể ông ta và ông ta sẽ
sống hạnh phúc. Còn nếu ông ta keo kiệt bủn xỉn, hay hà hiếp dân nghèo thì ông
ta sẽ bị người đời chê trách và có thể sẽ bị người ta ganh tỵ và cướp đồ của
ông ta. Ông ta sẽ sống trong cảnh hồi hộp, lo âu. Nếu hiểu được thí dụ trên thì
quý vị sẽ thấy được sự tương quan mật thiết giữa mọi người với nhau. Có câu
“Giúp người tức là giúp mình” là vậy. Nếu giúp họ được hạnh phúc an
lạc
thì mình cũng sẽ được hạnh phúc an lạc. Hiểu đượcc như vậy thì khi giúp đỡ người
khác ta sẽ không còn chấp vào tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng
thọ giả nữa.

ĐOẠN 4:
DIỆU HẠNH KHÔNG CHỖ TRỤ.

Lại nữa
Tu-bồ-đề, Bồ-tát đối với pháp nên không có chỗ trụ mà làm việc bố thí, gọi là
chẳng trụ nơi sắc để bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp để bố thí. Này
Tu-bồ-đề, Bồ-tát nên như thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì cớ sao? Nếu
Bồ-tát bố thí chẳng trụ tướng thí phước đức không thể nghĩ lường.

– Tu-bồ-đề, ý
ông nghĩ sao? Hư không ở phương Đông có thể nghĩ lường được chăng?
– Bạch Thế Tôn,
không vậy.
– Này Tu-bồ-đề,
không
phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phía trên dưới có thể nghĩ lường
được chăng?
– Bạch Thế Tôn,
không vậy.
– Này Tu-bồ-đề,
Bồ-tát không trụ tướngbố thí, phước đức cũng lại như thế, không thể nghĩ
lường. Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát chỉ nên như lời dạy mà trụ.

Đoạn này đức
Phật
dạy chúng ta không nên có tâm phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn, tốt,
xấu,….. khi bố thí. Ngài dạy không nên trụ nơi sắc mà bố thí, có nghĩa là khi
ta bố thí người nào ta không nên phân biệt người này giàu hay nghèo. Không nên
thấy người này giàu rồi thì không bố thí, còn người nghèo thì mới bố thí. Dù là
giàu hay nghèo, tất cả đều cần được bố thí. Người giàu thì chúng ta không cần
bố thí tiền bạc, nhưng chúng ta có thể bố thí pháp để giúp đỡ họ bớt khổ, còn
đối với người nghèo thì chúng ta có thể giúp đỡ họ về vật chất lẫn tinh thần.
Ví dụ như có vị Bồ tát chỉ thích bố thí nhưng người bị chế độ đàn áp nhưng
không thích bố thí nhũng người đàn áp dân chúng của mình, chỉ trích chê bai chế
độ này đã đàn áp nhân dân. Như vậy là vị Bồ tát này đã có tâm phân biệt. Vì chỉ
trích
chê bai chế độ này nên vị Bồ tát cũng sẽ bị người khác tố cáochỉ
trích
. Vị Bồ tát này bị quả báo và bị đau khổ, khi ấy có khẩn cầu, xin
Phật gia hộ cho họ bớt khổ thì làm sao Phật giúp được. Phật đã dạy chúng ta
khi phát tâm bố thí không nên trụ nơi sắc để bố thí, chẳng trụ thanh hương vị
xúc pháp để bố thí. “Đức Như Lai không chỉ thuyết pháp cho các hạng người
quyền quý như vua Bạt Đề Ca, mà cũng thuyết pháp cho hạng người bần cùng như
ông Ưu Ba Ly; không riêng thọ lãnh sự cúng dường của những người giàu có như
ông Tu Đạt Đa, mà cũng thọ lãnh sự cúng dường của các hạng nghèo khổ như ông
Thuần Đà; không riêng cho phép xuất gia các hạng không có tánh tham như Ngài Ca
Diếp
, mà cũng cho phép xuất gia những người có nhiều tánh tham như ông Nan Đà; không
những thuyết pháp cho hạng người an tịnh không dự việc đời, mà cũng thuyết pháp
cho vua Tần Bà Ta La trong lúc đang bận rộn việc nước; không những thuyết pháp
cho hạng thanh niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết pháp cho bà Hoàng hậu Mạt Ly, mà
thuyết pháp cho dâm nữ Liên Hoa”. Không những Ngài dạy chúng ta như vậy mà
Ngài còn làm gương cho chúng ta học theo Ngài nữa. Trong câu chuyện ông Vô Não,
vì muốn giết đủ1000 người để lấy ngón tay đem về cho thầy làm lễ cầu pháp, ông
ta đã giết hại hết 999 người, còn một người nữa là đủ 1000 người. Đức
Phật
là người thứ 1000 mà ông định sát hại để tròn đủ vòng hoa bằng ngón tay
mà ông thầy yêu cầu. Như vậy đủ thấy ông ta là người như thế nào rồi chứ gì?
Thế mà Phật mở rộng lòng từ bi và trí tuệ của mình cứu độ cho Vô Não. Chúng ta
nên học và noi gương hạnh từ bi của Ngài. Chúng ta nên tu tâm dưỡng tánh thêm
để có đủ lòng từ bi và trí tuệ để cứu độ chúng sanh mà không có tâm phân biệt.
Nói chung Ngài dạy chúng ta hãy mở tâm từ bi rộng lớn, giúp đỡ tất cả mọi
người
, mọi loài mà không phân biệt thân sơ, sang hèn, tốt xấu,…. Nếu người nào
làm được như vậy thì phước đức rất lớn. Lớn như là mười phương hư không
vậy.

ĐOẠN 5:
THẤY LẼ THẬT ĐÚNG LÝ

Này Tu-bồ-đề, ý
ông nghĩ sao? Có thể do thân tướng mà thấy Như Lai chăng? -Bạch Thế Tôn, không
phải vậy. Không thể do thân tướng thấy được Như Lai. Vì cớ sao? Như Lai đă nói
thân tướng tức không phải thân tướng. Phật bảo Tu-bồ-đề: Phàm những gì có tướng
đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai.

Đoạn này đức
Phật
dạy cho chúng ta phải thấy được “Phật tâm thanh tịnh” của mình,
không nên thấy cái sắc thân có 32 tướng tốt và 80 vẽ đẹp bên ngoài của Phật mà
cho là đã thấy Phật. Đa số chúng ta, chỉ rong ruổi chạy theo giả tưởng bên
ngoài, lúc nào cũng lạy Phật phù hộ con thế này, phù hộ con thế kia và hãy giúp
con thành Phật. Bởi thế nên người xưa quở: “Phật trong nhà không thờ, mà
thờ đức Phật Thích Ca ngoài đường” là vậy. Chúng ta muốn thấy Phật thì
chúng ta phải diệt trừ tánh tham lam, sân hận, si mê, ích kỷ, … thì chúng ta
mới thấy Phật tánh của mình.

Ngài nói
“Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai.” Có nghĩa là
các tướng đều do nhân duyên hòa hợp, khi nhân duyên đủ thì nó còn, khi nhân
duyên
thiếu thì nó mất. Ví dụ một người đang có công ăn việc làm tốt đẹp, nhưng
vì kinh tế cả nước xuống, sở làm không có lời nên xa thải công nhân. Nguyên
nhân
là hãng làm không có lời nên ta bị thất nghiệp. Nếu ta gởi resume đến tất
cả các hãng khác thì khi một trong những hãng này cần người có trình độkinh
nghiệm
hợp với công việc của họ thì mình sẽ được công việc đó. Chúng ta không
nên hiểu lầm là đợi cái số tới thì ta sẽ được công việc mới. Cứ thế nằm ở
nhà “chờ sung rụng” thì không thể nào tìm được việc. Nếu chúng
ta
không gởi resume cho người ta thì làm sao người ta biết được khả năng và
trình độ của mình chứ. Vậy nên khi bị thất nghiệp chúng ta không nên đau buồn
mà phải hiểu tất cả các tướng đều do nhân duyên. Khi hội đủ nhân duyên thì nó
hợp, khi thiếu một yếu tố thì nó sẽ mất. Trong đạo Phật cũng vậy, chúng
ta
không nên đợi Phật A Di Đà tới rướt mà phải nổ lực tin tấn tu hành. Nếu hiểu
thật tướng của mọi việc thì sẽ thấy Như Lai.

ĐOẠN 6:
CHÁNH TÍN ÍT CÓ
(Người tin đúng rất ít có).

Ngài Tu-bồ-đề
bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, vả lại có chúng sanh được nghe những lời nói
chương cú như thế, sanh lòng tin chân thật chăng? Phật bảo Tu-bồ-đề: Chớ nói
như thế. Sau khi Như Lai diệt độ, sau khoảng năm trăm năm, có người giữ giới,
tu phước, đối với những chương cú này hay sanh lòng tin cho đây là thật, nên
biết người ấy không phải ở nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức
Phật
gieo trồng căn lành mà đă ở chỗ vô lượng ngàn muôn đức Phật gieo trồng căn
lành. Người nghe chương cú này cho đến một niệm sanh lòng tin thanh tịnh, này
Tu-bồ-đề, Như Lai ắt biết, ắt thấy các chúng sanh ấy được vô lượng phước đức
như thế. Vì cớ sao? Vì các chúng sanh ấy không còn có tướng ngă, tướng nhân,
tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp cũng không tướng phi pháp.
Vì cớ sao? Vì nếu các chúng sanh ấy, tâm còn chấp tướng là còn chấp ngã, nhân,
chúng sanh, thọ giả. Nếu còn chấp tướng pháp tức còn chấp ngã nhân chúng sanh
thọ giả. Vì cớ sao? Nếu còn chấp tướng phi pháp tức còn chấp ngã nhân chúng
sanh
thọ giả. Thế nên không nên chấp pháp, không nên chấp phi pháp. Bởi do
nghĩa ấy, Như Lai thường nói: Tỳ-kheo các ông nên biết, ta nói pháp ví dụ như
chiếc bè, pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp.

Trong câu
đầu, Ngài Tu bồ đề lo lắng xem sẽ có chúng sanh tin vào những lời đức Phật dạy
chăng. Tiền tài danh vọng sẽ bị tiêu tan sau khi thân xác này hoại diệt, nhưng
cái phật tâm của chúng ta, tức là tâm rỗng không như hư không, tâm bình đẳng,
không phân biệt, tâm an nhiên tự tại,…. của chúng ta vẫn theo ta từ đời này
sang đời khác. Đức Phật nói “Sau khi Như Lai diệt độ, sau khoảng năm trăm
năm, có người giữ giới, tu phước, đối với những chương cú này hay sanh lòng tin
cho đây là thật, nên biết người ấy không phải ở nơi một đức Phật, hai đức Phật,
ba, bốn, năm đức Phật gieo trồng căn lành mà đã ở chỗ vô lượng ngàn muôn đức
Phật
gieo trồng căn lành. Người nghe chương cú này cho đến một niệm sanh lòng
tin thanh tịnh
, này Tu-bồ-đề, Như Lai ắt biết, ắt thấy các chúng sanh ấy được
vô lượng phước đức như thế.”

Có nghĩa là
trong quá khứ họ đã tu tập cho tâm được thanh tịnh, trí tuệ minh mẫn thì dù cho
bao nhiêu năm sau đó tâm bồ đề đó vẫn theo họ và họ vẫn hiểu được kinh này. Người
mà có được cái tâm thanh tịnh như vậy thì phải là người không còn chấp vào
tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp
cũng không tướng phi pháp. Ở câu cuối đức Phật dạy chúng ta không nên chấp
pháp
, không nên chấp phi pháp, và Ngài nói : “Tỳ-kheo các ông nên biết, ta
nói pháp ví dụ như chiếc bè, pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp.” Người tu Tịnh Độ hoặc tu thiền định thường cho là môn tu của mình là bậc nhất nên
đức Phật mới dạy chúng ta : Pháp còn nên bỏ, huống chi là phi pháp. Thật vậy,
pháp của đức Phật làm ra là do tâm của chúng ta khác nhau nên Ngài dùng đủ mọi
phương tiện để nói pháp, cốt để dạy cho chúng ta trở về cái tâm thanh tịnh, cái
Phật tánh có sẵn ở nơi mình. Chúng ta không nên chấp vào pháp môn tu của mình
mà chê bai pháp môn tu của người khác. Ý chính là phải làm sao tu tâm dưỡng tánh
để được GIÁC NGỘ thành Phật.

ĐOẠN 7:
KHÔNG ĐƯỢC, KHÔNG NÓI

Này Tu-bồ-đề, ý
ông nghĩ sao? Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như Lai
nói pháp chăng? Tu-bồ-đề thưa: Như con hiểu qua nghĩa Phật nói, không có pháp
nhất định tên là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhất định
Như Lai có thể nói. Vì cớ sao? Vì pháp Như Lai nói đều không thể chấp, không
thể nói, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Vì cớ sao? Vì tất cả bậc Hiền Thánh
đều do pháp vô vi mà có sai biệt.

Trong đoạn
này Như Lai dạy cho chúng taVô thượng Chánh đẳng Chánh giác không phải là
cái quả để chúng ta chứng đắc, rồi đi khoe khoang với người này người kia là ta
đã chứng được cái này hay cái nọ. Ngài dạy chúng ta tánh khiêm nhường, dù đã
thấy đạo cũng không nên kiêu căn ngạo mạn. Cũng không thể nói là chẳng phải
pháp, chẳng phải phi pháp được. Nếu nói không phải pháp thì người ta sẽ đâm ra
bất mãn, họ sẽ nghĩ là tu để chẳng được gì chăng? Nói là phi pháp cũng
không được, vì nó giúp chúng ta tu để trở về tâm thanh tịnh của mình. Nói
chung Ngài dạy chúng ta tánh khiêm nhường và không nên chấp vào pháp. Pháp làm ra chỉ vì tâm chúng tasai biệt nên mới có nhiều pháp như vậy.

ĐOẠN 8: Y
NƠI CHÁNH PHÁP MÀ SANH RA TẤT CẢ QUẢ VỊ

– Này Tu-bồ-đề,
ý ông nghĩ sao? Nếu có người dùng bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới
để bố thí, người ấy được phước đức thật nhiều chăng?

Tu-bồ-đề thưa:
Bạch Thế Tôn rất nhiều! Vì cớ sao? Vì phước đức ấy tức chẳng phải là tánh phước
đức
, thế nên Như Lai nói phước đức nhiều.

– Nếu lại có
người ở trong kinh này, thọ trì cho đến bốn câu kệ v.v… vì người khác giảng nói
thì phước đức này còn hơn phước đức của người kia. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, tất
cả chư Phật và pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật đều từ nơi
kinh này ra. Này Tu-bồ-đề, nói là Phật pháp đó tức chẳng phải Phật pháp.

Đối với con
mắt trần tục thì việc dùng bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới để bố
thí
thì nhiều nhưng đối với Phật thì không bằng tụng bốn câu vì người khác
giảng nói. Tại sao Ngài nói như vậy? Là vì khi ta bỏ thân này chúng ta không
thể nào đem vàng bạc châu báu theo được. Nếu ta hiểu được kinh Kim Cang
và có trí tuệ Bát Nhã thì cái hiểu biết này sẽ theo ta từ đời này đến đời
khác. Dù bất cứ ở đâu, ta cũng có trí tuệ. Người có trí tuệ thì làm
việc gì cũng xong. Còn như ta có nhiều vàng bạc châu báu trong đời này mà không
trí tuệ thì khi thọ mạng thân sau ta sẽ không có trí tuệ. Người không
trí tuệ, làm việc gì cũng khó. Ngài nói “Phật pháp đó tức chẳng phải Phật
pháp
.” Ý Ngài muốn dạy cho chúng ta là phải hiểu rõ ý của kinh chứ không phải
là thuộc lòng từng câu như con vẹt mà không hiểu ý nghĩa của kinh.

ĐOẠN 9:
MỘT TƯỚNG KHÔNG TƯỚNG.

– Này Tu-bồ-đề,
ý ông nghĩ sao? Tu-đà-hoàn hay khởi nghĩ thế này: Ta được quả Tu-đà-hoàn chăng?
Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, không vậy! Vì cớ sao? Tu-đà-hoàn gọi là Nhập lưu
mà không có chỗ nhập, chẳng nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ấy gọi là
Tu-đà-hoàn.

– Tu-bồ-đề, ý
ông nghĩ sao? Tư-đà-hàm hay khởi nghĩ thế này: Ta được quả Tư-đà-hàm chăng?
Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, không vậy! Vì cớ sao? Vì Tư-đà-hàm tên là Nhất
văng lai mà thật không có văng lai, ấy gọi là Tư-đà-hàm.

– Tu-bồ-đề, ý
ông nghĩ sao? A-na-hàm hay khởi nghĩ thế này: Ta được quả A-na-hàm chăng?
Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, không vậy! Vì cớ sao? A-na-hàm tên là Bất lai
thật khôngbất lai, thế nên tên A-na-hàm.

– Tu-bồ-đề, ý
ông nghĩ sao? A-la-hán hay khởi nghĩ thế này: Ta được đạo A-la-hán chăng?
Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, không vậy! Vì cớ sao? Thật không có pháp tên là
A-la-hán. Bạch Thế Tôn nếu A-la-hán khởi nghĩ thế này: Ta được đạo A-la-hán tức
là còn chấp ngă nhân chúng sanh thọ giả. Bạch Thế Tôn! Phật nói con được
tranh
tam-muội là bậc đệ nhất trong số người đó, là A-la-hán ly dục đệ nhất.
Bạch Thế Tôn! Con không khởi nghĩ con là ly dục A-la-hán. Bạch Thế Tôn! Nếu con
khởi nghĩ: Con được đạo A-la-hán, Thế Tôn ắt chẳng nói Tu-bồ-đề là người ưa
hạnh A-lan-na. Do Tu-bồ-đề thật không có sở hành nên gọi là Tu-bồ-đề ưa hạnh
A-lan-na.

Đức Phật đặt
ra quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán,… là vì trình độ hiểu biết của
chúng ta khác nhau. Ngài đặt ra nhiều tên như vậy để cho chúng ta biết là chúng
ta
đang ở mức tu tập nào, chứ không phải là quả vị thật sự để chúng ta tu chứng
quả vị này hay quả vị nọ, rồi đem ra so bì với người khác là ta tu ở cấp
bậc cao hơn người này, người kia. Nói chung Ngài dạy chúng ta không nên chấp
vào quả vị này hay quả vị kia.

ĐOẠN 10:
TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ.

Phật hỏi
Tu-bồ-đề: Ý ông nghĩ sao? Như Lai thuở xưa ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, đối với
pháp, có sở đắc chăng?

– Bạch Thế Tôn,
không vậy! Như Lai ở nơi đức Phật Nhiên Đăng, đối với pháp, thật không có sở
đắc.

– Tu-bồ-đề, ý
ông nghĩ sao? Bồ-tát trang nghiêm cői Phật chăng?

– Bạch Thế Tôn,
không vậy! Vì cớ sao? Trang nghiêm cõi Phật tức không phải trang nghiêm, ấy gọi
trang nghiêm.

– Thế nên
Tu-bồ-đề, các Bồ-tát lớn nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi
sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có
chỗ trụ mà sanh tâm kia. Tu-bồ-đề, ví như có người thân to như núi Chúa Tu-di
(Sumeru), ý ông nghĩ sao? Thân ấy là lớn chăng? Tu-bồ-đề thưa: Rất lớn, bạch
Thế Tôn! Vì cớ sao? Phật nói chẳng phải thân, ấy gọi là thân lớn.

Câu đầu Như
Lai
muốn dạy cho chúng ta là khi còn ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng Như Lai đối với
các pháp không có sở đắc. “Nếu Như Lai còn chấp mình có “đắc pháp và được
thọ ký” tức là Như Lai còn chấp ngã (ta được) chấp pháp (đắc pháp) thì
không phải là Như Lai. Bởi thế nên ông Tu Bồ Đề thưa:”Bạch Thế Tôn ! Như
Lai
không có đắc pháp gì cả””.

Phật nói
“các Bồ-tát lớn nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi sắc
sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ
trụ mà sanh tâm kia.” “Như thế” ở đây có nghĩa là nên tu theo
thiền định mà sanh tâm thanh tịnh, tâm rỗng không như hư không. Ngài dạy không
nên trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. “Sanh tâm” ở
đây đức Phật muốn ám chỉ là tâm Bồ đề hay là Phật tâm. Có những vị Bồ Tát lo
xây dựng chùa lớn, quyên góp tiền của người này người kia cho thật nhiều để xây
chùa cho to rồi khoe khoang với mọi người là ta đây có công xây được chùa bự,
và họ nghĩ là họ đang trang nghiêm cõi Phật và họ có Bồ đề tâm. Họ trụ nơi sắc mà
tu và cho mình đã phát tâm Bồ đề để trang nghiêm cõi Phật. Cho nên Phật dạy
không nên trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm là vậy. Các vị
Bồ Tát trang nghiêm cõi Phật là những vị thực hành đúng theo những lời dạy của
đức Phật và làm gương cho những người xung quanh thì đó mới gọi là Bồ Tát trang
nghiêm
cõi Phật. Trong kinh Kim Cang, đức Phật lặp đi lặp lại nhiều lần là nếu
có người bố thí nhiều như cả tam thiên đại thiên thế giới cũng không bằng thọ
trì
bốn câu trong kinh Kim Cang, vậy xây chùa cho thật to, cúng dường thật
nhiều cũng không bằng hiểu bốn câu kinh trong kinh Kim Cang và vì người khác
giảng nói. Nếu những vị Bồ Tát đó xây cất chùa để có chỗ cho bá tánh cùng học
và hành theo lời Phật dạy thì đó là mới gọi là Bồ Tát trang nghiêm cõi Phật.

“Tu-bồ-đề,
ví như có người thân to như núi Chúa Tu-di (Sumeru), ý ông nghĩ sao? Thân ấy là
lớn chăng? Tu-bồ-đề thưa: Rất lớn, bạch Thế Tôn! Vì cớ sao? Phật nói chẳng phải
thân, ấy gọi là thân lớn.” “Cái thân lớn” ở đây đức Phật muốn ám
chỉ
là người có chức tước, hay là người nổi tiếng, có địa vị lớn, được nhiều
người biết đến. Ý câu này đức Phật muốn dạy cho chúng ta là nếu vị Bồ Tát nào
mà biết trang nghiêm cõi Phật thì người đó sẽ có tiếng tăm lừng lẫy, được nhiều
người biết đến, và ai ai cũng kính phục. Nhưng được tiếng tăm lừng lẫy không
phải là cái để chứng đắc. Vị Bồ Tát nổi tiếng mà không có tự cao và cho mình là
người nổi tiếng thì vị đó mới đích thực là người nổi tiếng và đáng được mọi
người
kính trọng. Ví dụ như ta là chủ của một công ty, ta không có thấy ta là
chủ và không dùng chức ông chủ để hà hiếp, đàn áp công nhân thì ta sẽ được
nhiều người biết đến và kính nễ. Nếu ta là Hòa Thượng hay Thượng Tọa mà ta không
nghĩ ta là Hòa Thượng hay Thượng Tọa, ta không bắt người khác phải hầu hạ mình
thì ta sẽ được nhiều người kính nể và được nhiều người biết tới. Bởi vậy đức Phật
dạy là người thân to lớn như núi Tu-di, mà không thấy thân to lớn, ấy mới gọi
là thân lớn là vậy.

ĐOẠN 11:
PHƯỚC VÔ VI LÀ HƠN HẾT.

Này Tu-bồ-đề,
như trong sông Hằng có bao nhiêu số cát, số sông Hằng bằng số cát như thế, ý
ông nghĩ sao? Số cát của các sông Hằng ấy thật là nhiều chăng? Tu-bồ-đề thưa: Bạch
Thế Tôn, rất nhiều! Chỉ các sông Hằng còn nhiều vô số, huống là số cát
kia.

– Này Tu-bồ-đề,
nay ta bảo thật với ông, nếu có người thiện nam, thiện nữ đem bảy báu đầy dẫy
tam thiên đại thiên thế giới bằng số cát những sông Hằng kia ra bố thí thì được
phước nhiều chăng?

Tu-bồ-đề thưa:
Bạch Thế Tôn, rất nhiều!

Phật bảo
Tu-bồ-đề: Nếu người thiện nam thiện nữ, đối trong kinh này cho đến thọ trì bốn
câu kệ v.v… vì người khác giảng nói, phước đức này nhiều hơn phước đức
trước.

Ở đây đức
Phật
dùng phương pháp so sánh giữa việc bố thí bảy báu đầy dãy tam thiên đại
thiên thế giới
bằng số cát những sông Hằng với việc thọ trì bốn câu kệ trong kinh
Kim Cang
. Ngài lúc nào cũng lặp đi lặp lại là việc thọ trì kinh Kim Cang và vì
người khác giảng nói thì có rất nhiều phước đức. Lý do được nhiều phước đức
vì khi hiểu được kinh Kim Cang thì chúng ta sẽ có trí tuệ như Kim Cương, trí
tuệ
này sẽ giúp chúng ta cắt đức tất cả các phiền muộn đau khổ và sẽ giúp chúng
ta
có được cuộc sống an vui hạnh phúc hay còn gọi là cảnh Niết Bàn. Khi
có đủ trí tuệ thì chúng ta sẽ không tạo thêm nghiệp nữa và chúng ta sẽ có cuộc
sống hạnh phúc
.

ĐOẠN 12:
TÔN TRỌNG KINH ĐIỂN CHÂN CHÁNH.

Lại nữa này
Tu-bồ-đề, tùy nơi nói kinh này cho đến bốn câu kệ v.v… nên biết chỗ này, tất cả
thế gian trời, người, A-tu-la đều nên cúng dường như tháp miếu của Phật, huống nữa
có người trọn hay thọ trì đọc tụng. Này Tu-bồ-đề, nên biết người ấy thành tựu
pháp tối thượng đệ nhất hy hữu. Nếu kinh này ở chỗ nào ắt là có Phật hoặc là những
đệ tử lớn của Phật.

Nơi nào mà có
người chỉ cần hiểu và giảng giải bốn câu kệ trong kinh Kim Cang thôi thì Ngài
khuyên tất cả thế gian trời, người, A-tu-la đều nên cúng dường như tháp miếu của
Phật. Làm như vậy thì mới khuyến khích được nhiều người cố gắng đọc tụng kinh
Kim Cang
duy trì kinh Kim Cang mãi mãi về sau. Ngài Lục Tổ Huệ Năng là người
đốn củi bình thường, nhưng khi nghe qua một câu trong kinh Kim Cang mà Ngài
giác ngộ, như vậy chứng tỏ là Ngài Lục Tổ Huệ Năng mặc dù có chủng tử đại thừa
nhưng cũng cần có duyên nghe qua một đoạn kinh trong kinh Kim Cang thì mới sực
tỉnh
(giác ngộ). Chỉ hiểu có bốn câu thôi mà Ngài khuyên chúng ta nên cúng
dường
như tháp miếu của Phật huống nữa là người nào hiểu được trọn bộ kinh
thọ trì kinh này. Người mà hiểu được kinh này và thọ trì thì biết người này đã
thành tựu pháp bậc nhất trong tất cả các pháp. Người nào mà hiểu và thuyết kinh
này là người đó kiếp trước là Phật hay là đệ tử lớn của Phật.

ĐOẠN 13:
ĐÚNG PHÁP THỌ TRÌ.

Khi ấy ngài
Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, thế nào là tên của kinh này, chúng con
làm sao phụng trì? Phật bảo Tu-bồ-đề: Kinh này tên là Kim Cang Bát-nhã
Ba-la-mật
, do danh tự ấy ông nên phụng trì. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, Phật nói
Bát-nhă ba-la-mật tức không phải Bát-nhă ba-la-mật, ấy gọi là Bát-nhă
ba-la-mật. Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Như Lai có nói pháp chăng? Tu-bồ-đề
bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, Như Lai không có nói pháp.

– Này Tu-bồ-đề,
ý ông nghĩ sao? Tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu vi trần, ấy là nhiều
chăng? Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, rất nhiều!

– Này Tu-bồ-đề,
các vi trần Như Lai nói không phải vi trần, ấy gọi là vi trần. Như Lai nói thế
giới
không phải thế giới ấy gọi là thế giới. Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Có thể
do ba mươi hai tướng mà thấy Như Lai chăng?

– Bạch Thế Tôn
không vậy! Không thể do ba mươi hai tướng được thấy Như Lai. Vì cớ sao? Như Lai
nói ba mươi hai tướng tức không phải ba mươi hai tướng ấy gọi là ba mươi hai
tướng.

– Này Tu-bồ-đề
nếu có người thiện nam, người thiện nữ đem thân mạng nhiều như cát sông Hằng để
bố thí, hoặc lại có người ở trong kinh này cho đến thọ trì bốn câu kệ v.v… vì
người khác nói thì phước này rất là nhiều.

Ngài Tu-bồ-đề
hỏi tên của kinh này, và được đức Phật cho biết tên của kinh này là Kim Cang
Bát-nhã Ba-la-mật. Hiểu được kinh Kim Cang, chúng ta sẽ có trí tuệ vững chắc
như kim cương, nó giúp chúng ta cắt đứt tất cả các phiền nãođau khổ. Đức
Phật
hỏi lại vài câu hỏi mà Ngài đã hỏi Ngài Tu-bồ-đề hỏi trước đó. Đức Phật
hỏi ông Tu-bồ-đề, Như Lai có nói pháp không và được Ngài Tu-bồ-đề thưa rằng Như
Lai
không có nói pháp. Những lời mà Như Lai dạy trên là Như Lai muốn dạy chúng
ta
sống như thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc và an vui chứ không phải là
một cái pháp thuật gì hết.

Nhiều vi trần
hợp lại sẽ thành thế giới. Ví dụ mỗi chúng ta là một hạt vi trần, tất cả mọi
người
trên thế giới gọp lại thì thành một tập thể hay là một thế giới. Nhưng mỗi
chúng ta là do đất, nước, gió lửa hợp thành, và nước thì là do thành phần
hydrogen và oxygen kết hợp thành, oxygen là do những thành phần nhỏ khác cấu
tạo
thành. Như thế không có chất gì cố định cả, tất cả đều do những thành phần
nhỏ khác mà hợp thành. Vì vậy Như Lai nói vi trần không phải là vi trần, ấy mới
vi trần là vậy.

Như Lai nói
thế giới chẳng phải thế giới, ấy mới gọi là thế giới. Thế giới lớn là do các
thế giới nhỏ được kết hợp lại với nhau mà thành. Vì vậy đức Phật nói thế giới
không phải là thế giới, ấy mới là thế giới. Tại sao đức Phật nói về vi trần
thế giới, ý của Ngài muốn dạy chúng ta điều gì? Mỗi người là một vi trần, và tất
cả mọi người trên toàn thế giới hợp lại sẽ thành thế giới. Giữa chúng ta
lúc nào cũng có sự liên quan mật thiết với nhauchúng ta không thể tách rời
thế giới mà sống riêng rẽ một mình được mà phải nên hiểu là “một là tất cả, mà
tất cả chỉ là một.”

Đức Phật dạy
chúng ta không nên chấp vào 32 tướng tốt mà thấy Phật. Có nhiều người nghĩ rằng
Phật có 32 tướng tốt nên thành Phật, còn mình không có 32 tướng tốt nên không thể
thành Phật được. Phật có nói ” Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ
thành,” chúng ta không nên chấp vào 32 tướng tốt và 80 vẽ đẹp của Phật.
Chúng ta nên nhìn vào 32 tướng tốt của Phật mà hâm mộ, cung kính, và thực hành
theo những điều Ngài dạy, là diệt hết tham, sân, si,…. thì chúng ta mới thật sự
thấy Phật. Vì vậy Phật nói ba mươi hai tướng tức không phải ba mươi hai tướng
ấy gọi là ba mươi hai tướng là vậy.

Tại sao đức
Phật
nói người thiện nam, người thiện nữ đem thân mạng nhiều như cát sông Hằng
để bố thí, hoặc lại có người ở trong kinh này cho đến thọ trì bốn câu kệ v.v…
vì người khác nói thì phước này rất là nhiều? Là vì nếu chúng ta bố thí thân
mạng
mà không hiểu lý do tại sao phải bố thí? khi bố thí thì được phước gì? Và
kết quả sẽ ra sao? hay chỉ là nghe người khác nói bố thí có nhiều phước đức
chỉ làm theo kiểu con vẹt thôi thì người này sẽ không có trí tuệ. Mà không có
trí tuệ thì sẽ dễ tạo thêm tội, và sẽ còn bị đau khổ. Nếu người nào tụng trì
kinh Kim Cang và hiểu được kinh này vì người khác giảng nói thì người đó có
phước nhiều hơn. Vì người tụng kinh này sẽ có trí tuệ và họ sẽ không tạo
thêm tội nữa. Khi đó họ lúc nào cũng sống trong cảnh giới an vui, tự tại,
ngại
. Ví dụ như ta không giết người, ta dạy cho tất cả mọi người xung quanh ta
không giết người, thì không còn ai có ý nghĩ giết người nữa, thì khi ấy tất cả
chúng ta không sợ bị giết. Cuối cùng tất cả mọi người đều sống trong hạnh
phúc
, an nhiên, tự tại. Đức Phật lúc nào cũng nhắc nhở chúng ta phải hiểu kinh
này và nên truyền bá rộng rãi cho tất cả mọi người thì phước đức mới
nhiều. Cúng dường thân mạng nhiều như số cát sông Hằng mà không hiểu được
những lời Phật dạy là không giết người, không trộm cắp, không tà dâm, không uống
rượu, không nói láo,… thì con người vẫn còn tạo đau khổ cho nhau. Bố thí nhiều
vẫn không đem lại hạnh phúc thật sự.

ĐOẠN 14:
LÌA TƯỚNG TỊCH DIỆT.

Khi ấy ngài
Tu-bồ-đề nghe Phật nói kinh này, hiểu sâu được nghĩa thú, rơi lệ dầm dề bạch
Phật
rằng: Đức Thế Tôn! Rất ít có. Phật nói kinh điển sâu xa như thế, con từ
trước đến giờ đă được tuệ nhăn mà chưa từng được nghe kinh như thế. Bạch Thế
Tôn! Nếu lại có người được nghe kinh này, lòng tin thanh tịnh ắt sanh thật
tướng
, nên biết người ấy thành tựu được công đức ít có bậc nhất. Bạch Thế Tôn!
Thật tướng ấy tức không phải tướng, thế nên Như Lai nói tên là thật
tướng
.

Bạch Thế Tôn!
Nay con được nghe kinh điển như thế, tin hiểu thọ trì không đủ làm khó. Nếu đời
sau
, khoảng năm trăm năm về sau, lúc đó có những chúng sanh được nghe kinh này,
tin hiểu thọ trì, người ấy ắt là ít có bậc nhất. Vì cớ sao? Vì người này không
tướng
ngă, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Vì cớ sao? Vì tướng ngã
tức không phải tướng, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức không
phải tướng. Vì sao? Vì lìa tất cả tướng tức gọi là chư Phật.

Phật bảo
Tu-bồ-đề: Đúng thế, đúng thế! Nếu lại có người được nghe kinh này, không kinh,
không hăi, không sợ, nên biết người ấy rất là ít có. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề!
Như Lai nói đệ nhất ba-la-mật tức không phải đệ nhất ba-la-mật ấy gọi là đệ
nhất ba-la-mật. Tu-bồ-đề! Nhẫn nhục ba-la-mật, Như Lai nói không phải nhẫn nhục
ba-la-mật ấy gọi là nhẫn nhục ba-la-mật. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề như thuở xưa
ta bị vua Ca-lợi (Kali) cắt đứt thân thể, ta khi ấy không có tướng ngă, tướng
nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Vì cớ sao? Ta thuở xưa khi thân thể bị
cắt ra từng phần nếu còn tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ
giả
, lẽ nên sanh sân hận. Tu-bồ-đề! Lại nhớ thuở quá khứ năm trăm đời, ta làm
tiên nhân nhẫn nhục, vào thuở ấy không có tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng
sanh
, tướng thọ giả. Thế nên, Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên lìa tất cả tướng mà phát tâm
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng nên trụ sắc sanh tâm, chẳng nên trụ
thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, nên sanh tâm không chỗ trụ. Nếu tâm có trụ ắt
là không phải trụ. Thế nên Phật nói tâm Bồ-tát không nên trụ sắc mà bố thí.
Tu-bồ-đề! Bồ-tát vì lợi ích tất cả chúng sanh nên như thế mà bố thí. Như Lai
nói tất cả các tướng tức là không phải tướng, lại nói tất cả chúng sanh tức
không phải chúng sanh.

Này Tu-bồ-đề!
Như Lai nói lời chân, lời thật, lời như, lời không dối, lời chẳng khác. Này
Tu-bồ-đề! Như Lai được pháp, pháp này không thật, không hư. Tu-bồ-đề! Nếu
Bồ-tát tâm trụ nơi pháp mà làm việc bố thí thì như người vào trong tối ắt không
thể thấy. Nếu Bồ-tát tâm không trụ pháp mà hành bố thí thì như người có mắt lại
thêm ánh sáng mặt trời chiếu soi, thấy các thứ hình sắc. Này Tu-bồ-đề! Ở đời
sau
nếu có người thiện nam, thiện nữ hay ở trong kinh này thọ trì đọc tụng ắt
Như Lai dùng trí tuệ Phật ắt biết người ấy, ắt thấy người ấy đều được thành tựu
vô lượng vô biên công đức.

Sau khi nghe
đức Phật thuyết kinh này xong thì Ngài Tu-bồ-đề mừng khóc ra nước mắt. Không
phải Ngài tủi thân mà khóc, mà là Ngài mừng nên mới chảy nước mắt. Từ xưa
đến giờ Ngài đã có tuệ nhãn mà còn chưa từng được nghe kinh như thế. Tu-bồ-đề
nói: ” Nếu lại có người được nghe kinh này, lòng tin thanh tịnh ắt sanh
thật tướng, nên biết người ấy thành tựu được công đức ít có bậc nhất. Bạch Thế
Tôn! Thật tướng ấy tức không phải tướng, thế nên Như Lai nói tên là thật
tướng
.” Người nào nghe được kinh này lòng tin thanh tịnh thì người này sẽ
thấy được thật tướng của tất cả mọi loài và vật xung quanh mình, là phải thấy
được duyên hợp của tất cả mọi loài và vật thì mới thật sự thấy được thật
tướng
.

“Bạch Thế
Tôn! Nay con được nghe kinh điển như thế, tin hiểu thọ trì không đủ làm khó.
Nếu đời sau, khoảng năm trăm năm về sau, lúc đó có những chúng sanh được nghe
kinh này, tin hiểu thọ trì, người ấy ắt là ít có bậc nhất.” Có nghĩa là
sau khi nghe được kinh điển như thế mà Ngài Tu-bồ-đề không hiểu hết được tất cả
các ý thì việc thực hành thật là khó. Vì vậy khoảng năm trăm năm về sau, nếu có
người nào nghe được kinh này mà tin hiểu thọ trì thì người này rất hiếm có.
Người mà hiểu được kinh này thì người này sẽ không còn có tướng ngã, tướng
nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giã nữa. Lìa tất cả các tướng thì được goi là
Phật, tức là người giác ngộ được môt trăm phần trăm.

“Phật bảo
Tu-bồ-đề: Đúng thế, đúng thế! Nếu lại có người được nghe kinh này, không kinh,
không hăi, không sợ, nên biết người ấy rất là ít có.” Tại sao đọc kinh này
mà phải kinh, hãi, sợ sệt như vậy? Là vì nhiều người đọc xong kinh Bát Nhã cứ
tưởng là cái gì cũng chấp không hết rồi vô tình làm cho thân xác bị tiều tụy,
đầu óc không còn minh mẫn nữa. Có nhiều người thấy bố thí thân mạng nhiều như
cả tam thiên đại thiên thế giới mà không bằng tho trì bốn câu kệ trong kinh Kim
Cang
thì tỏ ra sợ hãi, họ tưởng đây là thần chú gì đó linh thiêng lắm, sợ đọc
không đúng sẽ bị trừng phạt. Có người còn nghĩ là người không đủ chủng tử
đại thừađọc kinh Kim Cang và sẽ bị tẩu quả nhập ma, vì vậy không ai dám đọc
hết. Chúng ta nên đọc tụngnghiên cứu kinh này thì dần dần sẽ hiểu được ý mà
đức Phật muốn dạy chúng ta.

Trong đoạn
này đức Phật lặp lại những lời dạy ở trên, Ngài dạy chúng ta không nên có tướng
ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không nên trụ sắc sanh tâm,
không nên trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, nên sanh tâm không chỗ trụ mà
phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Như Lai nói
lời chân, lời thật, lời như, lời không dối, lời chẳng khác. Đức Phật muốn nhấn
mạnh
cho chúng ta biết là Ngài nói lời thật, và không nói dối để chúng ta không
nghi ngờ mà làm theo lời Ngài dạy bảo. Vậy chúng ta có tự hỏi lại mình xem mình
có làm theo những lời đức Phật dạy chưa hay là còn nghi ngờ những lời nói của
Ngài?

Ngài dạy
Bồ-tát không nên trụ sắc mà bố thí. Tu-bồ-đề! Bồ-tát vì lợi ích tất cả chúng
sanh
nên như thế mà bố thí. Đức Phật cho biết nếu người thiện nam hay thiện nữ
hay ở trong kinh này mà thọ trì thì đức Phật biết người ấy đều được vô lượng
công đức. Chúng ta đừng nên sợ hãi là kinh này có thần linh hay là tụng
kinh
này sẽ bị tẩu quả nhập ma. Chúng ta nên kiên trì bền trí mà cố gắng tụng
kinh
này thì một ngày gần đây chúng ta sẽ hiểu được hết ý nghĩa của kinh. Chúng ta sẽ áp dụng những lời Phật dạy vào đời sống hàng ngày, và truyền lại
cho thế hệ mai sau.

ĐOẠN 15 :
CÔNG ĐỨC TRÌ KINH.

Tu-bồ-đề! Nếu
có người thiện nam thiện nữ, buổi sáng đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra
bố thí, buổi trưa lại đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra bố thí, buổi chiều
cũng đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra bố thí, như thế vô lượng trăm ngàn
muôn ức kiếp đem thân mạng bố thí. Nếu lại có người nghe kinh điển này, lòng
tin
không nghịch, phước của người này hơn phước của người kia, huống là chép
viết, thọ trì, đọc tụng, vì người giải nói.

Này Tu-bồ-đề!
Tóm tắt mà nói, kinh này có công đức vô biên không thể nghĩ, không thể lường.
Như Lai vì những người phát tâm Đại thừa mà nói, vì những người phát tâm Tối thượng
thừa
mà nói. Nếu có người hay thọ trì đọc tụng, rộng vì người nói, Như Lai ắt
biết người ấy, ắt thấy người ấy đều được thành tựu công đức không thể lường, không
thể tính, không có bờ mé, không thể nghĩ bàn. Những người như thế tức là gánh
vác
pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Phật. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Nếu
người thích pháp nhỏ tức chấp ngã, chấp nhân, chấp chúng sanh, chấp thọ giả tức
là đối với kinh này không thể lắng nghe, thọ trì, đọc tụng vì người giải nói.
Này Tu-bồ-đề! Ở nơi nào nếu có kinh này thì tất cả thế gian trời, người, a-tu-la
đều nên cúng dường, nên biết chỗ này tức là tháp, đều nên cung kính làm lễ vây
quanh, dùng các thứ hương hoa mà rải cúng nơi ấy.

Trong đoạn đầu đức
Phật
dạy người nào làm công quả từ sáng cho tới chiều tối, hay là bố thí thân
mạng
(ví dụ như là cho máu, thận, …) cũng không bằng người nghe kinh điển này
mà có lòng tin không nghịch. Phước của người nghe kinh này nhiều hơn phước của
người làm công quả. Những người làm công quả, họ chỉ làm công quả xây chùa này chùa
kia thôi chứ không chịu học kinh điển. Còn nếu ta học kinh điển, ta hiểu đạo
thì ta sẽ có trí tuệ Bát nhã, và trí tuệ này sẽ được đem theo qua đời sau. Làm
nhiều công quả mà không có trí tuệ thì không có trí tuệ để đem qua đời sau
được. Vậy những ai hay lo làm công quả nên dành cho mình một ít thời giờ nghiên
cứu
và học kinh điển để có trí tuệ Bát nhã này.

Những người
nào mà thọ trì và vì người khác giảng nói thì phước đức của người này không thể
nghĩ lường, không thể tính,… và những người này mới có thể gánh vác nói pháp
thượng Chánh đẳng Chánh giác
của Phật. Những người nào thích pháp nhỏ thì đối
với kinh này họ không thể nghe, thọ trì, vì người khác giảng nói được. Đối với
những ai hiểu kinh này vì người khác giảng nói, đức Phật khuyên chúng ta nên
cúng dường làm lễ vây quanh, dùng các thứ hương hoa mà rãi cúng nơi ấy. Đức
Phật
muốn chúng ta kết duyên với những người này để đời sau, đời sau nữa chúng
ta
sẽ còn có duyên gặp lại và họ sẽ dạy ta cách tu.

ĐOẠN 16:
HAY LÀM SẠCH CÁC NGHIỆP CHƯỚNG.

Lại nữa, này
Tu-bồ-đề! Nếu có người thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này, nếu bị
người khinh chê, người này do tội nghiệp đời trước lẽ ra phải đọa trong đường ác,
do đời này bị người khinh chê nên tội nghiệp đời trước ắt là tiêu diệt, sẽ được
quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Tu-bồ-đề, ta nhớ thuở quá khứ vô lượng
a-tăng-kỳ kiếp, ở trước đức Phật Nhięn Đăng, ta được gặp tám trăm bốn ngàn muôn
ức na-do-tha các đức Phật, ta đều cúng dường thờ phụng không sót một vị nào. Nếu
lại có người ở đời mạt pháp sau này hay thọ trì đọc tụng kinh này, được công
đức
, đối với công đức cúng dường chư Phật của ta, trăm phần chẳng bằng một, ngàn
muôn ức phần cho đến toán số thí dụ đều không thể bằng.

Này Tu-bồ-đề!
Nếu người thiện nam thiện nữ ở đời mạt pháp sau này, có người thọ trì đọc tụng
kinh này, được công đức, nếu ta nói cho đủ hoặc có người nghe tâm tất cuồng
loạn
, hồ nghi, không tin. Này Tu-bồ-đề, nên biết kinh nghĩa này không thể nghĩ
bàn nên quả báo cũng không thể nghĩ bàn.

Đức Phật dạy
nếu có người thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này, và nếu bị người
khinh chê, người này do tội nghiệp đời trước lẽ ra phải đọa trong đường ác, do
đời này bị người khinh chê nên tội nghiệp đời trước được tiêu diệt, và sẽ được
quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong vô số kiếp trong quá khứ, ta không
trí tuệ, ta đã tạo ra bao nhiêu tội. Vậy nay chúng ta nên thọ trì kinh này
để nghiệp chướng tiêu trừ và được cuộc sống an nhiên tự tại. Đức Phật nói Ngài
đã cúng dường tám trăm bốn ngàn muôn ức na-do-tha các đức Phật mà cũng không
bằng một phần của việc tụng trì kinh này, vậy chúng ta nên biết việc đọc tụng
kinh này quan trọng như thế nào. Có câu “Ai ăn nấy no, ai tu nấy
chứng,” không có chuyện tu giùm. Vậy chúng ta nên cố gắng thọ trì
kinh này để một ngày nào đó chúng ta sẽ hiểu được toàn bộ bộ kinh Kim Cang
sẽ có trí tuệ như kim cương. Khi có trí tuệ rồi, chúng ta sẽ không còn đau khổ
nữa.

ĐOẠN 17:
TỘT CÙNG KHÔNG CÓ NGÃ.

Khi ấy ngài
Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao an trụ, làm sao hàng phục tâm kia? Phật
bảo
Tu-bồ-đề: Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác
nên sanh tâm như thế này: Ta nên diệt độ tất cả chúng sanh, diệt độ
tất cả chúng sanh rồi mà không có một chúng sanh thật diệt độ. Vì cớ sao?
Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn tướng ngă, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả
ắt không phải là Bồ-tát. Vì cớ sao? Tu-bồ-đề, thật không có pháp phát tâm
thượng Chánh đẳng Chánh giác
. Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Như Lai ở nơi Phật
Nhiên Đăng có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?

– Bạch Thế Tôn,
không vậy! Như chỗ hiểu của con qua nghĩa Phật nói, Phật ở nơi Phật Nhiên Đăng
không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phật bảo: Như
thế, như thế! Tu-bồ-đề, thật khôngpháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác
. Này Tu-bồ-đề! Nếu có pháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác
thì đức Phật Nhiên Đăng ắt không thọ ký cho ta: Ở đời sau, ông sẽ được
thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Do thật không có pháp được Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác
, thế nên đức Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho ta, nói thế này: Ở
đời sau, ông sẽ được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Vì cớ sao? Như Lai tức
là nghĩa Như của các pháp. Nếu có người nói Như Lai được pháp Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác
, này Tu-bồ-đề, thật không có pháp Phật được Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác
. Này Tu-bồ-đề! Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở
trong ấy không thật, không hư. Thế nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật
pháp
. Này Tu-bồ-đề! Nói tất cả pháp đó tức không phải tất cả pháp, nên gọi là
tất cả pháp. Này Tu-bồ-đề thí như có người thân cao lớn.

Ngài Tu-bồ-đề
thưa: Bạch Thế Tôn! Như Lai nói thân người cao lớn ắt không phải thân lớn, ấy
gọi là thân lớn.

– Này Tu-bồ-đề!
Bồ-tát cũng như thế, nếu nói lời thế này: Ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sanh, ắt
không gọi là Bồ-tát. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Thật không có pháp tên là Bồ-tát.
Thế nên Phật nói: tất cả pháp không ngã, không nhân, không chúng sanh, không
thọ giả. Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói lời thế này: Ta sẽ trang nghiêm cõi Phật,
ấy chẳng gọi là Bồ-tát. Vì cớ sao? Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng
phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm. Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát thông đạt
pháp vô ngă, Như Lai gọi đó là chân thật Bồ-tát.

Ngài Tu-bồ-đề
hỏi Phật là người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác
làm sao an trụ tâm, làm sao hàng phục tâm vọng tưởng. Phật bảo Tu-bồ-đề: “Người
thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên sanh tâm
như thế này: Ta nên diệt độ tất cả chúng sanh, diệt độ tất cả chúng sanh rồi mà
không có một chúng sanh thật diệt độ.” Tại sao “ta phải diệt độ tất cả
chúng sanh?” tại vì trong vô số lượng kiếp quá khứ ta đã tạo tội với tất cả mọi
người
trên thế gian này, vì vậy ta phải giúp họ học và hành theo lời Phật dạy
để mong họ bỏ qua những lỗi lầm của ta trong quá khứ. Tại sao “diệt độ tất cả
chúng sanh rồi mà chẳng có một chúng sanh nào được diệt độ?” Là tại vì ta giúp họ
tu để họ dừng nghiệp của họ tức là ta cũng dừng được nghiệp của ta. Có nghĩa là
trong quá khứ ta đã tạo tội với họ, thì trong tương lai khi nhân duyên hội đủ
họ sẽ gặp lại ta và ta phải trả nợ cũ, tức là trả nghiệp. Nếu như ta dạy họ
sống hạnh phúc với đầy lòng thương yêu, hiểu biết, và cảm thông cho nhau thì
trong những kiếp tương lai khi nhân duyên hội đủ, họ gặp lại ta, họ sẽ không
dùng tâm ganh ghéthận thù để hại ta mà họ sẽ đối sử với ta bằng tình thương
mến và cảm thông. Như vậy là ta diệt độ tất cả chúng sanh rồi mà chẳng có chúng
sanh
nào được diệt độ. Nhờ họ tu mà ta mới dừng được nghiệp của ta và cũng dừng
được nghiệp của họ. Nếu hiểu được như thế thì không bao giờ ta sanh tâm phân biệt
giữa người giàu với người nghèo, giữa người sang với người hèn,… và sẽ không
bao giờ sanh tâm ngạo mạn là ta là người đang ban phước hoặc là ban pháp đến
cho mọi người. Ví dụ điển hình là ngài Mục Kiền Liên (MKL). Nếu như những vị
La Môn
kia được học và hành theo giáo lý của Bụt thì họ sẽ tha thứ những lỗi
lầm
của ngài MKL ở trong đời quá khứ, họ sẽ không xô đá giết Ngài. Tuy nhiên
cái chết của ngài MKL cho ta thấy rằng có thần thông vẫn không thoát được
nghiệp. Nếu hiểu được thí dụ trên, quý vị sẽ thấy được là tại sao Phật nói là Như
Lai
không có được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nếu vị Bồ tát
nào nói là ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sanh là ta trang nghiêm cõi Phật thì vị
ấy không phải là Bồ tát. Vì vị này còn chấp vào tướng, ngã, chúng sanh, và thọ giã…
Đức Phật dạy thật không có pháp tên là Bồ-tát, vì Bồ tát là những vị giác ngộ
từ
80% trở lên, còn phàm phu thì giác ngộ ít hơn. Bồ tát không phải là một địa vị
để chúng ta chứng đắc. Nếu ai chấp vào chức vị Bồ tát thì người đó tu sai
rồi vì Phật dạy thật không có pháp tên Bồ tát.

Nói chung
trong đoạn này đức Phật dạy chúng ta “giúp người tức là giúp mình”,
và “một là tất cả, tất cả là một.” Chúng ta nên thương yêu, giúp đỡ
lẫn nhau và cùng tu học và hành theo lời Phật dạy để tất cả mọi người trên thế
gian
này đều được sống yên vui và hạnh phúc.

Ngài Lục Tổ
có nói đại ý là : “Phật pháp ở trong thế gian, không nên tìm Phật pháp
ngoài thế gian, nếu người nào tìm Phật Pháp ở ngoài thế gian thì người đó
như
đang đi tìm lông rùa, sừng thỏ.” Ý nói đó là việc làm hoang
đường
. Thật đúng là Phật pháp ở trong thế gian, nếu như tất cả mọi người trên
thế gian này đều biết thương yêu, thông cảm, và tha thứ cho nhau, thì thế giới
này là thế giới cực lạc.

ĐOẠN 18:
ĐỒNG QUÁN CÓ MỘT THỂ.

– Này Tu-bồ-đề,
ý ông nghĩ sao? Như Lainhục nhãn chăng?
– Bạch Thế Tôn,
như thế! Như Lainhục nhãn.
– Tu-bồ-đề, ý ông
nghĩ sao? Như Lai có thiên nhăn chăng?
– Bạch Thế Tôn,
như thế! Như Laithiên nhãn.
– Tu-bồ-đề, ý ông
nghĩ sao? Như Laituệ nhãn chăng?
– Bạch Thế Tôn,
như thế! Như Laituệ nhãn.
– Tu-bồ-đề, ý ông
nghĩ sao? Như Laipháp nhãn chăng?
– Bạch Thế Tôn,
như thế! Như Laipháp nhãn.
– Tu-bồ-đề, ý ông
nghĩ sao? Như LaiPhật nhãn chăng?
– Bạch Thế Tôn,
như thế! Như LaiPhật nhãn.
– Tu-bồ-đề, ý ông
nghĩ sao? Như trong sông Hằng có bao nhiêu cát, Phật nói là cát chăng?
– Bạch Thế Tôn,
như thế! Như Lai nói là cát.
– Tu-bồ-đề, ý ông
nghĩ sao? Như trong một sông Hằng có bao nhiêu cát, có những sông Hằng bằng số
cát như thế , có các thế giới của Phật bằng số cát của những sông Hằng ấy, như
thế thật là nhiều chăng?
– Bạch Thế Tôn,
rất là nhiều!

Phật bảo
Tu-bồ-đề: Trong các cői nước đầy dẫy như thế, có tất cả chúng sanh có bao nhiêu
thứ tâm, Như Lai thảy đều biết. Vì cớ sao? Như Lai nói các tâm đều không phải
tâm, ấy gọi là tâm. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, tâm quá khứ không thể được, tâm
hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được.

Đoạn này đức
Phật
cho chúng ta biết là Ngài có nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn,
Phật nhãn. Không phải là Ngài có năm con mắt thật khác nhau mà là sự
thấy biết của Ngài mà có được năm thứ nhãn trên. Ngài cho biết là Ngài đều thấy
biết tất cả các tâm nhiều như những số cát các sông Hằng gọp lại. Nhưng cuối
cùng
Ngài nói “các tâm đều không phải tâm, ấy mới gọi là tâm. Là vì tâm quá
khứ
không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được mà
nó rỗng không như hư không vậy. Chúng ta nên tu sao để không còn thấy quá khứ,
không thấy hiện tại, không thấy vị lai. Cố gắng tu sao cho được cái tâm
rỗng không như hư không vậy.

ĐOẠN 19:
PHÁP GIỚI THÔNG SUỐT KHÔNG BỊ NGĂN TRỞ.

– Này Tu-bồ-đề
, ý ông nghĩ sao? Nếu có người đem bảy báu đầy dẫy cả tam thiên đại thiên thế
giới
dùng bố thí, người ấy do nhân duyên này được phước đức nhiều chăng?

– Bạch Thế Tôn!
Như thế! Người này do nhân duyên đó được phước đức rất nhiều.

– Này Tu-bồ-đề!
Nếu phước đức có thật, Như Lai chẳng nói được phước đức nhiều, do phước đức
không, nên Như Lai nói được phước đức nhiều.

Phật nói:
“Nếu phước đức có thật, Như Lai chẳng nói được phước đức nhiều, do phước
đức
không, nên Như Lai nói được phước đức nhiều.” Ý đức Phật nói là khi ta
đem bảy báu đầy dãy cả tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, thì ta tập cho
ta có tâm từ bi biết giúp đỡ người khác, không tham đắm vào vàng bạc, vì vậy
Như Lai nói là được phước đức nhiều, chứ thật ra không có phước đức thật. Chẳng
qua là vì ta tập cho ta được cái tâm không chấp vào tiền tài, vàng bạc,… nên
Như Lai nói là được phước đức nhiều.

ĐOẠN 20:
LÌA SẮC, LÌA TƯỚNG.

– Này Tu-bồ-đề,
ý ông nghĩ sao? Phật có thể do đầy đủ sắc thân mà thấy chăng?
– Bạch Thế Tôn,
không vậy! Như Lai không nên do đầy đủ sắc thân mà thấy. Vì cớ sao? Như Lai nói
đầy đủ sắc thân tức chẳng phải đầy đủ sắc thân ấy gọi là đầy đủ sắc thân.
– Này Tu-bồ-đề, ý
ông nghĩ sao? Như Lai có thể do đầy đủ các tướng mà thấy chăng?
– Bạch Thế Tôn,
không vậy! Như Lai không nên do đầy đủ các tướng mà thấy. Vì cớ sao? Như Lai
nói các tướng đầy đủ tức chẳng phải đầy đủ, ấy gọi là các tướng đầy đủ.

Đoạn này đức
Phật
lặp lại là chúng ta không nên chấp vào sắc thân và tướng Phật mà thấy
Phật. Đoạn này đã được giải thích ở đoạn trên.

ĐOẠN 21:
KHÔNG NĂNG THUYẾT VÀ SỞ THUYẾT.

Này Tu-bồ-đề,
ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế này, ta sẽ có nói pháp, chớ khởi cái nghĩ ấy.
Vì cớ sao? Nếu người nói Như Lai có nói pháp tức là phỉ báng Phật, không thể hiểu
nghĩa ta đă nói. Này Tu-bồ-đề, nói pháp đó không có pháp có thể nói ấy gọi là
nói pháp. Khi ấy ngài Tuệ Mạng Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, vả lại có
chúng sanh ở đời vị lai nghe nói pháp này sanh lòng tin chăng?

Phật bảo:
Tu-bồ-đề, kia chẳng phải chúng sanh, chẳng phải chẳng chúng sanh. Vì cớ sao?
Này Tu-bồ-đề, chúng sanh, chúng sanh ấy Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, ấy
gọi là chúng sanh.

Đức Phật muốn
nói là Ngài chỉ dạy cho chúng ta phương pháp tu để tập cho tâm ta được thanh
tịnh
, rỗng như hư không, chứ không phải là một pháp thuật hay là một thần chú
gì cả. Ngài nói “nếu người nói Như Lai có nói pháp tức là phỉ báng
Phật, không thể hiểu nghĩa ta nói”. Phật nói pháp là tùy duyêntùy theo
tâm tánh của mỗi người mà nói vì vậy Ngài nói “nói pháp đó không có pháp
có thể nói ấy gọi là nói pháp.” Tất cả các pháp Ngài nói chẳng qua cũng
chỉ dạy cho chúng ta giữ vững chân tâm để được sống trong cảnh giới Niết Bàn.

Tu-bồ-đề bạch
Phật
rằng: Bạch Thế Tôn, vả lại có chúng sanh ở đời vị lai nghe nói pháp này
sanh lòng tin chăng? Phật bảo: Tu-bồ-đề, kia chẳng phải chúng sanh, chẳng phải
chẳng chúng sanh. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, chúng sanh, chúng sanh ấy Như Lai
nói chẳng phải chúng sanh, ấy gọi là chúng sanh.

Trong nhũng
đoạn trên đức Phật đã dạy là khi thân này hoại đi thì trí tuệ bát nhã hay phật
tánh
sẽ theo ta mãi từ đời này sang đời khác. Khi thọ mạng thân khác, chúng
sanh
mà có chủng tử đại thừa đó không thể gọi họ là chúng sanh tầm thường được,
nhưng cũng không thể không gọi họ là chúng sanh được vì theo nhân duyên họ vẫn
được sanh ra như bao nhiêu người khác. Chúng sanhNhư Lai muốn nói là không
phải là chúng sanh đó, ấy là chúng sanh mà có chủng tử đại thừa và người này
khi nghe kinh này sẽ sanh lòng tin chân thật.

ĐOẠN 22 :
KHÔNG PHÁP CÓ THỂ ĐƯỢC.

Ngài Tu-bồ-đề
bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, Phật được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hay là
không được ư? Phật bảo: Đúng như thế, như thế! Này Tu-bồ-đề, ta đối với
thượng Chánh đẳng Chánh giác
nhẫn đến không có một chút pháp có thể được, ấy
gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Ý của đức
Phật
muốn nói là người mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là người thấy
suốt tất cả mọi việc, tâm của họ sẽ rỗng không như hư không. Khi gặp chuyện vui,
họ cũng không mừng, gặp chuyện buồn họ cũng không buồn. Nếu người nào mà khi
thấy trong gia đình có người bị mất và họ cảm thấy đau buồn. Họ cần phải
dùng pháp môn quán vô thường để đối trị thì người đó chưa được Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác
. Chúng ta phải làm sao tập cho tâm của chúng ta thật thanh tịnh
và rỗng không như hư không thì khi bất cứ chuyện gì xảy ra, chúng ta không cần
dùng
phương pháp nào để trị hết, thì ấy mới gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác
.

ĐOẠN 23:
TÂM TRONG SẠCH LÀM VIỆC THIỆN.

Lại nữa
Tu-bồ-đề, pháp này bình đẳng không có cao thấp, ấy gọi là Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác
. Do không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả tu tất cả
pháp lành tức được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Tu-bồ-đề, nói rằng pháp
lành đó, Như Lai nói tức chẳng phải pháp lành, ấy gọi là pháp lành.

Đức Phật dạy
bình đẳng không có cao thấp thì còn được gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác
. Thật vậy, ví dụ trong một gia đình nếu người cha nghĩ mình là cha, và lấy
quyền làm cha bắt đứa con làm những gì nó không thích thì đứa con sẽ không nghe
lời
người cha và không nể ông ta. Nếu người cha có tánh bình đẳng chịu
nghe tâm sự của người con, để mà thông cảm cho nhau thì họ sẽ được sống hạnh
phúc
cha con không hề giận nhau. Thí dụ khác là nếu ông tổng thống ỷ ta đây
là tổng thống, ông ta có quyền kỳ thị chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, có quyền bắt
bớ bất cứ ai mà ông ta muốn,… thì thử hỏi ông ta có được mọi người thương mến
và kính nể không? Nếu ông ta có tính bình đẳng với tất cả mọi người, mọi chủng
tộc
, mọi tôn giáo thì chắc chắn ông ta sẽ được mọi người thương mến và kính nể.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có tập được tánh bình đẳng chưa? Hay là còn phân
biệt
sư quốc doanh với sư của giáo hội việt nam thống nhất, phân biệt giữa tiểu
thừa
, đại thừa, giàu nghèo, sang hèn, thầy tu với cư sĩ, đạo Phật đạo Chúa,
loài người với loài thú, …. Pháp bình đẳng này là một quy luật tự nhiên của xã hội,
vì vậy Như Lai nói là pháp lành nhưng thật ra chẳng phải là pháp lành nên tạm
gọi nó là pháp lành vậy thôi. Pháp bình đẳng là một sự thật không thể thay đổi
được. Chúng ta nên cố gắng tập pháp bình đẳng. Muốn được tánh bình đẳng
này, chúng ta không nên chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giã.

ĐOẠN 24 :
PHƯỚC TRÍ KHÔNG GÌ SÁNH BẰNG.

Này Tu-bồ-đề,
nếu trong tam thiên đại thiên thế giới có các ngọn núi Tu-di chúa, như thế dùng
bảy báu nhóm họp bằng những ngọn núi Tu-di ấy có người mang ra bố thí. Hoặc có người
đem kinh Bát-nhă ba-la-mật này cho đến bốn câu kệ v.v… thọ trì đọc tụng, vì
người khác nói thì phước đức của người này đối với người trước, người này trăm
phần, người kia không bằng một, trăm ngàn muôn ức phần cho đến toán số thí dụ
cũng không thể bằng.

Đoạn này đức
Phật
lại lặp lại việc thọ trì bốn câu kệ và vì người khác giảng nói có phước
nhiều hơn là bố thí bảy báu nhiều như những ngọn núi Tu di. Như vậy chúng ta
cũng đủ biết việc thọ trì kinh Kim Cang này quan trọng như thế nào rồi chứ gì?
Vậy chúng ta nên cố gắng thọ trì kinh Kim Cang này để được trí tuệ như kim
cương
trí tuệ này sẽ là hành trang giúp đỡ chúng ta không còn bị khổ nữa và
được sống trong cảnh giới niết bàn.

ĐOẠN 25 :
GIÁO HÓA KHÔNG CÓ CHỖ GIÁO HÓA.

Này Tu-bồ-đề, ý
ông nghĩ sao? Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế này: Ta sẽ độ chúng sanh.
Này Tu-bồ-đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật khôngchúng sanh Như Lai
độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngă, nhân, chúng sanh,
thọ giả. Này Tu-bồ-đề, Như Lai nói có ngă ắt không phải có ngă mà người phàm
phu
cho là có ngã. Này Tu-bồ-đề, người phàm phu đó Như Lai nói tức không phải
phàm phu, ấy gọi là phàm phu.

Đoạn này được
lặp lại như đoạn trên, ý của Phật dạy chúng ta là “giúp người tức là giúp
mình.” Ví dụ là khi ta giúp đỡ người nghèo, thì người nghèo sẽ cảm ơn
cảm kích lòng từ bi của ta Đối với ta thì đó là cách tập cho lòng
từ
bi của ta lớn hơn, ta sẽ không có tánh ích kỷ, và biết thương yêu mọi
người
,… làm như vậy thì sẽ giúp cho ta được mau sớm thành Phật quả. Một ví dụ khác
về giúp người tức giúp mình là vừa rồi ở Trung Quốc bị bệnh SAR, các nước giàu
khác trên thế giới ra tay cứu giúp để dẹp căn bệnh hiểm nghèo này. Khi các nước
giàu có này bỏ tiền và công để giúp Trung Quốc ngăn chặn bệnh SAR thì họ sẽ
được nhiều nước khác kính nể, và sẽ không sợ bệnh SAR lan tràn vào nước của
mình. Như vậy họ bỏ tiền giúp đỡ nước khác tức là cũng giúp không cho bệnh SAR
tràn vào nước của mình. Không nên nghĩ là tại vì những nước giàu này
không muốn bệnh này tràn vào nước mình nên họ mới ra tay cứu. Họ có thể ngăn
chặn bệnh này bằng cách không cho khách du lịch vào nước và mặc kệ cái bệnh SAR
Trung Quốc. Hiểu được như vậy thì mình không thấy mình sẽ độ chúng
sanh
, mà là giúp người tức là giúp mình.

Như Lai nói
phàm phu là muốn ám chỉ cho những người chưa được giác ngộ nhiều chứ không có ý
khinh chê họ là người phàm phu, còn ta là Phật. Nên Ngài nói là người phàm phu
đó Như Lai nói tức không phải phàm phu, ấy gọi là phàm phu vậy thôi.

ĐOẠN 26:
PHÁP THÂN CHẲNG PHẢI LÀ TƯỚNG.

Này Tu-bồ-đề, ý
ông nghĩ sao? Có thể do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai chăng? Tu-bồ-đề thưa
rằng: Như thế, như thế, do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai. Phật bảo:
Tu-bồ-đề, nếu do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh Vương
tức là Như Lai. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, như chỗ hiểu của con qua
nghĩa Phật nói, không nên do ba mươi hai tướng mà xem Như Lai. Khi ấy Thế Tôn
nói bài kệ:

Nếu do sắc thấy
ta, Do âm thanh cầu ta, Người ấy hành đạo tà, Không thể thấy Như Lai .

Đoạn này đức
Phật
dạy chúng ta không nên thấy ba mươi hai tướng mà xem Như Lai. Như Lai
trong tất cả chúng ta, đức Phật dạy chúng ta nên trở về tâm thanh tịnh của mình
thì sẽ thấy Như Lai chứ không phải là tượng Phật có 32 tướng tốt. Bởi vậy Ngài
nói Chuyển Luân Thánh Vương cũng có ba mươi hai tướng tốt nhưng không phải là
Như Lai. Phật dạy nếu thấy Như Lai qua hình sắc, âm thanh thì người đó tu sai
rồi, không thể thấy Như Lai. Vậy muốn thấy Như Lai chúng ta không nên thấy Ngài
qua sắc tướng, âm thanh, mà hãy trở về tánh thanh tịnh của mình.

ĐOẠN 27:
KHÔNG ĐOẠN, KHÔNG DIỆT.

Này Tu-bồ-đề,
nếu ông khởi nghĩ thế này, Như Lai chẳng do các tướng cụ túc được Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác
. Tu-bồ-đề, chớ khởi nghĩ thế ấy, Như Lai không do tướng cụ
túc
mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tu-bồ-đề, nếu ông khởi nghĩ thế
này: Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nói các pháp đoạn diệt, chớ
khởi cái nghĩ này. Vì cớ sao? Vì người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác
, đối với pháp không có nói tướng đoạn diệt.

Đoạn này đức
Phật
dạy là không phải Như Lai do đầy đủ các tướng mà được Chánh đẳng Chánh
giác
. Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không có nói pháp đoạn diệt,
không nên nói là sau khi thân này hoại đi là hết. Khi thân này hoại đi thì tâm
tánh
của chúng ta vẫn còn. Tâm tánh của chúng tabất diệt, nó sẽ được mang
sang từ đời này sang đời khác. Vì vậy lúc nào đức Phật cũng dạy cho chúng ta
nên trở về cái tâm thanh tịnh của mình là vậy.

ĐOẠN: KHÔNG
THỌ, KHÔNG THAM TRƯỚC.

Này Tu-bồ-đề,
nếu Bồ-tát dùng thất bảo đầy cả thế giới bằng số cát sông Hằng để đem bố thí,
nếu lại có người biết tất cả pháp là vô ngă được thành đức nhẫn nhục, thì
Bồ-tát này được công đức hơn vị Bồ-tát trước, vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, do các
vị Bồ-tát không thọ phước đức. Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, thế nào
là Bồ-tát không thọ phước đức?

– Này Tu-bồ-đề!
Bồ-tát làm phước đức mà chẳng nên tham trước, thế nên nói chẳng thọ phước
đức
.

Đoạn này đức
Phật
dạy người biết tất cả pháp là vô ngã được thành đức nhẫn nhục. Người
này sẽ được công đức nhiều hơn người bố thí của báu nhiều như số cát sông Hằng.
Người bố thí của báu, họ chỉ tập tánh không tham lam vàng bạc thôi, còn người
hiểu được tất cả pháp là vô ngã, và hiểu được tất cả mọi vật đều do nhân duyên
mà thành thì khi bất cứ chuyện gì xảy ra, họ đều thấy rõ tường tận mọi việc
họ được đức nhẫn nhục. Đối với chúng ta thì chúng ta thấy họ nhẫn nhục nhưng
đối với họ thì đó là chuyên hiển nhiên không có gì gọi là nhẫn nhục cả. Chính vì
không thấy mình nhẫn nhục nên chẳng thọ phước đức. Nói chung đoạn này đức Phật
dạy chúng ta là phải hiểu thật rỏ các pháp chứ không phải tu nhẫn nhục bằng
cách kiềm tâm mình lại và chịu nhẫn nhục.

ĐOẠN 29:
BỐN OAI NGHI ĐỀU TỊCH TĨNH.

Này Tu-bồ-đề, nếu
có người nói Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, người ấy không
hiểu nghĩa của ta nói. Vì cớ sao? Như Lai đó không từ đâu đến cũng không đi đâu
nên gọi là Như Lai.

Như Lai được
nói đến ở đây không phải là đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà là tâm tánh Như Lai
hiện tiền trong mọi người. Tâm tánh Như Lai không từ đâu đến cũng không đi đâu
hết, nó bất sanh bất diệt, chúng ta nên trở về tâm tánh Như Lai của mình. Khi
nhân duyên hội đủ, ta thọ thân mạng khác nhưng tâm tánh của ta không thay đổi.
Tâm tánh Như Laitâm thanh tịnhsáng suốt.

ĐOẠN 30:
LÝ MỘT HỢP TƯỚNG

Này Tu-bồ-đề,
nếu người thiện nam, thiện nữ đem thế giới tam thiên đại thiên này nghiền nát
thành bụi, ý ông nghĩ sao? Số bụi này thật là nhiều chăng? Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bạch
Thế Tôn! Rất nhiều. Vì cớ sao? Nếu là bụi thật có đó thì Phật ắt không nói là
bụi nhiều. Vì cớ sao? Phật nói các bụi đó tức không phải là bụi, ấy gọi là bụi.
Bạch Thế Tôn, Như Lai nói thế giới tam thiên đại thiên tức không phải thế giới,
ấy gọi là thế giới. Vì cớ sao? Nếu thế giới thật có thì ắt là một hợp tướng. Như
Lai
nói một hợp tướng tức không phải một hợp tướng ấy gọi là một hợp
tướng.

Này Tu-bồ-đề,
một hợp tướng đó ắt không thể nói, chỉ người phàm phu tham trước việc ấy.

Đoạn này đức
Phật
dạy là không có vật thể nào cố định cả. Chúng ta chỉ tạm gọi nhỏ như hạt
bụi
thôi, chứ thật ra nó được cấu tạo bởi những hạt nhỏ hơn. Tạm gọi thế giới
là lớn nhất nhưng nó cũng chỉ là một phần của vật khác lón hơn nó thôi. Bất cứ
vật gì, nhỏ như hạt bụi hay lớn như thế giới cũng không phải là thật thể cố
định. Nói chung là Ngài dạy chúng ta tất cả các vật đều do nhân duyên mà hợp
thành không có cái gì là cố định cạ. Như vậy tâm tánh của ta có cố định không?
Tâm bồ đề của chúng ta ví như là một hạt giống. Chúng ta diệt trừ tham, sân, si
để tạo cho ta hạt giống bồ đề tốt. Nếu chúng ta sanh trong một môi trường
khó khăn thì việc chúng ta trở về cái tâm thanh tịnh của mình rất khó làm được. Nếu chúng ta sanh trong một môi trường an lành thì việc tu hành để trở về
cái tánh thanh tịnh của mình rất dễ dàng. Ví như ta có hột giống tốt, nếu ta
trồng nó ở trong môi trường đầy đủ tiện nghi thì nó sẽ sanh sôi nảy nở, đơm
hoa, kết trái, còn nếu ta trồng trong môi trường bị thiếu thốn, không đủ nước
chẳng hạn thì nó sẽ không nảy mầm. Do vậy tất cả chúng ta phải cùng tu để tạo
ra một môi trường an lành thì tất cả chúng ta mới được sống trong cảnh giới
niết bàn
, một cảnh giới an vui và hạnh phúc. Trong kinh Tịnh độ Phật A Di Đà
nguyện “nếu một chúng sanh nào chưa được nhiếp thọ thì Phật A Di Đà cũng nguyện
không thành Phật.” Tất cả chúng ta phải tu, vì “một là tất cả, tất cả là
một.” Chúng ta phải sống tương trợ lẫn nhau, không thể sống riêng rẽ một
mình
được.

ĐOẠN 31:
TRI KIẾN CHẲNG SANH.

– Này Tu-bồ-đề,
nếu có người nói Phật nói ngă kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến,
này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Người ấy hiểu nghĩa của ta nói chăng?

– Bạch Thế Tôn,
không hiểu vậy. Người ấy không hiểu nghĩa của Như Lai nói. Vì cớ sao? Thế Tôn
nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức chẳng phải ngã
kiến
, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, ấy gọi là ngã kiến, nhân kiến,
chúng sanh kiến, thọ giả kiến.

– Này Tu-bồ-đề,
người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đối với tất cả pháp nên như thế
mà biết, như thế mà thấy, như thế mà tin hiểu, không sanh pháp tướng. Này Tu-bồ-đề,
nói là pháp tướng đó, Như Lai nói tức chẳng phải pháp tướng, ấy gọi là pháp
tướng
.

Đoạn này đức
Phật
muốn nói là Ngài dùng danh từ ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ
giã kiến là để thuyết giảng cho chúng ta dễ hiểu ý của Ngài thôi, chứ Ngài
không có chấp ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, … Ngài dạy người phát tâm
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì khi đối với tất cả pháp nên như thế mà
biết, như thế mà thấy, như thế mà tin hiểu. “Như thế” mà Ngài muốn nói ở đây
là nên theo những điều Ngài dạy ở trên mà làm theo, nhưng không được thấy là có
pháp thật sự để cho mình chứng đắc. Nói chung là khi đọc kinh này, chúng
ta
nên cố gắng hiểu liễu nghĩa của kinh, không nên chấp vào từng từ ngữ của
kinh.

ĐOẠN 32:
ỨNG HÓA KHÔNG PHẢI THẬT.

Này Tu-bồ-đề,
nếu có người đem bảy báu bằng thế giới trải qua số kiếp vô lượng a-tăng-kỳ để
bố thí. Nếu có người thiện nam, người thiện nữ phát tâm bồ-đề đem kinh này cho
đến
bốn câu kệ v.v… thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói thì phước của người
này còn hơn phước của người kia. Thế nào là vì người diễn nói? Chẳng thủ nơi tướng,
như như bất động. Vì cớ sao?

Tất cả pháp hữu
vi
, Như mộng, huyễn, bọt, bóng, Như sương cũng như điện, Nên khởi quán như thế.

Phật nói kinh
này rồi, trưởng lão Tu-bồ-đề và chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di,
tất cả thế gian trời, người, a-tu-la nghe Phật nói đều rất vui mừng, tin thọ và
vâng làm.

Đức Phật cứ
lặp đi lặp lại là bố thí pháp công đức nhiều hơn bố thí tiền của là vì nếu pháp
được lưu trữ mãi mãi về sau thì khi chúng ta thọ mạng thân sau chúng ta sẽ còn
được phước duyên nghe lại kinh này. Kinh này sẽ gợi lại trong tiềm thức của
chúng tachúng ta sẽ dễ hiểu kinh này khi đọc lại chúng. Khi hiểu được
kinh này thì chúng ta sẽ tiếp tục tu để trở về tâm thanh tịnh của mình.

Thế nào là vì
người diễn nói? Chẳng thủ nơi tướng, như như bất động. Vì cớ sao? Tất cả pháp
hữu vi
, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương cũng như điện, Nên khởi quán như
thế. Tất cả chúng ta đều phải tu để có một môi trường tốt hay một cảnh giới
niết bàn
. Khi diễn nói về kinh điển này ta không nên khoe khoang là ta đã
hiểu được hết nghĩa kinh và nói thao thao bất tuyệt để cho người ta kinh nể, mà
phải nói như như bất động, có nghĩa là khi ta diễn nói kinh này, ta chỉ mong
sao cho tất cả cùng hiểu được kinh này và cùng tu để có cảnh giới niết
bàn
. Tất cả mọi người đều có cuộc sống an vui, hạnh phúc, và không còn bị
đau khổ nữa. Ngài dạy chúng ta nên quán tất cả mọi thứ ở trên đời này như mộng,
huyễn, bọt, bóng, như sương cũng như điện, hãy quán tất cả mọi thứ đều không có
tồn tại vĩnh viễn. Nói tóm lại là hãy quán tất cả mọi vật đều do nhân duyên.
Khi đủ duyên thì nó hình thành, khi hết duyên thì nó mất. Sau khi nghe kinh này
xong tất cả mọi người đều vui mừng, tin theo, và thực hành theo lời Ngài
dạy.

Tôi mong tất
cả chúng ta cũng vậy, sau khi đọc xong lược giại kinh này và thấy có lợi lạc
thì hãy cố gắng hành theo. Hiện nay internet thịnh hành, chúng ta không có vì
người khác diễn nói được thì chúng ta có thể email cho tất cả mọi người cùng
đọc kinh này và thực tập theo lời Phật dạy. Phước đức gởi kinh này cho nhiều
người đọc nhiều hơn vô số lần bố thí cả tỷ tỷ đô la.

Tóm lại,
trong toàn bộ bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta những điều sau:

Phải cột tâm
vào từng hành động của mình để giúp mình trở về tâm thanh tịnh hằng có ở trong
mỗi chúng ta. Chúng ta ai cũng bận rộn về công việc nên lúc nào cũng nói là
không có thì giờ để tu, vậy trong lúc đi đứng nằm ngồi hay đang làm việc quý vị
cột tâm của mình vào từng hành động của mình. Còn trong lúc rãnh rỗi, quý vị sẽ
cột tâm vào đâu? hay là để vọng tưởng nổi lên? Quý vị hãy niệm Phật “Nam
A Di Đà Phật” và hãy cột tâm vào từng chữ “Nam mô A Di Đà
Phật” thì khi đó vọng tưởng không còn có chỗ nổi lên. Cố gắng tập như thế
trong vòng vài tuần, quý vị sẽ thấy tâm quý vị rất thanh tịnh.

Khi bố thí,
chúng ta không nên nghĩ ta là người bố thí và nghĩ người khác đang nhận của bố
thí
của ta. Không nên hy vọng sau này có gì cần đến, mong họ phải đền ơn
ta. Nếu người ta không đền ơn lại thì ta sẽ dễ nổ giận. Vì vậy khi bố thí đừng
hy vọng người khác trả ơn mình.

Không nên
chấp vào pháp. Tất cả các pháp đều chỉ dạy cho chúng ta trở về tâm thanh tịnh
của mình. Không nên cho pháp môn này của mình tu hay hơn pháp môn kia.

Không nên
thấy mình hiểu được tí kinh điển, hay là học thuộc lòng kinh điển như con vẹt
rồi đem ra khoe khoang. Đòi chỉ dạy cho người này, người kia trong khi bản thân
mình còn chấp quá nhiều và còn đau khổ. Mình phải cố gắng làm gương cho
những người khác.

Khi ta được
người khác trọng vọng hay ta có địa vị cao trong xã hội, ta không nên tự cao
hay có ý khinh thường người kém hơn mình, mà phải có tính bình đẳng.

Khi thấy
người nào hiểu và giảng kinh này, chúng ta nên cúng dường để kết duyên với
người này. Đến kiếp sau, chúng ta sẽ có cơ hội gặp lại người này, người này sẽ
nhắc nhỡ và giúp đỡ chúng ta tu cho hết đau khổ.

Tất cả mọi
vật
đều do duyên sanh và cũng do duyên hoại. Dù một vật nhỏ như vi trần, hay
lớn như thế giới, tất cả các vật đều không có cố định. Để tâm bồ đề của chúng
ta
được phát triển tốt, chúng ta nên tạo ra một môi trường an lành, nơi mà
không còn có chiến tranh, nghèo đói, … Khi thọ mạng thân sau, chúng ta không bị
sanh vào những nước có chiến tranh, nghèo đói. Nếu chúng ta sanh vào những
nước đó, chúng ta sẽ khó tu thành Phật.

Phải tập tánh
bình đẳng, không nên phân biệt sang hèn, giàu nghèo, tôn giáo, chức tước, địa
vị
, loài người hay loài vật, cư sĩ hay thầy tu, …

Không nên cầu
Phật ở ngoài. Nên cố gắng diệt trừ tham, sân, si,… để trở về Phật tánh của
mình. Phật nói ta là Phật đã thành, các ông là Phật sẽ thành. Nếu là đệ tử của Phật
thì nên tin tưởng nơi Ngài và hãy cố gắng tu tập, đừng nãn chí.

Nếu làm được
tất cả những điều trên thì quý vị sẽ được trở về tâm thanh tịnh, cái tâm rỗng
rang như hư không của mình. Khi đó bất cứ việc gì xảy ra, quý vị không có lo sợ,
buồn giận, hay vui mừng. Khi ấy quý vị biết nguyên nhân của tất cả sự việc sắp
xảy ra và kết quả sẽ ra sao. Vì thấy được nguyên nhân gây ra đau khổ, quý vị sẽ
không tạo thêm nghiệp nữa. Quý vị sẽ không còn trong vòng sanh tử luân
hồi
nữa.

Những lời nói
trên là sự thật, nó rất thiết thực với đời sống hàng ngày của tất cả chúng ta.
Mong quý vị hãy cố gắng làm theo lời Phật dạy. Nếu thấy những lời trên đúng và
đem lại lợi lạc cho quý vị, xin quý vị hãy gởi kinh này đến càng nhiều người
càng tốt. Quý vị có thể đăng lên website của quý vị để cho nhiều người được đọc
kinh
này. Có như vậy thì tất cả chúng ta mới cùng nhau tạo môi trường an lành
trên trái đất này, và tất cả chúng ta cùng sống trong cảnh giới Niết Bàn. Nếu
vị nào sau khi đọc xong kinh này tỏ ra sợ hãi hoặc giận dữ, thì cố tập làm sao
như mình chưa đọc qua kinh này, và cố gắng giữ tâm mình thanh tịnh.

Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật

Giáp Thân, PL
2547
Tháng 2, 2