THÀNH HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM ẤN HÀNH P.L: 2537 – 1993
TIỂU DẪN
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục
đích của bực chơn tu chánh đạo.
Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ
quần sanh trong bốn mươi chín năm; thắp đuốc huệ soi đường tối, rưới mưa hoa
rửa bụi trần. Song le Phật thì vẫn biết chúng sanh có kẻ thượng căn người hạ
trí, chỗ thấy mau chậm chẳng đồng, nên tùy cơ duyên mà hóa độ, bởi vậy giáo
pháp mới có chỗ quyền mà cũng có chỗ thật.
Nguyên kinh Kim Cang này, Phật vì
Trưởng lão Tu Bồ Đề và các bực đại căn thượng trí, nên đem giáo lý huyền
diệu tỏ bày rốt ráo, chỉ cốt tự mình dụng lấy công phu, khai giác lấy mình “Minh
Tâm Kiến Tánh”.
Đến sau, kinh ấy từ xứ Ấn Độ truyền bá
qua nước Trung Hoa, các vị cao Tăng Thiền đức cùng nhau tham cứu, thông huyền
đạt lý, chú giải đành rành, nên từ đó mới gọi là kinh Kim Cang Chư Gia
vậy.
Chúng tôi quan tâm hoạt động vì Phật đạo
tín đồ, chớ không phải vì đường danh nẻo lợi, tùy theo tài non học kém, phô
diễn thật lời, câu văn dễ hiểu, ý nghĩa tầm thường, cốt để phổ thông cho những
người học đạo xem qua đều đặng lĩnh hội, thì mới khỏi phụ cái lòng từ bi bác ái
của Phật ngày xưa, mà cũng không uổng cái công trình của chư Tổ, sắp thành một
quyển kinh “Kim Cang Chư Gia” rất nên huyền bí.
Vả lại Phật pháp là vô thượng thậm thâm
vi diệu, cao chẳng chỗ cùng, sâu không chỗ tột, mà hễ đạo lý càng cao sâu thì
kinh điển lại càng khó diễn. Huống chi quyển kinh này là giáo lý tối thượng
Nhứt thừa, phương pháp hoàn toàn cứu cánh.
Cho nên chúng tôi mong sao chư quí độc
giả cần xem, cần đọc cho đặng nhiều lược, suy xét cho tột cùng, tầm thấu cái ý
vô vi huyền diệu, đặng noi theo cái chánh pháp mà thật hành, vậy mới hẳn thật
là đọc kinh cầu lý.
Kính dẫn CƯ SĨ TRẦN VĂN MINH (Nam
Vang)
NGHI THỨC TỤNG
KINH KIM CANG
DƯƠNG CHI TÁN:
Dương chi tịnh thủy,
Biến sái tam thiên.
Tánh không bát đức lợi nhơn thiên,
Pháp giới quảng tăng diên,
Diệt tội tiêu khiên,
Hỏa diệm hóa hồng liên.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát. (tam
xưng)
TÁN DƯƠNG CHI:
NGHĨA:
Nhành dương nước tịnh,
Rưới khắp tam thiên.
Tánh không tám đức lợi nhơn thiên,
Pháp giới rộng thênh thang,
Tội lỗi tiêu tan,
Lửa đỏ hóa sen hồng.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát. (3
lần)
(ĐẠI BI CHÚ)
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma
ha tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại đại bi tâm
đà la ni:
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô
a rị da bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà
da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất
kiết lật đỏa y mông a rị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na
ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát
bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệc tha. Án a bà lô hê, lô ca đế,
ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma
hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà
da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra,
mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt
sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị
tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra
cẩn trì, địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất
đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà
ha, Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a
tất đà dạ, ta bà ha. Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ,
ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà
ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn
ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô mạn đa ra bạc đà da, ta bà
ha.
Nam mô Cam Lồ Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (3
lần).
LƯ HƯƠNG TÁN
Lư hương sạ ([1])
nhiệt
Pháp giới mông huân
Chư Phật hải hội tất diêu văn
Tùy xứ kiết tường vân
Thành ý phương ân
Chư Phật hiện toàn thân.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (tam xưng)
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN:
Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị tát bà
ha.
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN:
Án, ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt
ma ta phạ, bà phạ truật độ hám.
ÁN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN:
Nam mô tam mãn đa một đà nẩm. Án, độ rô
độ rô, địa vĩ ta bà ha.
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN :
Án, nga nga nẳng tam bà phạ, phiệt nhựt
ra hồng.
TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa đốt,
Cõi pháp xông ung.
Chư Phật hằng hà thảy cảm thông,
Tùy chỗ bủa tường vân,
Thành ý ân cần,
Chư Phật hiện toàn thân.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.( 3
lần).
CHÚ TỊNH KHẨU NGHIỆP:
Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị tát bà
ha.
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP:
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
CHÚ AN THỔ ĐỊA:
Nam mô tam mãn đa một đà nẩm. Án, độ rô
độ rô, địa vĩ ta bà ha.
CHÚ PHỔ CÚNG DƯỜNG:
Án nga nga nẳng tam bà phạ, phiệt nhựt ra
hồng.
PHỤNG THỈNH BÁT KIM CANG
Phụng thỉnh Thanh Trừ Tai Kim Cang.
Phụng thỉnh Bích Độc Kim Cang.
Phụng thỉnh Huỳnh Tùy Cầu Kim Cang.
Phụng thỉnh Bạch Tịnh Thủy Kim Cang.
Phụng thỉnh Xích Thinh Hỏa Kim Cang.
Phụng thỉnh Định Trì Tai Kim Cang.
Phụng thỉnh Tử Hiền Kim Cang.
Phụng thỉnh Đại Thần Kim Cang.
PHỤNG THỈNH TỨ BỒ TÁT
Phụng thỉnh Kim Cang Quyến Bồ Tát.
Phụng thỉnh Kim Cang Sách Bồ Tát.
Phụng thỉnh Kim Cang Ái Bồ Tát.
Phụng thỉnh Kim Cang Ngữ Bồ Tát.
PHÁT NGUYỆN VĂN
Khể thủ tam giới tôn,
Qui mạng thập phương Phật.
Ngã kim phát hoằng nguyện:
Trì thử Kim Cang kinh,
Thượng báo tứ trọng ân.
Hạ tế tam đồ khổ.
Nhược hữu kiến văn giả,
Tất phát Bồ đề tâm.
Tận thử nhứt báo thân,
Đồng sanh Cực Lạc quốc.
THỈNH BÁT KIM CANG
Phụng thỉnh Thanh Trừ Tai Kim Cang
Phụng thỉnh Bích Độc Kim Cang
Phụng thỉnh Huỳnh Tùy Cầu Kim Cang
Phụng thỉnh Bạch Tịnh Thủy Kim Cang
Phụng thỉnh Xích Thinh Hỏa Kim Cang
Phụng thỉnh Định Trì Tai Kim Cang
Phụng thỉnh Tử Hiền Kim Cang
Phụng thỉnh Đại Thần Kim Cang.
THỈNH TỨ BỒ TÁT
Phụng thỉnh Kim Cang Quyến Bồ Tát
Phụng thỉnh Kim Cang Sách Bồ Tát
Phụng thỉnh Kim Cang Ái Bồ Tát
Phụng thỉnh Kim Cang Ngữ Bồ Tát.
LỜI VĂN PHÁT NGUYỆN
Cúi lạy Thầy ba cõi,
Qui y Phật thập phương.
Tôi nay phát thệ nguyện:
Trì tụng kinh Kim Cang.
Trên báo bốn ân trọng,
Dưới cứu khổ ba đường.
Bằng có chi nghe thấy,
Giữ tâm đạo vẹn toàn.
Báo thân này chí nguyện,
Đồng trực vãng Tây phang.
VÂN HÀ PHẠM
Vân hà đắc trường thọ,
Kim Cang bất hoại thân?
Phục dĩ hà nhân duyên,
Đắc đại kiên cố lực?
Vân hà ư thử kinh,
Cứu cánh đáo bỉ ngạn?
Nguyện Phật khai vi mật,
Quảng vị chúng sanh thuyết.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (tam
xưng)
KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.
Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ
Tát Ma Ha Tát.
(tam xưng)
BÀI NIỆM VÂN HÀ
Thế nào đặng trường thọ,
Thân Kim Cang chẳng hoại?
Bởi tại nhân duyên gì,
Đặng oai lực kiên cố?
Thế nào mà kinh này,
Ráo rốt đến bờ nọ?
Xin Phật tỏ ý mầu,
Chỉ dạy chúng sanh rõ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3
lần).
BÀI KỆ KHAI KINH
Vô thượng thậm thâm pháp nhiệm mầu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tầm cầu.
Ta nay đặng gặp xin trì tụng.
Nguyện giải tinh tường nghĩa lý sâu.
Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ
Tát Ma Ha
Tát. (3 lần).
KIM CANG KINH
phụng chiếu dịch.
I. PHÁP HỘI NHÂN
DO
PHẦN ĐỆ NHỨT
1.- Như thị ngã văn:
2.- Nhứt thời, Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ([2])
Cấp Cô Độc viên,…
3.-…Dữ đại Tỳ Khưu chúng, thiên nhị bá
([3]) ngũ
thập nhơn cu.
4.- Nhĩ thời, Thế Tôn thực thời, chước ([4])
y trì bát,…
5.- Nhập Xá Vệ đại thành khất thực.
6.- Ư kỳ thành trung, thứ đệ khất dĩ.
7.- Truyền ([5]) chí
bổn xứ, phản tự cật ([6])
thâu y bát, tẩy túc dĩ,…
8.- Phu tọa ([7]) nhi
tọa.
KINH KIM CANG
Ma La Thập vưng chiếu phiên dịch.
I.- NHÂN DO NÓI
PHÁP
PHẦN THỨ NHỨT
1.- Ta nghe như vầy:
2.- Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, nơi nhà Tịnh xá của ông Cấp Cô Độc, cất
trong vườn cây ông Kỳ Đà…
3.-…Cùng một ngàn hai trăm mươi thầy
đại Tỳ Khưu, cu hội tại đó.
4.- Khi ấy, gần đến giờ ăn của đức Thế Tôn, Ngài bèn mặc y, mang bình bát…
5.-…Vào đại thành, nước Xá Vệ xin ăn.
6.- Ở trong thành, cứ theo thứ lớp mà xin.
7.-…Về đến chỗ ở: dùng cơm xong, đoạn
cất y bát, rửa chơn rồi,…
8.-…Lên chỗ pháp tòa, đã sắp đặt, mà
ngồi.
II.- THIỆN HIỆN
KHẢI THỈNH
PHẬN ĐỆ NHỊ
9.- Thời Trưởng lão Tu Bồ Đề,…
10.-… Tại đại chúng trung, tức tùng tọa
khởi ([8]),
thiên đãn hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính, nhi bạch Phật
ngôn: “Hy hữu Thế Tôn!”.
11.- Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát,
thiện phú chúc chư Bồ Tát…
12.- Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ
nhơn, phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề([9])
tâm,…
13.-…Vân hà ưng trụ ([10]) vân
hà hàng phục kỳ tâm?
14.- Phật ngôn: “Thiện tai! Thiện
tai ! Tu Bồ Đề! Như nhữ sở thuyết: Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phú
chúc chư Bồ Tát…. Nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.
15.- Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A
nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ
tâm…”.
– “Dủy ([11]),
nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”.
II.- THIỆN HIỆN
KHỞI HỎI
PHẦN THỨ HAI
9.- Khi ấy Trưởng lão Tu Bồ Đề…
10.-… Ở trong hàng đại chúng, liền đứng
dậy, đến nơi pháp tòa, trịch y nửa thân bên vai hữu, quì gối hữu sát đất, chắp
tay cung kính mà bạch Phật rằng: “Như đức Thế Tôn ! Ít có”.
11.-Như Lai hay đoái tưởng các Bồ Tát,
hay giao phó dặn dò các Bồ Tát…
12.-Bạch đức Thế Tôn! Như có trai lành,
gái tín nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,…
13.-… Nên trụ thế nào? Nên hàng phục
cái vọng tâm thế nào?.
14.-Phật khen: “Đáng khen cho! Đáng
khen cho! Này Tu Bồ Đề! Theo lời ông vừa nói: Như Lai hay đoái tưởng các Bồ
Tát, hay giao phó dặn dò các Bồ Tát… Vậy nay, ông hãy lóng nghe. Ta đáng vì
ông mà nói.
15.-Như trai lành, gái tín nào phát tâm
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên trụ như vậy, nên hàng phục cái tâm như
vậy…”.
– “Vâng, vâng, bạch đức Thế Tôn! Con
nguyện hết lòng muốn nghe”.
III.- ĐẠI THỪA
CHÁNH TÔNG
PHẬN ĐỆ TAM
16.- Phật cáo Tu Bồ Đề: “Chư Bồ Tát
Ma ha tát, ưng như thị hàng phục kỳ tâm:
17.- Sở hữu nhứt thiết ([12])
chúng sanh chi loại:
18.- Nhược noãn sanh ([13]),
nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc,
nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng, phi vô tưởng,…
19.-… Ngã giai linh nhập Vô Dư Niết bàn
nhi diệt độ chi.
20.- Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô
biên, chúng sanh, thiệt vô chúng sanh đắc diệt độ giả.
21.- Hà dĩ cố? – Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát
hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ
Tát”.
IV.- DIỆU HẠNH VÔ
TRỤ
PHẦN ĐỆ TỨ
22.- Phú ([14])
thứ: Tu Bồ Đề!.
23.- Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư
bố thí…
III.- ĐẠI THỪA
TÔNG CHÁNH
PHẦN THỨ BA
16.- Phật bảo Tu Bồ Đề: “Các đại Bồ
Tát nên hàng phục cái vọng tâm như vậy.
17.- Bằng có cả thảy các loại chúng sanh:
18.- Hoặc sanh trứng, sanh con, sanh chỗ
ướt, hóa sanh, hoặc có sắc, không sắc, có tư tưởng, không tư tưởng, chẳng phải
có tư tưởng, chẳng phải không có tư tưởng…
19.-… Ta đều khiến cho đặng vào Vô Dư
Niết bàn, mà diệt độ.
20.- Diệt độ chúng sanh vô lượng vô số vô
biên như vậy, nhưng thiệt chẳng có chúng sanh nào mà đặng diệt độ cả.
21.- Bởi cớ sao? Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát
mà còn có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì chẳng phải
là Bồ Tát”.
IV.- HẠNH MẦU
KHÔNG TRỤ
PHẦN THỨ TƯ
22.- Lại nói tiếp: Này Tu Bồ Đề.
23.-… Bồ Tát làm việc bố thí, đúng nơi
pháp, thì không có chỗ trụ.
24.- Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ
thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí.
25.- Tu Bồ Đề! Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng.
26.- Hà dĩ cố? Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ
phước đức bất khả tư lương.
27.- Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Đông phương hư
không khả tư lương phủ?”.
– “Phất dã, Thế Tôn!”.
– “Tu Bồ Đề! Nam, Tây, Bắc phương tứ
duy, thượng hạ hư không khả tư lương phủ?”.
– “Phất dã, Thế Tôn!”.
– “Tu Bồ Đề! Bồ Tát vô trụ tướng bố
thí, phước đức diệc phục như thị: Bất khả tư lương.
Tu Bồ Đề! Bồ Tát đản ưng như sở giáo
trụ”.
V. – NHƯ LÝ THIỆT
KIẾN
PHẦN ĐỆ NGŨ
28.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ
thân tướng kiến Như Lai phủ?”.
29.- “Phất dã, Thế Tôn! Bất khả dĩ
thân tướng đắc kiến Như Lai.
30.- Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết thân
tướng tức phi thân tướng”.
24.- Là nói: chẳng trụ sắc mà bố thí,
chẳng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí.
25.- Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên bố thí như vậy,
chẳng nên trụ tướng.
26.- Bởi cớ sao? Nếu Bồ Tát bố thí chẳng
trụ tướng, thì phước đức không thể so lường đặng.
27.- Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Hư không
phương Đông, có so lường đặng chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn ! chẳng
đặng”.
– “Tu Bồ Đề! Còn như hư không phương
Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn hướng bên cạnh, phương trên và phương dưới, có
so lường đặng chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn ! chẳng
đặng”.
“Tu Bồ Đề! Bồ Tát bố thí mà chẳng
trụ tướng, thì phước đức lại cũng như vậy: không thể so lường đặng.
Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên trụ theo chỗ Ta dạy
đó”. (trụ chỗ không trụ).
V.- RÕ LÝ NHƯ NHƯ
PHẦN THỨ NĂM
28.- “Này Tu Bồ Đề! Ý của ông thế
nào? Có nên dùng thân tướng mà cho là Như Lai chăng?”.
29.- “Bạch đức Thế Tôn! Không. Không
nên dùng thân tướng mà cho là Như Lai.
30.- Bởi cớ sao? Bởi Như Lai thường nói
thân tướng, tức chẳng phải thân tướng”.
31.- Phật cáo Tu Bồ Đề: “Phàm sở hữu
tướng giai thị hư vọng; nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”.
VI.- CHÁNH TÍN HY
HỮU
PHẬN ĐỆ LỤC
32.- Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: “Thế
Tôn! Phả hữu chúng sanh đắc văn như thị ngôn thuyết chương cú, sanh thiệt tín
phủ?”.
Phật cáo Tu Bồ Đề: “Mạc tác thị
thuyết! Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bá tuế, hữu trì giới tu phước giả, ư thử
chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thiệt.
33.- Đương tri thị nhơn, bất ư nhứt Phật,
nhị Phật, tam, tứ, ngũ Phật, nhi chúng ([15])
thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở chúng chư thiện căn.
34.- Văn thị chương cú, nãi chí nhứt niệm
sanh tịnh tín giả. Tu Bồ Đề! Như Lai tất tri tất kiến thị chư chúng sanh đắc
như thị vô lượng phước đức.
35.- Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh vô phục
ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, vô pháp tướng, diệc vô
phi pháp tướng”.
31.- Phật bảo Tu Bồ Đề: “Phàm chỗ
nào có tướng đều là hư vọng, bằng cho các tướng chẳng phải tướng tức rõ đặng
Như Lai”.
VI.- CHÁNH TÍN ÍT
CÓ
PHẦN THỨ SÁU
32.- Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức
Thế Tôn! Như có chúng sanh nào đặng nghe những câu bài giảng giải như vậy, có
sanh lòng tin thiệt chăng?”.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Chớ có nói lời
ấy. Khi Như Lai diệt độ rồi, sau năm trăm năm sau, có kẻ nào trì giới tu phước
mà sanh lòng tin những câu bài ấy, thì lấy đó làm thiệt.
33.- Nên biết người ấy, chẳng những là
gieo căn lành trong một kiếp Phật, hai kiếp Phật, ba, bốn, năm kiếp Phật, mà đã
gieo các căn lành đến vô lượng ngàn muôn kiếp Phật rồi.
34.- Nghe những câu bài ấy, cho đến nhứt
niệm sanh lòng tin chắc thì Tu Bồ Đề này! Như Lai đều biết hết thấy hết, các
chúng sanh ấy đặng cái phước đức vô lượng như vậy (gieo căn lành).
35.- Bởi cớ sao? – Bởi các chúng sanh ấy
không còn có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có
tướng pháp, cũng không có tướng phi pháp”.
36.- Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh, nhược
tâm thủ tướng, tức vi trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả; nhược thủ pháp
tướng, tức trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.Hà dĩ cố? Nhược thủ phi pháp
tướng, tức trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
37.- Thị cố, bất ưng thủ pháp, bất ưng
thủ phi pháp.
38.- Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường
thuyết nhữ đẳng Tỳ Khưu tri ngã thuyết pháp như phạt ([16])
dụ giả; pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp?”.
VII.- VÔ ĐẮC VÔ
THUYẾT
PHẬN ĐỆ THẤT
39.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? – Như
Lai đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề gia? Như Lai hữu sở thuyết pháp
gia?”.
Tu Bồ Đề ngôn: “Như ngã giải Phật sở
thuyết nghĩa, vô hữu định pháp danh A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, diệc vô hữu
định pháp Như Lai khả thuyết.
40.- Hà dĩ cố? – Như Lai sở thuyết pháp,
giai bất khả thủ, bất khả thuyết phi pháp, phi phi pháp.
36.- Bởi cớ sao? – Bởi các chúng sanh ấy,
nếu lòng còn chấp tướng, tức còn trước tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
Bằng chấp pháp tướng, cũng là trước tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả – Bởi
cớ sao? Bằng chấp phi pháp tướng, cũng là trước tướng ngã, nhơn, chúng sanh,
thọ giả.
37.- Như thế thì, chẳng nên chấp pháp,
cũng chẳng nên chấp phi pháp.
38.- Bởi cái nghĩa ấy, nên ta thường dạy
các thầy Tỳ Khưu phải biết Ta nói pháp, ví như cái bè; pháp còn phải bỏ thay,
huống chi là chẳng phải pháp”.
VII.- KHÔNG CHI
ĐẮC THUYẾT
PHẦN THỨ BẢY
39.- “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? –
Như Lai có đặng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như Lai có chỗ chi
nói pháp ấy chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Như con rõ
nghĩa của Phật nói, thì không có định chắc pháp chi kêu là Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác, cũng không có định chắc pháp chi mà Như Lai nói.
40.- Bởi cớ sao? Bởi chỗ nói pháp Như Lai
đều chẳng chấp, là chẳng nói phi pháp, cũng chẳng phải phi pháp.
41.- Sở dĩ giả hà? – Nhứt thiết Hiền
Thánh giai dĩ vô vi pháp, nhi hữu si ([17])
biệt”.
VIII.- Y PHÁP
XUẤT SANH
PHẬN ĐỆ BÁT
42.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? – Nhược
nhơn mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo ([18])
dĩ dụng bố thí, thị nhơn sở đắc phước đức ninh vi đa phủ?”.
43.- Tu Bồ Đề ngôn: “Thậm đa, Thế
Tôn!
Hà
dĩ cố? – Thị phước đức, tức phi phước đức tánhthị cố Như Lai thuyết phước đức
đa”.
44.- Nhược phục hữu nhân, ư thử kinh
trung thọ trì nãi chí tứ cú kệ đẳng vị tha nhơn thuyết, kỳ phước thắng bỉ.
45.- Hà dĩ cố? – Tu Bồ Đề! Nhứt thiết chư
Phật cập chư Phật A nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp giai tùng thử kinh xuất.
46.- Tu Bồ Đề! Sở vị Phật Pháp giả, tức
phi Phật Pháp.
41.- Sở dĩ sao? Cả thảy Thánh Hiền đều
dùng pháp vô vi mà cũng có hơn kém”.
VIII.- NƯƠNG PHÁP
XUẤT SANH
PHẦN THỨ TÁM
42.- “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào?
Bằng có người dùng bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới, đem ra mà bố
thí, người ấy có đặng phước đức nhiều chăng?”.
43.- Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức
Thế Tôn! Rất nhiều.
Bởi cớ sao? Bởi phước đức ấy chẳng phải
phước đức tánh, cho nên Như Lai nói phước đức nhiều”.
44.- Bằng có người thọ trì kinh này, nhẫn
đến những tứ cú kệ, lại vì người mà diễn thuyết, thì phước đức này hơn phước
đức kia.
45.- Bởi cớ sao? – Tu Bồ Đề, cả thảy chư
Phật với pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật, đều do nơi kinh này
mà có ra.
46.- Này Tu Bồ Đề! Gọi là Phật Pháp ấy,
nhưng chẳng phải Phật Pháp.
IX.- NHỨT TƯỚNG
VÔ TƯỚNG
PHẬN ĐỆ CỬU
47.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Tu Đà
Hoàn năng tác thị niệm: Ngã đắc Tu Đà Hoàn quả phủ?”.
Tu Bồ Đề ngôn: “Phất dã, Thế Tôn!
Hà dĩ cố? – Tu Đà Hoàn danh vi Nhập Lưu,
nhi vô sở nhập: Bất nhập sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, thị danh Tu Đà Hoàn ([19])”.
48.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Tư Đà
Hàm, năng tác thị niệm: Ngã đắc Tư Đà Hàm quả phủ?”.
Tu Bồ Đề ngôn: “Phất dã, Thế Tôn!
Hà dĩ cố? – Tư Đà Hàm danh Nhứt Vãng Lai,
nhi thiệt vô Vãng Lai, thị danh Tư Đà Hàm”.
49.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? A Na Hàm
năng tác thị niệm: Ngã đắc A Na Hàm quả phủ?”.
Tu Bồ Đề ngôn: “Phất dã, Thế Tôn!
Hà dĩ cố? – A Na Hàm danh vi Bất Lai, nhi
thiệt vô Bất Lai, thị cố danh A Na Hàm”.
50.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? A La Hán
năng tác thị niệm : Ngã đắc A La Hán đạo phủ?”.
IX MỘT TƯỚNG KHÔNG TƯỚNG
PHẦN THỨ CHÍN
47.- “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào?
Tu Đà Hoàn có tưởng như vầy: Tưởng mình đặng quả Tu Đà Hoàn chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn!Không thể đặng.
Bởi cớ sao? – Bởi Tu Đà Hoàn, kêu là quả
Nhập Lưu, nhưng không chỗ nhiễm : là chẳng nhiễm sắc, thinh, hương, vị, xúc,
pháp, nên gọi là Tu Đà Hoàn”.
48.- “Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Tư Đà
Hàm có tưởng như vầy: Tưởng mình đặng quả Tư Đà Hàm chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Không thể đặng.
Bởi cớ sao? Bởi Tư Đà Hàm, kêu là quả
Nhứt Vãng Lai, nhưng thiệt không cái tướng Vãng Lai, nên gọi là Tư Đà
Hàm”.
49.- “Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? A Na
Hàm có tưởng như vầy: Tưởng mình đặng quả A Na Hàm chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Không thể đặng.
Bởi cớ sao? – Bởi A Na Hàm, kêu là quả
Bất Lai, nhưng không chấp cái tướng Bất Lai nên gọi là A Na Hàm”.
50.- “Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? A La
Hán có tưởng như vầy: Tưởng mình đặng đạo A La Hán chăng?”.
Tu Bồ Đề ngôn: “Phất dã, Thế Tôn!
Hà dĩ cố? Thiệt vô hữu pháp danh A La
Hán.
Thế Tôn! Nhược A La Hán tác thị niệm: Ngã
đắc A La Hán đạo, tức vi trước ngã, nhơn, chúng sanh thọ giả.
51.- Thế Tôn! Phật thuyết ngã đắc Vô
Tranh tam muội, nhơn trung tối vi đệ nhứt, thị đệ nhứt, ly dục ([20]) A La
Hán.
Thế Tôn ! Ngã bất tác thị niệm : Ngã thị
ly dục A La Hán.
52.- Thế Tôn! Ngã, nhược tác thị niệm:
Ngã đắc A La Hán đạo, Thế Tôn tức bất thuyết: Tu Bồ Đề thị nhạo A Lan Na hánh ([21]) giả.
Dĩ Tu Bồ Đề thiệt vô sở hành, nhi danh Tu Bồ Đề thị nhạo A Lan Na hánh”.
X.- TRANG NGHIÊM
TỊNH ĐỘ
PHẬN ĐỆ THẬP
53.- Phật cáo Tu Bồ Đề: “Ư ý vân hà?
Như Lai tích tại Nhiên Đăng Phật sở; ư pháp, hữu sở đắc phủ?”.
– “Phất dã, Thế Tôn! Như Lai tại
Nhiên Đăng Phật sở, ư pháp thiệt vô sở đắc”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Không thể đặng.
Bởi cớ sao? – Bởi thiệt không có pháp
chi, kêu là A La Hán cả.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu A La Hán mà có
tưởng như vầy: Tưởng mình đặng đạo A La Hán, tức là trước tướng: Ngã, nhơn, chúng
sanh, thọ giả.
51.- Bạch đức Thế Tôn! Phật nói con là
người đặng pháp Vô Tranh tam muội, thiệt đúng bực nhứt, mà cũng là bực Ly Dục A
La Hán thứ nhứt nữa.
Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng tưởng như vậy
: Tôi mới phải là bực ly dục A La Hán.
52.- Bạch đức Thế Tôn! Bằng con có tưởng
như vầy: Con đặng đạo A La Hán thì đức Thế Tôn chẳng có nói : Tu Bồ Đề này ưa
làm theo hạnh A Lan Na. Bởi Tu Bồ Đề này thiệt không có làm cái chi, mới gọi là
Tu Bồ Đề ưa làm theo hạnh A Lan Na cho”.
X.- TRANG NGHIÊM
TỊNH ĐỘ
PHẦN THỨ MƯỜI
53.- Phật bảo Tu Bồ Đề: “Ý ông thế
nào? Như Lai thuở trước ở chỗ Phật Nhiên Đăng; pháp, có chỗ chi đặng
chăng?”.
“Bạch đức Thế Tôn ! Không – Như Lai
khi ở chỗ Phật Nhiên Đăng, thiệt không có chỗ chi đặng pháp cả”.
54.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? – Bồ Tát
trang nghiêm Phật độ phủ?”.
– “Phất dã, Thế Tôn !
Hà dĩ cố? – Trang nghiêm Phật độ giả, tức
phi trang nghiêm thị danh trang nghiêm”.
55.- “Thị cố, Tu Bồ Đề! Chư Bồ Tát
Ma ha tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng
trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp, sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
56.- Tu Bồ Đề! Thí như hữu nhơn, thân như
Tu Di sơn ([22])
vương, ư ý vân hà? Thị thân vi đại phủ?”.
Tu Bồ Đề ngôn: “Thậm đại, Thế Tôn !
Hà dĩ cố? – Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân”.
XI.- VÔ VI PHƯỚC
THẮNG
PHẬN ĐỆ THẬP NHỨT
57.- Tu Bồ Đề! Như hằng hà trung sở hữu
sa số, như thị sa đẳng hằng hà, ư ý vân hà? Thị chư hằng hà sa ninh vi đa
phủ?”.
54.- “Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Bồ
Tát có trang nghiêm Phật độ chăng ?”.
– “Bạch đức Thế Tôn ! Không.
Bởi cớ sao? Bởi trang nghiêm Phật độ,
nhưng chẳng phải trang nghiêm, chỉ cưỡng danh là trang nghiêm”.
55.- Bởi vậy, này Tu Bồ Đề. Các đại Bồ
Tát nên sanh tâm thanh tịnh như vậy; chẳng nên sanh tâm trụ sắc, chẳng nên sanh
tâm trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp; nên sanh tâm không chỗ chi trụ.
56.- Tu Bồ Đề! Ví như có người, thân bằng
núi chúa Tu Di ý ông thế nào – Thân ấy có lớn chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Rất
lớn. Bởi cớ sao? – Bởi Phật nói chẳng phải thân, mới gọi là thân lớn”.
XI.- VÔ VI PHƯỚC
LỚN
PHẦN THỨ MƯỜI MỘT
57.- “Này Tu Bồ Đề! Như dùng số cát
trong sông Hằng mà ví dụ có những sông Hằng khác nhiều bằng số cát như vậy – Ý
ngươi thế nào? Số cát của những sông Hằng ấy, saocó nhiều chăng?”.
58.- Tu Bồ Đề ngôn: “Thậm đa, Thế Tôn!
đản chư hằng hà, thượng đa vô số, hà huống kỳ sa !”.
59.- “Tu Bồ Đề! Ngã kim thiệt ngôn
cáo nhữ! Nhược hữu: Thiện nam tử, thiện nữ nhơn dĩ thất bảo mãn nhĩ sở hằng hà
sa số tam thiên đại thiên thế giới dĩ tụng bố thí, đắc phước đa phủ?”.
Tu Bồ Đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn!
Phật cáo Tu Bồ Đề: “Nhược thiện nam
tử, thiện nữ nhơn ư thử kinh trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng vị tha nhơn
thuyết, nhi thử phước đức thắng tiền phước đức.
XII.- TÔN TRỌNG
CHÁNH GIÁO
PHẬN ĐỆ THẬP NHỊ
60.- Phục thứ: “Tu Bồ Đề! Tùy thuyết
thị kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng đương tri thử xứ, nhứt thiết thế gian: Thiên,
nhơn, A tu la giai ưng cúng dường ([23])
như Phật tháp miếu.
61.- Hà huống, hữu nhơn tận năng thọ trì
đọc tụng!
Tu Bồ Đề! Đương tri thị nhơn thành tựu
Tối thượng Đệ nhứt hy hữu chi pháp. Nhược thị kinh điển sở tại chi xứ, tức vi
hữu Phật, nhược tôn trọng đệ tử”.
58.- Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức
Thế Tôn ! Rất nhiều. Những sông Hằng còn nhiều vô số thay, huống chi là
cát!”.
59.- “Này Tu Bồ Đề! Nay ta bảo thiệt
ngươi! Nếu có trai lành, gái tín nào, dùng bảy báu đầy cả hằng hà sa số tam
thiên đại thiên thế giới ấy, đem ra mà bố thí, có đặng phước nhiều
chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Rất nhiều”.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Bằng trai lành,
gái tín nào thọ trì theo trong kinh này cho đến những tứ cú kệ và diễn thuyết
lại cho người khác, thì phước đức ấy hơn phước đức trước kia”.
XII.- TÔN TRỌNG
LÝ CHÁNH
PHẦN THỨ MƯỜI HAI
60.- Lại nói tiếp: “Này Tu Bồ Đề!
Chỗ nào tứ cú kệ, phải biết chỗ ấy, cả thảy thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la đều
nên cúng dường, cũng như tháp chùa, của Phật vậy.
61.- Huống chi, là người thọ trì, đọc
tụng toàn cả kinh này!
– Tu Bồ Đề! Phải biết người ấy thành tựu
đặng cái pháp Tối thượng Đệ nhứt ít có. Bằng như chỗ nào có kinh điển này, tức
có Phật, hoặc như bực đệ tử tôn trọng vậy”.
XIII.- NHƯ PHÁP
THỌ TRÌ
PHẬN ĐỆ THẬP TAM
62.- Nhĩ thời Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn:
“Thế Tôn! Đương hà danh thử kinh, ngã đẳng vân hà phụng trì?”.
Phật cáo Tu Bồ Đề: “Thị kinh danh vi
Kim Cang Bát Nhã Ba la mật dĩ thị danh tự, nhữ đương phụng trì.
63.- Sở dĩ giả hà? – Tu Bồ Đề! Phật
thuyết Bát Nhã Ba la mật, tức phi Bát Nhã Ba la mật, thị danh Bát Nhã Ba la
mật.
64.- Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu sở
thuyết pháp thủ?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: “Thế Tôn!
Như Lai vô sở thuyết”.
65.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Tam
thiên đại thiên thế giới sở hữu vi trần thị vi đa phủ?”.
Tu Bồ Đề ngôn: “Thậm đa, Thế Tôn
!”.
Tu Bồ Đề! Chư vi trần, Như Lai thuyết phi
vi trần, thị danh, vi trần. Như Lai thuyết thế giới, phi thế giới, thị danh thế
giới.
XIII.- THỌ TRÌ
THEO PHÁP
PHẦN THỨ MƯỜI BA
62.- Khi ấy Tu Bồ Đề bạch Phật:
“Bạch đức Thế Tôn! Kinh này nên đặt tên chi? Chúng tôi phải phụng trì thế
nào?”.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Kinh này đặt tên
là Kim Cang Bát Nhã Ba la mật. Ông nên dùng nghĩa của danh từ ấy mà phụng trì.
63.- Sở dĩ sao? – Này Tu Bồ Đề! Phật nói
Bát Nhã Ba la mật, nhưng chẳng phải Bát nhã ba la mật chỉ cưỡng danh là Bát Nhã
Ba la mật.
64.- Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? – Như
Lai có chỗ chi thuyết pháp chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Như Lai không có chỗ chi thuyết pháp cả”.
65.- “Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? –
Trong tam thiên đại thiên thế giới có những vi trần, vậy là nhiều chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Rất nhiều”.
– Tu Bồ Đề! Những vi trần, Như Lai nói
chẳng phải vi trần chỉ cưỡng danh là vi trần. Như Lai nói thế giới, cũng chẳng
phải thế giới, chỉ cưỡng danh là thế giới.
66.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? – Khả dĩ
tam thập nhị tướng kiến Như Lai phủ?” – Phất dã, Thế Tôn ! Bất khả dĩ tam thập nhị tướng đắc
kiến Như Lai.
Hà dĩ cố? – Như Lai thuyết tam thập nhị
tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng?”.
67.- “Tu Bồ Đề! Nhược hữu thiện nam
tử; thiện nữ nhơn, dĩ hằng hà sa đẳng thân mạng([24])
bố thí…
68.- Nhược phục hữu nhơn ư thử kinh
trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn thuyết, kỳ phước thậm
đa”.
XIV.- LY TƯỚNG
TỊCH DIỆT
PHẬN ĐỆ THẬP TỨ
69.- Nhĩ thời Tu Bồ Đề văn thuyết thị
kinh, thâm giải nghĩa thu, thế lụy bi khấp, nhi bạch Phật ngôn: “Hy hữu
Thế Tôn! Phật thuyết như thị thậm thâm kinh điển; ngã tùng tích lai sở đắc huệ
nhãn, vị tằng đắc văn như thị chi kinh.
70.- Thế Tôn! Nhược phục hữu nhơn đắc văn
thị kinh, tín tâm thanh tịnh, tức sanh thiệt tướng; đương tri thị nhơn thành
tựu đệ nhứt hy hữu công đức”.
66.- Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? – Nên dùng
ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn! Không – Chẳng
nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai.
Bởi cớ sao? – Bởi Như Lai nói ba mươi hai
tướng, nhưng chẳng phải tướng, chỉ cưỡng danh là ba mươi hai tướng”.
67.- “Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành,
gái tín nào đem thân mạng bằng như số cát sông Hằng mà bố thí…
68.- Nếu lại có người giữ theo trong kinh
này mà thọ trì cho đến những tứ cú kệ và diễn thuyết lại cho người khác, thì
đặng phước rất nhiều”.
XIV.- LÌA TƯỚNG
VẮNG LẶNG
PHẦN THỨ MƯỜI BỐN
69.- Khi ấy, Tu Bồ Đề nghe nói kinh này,
tỏ đặng cái nghĩa sâu xa, nên sa nước mắt, than khóc mà bạch Phật rằng:
“Như đức Thế Tôn ít có! Phật nói kinh điển rất sâu xa dường ấy, tôi từ khi
đặng huệ nhãn đến nay, chưa từng nghe đặng kinh như vậy.
70.- Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người
đặng nghe kinh này, mà lòng tin thanh tịnh, bèn sanh thiệt tướng, phải biết
người ấy thành tựu cái công đức thứ nhứt ít có”.
71.- Thế Tôn! Thị thiệt tướng giả, tức
thị phi tướng; thị cố Như Lai thuyết danh thiệt tướng.
72.- Thế Tôn! Ngã kim đắc văn như thị
kinh điển, tín giải thọ trì bất túc vi nan.
73.- Nhược đương lai thế, hậu ngũ bá ([25]) tuế,
kỳ hữu chúng sanh đắc văn thị kinh, tín giải thọ trì, thị nhơn tức vi đệ nhứt
hy hữu.
Hà dĩ cố? – Thử nhơn vô ngã tướng, vô
nhơn tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.
74.- Sở dĩ giả hà? – Ngã tướng tức thị
phi tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức thị phi tướng.
Hà dĩ cố? – Ly nhứt thiết tướng, tức danh
chư Phật”.
75.- Phật cáo Tu Bồ Đề: “Như thị !
Như thị !”.
76.- Nhược phục hữu nhơn đắc văn thị
kinh, bất kinh, bất bố ([26]), bất
úy, đương tri thị nhơn, thậm vi hy hữu.
77.- Hà dĩ cố? – Tu Bồ Đề! Như Lai thuyết
đệ nhứt Ba la mật, tức phi đệ nhứt Ba la mật, thị danh Đệ nhứt Ba la mật.
71.- Bạch đức Thế Tôn! Thiệt tướng ấy,
nhưng chẳng phải tướng; cho nên Như Lai nói: Cưỡng danh là thiệt tướng.
72.- Bạch đức Thế Tôn! Con nay đặng nghe
kinh điển như vậy, tin hiểu mà thọ trì, chẳng đủ là khó.
73.- Nếu qua đến đời vị lai, sau năm trăm
năm sau, có chúng sanh đặng nghe kinh này, tin, hiểu mà thọ trì, thì người ấy
thiệt là đệ nhứt rất ít có.
Bởi cớ sao? – Bởi người ấy, không ngã
tướng, không nhơn tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng.
74.- Sở dĩ sao? – Ngã tướng tức chẳng
phải tướng, mà nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng cũng tức là chẳng
phải tướng.
Bởi cớ sao? – Lìa cả thảy tướng, tức là
chư Phật?”.
75.- Phật bảo Tu Bồ Đề: “Như vậ !,
như vậy !”.
76.- Lại như có người đặng nghe kinh này,
chẳng ngại, chẳng sợ, chẳng nhút nhát, phải biết người ấy rất là ít có.
77.- Bởi cớ sao? Tu Bồ Đề này! Như Lai
nói Ba la mật thứ nhứt, (Bát Nhã Ba la mật) nhưng chẳng phải Ba la mật thứ
nhứt, chỉ cưỡng danh là Ba la mật thứ nhứt.
78.- “Tu Bồ Đề! Nhẫn nhục Ba la mật,
Như Lai thuyết, phi nhẫn nhục Ba la mật, thị danh nhẫn nhục Ba la mật.
79.- Hà dĩ cố? – Tu Bồ Đề! Như ngã tích
vi Ca Lợi Vương cát triệu thân thể, ngã ư nhĩ thời vô ngã tướng, vô nhơn tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.
Hà dĩ cố? – Ngã ư vãng tích tiết tiết chi
giải thời; nhược hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng,
ưng sanh sân hận.
Tu Bồ Đề! Hựu niệm quá khứ, ư ngũ bá thế
tác nhẫn nhục Tiên nhơn, ư nhĩ sở thế, vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng
sanh tướng, vô thọ giả tướng.
80.- Thị cố, Tu Bồ Đề! – Bồ Tát ưng ly nhứt
thiết tướng, phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm.
81.- Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng
trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng sanh vô sở trụ tâm; nhược tâm hữu
trụ, tức vi phi trụ.
82.- Thị cố Phật thuyết Bồ Tát tâm, bất
ưng trụ sắc bố thí.
78.- Tu Bồ Đề! Nhẫn nhục Ba la mật, Như
Lai nói chẳng phải nhẫn nhục Ba la mật, chỉ cưỡng danh là nhẫn nhục Ba la mật.
79.- Bởi cớ sao? – Này Tu Bồ Đề! Như ta
thuở trước bị vua Ca Lợi cắt đứt thân thể, trong khi ấy, Ta không ngã tướng,
không nhơn tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng.
Bởi cớ sao? – Hồi thuở trước, khi Ta bị
rã rời xương thịt, nếu Ta có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả
tướng, tức phải sanh lòng hờn giận.
Tu Bồ Đề! Lại nhớ đến năm trăm năm đời về
trước, Ta làm vị Tiên nhẫn nhục, trong cái đời ấy, không ngã tướng, không nhơn
tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng.
80.- Bởi vậy, Tu Bồ Đề này! Bồ Tát nên
lìa cả thảy tướng, mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
81.- Chẳng nên sanh tâm trụ sắc, chẳng
nên sanh tâm trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp, nên sanh tâm, không có chỗ trụ.
Bằng tâm có trụ, tức là chẳng phải trụ.
82.- Cho nên, Phật nói tâm của Bồ Tát
chẳng nên trụ sắc mà bố thí.
83.- Tu Bồ Đề! Bồ Tát vị lợi ích nhứt
thiết chúng sanh, cố ưng như thị bố thí.
84.- Như Lai thuyết nhứt thiết chư tướng,
tức thị phi tướng; hựu thuyết: Nhứt thiết chúng sanh, tức phi chúng sanh.
85.- Tu Bồ Đề! Như Lai thị chơn ngữ giả,
thiệt ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả.
86.- Tu Bồ Đề! Như Lai sở đắc pháp, thử
pháp vô thiệt, vô hư.
87.- Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát tâm, trụ ư
pháp nhi hành bố thí, như nhơn nhập ám, tức vô sở kiến. Nhược Bồ Tát tâm, bất
trụ pháp nhi hành bố thí, như nhơn hữu mục, nhựt quang minh chiếu kiến chủng
chủng sắc.
88.- Tu Bồ Đề! Đương lai chi thế, nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn năng ư thử kinh thọ trì đọc tụng, tức vi Như Lai dĩ Phật trí huệ; tất tri thị nhơn, tất kiến thị nhơn, giai đắc thành tựu vô lượng vô biên công đức.
83.- Tu Bồ Đề! Bồ Tát vì lợi ích cho cả
thảy chúng sanh, nên phải bố thí như vậy.
84.- Như Lai nói cả thảy tướng, tức là
chẳng phải tướng; lại nói: Cả thảy chúng sanh, tức là chẳng phải chúng sanh.
85.- Tu Bồ Đề! Như Lai nói chơn chánh,
nói chắc thiệt, nói đúng lý, chẳng nói giả dối, chẳng nói lạ kỳ.
86.- Tu Bồ Đề! Pháp của Như Lai, đặng
pháp ấy không thiệt không hư.
87.- Tu Bồ Đề! Nếu lòng của Bồ Tát còn
chấp pháp mà làm việc bố thí, thì cũng như người vào chỗ tối, không thấy chi
cả. Còn như lòng của Bồ Tát, chẳng chấp pháp mà làm việc bố thí, thì cũng như
người đã có con mắt, mà lại được ánh sáng chói rõ của mặt trời thấy tất cả mọi
việc.
88.- Tu Bồ Đề! Qua đến đời sau, nếu có
trai lành gái tín nào giữ theo kinh này mà thọ trì đọc tụng, tức là Như Lai
dùng trí huệ của Phật; biết chắc người ấy, thấy chắc người ấy, đều thành tựu
đặng cái công đức vô lượng vô biên.
XV.- TRÌ KINH
CÔNG ĐỨC
PHẬN ĐỆ THẬP NGŨ
89.- Tu Bồ Đề! Nhược hữu thiện nam tử,
thiện nữ nhơn, sơ nhựt phần dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí; trung nhựt phần,
phục dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí; hậu nhựt phần, diệc dĩ hằng hà sa đẳng
thân bố thí, như thị vô lượng bá thiên vạn ức kiếp, dĩ thân bố thí…
Nhược phục hữu nhơn văn thử kinh điển,
tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ. Hà huống thơ ([27])
tả thọ trì, đọc tụng, vị nhơn giải thuyết!
90.- Tu Bồ Đề! Dĩ yếu ngôn chi, thị kinh
hữu bất khả tư nghị ([28]), bất
khả xưng lượng vô biên công đức.
91.- Như Lai vị phát Đại thừa giả thuyết,
vị phát Tối thượng thừa giả thuyết.
92.- Nhược hữu nhơn năng thọ trì đọc
tụng, quảng vị nhơn thuyết, Như Lai tất tri thị nhơn, tất kiến thị nhơn, giai
đắc thành tựu bất khả lượng, bất khả xưng, vô hữu biên.
XV.- CÔNG ĐỨC TRÌ
KINH
PHẦN THỨ MƯỜI LĂM
89.- “Tu Bồ Đềnày ! Nếu có trai
lành, gái tín nào, buổi mai dùng thân mạng bằng số cát sông Hằng mà bố thí,
buổi trưa lại dùng thân mạng bằng số cát sông Hằng mà bố thí, buổi chiều cũng
dùng thân mạng bằng số cát sông Hằng mà bố thí, dùng thân mạng mà bố thí vô
lượng trăm ngàn muôn ức kiếp như vậy…
Bằng lại có người nghe kinh điển này,
lòng tin chẳng trái, thì phước đức ấy hơn phước đức bố thí kia. Huống chi là
biên tả, thọ trì, đọc tụng và vì người mà giải thuyết!
90.- Tu Bồ Đề! Nói tóm lại, thì kinh này
có cái công đức vô biên, không thể bàn nghĩ đặng, không thể cân lường đặng.
91.- Như Lai vì phát khởi cho bực Đại
thừa mà nói, vì phát khởi cho bực Tối Thượng thừa mà nói.
92.- Bằng có người hay thọ trì đọc tụng
(kinh này) và diễn thuyết rộng khắp ra cho người khác, thì Như Lai đều biết cho
người ấy, đều thấy cho người ấy, thành tựu đặng cái công đức vô lượng, vô số,
vô biên,
bất khả tư nghì công đức. Như thị nhơn
đẳng, tức vi hà ([29]) đảm
Như Lai A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
93.- Hà dĩ cố? – Tu Bồ Đề! Nhược nhạo
tiểu pháp giả, trước ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức ư
thử kinh bất năng thính thọ trì, đọc tụng, vị nhơn giải thuyết.
94.- Tu Bồ Đề! Tại tại xứ xứ, nhược hữu
thử kinh, nhứt thiết thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la sở ưng cúng dường. Đương
tri thử xứ, tức vi thị tháp, giai ưng cung kính, tác lễ vi nhiễu, dĩ chư hoa
hương nhi tán kỳ xứ”.
XVI.- NĂNG TỊNH
NGHIỆP CHƯỚNG
PHẬN ĐỆ THẬP LỤC
95.- Phục thứ : “Tu Bồ Đề! Nhược
thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì, đọc tụng thử kinh, nhược vi nhơn khinh
tiện, thị nhơn tiên thế tội nghiệp ưng đọa ác đạo, dĩ kim thế nhơn khinh tiện
cố, tiên thế tội nghiệp tức vi tiêu diệt, đương đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ
đề,
không bàn nghĩ đặng. Những hạng người như
thế, mới gánh vác nổi cái đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Như Lai.
93.- Bởi cớ sao? – Này Tu Bồ Đề! Bằng ưa
theo tiểu pháp, thì còn chấp trước về ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ
giả kiến ([30]), thì
đối với kinh này không hiểu thấu, không thọ trì, không đọc tụng và cũng không
vì người mà giải thuyết đặng.
94.- Tu Bồ Đề! Nơi nào, chốn nào, bằng có
kinh này, thì cả thảy thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la đều nên cúng dường. Phải
biết chỗ ấy, tức là Bửu tháp, đều nên cung kỉnh làm lễ chung quanh cùng là dùng
các món hương hoa mà rải khắp nơi ấy”.
XVI.- THƯỜNG TỊNH
TIÊU NGHIỆP
PHẦN THỨ MƯỜI SÁU
95.- Lại nói tiếp: “Này Tu Bồ Đề!
Nếu trai lành, gái tín nào thọ trì, đọc tụng kinh này, mà bị chúng khinh dễ, là
vì người ấy đời trước mắc tội nghiệp đáng lẽ đọa vào ác đạo, cho nên đời nay bị
chúng khinh dễ, như vậy cái tội nghiệp đời trước mới là tiêu diệt, thì sẽ đặng
đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
96.- Tu Bồ Đề! Ngã niệm quá khứ vô lượng
A tăng kỳ kiếp, ư Nhiên Đăng Phật tiền, đắc trị bát bá tứ thiên vạn ức na do
tha chư Phật, tất giai cúng dường thừa sự, vô không quá giả. Nhược phục hữu
nhơn ư hậu mạt thế, năng thọ trì, đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ư ngã sở
cúng dường chư Phật, công đức bá phần bất cập nhứt, thiên vạn ức phần, nải chí
toán số thí dụ sở bất năng cập.
97.- Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện
nữ nhơn ư hậu mạt thế hữu thọ trì, đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ngã
nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu nhơn văn tâm tức cuồng loạn hồ nghi bất tín…
98.- Tu Bồ Đề! Đương tri thị kinh nghĩa,
bất khả tư nghì quả báo diệc bất khả tư
nghì”.
XVII.- CỨU CÁNH
VÔ NGÃ
PHẬN ĐỆ THẬP THẤT
99.- Nhĩ thời, Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn:
“Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề
tâm, vân hà ưng trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm?”.
96.- Tu Bồ Đề! Ta nhớ đời quá khứ, kiếp
vô lượng A tăng kỳ, trước Phật Nhiên Đăng, Ta đã có gặp đặng tám trăm bốn ngàn
muôn ức na do tha ([31]) chư
Phật, Ta thảy đều cúng dường thờ phụng, chẳng có bỏ qua. Nếu lại có người sau
đời mạt pháp ([32]) hay
thọ trì, đọc tụng kinh này, chỗ đặng cái công đức sánh với cái công đức của Ta
cúng dường chư Phật thì công đức của Ta không bằng một phần trăm, một phần
ngàn, một phần muôn, một phần ức; cho đến cũng không bằng một phần thiệt nhỏ
tột số không thể mà đếm tính ví dụ đặng.
97.- Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành, gái tín
nào, sau đời mạt pháp thọ trì, đọc tụng kinh này, chỗ đặng công đức…; nếu ta
nói cho hết, hoặc có người nghe, lòng bèn rối loạn, hồ nghi chẳng tin.
98.- Tu Bồ Đề! Phải biết nghĩa lý kinh
này, không thể bàn nghĩ đặng và sự quả báo kết quả cũng không thể bàn nghĩ
đặng”.
XVII.- RÁO RỐT
KHÔNG TA.
PHẦN THỨ MƯỜI BẢY
99.- Khi ấy Tu Bồ Đề bạch Phật:
“Bạch đức Thế Tôn! Như có trai lành, gái tín nào phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, nên trụ thế nào? Nên hàng phục cái vọng tâm thế nào?”.
Phật cáo Tu Bồ Đề: “Thiện nam tử,
thiện nữ nhơn phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, đương sanh như thị
tâm: Ngã ưng diệt độ nhứt thiết chúng sanh, diệt độ nhứt thiết chúng sanh dĩ,
nhi vô hữu nhứt chúng sanh thiệt diệt độ giả”.
100.- Hà dĩ cố? – Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát
hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ Tát.
Sở dĩ giả hà? – Tu Bồ Đề! Thiệt vô hữu
pháp, phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả.
101.- Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? – Như Lai ư
Nhiên Đăng Phật sở, hữu pháp đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề phủ?”.
102.- “Phất dã, Thế Tôn! Như ngã
giải Phật sở thuyết nghĩa, Phật ư Nhiên Đăng Phật sở, vô hữu pháp đắc A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề”.
103.- Phật ngôn: “Như thị! Như
thị!”.
104.- Tu Bồ Đề! Thiệt vô hữu pháp, Như
Lai đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
105.- Tu Bồ Đề! Nhược hữu pháp, Như Lai
đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề giả, Nhiên Đăng Phật tức bất giữ ngã thọ ký:
“Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni”.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Như có trai
lành, gái tín nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì phải sanh tâm
như vầy : Ta phải diệt độ cả thảy chúng sanh, nhưng đã diệt độ cả thảy chúng
sanh, mà không có một chúng sanh nào thiệt diệt độ cả”.
100.- Bởi cớ sao? – Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ
Tát mà có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, thì chẳng
phải là Bồ Tát.
Sở dĩ sao? – Này Tu Bồ Đề! Thiệt không có
pháp chi mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả.
101.- Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? – Khi
Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng, có pháp chi mà đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác chăng?”.
102.- “Bạch đức Thế Tôn ! Không. –
Như tôi mà tỏ nghĩa của Phật nói thì thuở Phật ở chỗ Phật Nhiên Đăng, không có
pháp chi đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả”.
103.- Phật nói: “Như vậy ! Như vậy
!”.
104.- Tu Bồ Đề! Thiệt không có pháp chi
mà Như Lai đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả.
105.- Tu Bồ Đề! Bằng có pháp chi mà Như
Lai đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì Phật Nhiên Đăng, chẳng thọ ký
cho Ta: “Ngươi qua đời sau, sẽ đặng làm Phật, hiệu là Thích Ca Mâu
Ni”.
106.- Dĩ thiệt vô hữu pháp đắc A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề, thị cố Nhiên Đăng Phật dữ ngã thọ ký, tác thị ngôn:
“Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệuThích Ca Mâu Ni”.
Hà dĩ cố ? Như Lai giả, tức chư pháp như
nghĩa.
107.- Nhược hữu nhơn ngôn: Như Lai đắc A
nậu đa la tam miệu tam bồ đề
– Tu Bồ Đề!- Thiệt vô hữu pháp, Phật đắc
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
108.- Tu Bồ Đề! Như Lai sở đắc A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề, ư thị trung vô thiệt vô hư.
109.- Thị cố, Như Lai thuyết: Nhứt thiết
pháp giai thị Phật Pháp.
110.- Tu Bồ Đề! Sở ngôn nhứt thiết pháp
giả, tức phi nhứt thiết pháp, thị cố, danh nhứt thiết pháp.
111.- Tu Bồ Đề! Thí như nhơn thân trường
đại…”.
Tu Bồ Đề ngôn: “Thế Tôn! Như Lai
thuyết: Nhơn thân trường đại, tức vi phi đại thân, thị danh đại thân”.
112.- “Tu Bồ Đề ! Bồ Tát diệc như
thị, nhược tác thị ngôn: Ngã đương diệt độ vô lượng chúng sanh, tức bất danh Bồ
Tát”.
106.- Bởi thiệt chẳng có pháp chi mà đặng
đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta, mà
nói như vầy: “Ngươi qua đời sau, sẽ đặng làm Phật, hiệu là Thích Ca Mâu
Ni”.
Bởi cớ sao? – Như Lai ấy, là các pháp đều
như.
107.- Nếu có người nói : Như Lai đặng đạo
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác
– Tu Bồ Đề này! Thiệt không có pháp chi
Phật đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả.
108. Tu Bồ Đề này! Như Lai đặng cái đạo
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nơi trong đấy không thiệt không hư.
109.- Bởi vậy Như Lai nói cả thảy pháp,
đều là Phật Pháp.
110.- Tu Bồ Đề! Gọi là cả thảy pháp ấy,
nhưng cả phải chẳng thảy pháp, chỉ cưỡng danh là cả thảy pháp.
111.- Tu Bồ Đề! Ví như thân người to
lớn…”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Như Lai nói : thân người to lớn, nhưng chẳng phải thân lớn, mới là thân
lớn”.
112.- Tu Bồ Đề! Bồ Tát cũng như thế (thân
lớn). Nếu có nói lời này: “Ta phải diệt độ vô lượng chúng sanh, thì chẳng
gọi là Bồ Tát”.
113.- Hà dĩ cố? – Tu Bồ Đề! Thiệt vô hữu
pháp, danh vi Bồ Tát.
114.- Thị cố Phật thuyết nhứt thiết pháp:
Vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả.
115.- Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát tác thị
ngôn: “Ngã đương trang nghiêm Phật độ, thị bất danh Bồ Tát.
116.- Hà dĩ cố? – Như Lai thuyết trang
nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.
117.- Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát thông đạt
“Vô ngã” pháp giả, Như Lai thuyết danh chơn thị Bồ Tát”.
XVIII.- NHỨT THỂ
ĐỒNG QUAN
PHẬN ĐỆ THẬP BÁT
118.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai
hữu nhục nhãn phủ?”.
– “Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu
nhục nhãn”.
– “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu
Thiên nhãn phủ?”.
– “Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu
Thiên nhãn”.
113.- Bởi cớ sao? – Này Tu Bồ Đề! Thiệt
chẳng có pháp chi gọi là Bồ Tát cả.
114.- Bởi vậy, Phật nói cả thảy pháp
không có tướng: Ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
115.- Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát có nói lời
này: “Ta phải có trang nghiêm Phật độ”, thì chẳng phải là Bồ Tát.
116.- Bởi cớ sao? – Như Lai nói trang
nghiêm Phật độ, nhưng chẳng phải trang nghiêm, chỉ cưỡng danh là trang nghiêm.
117.- Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát tỏ thấu pháp
“Vô ngã”, Như Lai mới gọi hẳn thiệt là Bồ Tát”.
XVIII.- XEM ĐỒNG
MỘT THỂ
PHẦN THỨ MƯỜI TÁM
118.- “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào?
Như Lai có Nhục nhãn chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn! Thật vậyNhư Lai
có Nhục nhãn”.
– “Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như
Lai có Thiên nhãn chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy Như
Lai có Thiên nhãn”.
– “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu
Huệ nhãn phủ?”.
– “Như thị, Thế Tôn! Như Lai hữu Huệ
nhãn”.
– “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu
Pháp nhãn phủ?”.
– “Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu
Pháp nhãn”.
– “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu
Phật nhãn phủ?”.
– “Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu
Phật nhãn”.
119.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như
hằng hà trung sở hữu sa, Phật thuyết thị sa phủ?”.
– “Như thị, Thế Tôn. Như Lai thuyết
thị sa”.
– Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như nhứt hằng hà
trung, sở hữu sa, hữu như thị sa đẳng, hằng hà, thị chư hằng hà sở hữu sa số
Phật thế giới, như thị ninh vi đa phủ?”.
– “Thậm đa, Thế Tôn !”.
120.- Phật cáo Tu Bồ Đề: “Nhĩ sở
quốc độ trung, sở hữu chúng sanh, nhược can chủng tâm, Như Lai tất tri.
121.- Hà dĩ cố? Như Lai thuyết chư tâm
giai vi phi tâm, thị danh vi tâm.
– Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có
Huệ nhãn chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy; Như
Lai có Huệ nhãn”.
– “Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như
Lai có Pháp nhãn chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy, Như
Lai có Pháp nhãn”.
– “Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như
Lai có Phật nhãn chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy, Như
Lai có Phật nhãn”.
119.- Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như cát
trong sông Hằng đó, Phật nói là cát chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy; Như
Lai nói là cát”.
– “Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như
dùng số cát trong một sông Hằng mà ví dụ, có những sông Hằng khác nhiều bằng số
cát ấy, rồi có thế giới Phật bằng số cát của những sông Hằng ấy, như thế, thiệt
là nhiều chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn ! Rất
nhiều”.
120.- Phật bảo Tu Bồ Đề: “Những
chúng sanh trong quốc độ ấy, có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai đều biết cả.
121.- Bởi cớ sao? – Như Lai nói cả thảy
tâm, đều chẳng phải tâm, chỉ cưỡng danh là tâm.
122.- Sở dĩ giả hà? Tu Bồ Đề!
Quá khứ tâm bất khả đắc;
Hiện tại tâm bất khả đắc;
Vị
lai tâm bất khả đắc”.
XIX.- PHÁP GIỚI THÔNG HÓA.
PHẬN ĐỆ THẬP CỬU.
123.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? – Nhược
hữu nhơn mãn tam thiên Đại thiên thế giới thất bảo dĩ dụng bố thí, thị nhơn dĩ
thị nhân duyên, đắc phước đa phủ?”.
– “Như thị, Thế Tôn! Thử nhơn dĩ thị
nhân duyên, đắc phước thậm đa”.
– “Tu Bồ Đề! Nhược phước đức hữu
thiệt, Như Lai bất thuyết đắc phước đức đa; dĩ phước đức vô cố, Như Lai thuyết
đắc phước đức đa”.
XX.- LY SẮC LY
TƯỚNG
PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP
124.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Phật,
khả dĩ cụ túc sắc thân kiến phủ?”.
– “Phất dã, Thế Tôn ! Như Lai bất
ưng dĩ cụ túc sắc thân kiến”.
122.- Sở dĩ sao? Tu Bồ Đề này!
Tâm quá khứ, không có
chi mà đặng;
Tâm hiện tại, không có
chi mà đặng;
Tâm vị lai, không có
chi mà đặng”.
XIX.- PHÁP GIỚI
KHẮP ĐỘ
PHẦN THỨ MƯỜI CHÍN
123.- “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào?
Nếu có người dùng bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới đem ra mà bố thí,
người ấy, dùng nhân duyên như thế, có đặng phước nhiều chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy. Người
ấy dùng nhân duyên như thế thì đặng phước rất nhiều”.
– “Tu Bồ Đề! Nếu dùng phước đức có
hữu vi thì Như Lai chẳng nói là đặng phước đức nhiều. Dùng phước đức không vô
vi, Như Lai mới nói là đặng phước đức nhiều”.
XX.- LÌA SẮC LÌA
TƯỚNG.
PHẦN THỨ HAI MƯƠI
124.- “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào?
Có nên dùng sắc thân cụ túc mà cho là Phật chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn ! Không. Chẳng
nên dùng sắc thân cụ túc mà cho là Như Lai đặng”.
125.- Hà dĩ cố! – Như Lai thuyết: Cụ túc
sắc thân, tức phi Cụ túc sắc thân, thị danh Cụ túc sắc thân”.
126.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? – Như
Lai khả dĩ cụ túc chư tướng kiến phủ?”.
– “Phất dã, Thế Tôn ! Như Lai bất
ưng dĩ cụ túc chư tướng kiến.
Hà dĩ cố? – Như Lai thuyết chư tướng cụ
túc, tức phi cụ túc, thị danh cụ túc”.
XXI.- PHI THUYẾT
SỞ THUYẾT
PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP NHỨT
127.- “Tu Bồ Đề! Nhữ vật vị Như Lai
tác thị niệm: Ngã đương hữu sở thuyết pháp. Mạc tác thị niệm.
Hà dĩ cố? – Nhược nhơn ngôn: Như Lai hữu
sở thuyết pháp, tức vi báng Phật. Bất năng giải ngã sở thuyết cố.
128.- Tu Bồ Đề! Thuyết pháp giả, vô pháp
khả thuyết, thị danh thuyết pháp”.
129.- Nhĩ thời Huệ Mạng Tu Bồ Đề…
130.- Bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Phả
hữu chúng sanh, ư vị lai thế văn thuyết thị pháp, sanh tín tâm phủ?”.
Phật ngôn: “Tu Bồ Đề! Bỉ phi chúng
sanh phi bất chúng sanh.
Hà dĩ cố? – Tu Bồ Đề! Chúng sanh, chúng
sanh giả, Như Lai thuyết phi chúng sanh, thị danh chúng sanh”.
125.- “Bởi cớ sao? – Như Lai nói Sắc
thân Cụ túc, nhưng chẳng phải sắc thân Cụ túc, chỉ cưỡng danh là sắc thân Cụ
túc”.
126.- “Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có
nên dùng các tướng cụ túc mà cho là Như Lai chăng ?”.
– “Bạch đức Thế Tôn ! Không. Chẳng
nên dùng các tướng cụ túc mà cho là Như Lai đặng.
Bởi cớ sao? – Bởi Như Lai nói các tướng
cụ túc, nhưng chẳng phải cụ túc, chỉ cưỡng danh là các tướng cụ túc”.
XXI.- THUYẾT
CHẲNG PHẢI THUYẾT
PHẦN THỨ HAI MƯƠI MỐT
127.- “Này Tu Bồ Đề! Ông chớ nói Như
Lai có tưởng như vầy: Ta nên có chỗ thuyết pháp. Chớ tưởng như thế.
Bởi cớ sao? – Nếu ông mà nói: Như Lai có
thuyết pháp, tức là chê Phật.Đâu có tỏ nghĩa của Ta đặng.
128.- Tu Bồ Đề! Thuyết pháp đó, không có
pháp chi mà thuyết chỉ cưỡng danh là thuyết pháp vậy thôi”.
129.- Khi ấy, Huệ Mạng Tu Bồ Đề…
130.- Bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế
Tôn! Có những chúng sanh ở đời vị lai nghe nói pháp này, có sanh lòng tin
chăng?”.
Phật nói: “Tu Bồ Đề! Nó chẳng phải
chúng sanh, nhưng chẳng phải là không phải chúng sanh.
Bởi cớ sao? – Này Tu Bồ Đề! Chúng sanh, chúng
sanh ấy, Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, chỉ cưỡng danh là chúng sanh”.
XXII.- VÔ PHÁP
KHẢ ĐẮC
PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP NHỊ
131.- Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: “Thế
Tôn! Phật đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, vi vô sở đắc gia?”.
Phật ngôn: “Như thị! Như thị! Tu Bồ
Đề! Ngã ư A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, nãi chí vô hữu thiểu pháp khả đắc,
thị danh A nậu đa la tam miệu tam bồ đề”.
XXIII.- TỊNH TÂM
HÀNH THIỆN.
PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP TAM
132.- Phục thứ: “Tu Bồ Đề! Thị pháp
bình đẳng, vô hữu cao hạ, thị danh A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
133.- Dĩ vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh,
vô thọ giả.
134.- Tu nhứt thiết thiện pháp, tức đắc A
nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
135.- Tu Bồ Đề! Sở ngôn thiện pháp giả,
Như Lai thuyết: Tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp”.
XXII.- KHÔNG PHÁP
CHI ĐẶNG
PHẦN THỨ HAI MƯƠI HAI
131.- Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức
Thế Tôn! Phật đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là không có chỗ chi
đặng sao?”.
Phật nói: “Thiệt vậy ! thiệt vậy !
Này Tu Bồ Đề! Ta đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến không có
một chút pháp chi mà gọi là đặngấy mới gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác”.
XXIII.- TÂM TỊNH
LÀM LÀNH.
PHẦN THỨ HAI MƯƠI BA
132.- Lại nói tiếp: “Này Tu Bồ Đề!
Pháp vốn bình đẳng, không có cao thấp, mới gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác.
133.- Bởi không ngã, không nhơn, không
chúng sanh, không thọ giả.
134.- Tu cả thảy pháp lành, tức đặng đạo
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
135.- Tu Bồ Đề! Gọi là pháp lành ấy, Như
Lai nói : chẳng phải pháp lành, chỉ cưỡng danh là pháp lành”.
XXIV.- PHƯỚC TRÍ
VÔ TỶ
PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP TỨ
136.- Tu Bồ Đề! Nhược tam thiên Đại thiên
thế giới trung, sở hữu chư Tu Di sơn vương, như thị đẳng thất bảo tụ, hữu nhơn
trì dụng bố thí.
137.- Nhược nhơn dĩ thử Bát Nhã Ba la mật
kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng, thọ trì, đọc tụng, vị tha nhơn thuyết, ư tiền
phước đức bá phần bất cập nhứt, bá thiên vạn ức phần nãi chí toán số thí dụ, sở
bất năng cập.
XXV.- HÓA VÔ SỞ
HÓA
PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP NGŨ
138.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? – Nhữ
đẳng vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngã đương độ chúng sanh – Tu Bồ Đề! Mạc tác
thị niệm.
Hà dĩ cố? – Thiệt vô hữu chúng sanh Như
Lai độ giả.
139.- Nhược hữu chúng sanh Như Lai độ
giả, Như Lai tức hữu ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
140.- Tu Bồ Đề! Như Lai thuyết hữu ngã
giả, tức phi hữu ngã; nhi phàm phu chi nhơn, dĩ vi hữu ngã.
XXIV.- PHƯỚC TRÍ
KHÔNG SÁNH
PHẦN THỨ HAI MƯƠI BỐN
136.- Này Tu Bồ Đề! Như trong tam thiên
Đại thiên thế giới, có những Tu Di sơn vương, nếu có người góp cả bảy báu lại
bằng như thế, dùng mà bố thí.
137.- Bằng có người dùng kinh Bát Nhã Ba
la mật này, cho đến những tứ cú kệ, mà thọ trì, đọc tụng và vì người mà diễn
thuyết, thì phước đức trước kia, chẳng bằng một phần trăm ngàn, muôn ức cho đến
cũng không bằng một phần thiệt nhỏ tột số không thể mà đếm tính ví dụ đặng.
XXV.- HÓA KHÔNG
CHỖ HÓA
PHẦN THỨ HAI MƯƠI LĂM
138.- Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Chúng
ông chớ nói Như Lai có tưởng như vầy: Ta phải độ chúng sanh. Tu Bồ Đề! Chớ
tưởng như vậy.
Bởi cớ sao? – Bởi thiệt không có chúng
sanh nào mà Như Lai độ cả.
139.- Nếu có chúng sanh nào mà Như Lai có
độ, tức là Như Lai có tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
140.- Tu Bồ Đề! Như Lai nói có ta ấy,
nhưng chẳng phải có ta mà kẻ phàm phu lại cho là có ta.
141.- Tu Bồ Đề! Phàm phu giả, Như Lai
thuyết tức phi phàm phu, thị danh phàm phu”.
XXVI.- PHÁP THÂN
PHI TƯỚNG
PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP LỤC
142.- “Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ
tam thập nhị tướng quang Như Lai phủ?”.
Tu Bồ Đề ngôn: “Như thị, như thị. Dĩ
tam thập nhị tướng quang Như Lai”.
143.- Phật ngôn: “Tu Bồ Đề! Nhược dĩ
tam thập nhị tướng quang Như Lai giả, Chuyển Luân ([33])
Thánh Vương tức thị Như Lai?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: “Thế Tôn!
Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, bất ưng dĩ tam thập nhị tướng quang Như
Lai”.
144.- Nhĩ thời, ([34])
Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn:
“Nhược dĩ sắc kiến
ngã, Dĩ âm thinh cầu
ngã, Thị nhơn hành tà
đạo. Bất năng kiến Như
Lai”.
XXVII.- VÔ ĐOẠN
VÔ DIỆT
PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP THẤT
145.- Tu Bồ Đề! Nhữ nhược tác thị niệm,
Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
141.- Tu Bồ Đề! Phàm phu ấy, Như Lai nói
chẳng phải phàm phu, chỉ cưỡng danh là phàm phu”.
XXVI.- PHÁP THÂN
KHÔNG TƯỚNG
PHẦN THỨ HAI MƯƠI SÁU
142.- “Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào?
Có nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Thiệt vậy,
thiệt vậy. Cũng nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai”.
143.- Phật bảo: “Tu Bồ Đề! Nếu dùng
ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như
Lai?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Như con mà tỏ cái nghĩa của Phật nói, thì chẳng nên dùng ba mươi hai tướng
mà cho là Như Lai”.
144.- Khi ấy, đức Thế Tôn bèn nói kệ
rằng:
“Bằng dùng sắc gọi ta.
Âm điệu nhận rằng ta.
Làm vậy là tà đạo.
Hẳn không thấy đặng ta”.
XXVII.- KHÔNG
ĐOẠN KHÔNG DIỆT
PHẦN THỨ HAI MƯƠI BẢY
145.- “Này Tu Bồ Đề! Bằng ông tưởng
như vầy: “Như Lai chẳng dùng tướng cụ túc mà đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác”.
Tu Bồ Đề! Mạc tác thị niệm: Như Lai bất
dĩ cụ túc tướng cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Tu Bồ Đề! Nhữ nhược tác thị niệm: Phát A
nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, thuyết chư pháp đoạn diệt. Mạc tác thị
niệm.
Hà dĩ cố? – Phát A nậu đa la tam miệu tam
bồ đề tâm giả, ư pháp, bất thuyết đoạn diệt tướng”.
XXVIII.- BẤT THỌ
BẤT THAM
PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP BÁT
146.- “Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát dĩ mãn
hằng hà sa đẳng thế giới thất bảo trì dụng bố thí.
Nhược phục hữu nhơn tri, nhứt thiết pháp
“vô ngã” đắc thành ư nhẫn, thử Bồ Tát thẳng tiền Bồ Tát sở đắc phước
đức.
147.- Hà dĩ cố? – Tu Bồ Đề! Dĩ chư Bồ Tát
bất thọ phước đức cố”.
148.- Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: “Thế
Tôn! Vân hà Bồ Tát bất thọ phước đức?”.
– “Tu Bồ Đề! Bồ Tát sở tác phước
đức; bất ưng tham trước; thị cố thuyết bất thọ phước đức”.
Tu Bồ Đề! Chớ tưởng như vậy. Như Lai há
chẳng dùng tướng cụ túc mà đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Tu Bồ Đề! Bằng ông tưởng như vậy:
“Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ấy, mà nói các pháp đoạn diệt.
Chớ tưởng như vậy.
Bởi cớ sao? – Bởi phát tâm Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác ấy, theo pháp, chẳng nên nói cái tướng đoạn diệt”.
XXVIII.- KHÔNG
NHIỄM KHÔNG THAM
PHẦN THỨ HAI MƯƠI TÁM
146.- “Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát dùng
bảy báu đầy cả hằng hà sa số thế giới, đem ra mà bố thí.
Bằng lại có người biết cả thảy pháp
“vô ngã” mà thành tựu đặng cái pháp nhẫn, thì Bồ Tát này, chỗ đặng
phước đức nhiều hơn Bồ Tát kia.
147.- Bởi cớ sao? – Này Tu Bồ Đề! Bởi các
Bồ tát ấy chẳng chịu phước đức”.
148.- Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức
Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát chẳng chịu phước đức?”.
– “Tu Bồ Đề! Bồ Tát làm phước đức,
chẳng nên tham chấp ; nên mới gọi là chẳng chịu phước đức”.
XXIX.- OAI NGHI
TỊCH TỊNH
PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP CỬU
149.- “Tu Bồ Đề! Nhược hữu nhơn
ngôn: “Như Lai” nhược lai,
nhược khứ, nhược tọa, nhược ngọa, thị nhơn bất giải ngã sở thuyết nghĩa.
150.- Hà dĩ cố? – “Như Lai” giả
vô sở tùng lai diệc vô sở khứ, cố danh “Như Lai”.
XXX.- NHỨT HIỆP
LÝ TƯỚNG
PHẬN ĐỆ TAM THẬP
151.- Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện
nữ nhơn dĩ tam thiên đại thiên thế giới, tối ([35])
vi vi trần, ư ý vân hà? – Thị vi trần chúng, ninh vi đa phủ?”.
Tu Bồ Đề ngôn: “Thậm đa, Thế Tôn!
Hà dĩ cố? – Nhược thị vi trần chúng,
thiệt hữu giả, Phật tức bất thuyết thị vi trần chúng.
Sở dĩ giả hà? – Phật thuyết vi trần
chúng, tức phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng.
Thế Tôn! Như Lai sở thuyết tam thiên đại
thiên thế giới, tức phi thế giới, thị danh thế giới.
152.- Hà dĩ cố? – Nhược thế giới thiệt
hữu giả, tức thị nhứt hiệp tướng.
XXIX. – OAI NGHI
VẮNG LẶNG
PHẦN THỨ HAI MƯƠI CHÍN
149.- “Này Tu Bồ Đề! Nếu có người
nói: “Như Lai”, hoặc tới, hoặc lui, hoặc ngồi, hoặc nằm, thì người ấy
chẳng rõ cái nghĩa lý của Ta nói.
150.- Bởi cớ sao? – “Như Lai”
ấy, là không phải từ đâu mà tới, cũng không phải từ đâu mà lui, nên gọi là
“Như Lai”.
XXX.- LÝ TƯỚNG
NHỨT HIỆP
PHẦN THỨ BA MƯƠI
151.- Này Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành,
gái tín dùng tam thiên đại thiên thế giới, đập nát ra làm vi trần, ý ông thế
nào? Những vi trần ấy, thế là nhiều chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Rất nhiều.
Bởi cớ sao? Nếu những vi trần ấy, mà
thiệt có, thì Phật chẳng gọi là vi trần.
Sở dĩ sao? – Bởi Phật nói những vi trần,
nhưng chẳng phải vi trần, chỉ cưỡng danh là vi trần.
Bạch đức Thế Tôn! Còn Như Lai nói tam
thiên đại thiên thế giới, nhưng chẳng phải thế giới, chỉ cưỡng danh là thế
giới.
152.- Bởi cớ sao? – Nếu thế giới mà thiệt
có, thì tức là tướng nhứt hiệp.
153.- Như Lai thuyết nhứt hiệp tướng tức
phi nhứt hiệp tướng, thị danh nhứt hiệp, tướng”.
154.- “Tu Bồ Đề! Nhứt hiệp tướng
giả, tức thị bất khả thuyết.
155.- Đản phàm phu chi nhơn, tham trước
kỳ sự”.
XXXI.- TRI KIẾN BẤT
SANH
PHẬN ĐỆ TAM THẬP NHỨT
156.- “Tu Bồ Đề! Nhược nhơn ngôn :
Phật thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. – Tu Bồ Đề! Ư ý
vân hà? Thị nhơn giải ngã sở thuyết nghĩa phủ?”.
– “Phất dã, Thế Tôn! Thị nhơn bất
giải Như Lai sở thuyết nghĩa.
Hà dĩ cố? – Thế Tôn thuyết ngã kiến, nhơn
kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức phi ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh
kiến, thọ giả kiến, thị danh ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả
kiến”.
157.- “Tu Bồ Đề! Phát A nậu đa la
tam miệu tam bồ đề tâm giả, ư nhứt thiết pháp, ưng như thị tri, như thị kiến,
như thị tín giải: bất sanh pháp tướng.
Tu Bồ Đề! Sở ngôn pháp tướng giả, Như Lai
thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng”.
153.- Như Lai nói tướng nhứt hiệp, nhưng
chẳng phải tướng nhứt hiệp, chỉ cưỡng danh là tướng nhứt hiệp”.
154.- “Tu Bồ Đề! Tướng nhứt hiệp ấy,
nói chẳng đặng.
155.- Chỉ vì kẻ phàm phu hay tham chấp sự
tướng”.
XXXI.- THẤY BIẾT
KHÔNG SANH
PHẦN THỨ BA MƯƠI MỐT
156.- “Này Tu Bồ Đề! Bằng người nào
nói: Phật nóingã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Tu Bồ Đề! Ý
ông thế nào? Người ấy có tỏ nghĩa lý của Ta nói không?
– Bạch đức Thế Tôn ! Không. Người ấy
không có tỏ nghĩa lý của Phật nói.
Bởi cớ sao? – Bởi Phật nói ngã kiến, nhơn
kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, nhưng chẳng phải ngã kiến, nhơn kiến,
chúng sanh kiến, thọ giả kiến, chỉ cưỡng danh là ngã kiến, nhơn kiến, chúng
sanh kiến, thọ giả kiến vậy thôi”.
157.- “Tu Bồ Đề! Phát lòng Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác đó, thì cả thảy pháp, phải biết như vầy, phải thấy như
vầy, phải tin rõ như vầy: là chẳng sanh pháp tướng.
Tu Bồ Đề! Sự nói pháp tướng đó. Như Lai
nói chẳng phải pháp tướng, chỉ cưỡng danh là pháp tướng”.
XXXII. ỨNG HÓA
PHI NHƠN
PHẬN ĐỆ TAM THẬP NHỊ
158.- “Tu Bồ Đề! Nhược hữu nhơn dĩ
mãn vô lượng A tăng kỳ thế giới thất bảo trì dụng bố thí. Nhược hữu thiện nam
tử, thiện nữ nhơn phát Bồ đề tâm giả, trì ư thử kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng,
thọ trì, đọc tụng, vị nhơn diễn thuyết, kỳ phước thắng bỉ”.
159.- Vân hà vị nhơn diễn thuyết?
160.- Bất thủ ư tướng, như như bất động.
161.- Hà dĩ cố?
“Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn, bào ([36]) ảnh:
Như lộ diệc như điển;
Ưng tác như thị quán”.
162.- Phật thuyết thị kinh dĩ, Trưởng lão
Tu Bồ Đề cập chư Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, nhứt thiết thế gian:
Thiên, Nhơn, A tu la, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ tín thọ phụng hành.
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh.
XXXII.- ỨNG HÓA
KHÔNG THIỆT
PHẦN THỨ BA MƯƠI HAI
158.- “Này Tu Bồ Đề! Bằng có người
nào dùng bảy báu đầy vô lượng vô số thế giới, đem ra mà bố thí… Bằng lại có
trai lành, gái tín nào phát tâm Bồ đề, giữ theo kinh này và những tứ cú kệ, mà
thọ trì, đọc tụng rồi diễn thuyết lại cho người khác thì phước đức này hơn
phước đức kia”.
159.- Còn thế nào là vì người mà diễn
thuyết ?
160.- “Không chấp tướng, như như
chẳng động”.
161.- Bởi cớ sao?
“Những pháp hữu vi ấy.
Như: chiêm bao, huyễn mị,
Bọt bào, bóng, chớp, mù.
Nên tưởng đều như vậy”.
162.- Phật nói kinh này rồi, Trưởng lão
Tu Bồ Đề cùng Tăng, Ni, thiện nam, tín nữ, cả thảy thế gian: Thiên, Nhơn, A tu
la, nghe cái thuyết của Phật, đều rất hoan hỷ, tin chịu, phụng hành.
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.
BÁT NHÃ VÔ TẬN CHƠN NGÔN ([37]):
Nẳng mồ bạt dà phạt đế, bát rị nhã, ba la
mật đa dệ, đát điệc tha. Án, hột rị địa rị thất rị, thú rô tri, tam mật lật
tri, Phật xả dệ, tá ha.
KIM CANG TÂM ĐÀ RA NI CHƠN NGÔN ([38])
Án, ô luân ni, ta bà ha.
BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN:
Nam mô hát ra đát na đa ra dạ da, khê ra
khê ra, cu trụ cu trụ, ma ra ma ra, hổ ra hồng, hạ hạ, tô đát noa hồng, bát mạt
noa, ta bà ha.
PHỔ HỒI HƯỚNG CHƠN NGÔN:
Án, ta ma ra, ta ma ra, di ma nẳng, tát
cót ra, ma ha chước ca ra hồng.
KIM CANG BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN:
Án, hô lô hô lô, xả dệ, mục khế, tá ha.
Nhứt hồi hướng: Chơn như thiệt tế, tâm
tâm khế hiệp.
Nhị hồi hướng: Vô thượng Phật quả Bồ đề,
niệm niệm viên mãn.
Tam hồi hướng: Pháp giới nhứt thiết chúng
sanh, đồng sanh Tịnh độ.
CHÚ BÁT NHÃ VÔ TẬN ([39]):
Nẳng mồ bạt dà phạt đế, bát rị nhã, ba la
mật đa dệ, đát điệc tha. Án, hột rị địa rị thất rị, thú rô tri, tam mật lật
tri, Phật xả dệ, tá ha.
CHÚ KIM CANG TÂM ĐÀ RA NI ([40]);
Án, ô luân ni, ta bà ha.
CHÚ BỔ KHUYẾT:
Nam mô hát ra đát na đa ra dạ da, khê ra
khê ra, cu trụ cu trụ, ma ra ma ra, hổ ra hồng, hạ hạ, tô đát noa hồng, bát mạt
noa, ta bà ha.
CHÚ PHỔ HỒI HƯỚNG:
Án, ta ma ra, ta ma ra, di ma nẳng, tát
cót ra, ma ha chước ca ra hồng.
CHÚ KIM CANG BỔ KHUYẾT:
Án, hô lô hô lô, xả dệ, mục khế, tá ha.
Một là hồi hướng: Lý đúng chơn như, lòng
lòng tin hiệp.
Hai là hồi hướng: Quả Phật Vô thượng Bồ
đề, mỗi niệm viên mãn.
Ba là hồi hướng: Cả thảy chúng sanh trong
cõi Pháp giới đồng sanh Cực Lạc.
TÁN
Kim Cang công đức,
Diệu lý nan lương.
Như Lai vị chúng quảng tuyên dương,
Thọ thí ngộ chơn thường,
Dĩ chư hoa hương.
Phổ tán Pháp trung vương.
BỔ KHUYẾT TÂM KINH
THỊ ĐẠI THẦN CHÚ
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh([41]):
Quán tự tại Bồ tát ([42]),
hành thâm Bát nhã Ba la mật đa ([43])
thời, chiếu kiến ngũ uẩn ([44]) giai
không; độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! ([45])
Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ,
tưởng, hành, thức, diệc phục như thị ([46]).
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất
sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô
sắc, vô thọ,
BÀI TÁN:
Kim Cang công đức,
Lý diệu không lường.
Như Lai vì chúng khắp truyền dương;
Vưng chịu tỏ chơn thường,
Dùng các hoa hương.
Rải khắp chỗ Pháp vương.
KINH BỔ ÍCH CHO TÂM
LÀ CHÚ RẤT THẦN THÔNG
Tâm Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa(1).
Quán tưởng sự hữu tình cho tự tại (2) tu
hành thâm thấu dùng trí huệ mà đắc đạo (3). Trong thời rõ thấu năm cái tích tụ
(4) đều không (giả hiệp): Độ cả thảy khổ ách.
Xá Lợi Tử (5) này! Sắc chẳng khác không,
không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành,
thức lại cũng như thế. (6)
Xá Lợi Tử này! Đó là các pháp: Tướng đều
không; không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt. Cho
nên trong cái không không có sắc, không thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỹ,
thiệt, thân, ý ([47]);
vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp ([48]);
vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới([49]);
vô vô minh([50]),
diệc vô vô minh tận([51]); nãi
chí vô lão tử([52]),
diệc vô lão tử tận ([53]); vô
khổ, tập, diệt, đạo([54]). Vô
trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đả y Bát nhã Ba la mật đa cố([55]).
Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng
cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật([56]),
y Bát nhã ba la mật đa([57]) cố([58]); đắc
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề; cố tri Bát nhã Ba la mật đa; thị đại thần chú,
thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú: Năng trừ nhứt thiết
khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú ([59])
tưởng, hành, thức, không nhãn, nhĩ, tĩ,
thiệt, thân, ý (1). Không sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp (2). Không cái giới
nhãn cho đến không giới;cái giới ý thức (3); không cái vô minh (4); cũng không
hết cái vô minh (5) cho đến không cái lão tử (6)… Cũng không hết cái lão tử
(7); không khổ, tập, diệt, đạo; (8) Không chi là trí, cũng không chi là đặng.
Bởi cái không chỗ chi mà đặng, nên các vị Bồ Tát nương theo trí huệ mà thành
đạo (9). Cái tâm không quái ngại; bởi không quái ngại, nên không khiếp sợ;
tránh xa sự mộng tưởng lật ngược; ráo rốt viên mãn.
Chư Phật ba đời (10) cũng đều nương pháp
Bát nhã Ba la mật đa (11), nên đặng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác
(12). Ấy mới biết Bát nhã Ba la mật đa là chú rất thần thông, là chú rất rõ
ràng, là chú không chi hơn, là chú không chi bằng bực: Trừ đặng cả thảy sự khổ,
chơn thiệt chẳng dối, cho nên mới gọi là: Chú Bát nhã Ba la mật đa(13).
Tức thuyết chú viết:
Yết đế, yết đế ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, Bồ đề tát bà ha([60]).
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
THÂU KINH KỆ
Tam đồ vĩnh tức thường ly khổ,
Lục thú hưu tỳ cốt một nhân.
Hà sa hàm thức ngộ chơn như,
Vạn loại hữu tình đăng bỉ ngạn.
TỤNG KINH TÁN
Đoạn nghi sanh tín,
Diệt tướng siêu tông.
Đốn vong nhơn pháp, giải chơn không,
Bát Nhã vị trùng trùng.
Tứ cú dung thông;
Phước đức thán vô cùng.
Nam mô Kỳ Viên Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma
Ha Tát. (tam xưng)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng sanh
thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng sanhthâm
nhập kinh tạng, trí huệ như hải.
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng sanh
thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại.
Hòa nam Thánh chúng.
Bèn niệm chú rằng:
Độ đi độ đi, ráo rốt độ đi, ráo rốt độ
chúng đi, cho đặng giác ngộ, chóng mau thành tựu (1).
Tâm kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.
BÀI KỆ THÂU KINH
Ba đường siêu thoát vòng phiền não,
Sáu thú khỏi luân hồi quả báo.
Vô số hữu tình chứng lý chơn,
Các loài hàm thức đều thành đạo.
BÀI TÁN TỤNG KINH
Hết nghi tin thiệt,
Khỏi tướng lìa tông.
Pháp, nhơn mau dứt, tỏ chơn không;
Mùi Bát Nhã trùng trùng,
Tứ cú rõ thông,
Phước đức lớn vô cùng,
Nam mô Kỳ Viên Hội Thượng Phật, Bồ
Tát Ma
Ha Tát. (3 lần)
Qui y Phật của tự mình, nguyện cho chúng
sanhtỏ ngộ đạo cả, phát lòng vô thượng.
Qui y Pháp của tự mình, nguyện cho chúng
sanhhiểu thấu kinh tạng, trí huệ rộng lớn.
Qui y Tăng của tự mình, nguyện cho chúng
sanhdắt dìu đại chúng, cả thảy không ngại.
Kính lễ chư Phật.
NGŨ THẬP TAM GIA:
1. Bách Trượng Hải Thiền sư.
2. Bàng Uẩn Cư sĩ
3. Bảo Ninh Dõng Thiền sư.
4. Bửu Tích Như Lai.
5. Cổ Đức Thiền sư.
6. Châu Sử Khanh Chơn nhơn.
7. Chơn Tịnh Văn Thiền sư.
8. Đạt Ma Đại sư.
9. Đồng Quan Sát Thiền sư.
10. Hải Giác Nguyên Thiền sư
11. Huyền Tông Hoàng đế.
12. Huỳnh Nghiệt Vận Thiền sư.
13. Kỳ Thiền sư.
14. Kim Hải Quang Như Lai.
15. Kỉnh San Kiểu Thiền sư.
16. Khuê Phong Thiền sư.
17. Lâm Tế Đại sư.
18. Lý Văn Hội Cư sĩ.
19. Lục Tổ Đại sư.
20. Lưu Đẩu Đại sư.
21. Mã Tổ Đại sư.
22. Nam Tuyền Nguyện Thiền sư.
23. Ngũ Tổ Đại sư.
24. Nhan Bính Như Như Cư sĩ.
25. Nhựt Nguyệt Quang Như Lai.
26. Pháp Thường Mãn Như Lai.
27. Phó Đại sĩ.
28. Qui Tông Thiền sư.
29. Tạ Linh Vận.
30. Tăng Nhược Nột Thiền sư.
31. Tăng Liễu Tánh Vân Am Thiền sư.
32. Tăng Triệu Pháp sư.
33. Tăng Tử Vinh Phú Sa Thiền sư.
34. Tăng Vi Từ Am Thiền sư.
35. Tiêu Diêu Ông.
36. Tiên Du Ông.
37. Tổ Ấn Minh Thiền sư.
38. Tông Mật Thiền sư.
39. Tự Tại Lực Vương Như Lai.
40. Tứ Tổ Nhẫn Đại sư
41. Từ Thọ Thâm Thiền sư.
42. Thái Dương Huyền Thiền sư.
43. Thiên Thai Trí Nghĩa Đại sư.
44. Thông Vương Như Lai.
45. Trần Hùng Cư sĩ.
46. Triều Văn Nguyên Cư sĩ.
47. Trương Vô Tận Cư sĩ.
48. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
49. Viên Ngộ Thiền sư.
50. Vĩnh Gia Đại sư.
51. Vô Danh Thị.
52. Vương Nhựt Hưu Cư sĩ.
53. Xuyên Thiền sư (Giả phủ).
*************
KIM CANG NGŨ THẬP
TAM GIA
ÂM :
Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh.
NGHĨA :
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.
Giải – Tiên Du Ông Tập Anh
giải: Kim Cang là chất cứng bén
(thép) trong loại kim. Chất thép sanh trong loại kim dầu nhồi luyện cả trăm
phen cũng chẳng hề hao kém. Dùng sức chắc bén ấy mới chặt đứt muôn vật đặng.
Năm loại kim, cũng đều gọi chung là Kim ([61]).
Phàm nói riêng một tiếng kim tức là sắc. Kim Cang nói đây là, như gươm
đao có thép bén, ví dụ với trí huệ, hay dứt tuyệt cả thảy tà kiến điên đảo của
tham, sân, si.
Tiếng Phạm: Bát Nhã, Tàu dịch Trí
Huệ ([62])
Tánh thể sáng suốt xét soi tự tại; cho nên nói: Bát Nhã.
Ba La Mật:
Đáo bỉ ngạn là đến bờ kia (chỗ Phật). Muốn đến bờ kia phải dùng thuyền Bát
Nhã.
Bờ này (chỗ chúng sanh) là cảnh của chúng
sanh gây nghiệp chịu sự khổ sanh tử luân hồi; còn bờ kia là cảnh của chư Phật
cùng Bồ Tát đã ráo rốt ([63])
siêu thoát thanh tịnh an vui. Phàm phu là bờ này. Phật đạo là bờ kia. Một niệm
dữ là bờ này, một niệm lành là bờ kia.
Sáu đường
([64])
như biển khổ, không thuyền thì không thể qua. Phải dùng trí Bát Nhã cùng
pháp “Lục độ” ([65]) mà
làm thuyền, mới qua khỏi đặng.
Lại nữa, tục ngữ bên Thiên Trước:
“Phàm việc chi đã làm đặng rồi, đều gọi là Ba La Mật“.
Kinh: nghĩa là “Đường tắt”.
Kinh này là con đường tắt để học Phật.
Xung Ứng Chơn Nhơn, Châu Sử Khanh làm lời
chơn tán ông Dương Á Phu có giải: Sắt là một vật sanh ở trong khoán, khí thành
sắt, tánh cứng mà hình thể chẳng biến, dùng lửa thép ra, thì làm nên các món,
cho nên Phật lấy Kim Cang mà thí dụ.
Lại nhơn dịp người anh của Ông (Xung Ứng)
xem kinh Viên Giác, đưa cho coi mà nói: Cổ nhơn có nói rằng:
“Xanh xanh tre sậm, vốn thiệt Chơn như, “
“Mởn mởn hoa vàng há không Bát
Nhã!”.
Chơn như,
tre sậm một loài, bởi không nhiễm (sắc, thinh, hương, vị).
Bát Nhã, hoa vàng một thể, vì
chẳng chấp “kiến, văn, giác, tri”.
Trần Hùng giải: Ba la mật
có sáu pháp: Hoặc “Bố thí” hoặc “Trì giới”,
hoặc “Nhẫn nhục”, hoặc “Tinh tấn”, hoặc “Thiền
định” đều chiếm một phần trong Lục độ. Duy có một pháp “Bát
Nhã” hay sanh tám muôn bốn ngàn (84.000) “Trí huệ”, thì sáu
độ gồm đủ, muôn hạnh vẹn toàn. Cho nên Như Lai dùng cái đục Trí huệ xoi núi nhơn ngã, dùng sức Trí huệ khai khoán “phiền
não”, dùng lửa Trí huệ thép nên vàng trong “Phật tánh”.
Vả lại gieo căn lành, trước phải tụng
Kinh, sau mới tỏ lý. Đặng sức bền chặt, tức là Kim Cang. Đủ Trí huệ lớn
tức là Bát Nhã. Độ khỏi biển sanh tử, đến bờ “Bồ đề”,
tức là Ba la mật.
Ngũ Tổ Đại sư hằng khuyên kẻ Tăng người
tục: “Chỉ nên trì “Kinh Kim Cang”, tức đặng “kiến
Tánh thành Phật”.
Lục Tổ Đại sư, một đêm nghe Ngũ Tổ thuyết
pháp, đến câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (sanh tâm
không trụ chấp), vừa dứt lời liền tỏ ngộ.
Như thế mới là bực Thượng thừa đốn
giáo cho.
Nhan Bính giải : Duy có một quyển kinh
này, chúng sanh sáu đường mỗi mỗi đều có đủ trong tánh. Bởi sau khi có thân
rồi, vọng sanh sáu căn ([66]),sáu
trần ([67]),
chôn lấp một điểm “Linh quang”, trọn ngày mờ mờ, chẳng biết chẳng tỏ.
Cho nên Phật ta mới mở lòng “Từ Bi”, nguyện cứu vớt cả thảy chúng
sanh, đồng qua khỏi biển khổ, đồng chứng đặng quả Bồ đề.
Nên chi, Phật ở tại nước Xá Vệ thuyết
kinh này, đại ý: Chỉ vì người mà phá mê, mở trói; bấy giờ liền tỏ thấy cái tự
tánh.
Tự tánh đặng bền chặt, muôn kiếp chẳng
hoại, cũng như cái tánh cứng chắc của loại kim vậy.
Lý Văn Hội giải: Kim Cang là vật chắc bén, hay
phá nát muôn vật. Bát Nhã: Trí huệ, hay phá đặng cả thảy phiền não, đổi thành diệu dụng.
Ba la mật:
Đáo bỉ ngạn. Chẳng chấp các tướng là “bờ kia”, bằng chấp các tướng là
“bờ này”.
Lại nói : Lòng mê là “bờ này”, lòng ngộ là “bờ kia”.
Kinh là “Đường”,
là con đường tắt để “kiến tánh”.
ÂM :
Dao
Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập
phụng chiếu dịch.
NGHĨA :
Đời Dao Tần, Thầy Tam Tạng Pháp
Sư, là Cưu Ma La Thập, vưng chiếu, phiên dịch.
Giải : – Xét trong sử Tấn: “Cưu Ma La
Thập” là người Thiên Trước.
Khi xưa, vua nước Cưu Tư nghe danh cha Ngài, là Cưu Ma La Diêm,
bèn thỉnh về làm Quốc sư, rồi ép gả em gái cho.
Lúc Ngài còn trong thai thì bà mẹ sáng
suốt bội thường. Mà cũng trong lúc ấy, bà xuất gia. Ngài đến mười hai tuổi thì
bà dắt qua xứ Sa Lạc mà ở.
Đời Hậu Tần (383 – 416) vua Dao Hưng rước Ngài về vườn Tiêu Diêu mà dịch kinh.
Sau Ngài hóa thân tại Trường An. Khi
thiêu, xác và củi đều cháy tiêu hết, mà lưỡi Ngài vẫn còn.
Dịch là phiên dịch chữ Thiên Trước ra chữ Trung Quốc.
1.-ÂM :
Như
thị ngã văn :
NGHĨA :
Ta
nghe như vầy:
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Thị
là chỉ các chỗ nói trong kinh này.
Ngã: là người viết kinh
này tự xưng, tức là A Nan.
Như thị ngã văn là các chỗ nói trong kinh này tự ta nghe những
lời của Phật nói.
Đệ tử (A Nan) thường hỏi Phật: “Đến
sau viết kinh khởi đầu làm sao?”.
Phật bảo: “Dùng “Như thị ngã
văn” mà khởi đầu”.
Lý
Văn Hội giải: Như thị ngã văn là Như
Lai đến ngày nhập “Niết Bàn”, A Nan có hỏi Phật: “Sau
khi Phật diệt độ, cả thảy đầu bài
kinh để chữ chi?”.
Đáp: Trước để “Như thị ngã
văn”, sau chỉ rõ các chỗ. Cho nên ông Phó Đại Sĩ tụng:
Ở giữa Cụm Ta La, Là nơi Phật diệt độ.
A Nan ([68])
lúc bấy giờ, Bi thảm không qua
đó.
Hỏi sẵn có Ưu Ba ([69]),
Kinh, làm sau khởi thủ.
Rằng “Như thị ngã văn” Truyền bá hoài thiên cơ.
Bằng theo các bực đại Tông sư giải nghĩa,
thì “Như” là cái tánh của chúng sanh, muôn khác ngàn sai, động tịnh
không chừng, không ngang hàng đặng, không bằng bực đặng.
“Thị”
là biệt danh cái tánh của chúng sanh. Lìa ra ngoài cái tánh, lại không có pháp
chi khác nữa.
Lại nói: Pháp, chẳng phải không, gọi là Như.
Đều là Phật Pháp gọi là “Thị”.
Xuyên Thiền sư giải: Như thị, người xưa đạo kêu là “Như”,
nói Như thị là đã biến rồi.
Nói thử coi: Biến đổi đi đến chỗ nào?
Ôi! Chẳng đặng chạy đi bậy.
Rốt lại nói chi vậy.
Ngoài ngôn luận lửa không hề cháy!
Như như:
Đài gương muôn tượng thảy đều thâu,
Vậy vậy:
Nước sóng nguyên đồng tánh chất nhau.
Gương nước lúc chưa vương gió bụi,
Đất trời toàn thể hiện làu làu.
Lại nói :
Ngã là “Tự tánh tự tại”, chỉ cưỡng danh
vậy thôi.
Thân không phải có ta,
Cũng chẳng phải không ta,
Hai lẽ không ngần ngại,
Mới cho là thiệt ta.
Sạch sạch bóng,
Đỏ đỏ thắm.
Không phương rờ nắm.
Lại nữa :
Ta, ta………………………
Phân biệt Thánh hai cái khác xa.
Chẳng động hào ly huờn bổn tánh,
Tri âm tự có gió tòng, hòa.
Văn là lóng nghe.
Nghe không chấp có nghe.
Cũng chẳng chấp không nghe.
Chẳng “có chấp”, “không
chấp”,
Mới cho là “thiệt nghe”.
Lại nói: Rất kỵ nhứt, là nghe theo
nó.
Lời tụng rằng:
Hạc kêu chín nội,
Vượn hót đầu ngàn;
Mây ùn gió cuốn,
Nước chạt giòng tràng.
Sương đượm màu thu khoe vẻ đẹp;
Nhạn inh ỏi giọng tiết trời hàn.
2.- ÂM :
Nhứt thời, Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ thọ
Cấp Cô Độc viên .
NGHĨA :
Một
thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ nơi nhà Tịnh xá của ông Cấp Cô Độc cất trong vườn
cây ông Kỳ Đà .
Giải : Triệu Pháp Sư giải: Nhứt thời là thuở Phật pháp “Bát Nhã”.
Lý
Văn Hội giải: Nhứt thời là khi
Phật thuyết pháp hiệp giới lý đạo mà cảm với lòng người.
Phật là Giác. Giác trong tâm không các vọng
niệm, giác ngoài cảnh chẳng nhiễm lục trần.
Lại nói: Phật là vị “Giáo chủ”.
Chẳng phải tướng mà hiện tướng, là “Ứng thân Phật”. Tướng, mà
chẳng phải tướng, là “Báo thân Phật” – Chẳng phải tướng, chẳng
phải không tướng, là “Pháp thân Phật”.
Tại : là chỗ ở.
Sớ Sao giải: Phật, tiếng Phạm kêu: Bà Dà Bà cũng kêu
Phật Đà.
Phật: là Giác. Trước giác
cho mình, sau giác cho người (tự giác, giác tha), là bởi “giác
tánh” đã viên mãn. Cả thảy các loại “hữu tình” đều có tánh
giác ấy. Ngộ là Phật, mê là chúng sanh.
Trong Kinh có nói: “Nước Xá Vệ có một ông Trưởng giả, tên là Tu Đạt Noa, thường bố thí cho kẻ nghèo hèn
cô độc, cho nên người đời gọi ông là “Cấp Cô Độc Trưởng giả”.
Lục Tổ giải: Xá Vệ : là tên một nước của vua Ba Tư Nặc.
Kỳ : là Kỳ Đà Thái tử,
con vua Ba Tư Nặc.
Thọ : là vườn cây của ông Kỳ Đà dưng cúng, cho nên nói: Kỳ thọ.
Xuyên Thiền sư giải: Theo nhau mà đến.
Tụng:
Một một………..
Hai, ba, năm, bảy, không cùng tột;
Kiền khôn hỗn độn lúc chưa phân,
Vốn đã nhứt sanh thông ráo rốt.
Lại nói :
Như người uống nước, lạnh nóng tự mình
biết lấy.
Tụng:
Thì thì…………………..
Trăng trong, gió mát thảy đều tùy.
Đào hồng, lý trắng, tường vi tía,
Hỏi thử chủ nhơn có hiểu gì?
Lại nói :
Không có diện mục gì, mà nói việc thị
phi.
Tụng:
Nhỏ kêu Tất Đạt;
Lớn hiệu Thích Ca.
Tế độ các loại;
Thâu phục lũ tà,
Bằng nói Ngài là Phật,
Thế thì ta tức ma.
Dùng sáo tự nhiên không trổ lỗ,
Nhỏ to thổi điệu thái bình ca.
Lại nói :
Lục tặc đến, phải coi chừng đánh chận
lại, đừng cho đi tuốt.
Tụng:
Ngồi thiền một nén hương;
Kinh nghĩa tụng hai hàng.
Thương bấy khách xe ngựa,
Bề ngoài luống nhộn nhàn.
3.- ÂM :
Dữ đại Tỳ Khưu chúng, thiên nhị bá ngũ
thập nhơn cu.
NGHĨA :
Cùng một ngàn hai trăm năm mươi thầy đại
Tỳ Khưu đều ở tại đó .
Giải : Tăng Tử Vinh dẫn trong bộ Trí Độ Luận, quyển thứ ba có nói: khi “Như
Lai sắp nhập Niết Bàn, kêu A Nan mà dạy rằng: “Mười hai bộ kinh ngươi phải truyền bá ra cho đời sau”.
Lại dạy Ưu Ba Ly rằng: “Cả thảy Giới luật, ngươi nên thọ trì”. A Nan nghe Phật dặn bảo, lòng rất lo rầu”.
Khi ấy, Ưu Ba Ly nói với A Nan rằng: “Ông là người gìn giữ “Pháp
Tạng” của Phật, phải bạch hỏi Phật những điều yếu lý về đời sau”.
Ưu Ba Ly cùng A Nan có đến hỏi Phật bốn điều:
1.- “Cả thảy trước đầu kinh nên để
chữ chi?”.
– “Cả thảy trước đầu kinh nên để chữ
Như thị“.
2.- “Lấy ai mà làm thầy?”.
– “Lấy giới Ba la đề mộc xoa làm Thầy cả của các ngươi”.
3.- “Nương nơi đâu mà trụ?”.
– “Đều nương theo pháp “Tứ
Niệm” mà trụ”.
Tứ niệm:
Một là : Quán tưởng lòng chẳng sạch;
Hai là : Quán tưởng chịu những sự khổ;
Ba là : Quán tưởng Pháp tánh vốn
không;
Bốn là: Quán tưởng “Tâm” không có “ta”.
4.- “Thầy Tỳ Khưu có tánh ác, làm
sao mà ở chung?”.
– “Thầy Tỳ Khưu có tánh ác, thì dùng pháp “Phạm đàn” mà sửa trị”.
Phạm đàn “Mặc tấn”:
là nín nhịn.
Thiệt như lời Huỳnh Lỗ Trực nói:
Muôn nói muôn nhằm, chẳng bằng một nín
(mặc).
Trăm trận trăm hơn, chẳng bằng một nhịn
(tấn).
Tấn là kỉnh mà xa lánh.
Pháp này để xử thầy Tỳ Khưu có tánh ác.
Như Lai, khi dặn dò xong rồi, vào Đại
thành Cu Thi La, nơi hai cây Ta La mà thị hiện pháp Niết Bàn. A Nan nghe Phật sắp nhập Niết Bàn, trong lòng buồn rầu lo lắng nên
chẳng đến trước Phật mà hỏi lại bốn điều đó nữa.
Vương Nhựt Hưu giải: Tỳ Khưu: Khất sĩ. Trên xin pháp cùng chư
Phật, đặng tỏ cái chơn tánh mình, dưới xin ăn của người thế, đặng cầu phước cho
đời, cho nên nói: Khất sĩ.
Đại Tỳ Khưu :
là đắc đạo đã thâm, tức là bực Bồ Tát cùng A La Hán.
Cu : là ở chung. Là nói Phật
cùng một ngàn hai trăm năm mươi người ở chung trong vườn ông Cấp Cô Độc.
Trần Hùng : Tỳ Khưu, tức đời nay kêu là Thầy tu.
Lý Văn Hội giải: Tỳ Khưu, bỏ dữ làm lành là
“Tiểu Tỳ Khưu”, lành dữ đều bỏ là “Đại Tỳ Khưu”. Bằng người
tỏ thấu lý ấy, tức là chứng quả vị A La Hán. Phá đặng lục tặc (lục trần) là người trong bốn quả “Tiểu
thừa”.
Xuyên Thiền sư giải: Một tay vỗ chẳng nên
kêu.
Tụng:
Nghiêm nghị đàng hoàng,
Muôn pháp chủ trương.
Băm hai tướng hảo?
Muôn ngàn chủng quang.
Thánh, phàm chiêm ngưỡng,
Ngoại đạo qui hàng.
Chớ rằng Phật Tổ không trông thấy,
Ở tại Kỳ Viên đại đạo tràng.
4.-ÂM :
Nhĩ thời, Thế Tôn thực thời chước([70]) y trì bát.
NGHĨA :
Khi ấy, gần đến giờ ăn của đức Thế Tôn, Ngài bèn mặc y, mang bát.
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Nhĩ thời : là thuở ấy.
Phật là bực tôn trọng trong ba cõi, nên xưng là Thế Tôn.
Ba cõi là: “Dục giới”, “Sắc
giới”, “Vô Sắc giới”.
Lý
Văn Hội giải: Nhĩ thời: là thuở Phật ra đời.
Thế Tôn: Trong ba cõi, bốn
loài không có trí huệ, phước đức nào
sánh bì cho kịp. Thiệt là đáng tôn trọng của cả thảy thế gian.
Thực thời :
là chánh lúc sắp sửa bữa ăn ngọ.
Chước y: là
đắp cái y Nhu hòa nhẫn nhục.
Tăng Nhược Nột giải: Trong Kinh “Tỳ La Tam Muội” có
nói: “Buổi sáng là bữa ăn của chư Thiên; chánh giờ ngọ là bữa ăn của chư
Phật; chiều và tối là bữa ăn của các dị loại cùng quỉ thần”.
Nay nói Thực thời là chánh thức trước giờ
ngọ, trong buổi đi xin ăn.
Sớ Sao giải: Chước là đắp cái y “Tăng già lê”,
tức là Đại y hai mươi lăm điều ([71]).
Trì bát là bưng cái bát của Tứ Thiên Vương dưng cúng.
Kinh Di Giáo giải: Mặc đồ đáng hổ thẹn, đối với sự trang nghiêm là đúng bực nhứt.
5.- ÂM :
Nhập Xá Vệ đại thành khất thực.
NGHĨA :
Vào đại thành nước Xá Vệ xin ăn.
Giải : Tăng Nhược Nột giải: Chùa ở ngoài thành, cho nên nói: Vào.
Lý
Văn Hội giải: Khất thực là muốn khiến các thầy Tỳ Khưu đời sau chẳng
tích tụ tiền của châu báu.
6.- ÂM :
Ư kỳ thành, trung, thứ đệ khất dĩ.
NGHĨA :
Ở trong thành, cứ theo thứ lớp mà xin.
Giải – Tăng Nhược Nột giải: Chẳng bỏ nghèo theo giàu không chê hèn
tìm sang, lòng Đại từ bình đẳng,
không có chọn lựa, cho nên nói: Thứ lớp.
Lý Văn Hội giải: Thứ đệ là lòng từ bi của Như Lai, chẳng lựa nghèo giàu, bình đẳng
khắp độ.
7.-ÂM :
Huờn chí bổn xứ, phản tự cật ([72]) thâu
y bát, tẩy túc dĩ.
NGHĨA :
Về đến chỗ ở; dùng cơm xong, đoạn cất y
bát, rửa chơn rồi .
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Đi xin ăn rồi trở về, cho nên nói: Về
chỗ ở.
Ăn cơm xong, cất y bát là cất áo Ca sa
cùng bình bát rồi sau mới rửa chơn, là bởi Phật đi chơn không (Không đi giày).
Lý Văn Hội giải: Tẩy túc dĩ là “Tịnh thân
nghiệp”.
8.- ÂM :
Phu tòa nhi tọa.
NGHĨA :
Lên pháp tọa mà ngồi .
Giải : Nhan Bính giải: Phu là sắp đặt, sắp đặt “Pháp tọa” mà
ngồi.
Trí Giả Thiền sư giải :
Tụng:
Pháp, Ứng, Hóa ba thân,
Chẳng ăn uống tự nhiên.
Thường từ bi, bác ái,
Vì lợi ích Nhơn, Thiên.
Cất áo ngơi lao lự,
Rửa chơn sạch bụi duyên.
Lý “Tam không” muốn chứng,
Ngồi kiết già tham thiền.
Sớ Sao giải: “Tam không” là ba thể
luân chuyển đều không.
Người thí, người thọ thí và vật thí là ba
cái thể luân chuyển.
Người thí hồi tưởng cái chơn như bổn thể
vốn không, chẳng có một vật chi, cho nên nói: Lý không.
Người thọ trí hồi tưởng cái sắc thân
không phải chơn tướng, cái phương pháp không tên lâu dài; thân còn chẳng có,
vật đâu mà thọ lãnh; cho nên nói: Thọ không.
Kẻ thí, người thọ thí đã là không – Hai
bên đều không lòng vọng thí, vật thí cũng tự không, cho nên nói: Vật không.
Ấy là: Tam luân thể không.
Lý Văn Hội giải: Phu tọa nhi tọa là cả thảy pháp đều không.
Xuyên Thiền Sư giải: Cho rành nó.
Tụng:
Ăn cơm xong xả, rửa chơn rồi,
Nghiêm nghị ra nói Pháp tọa ngồi.
Có biết những văn sau đó tả?
Đất bằng gây nổi trận phong lôi.
CHƯƠNG HAI
9.- ÂM :
Thời Trưởng lão Tu Bồ Đề
NGHĨA :
Khi
ấy, Trưởng lão Tu Bồ Đề
Giải : Lý Văn Hội giải: Thời
: là thuở ông Không Sanh (Tu Bồ Đề) khởi sự hỏi Phật.
Trưởng lão là tuổi cao đức lớn.
Tu
Bồ Đề là Giải Không (Rõ lý
không).
Vương Nhựt Hưu giải: Trưởng lão
là tuổi cao hơn hết trong hàng đại chúng.
Tăng Nhược Nột giải: Tu Bồ Đề: là Không Sanh, Thiện Kiết, Giải Không, Thiện Hiện
Tôn giả.
Khi mới sanh ông ra, trong nhà đều trống
không (Không Sanh).
Có thầy coi tướng đoán rằng: Tướng trẻ
này rất lành, rất tốt (Thiện Kiết).
Sau ông tỏ đặng pháp “Không”
(Giải Không).
Ứng với lời thầy tướng đoán khi trước (Thiện
Hiện).
Tăng Liễu Tánh giải: Cái tánh Tu Bồ Đề người người đều có. Bằng người nào tỏ thấu cái
tánh vắng lặng mới gọi “Giải Không”; trọn đặng tánh không,
thiệt là Bồ Đề; mới gọi “Tu Bồ Đề”; cái tánh không ấy sanh ra
muôn pháp, mới gọi “Không Sanh”; cái tánh không, tùy cơ duyên
mà ứng hiện, lợi người lợi vật, mới gọi “Thiện Hiện”; muôn
hạnh trọn lành, mới gọi “Thiện Kiết”.
Tùy đức mà ứng hiện, nên mới cưỡng danh
năm tên ấy.
10.-ÂM :
Tại đại chúng trung, tức tùng tọa khởi,
thiên đản hữu kiên, hữu tất trước ([73])
địa, hiệp chưởng cung kỉnh nhi bạch Phật ngôn: “Hy hữu Thế Tôn!”.
NGHĨA :
Ở> trong hàng đại chúng, liền đứng dậy
đến nơi pháp tòa, trịch y nửa thân bên vai hữu, quì gối hữu sát đất, chắp tay
cung kỉnh mà bạch Phật rằng : “Như
đức Thế Tôn ít có!”.
Giải : Lý Văn Hội giải: Ông Tu Bồ Đề tỏ pháp “Không”
bực nhứt, cho nên đến hỏi Phật trước hết.
Hữu tất trước địa:
là trước dứt sạch “tam nghiệp” diệt trừ thân tâm, sửa sang
nghiêm chỉnh mà xưng tán Phật.
Hiệp chưởng :
là Tâm hiệp với đạo, đạo hiệp với tâm.
Hy hữu :
là Tánh Phật ta hay bao trùm muôn pháp, không chi sánh bằng.
Tăng Nhược Nột giải: Thiên đản : là tục người Tàu,
khi chịu lỗi xin tội thì ở trần, còn bên Tây Vức thi lễ thì trịch áo nửa thân
mình – Phong tục hai xứ không đồng nhau.
Hữu kiên :
là đệ tử hầu thầy, tỏ cái phép bưng xách hoặc làm công việc cho tiện.
Hữu tất trước địa :
là trong kinh Văn Thù vấn Bát Nhã có nói: “Bên hữu là đạo chánh, bên tả là
đạo tà. Dùng chánh bỏ tà sẽ cầu hỏi về cái hạnh chánh không tướng”.
Vương Nhựt Hưu giải: Bạch: là
kính thưa. Hy : là ít. Thế Tôn
: là hiệu của Phật.
Trước than thở khen ngợi là ít có, rồi
sau mới bạch Phật.
11.-ÂM :
Như Lai thiên hộ niệm chư Bồ Tát, thiện
phú chúc chư Bồ Tát.
NGHĨA :
Như Lai hay đoái tưởng các Bồ Tát, hay
giao phó dặn dò các Bồ Tát .
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Như
Lai : là hiệu Phật.
Phật sở dĩ gọi là Như Lai, là bởi
“Chơn tánh”, cũng kêu là “Chơn như”. Vậy thì, “Như”
tức là “Chơn tánh”.
Chơn tánh sở dĩ gọi là “Như”
đó, là bởi sự sáng của nó soi khắp cả vô lượng thế giới, không chi che lấp đặng.
Còn sự tỏ thì thông cả thảy nhưng việc của vô lượng kiếp, không chi mà ngăn
ngại đặng. Lại hay biến hiện, cũng làm cả thảy chúng sanh, không chỗ nào mà
chẳng đặng. Vậy mới thiệt là “tự như” (muốn làm sao cũng đặng).
Còn nói “Lai” là Chơn
tánh hay tùy chỗ mà hiện lại, cho nên nói: Như Lai.
Tánh Chơn như vốn không tới lui, mà nói
là “Lai” là bởi nó ứng hiện tại đó, cho nên nói: “Lai”
bằng có người chí thành cầu khẩn,
thì có cảm ứng liền. Nếu muốn vì cả thảy chúng sanh, lập pháp dạy bảo, thì hiện
sắc thân mà đến nơi ấy.
Phật, sở dĩ gọi là Như Lai đó cũng bởi Như như là bổn thể của Chơn tánh. Còn nói
là Lai là ứng dụng của Chơn tánh. Vậy thì, “Như
Lai” là gồm đủ cả thể và dụng của Phật mà nói. Tóm lại kinh này thường
nói Như Lai là vậy đó.
Tiếng Phạm nói Bồ Tát, vốn là Bồ đề tát đả. Muốn cho gọn câu văn và dễ
xưng hô, nên nói tắt là Bồ Tát.
Bồ đề : là Giác, Tát đả
: là Hữu tình. Hữu tình tức là chúng sanh. Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật;
bởi có sanh phải có tình. Duy có bực Bồ Tát ở trong bọn hữu tình mà đặng tỏ ngộ
mà thôi. Cho nên nói: Giác hữu tình.
Nói đại khái, hễ có tình thì có vọng
tưởng. Bực Bồ Tát chưa dứt hết tình tưởng, duy có tu đến bực Phật mới dứt hết
tình tưởng đặng. Cho nên Phật, riêng gọi là Giác, mà chẳng gọi là Hữu tình.
Phật nói: “Cả thảy chư Phật đều đặng
giải thoát các lòng vọng tưởng, chẳng còn mảy mún chi”. Cho nên nói:
“Phật”.
Phật lại nói: “Mười một bực Bồ
Tát đều có hai thứ ngu si”. Ngu
si đó há không phải là cái tình vọng tưởng hay sao? – Vậy nên, Bồ Tát mới gọi
là hữu tình, chớ chẳng đặng riêng gọi là Giác.
Trần Hùng giải: Bồ Tát : là người
vâng giữ giáo pháp của Phật. Chư Bồ Tát : là chỉ hết đại chúng mà nói.
Đại chúng nghe Như Lai thuyết pháp,
rất nên tin tưởng kính vâng.
Thoảng như Phật chẳng mở lòng từ bi che chở, đoái tưởng, khiến cho tin tưởng pháp
ấy, ắt bị loài ma dữ thừa dịp mà khuấy rối, và chẳng dạy bảo, khiến cho kính
vâng pháp ấy, thì pháp mầu có khi phải dứt mất. Cho nên ông Tu Bồ Đề ở trong
hàng đại chúng, trước khi nghe thuyết
pháp, không còn lo chi khác hơn là cầu xin Như Lai mở lòng từ bi mà đoái tưởng, dạy bảo.
Lý
Văn Hội giải: Như Lai: Như thì
chẳng sanh, Lai chẳng diệt; chẳng
phải tới, chẳng phải lui, chẳng phải ngồi, chẳng phải nằm, lòng hằng vắng lặng,
rỗng rang thanh tịnh.
Thiện hộ niệm:
là hay dạy các người, chẳng dấy lòng
vọng niệm.
Chư Bồ Tát, chư :
là chẳng phải một, Bồ: là soi, Tát: là thấy. Nghĩa là: soi thấy năm uẩn đều không – Năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Bồ Tát :
là Đạo tâm. Chúng sanh : là người thường giữ tánh cung kỉnh, cho đến các loài:
có vảy, vỏ, cánh, lông, cùng loài dòi, trùng, dế, kiến, đều dấy lòng ái kỉnh,
chẳng hề khinh dễ. Nên Phật thường nói các loài bò, bay, máy, cựa, đều có tánh
Phật là vậy.
Thiện phú chúc :
là mỗi niệm đều tinh tấn, chớ cho
nhiễm chấp. Niệm trước vừa nhiễm, niệm sau liền giác ngộ, chớ cho nó tiếp tục nhau.
Xuyên Thiền sư giải: Như Lai chưa thốt
một lời nào, cái gì mà Tu Bồ Đề lại thở than khen ngợi?
Có đủ “nhãn lực” hơn trong bọn,
nên dùng “nhãn lực” mà xem.
Tụng:
Cách non thấy khói hay rằng lửa,
Khuất vách lò sừng vốn biết trâu.
Ngồi dưới trời trên trời sộ sộ,
Đông Tây hà tất bói khoa cầu.
12.-ÂM :
Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn,
phát A nậu đa la tam miệu bồ đề tâm…
NGHĨA :
Bạch đức Thế Tôn! Như có trai lành, gái
tín nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Giải : Lý Văn Hội giải: Thiện
nam tử là người có lòng “chánh định”. Thiện nữ nhơn : là người có
lòng “chánh huệ”. Nghĩa là nói cả thảy đều có lòng quyết đoán
chắc chắn, hằng không lui sụt. Ấy là tỏ ra cái nghĩa “phát tâm”.
A: Vô, là không có lòng ô
nhiễm.
Nậu đa la: Thượng,
là trong ba cõi không ai sánh
bằng.
Tam: Chánh,
là chánh kiến.
Miệu: Biến,
là cả thảy các loài hữu tình, không chỗ nào là chẳng có; Bồ Đề : Tri,là
biết cả thảy loài hữu tình đều có tánh Phật.
Vương Nhựt Hưu giải: A là Vô,
Nậu Đa la là Thượng, Tam là
Chánh, Miệu là Đẳng, Bồ đề là Giác.
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề là:
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức là “Chơn tánh, mà Chơn
tánh tức là Phật“.
Phật: Giác. Nói tắt là “Giác”,
mà nói rõ là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Chơn tánh không
có chi trên đặng, nên nói: Vô thượng. Trên từ chư Phật, dưới đến loài
bò, bay, máy, cựa, tánh ấy đều bình đẳng như nhau, nên nói: Chánh đẳng – Cái tánh giác ấy, viên mãn sáng soi không
chênh, không kém, nên nói: Chánh giác.
Sở dĩ thành Phật là đặng cái tánh ấy. Bởi
vậy mới siêu thoát đặng ba cõi, chẳng còn luân hồi nữa.
Tăng Nhược Nột giải: Bồ Tát trước khi tu hành đều có phát
lòng rộng lớn như vậy cả.
13.-ÂM :
Vân hà ưng trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm?
NGHĨA :
Nên trụ thế nào? Nên hàng phục cái vọng
tâm thế nào?
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Ưng
: là nên, Vân: là nói; Vân hà : là nói làm sao (Thế nào). Vân
hà ưng trụ : là nên trụ chỗ nào.
Vân hà hàng phục kỳ tâm
: là nên hàng phục cái vọng tâm thế nào.
Tăng Nhược Nột giải: Tu Bồ Đề có hỏi hai
điều:
1. – Chúng sanh phát lòng Vô thượng,
muốn cầu pháp Bát Nhã, thế nào là trụ đặng chỗ đế lý (lý chắc)?
2. – Hàng phục cái vọng tâm,
thế nào mà diệt trừ đặng sự hoặc loạn?
Những lời nói trong bộ kinh này, đều
chẳng ngoài cái lý “hàng trụ” ấy.
Lý Văn Hội giải: Vân hà hàng
phục kỳ tâm: là ông Tu Bồ Đề gọi kẻ phàm phu vọng niệm, phiền não không
ngằn. Vậy phải nương pháp chi mà điều đình và hàng phục cho đặng?
Xuyên Thiền Sư giải: Lời hỏi ấy, bởi đâu
mà ra?
Tụng:
Ngươi vui ta chẳng vui
Ngươi thẹn ta không thẹn,
Ải
Bắc thẩn thơ nhàn;
Ổ
xưa rù quến én,
Xuân hoa thu nguyệt ý không ngằn,
Mình biết lấy mình lãnh noản.
14.-ÂM :
Phật ngôn: Thiện tai! Thiện tai! Tu Bồ Đề như nhữ sở
thuyết: Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phú chúc chư Bồ Tát…: Nhữ kim
đế thính, đương vị nhữ thuyết.
NGHĨA :
Phật khen: Đáng khen cho! Đáng khen cho!
Tu Bồ Đề này! Theo lời Ông nói: Như Lai hay đoái tưởng các Bồ Tát, hay giao phó
dặn dò các Bồ Tát… Vậy nay ông hãy lóng nghe. Ta đáng vì ông mà nói.
Giải : Lý Văn Hội giải: Như
nhữ sở thuyết: là Phật khen ông Tu Bồ Đề hay biết ý Phật, khéo dạy mọi
người chẳng dấy vọng niệm lòng hằng tinh tấn, chớ cho nhiễm chấp các
pháp tướng.
Đế thính : Đế cũng
kêu là liễu (tỏ). Ông phải tỏ thấu “thinh trần”, xưa nay chẳng
sanh, chớ chấp theo tiếng nói; phải xét cho kỹ rồi sẽ nghe theo.
Vương Nhựt Hưu giải: Đế : là xét,
là nói: nghe cho chín chắn.
15.-ÂM :
Thiện nam tử, thiện nữ nhơn, phát A Nậu
Đa La Tam miệu tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm. Dủy nhiên Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn.
NGHĨA :
Như trai lành, gái tín nào phát tâm Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên trụ như vậy, nên hàng phục cái vọng tâm như
vậy. Vâng, vâng, bạch đức Thế Tôn!
Con nguyện hết lòng muốn nghe .
Giải : Lý Văn Hội giải: Ưng
như thị trụ: là Như Lai muốn khiến cái lòng chúng sanh, chẳng sanh chẳng
diệt, rỗng rang thanh tịnh mới thấy tánh đặng.
Hàng Cư sĩ giải:
Tụng:
Người đời trọng của báu,
Ta quí sát na tịnh.
Của báu rối lòng người,
Tịnh rồi hẳn thấy tánh.
Tiêu Diêu Ông giải: Lòng phàm phu động mà
tối tăm, lòng Thánh nhân tịnh mà sáng suốt.
Lại nói: Kẻ phàm phu nào tâm cảnh thanh
tịnh, là cõi tịnh của Phật, còn tâm cảnh uế trược, là cõi trược của ma.
Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Kẻ phàm phu
phần nhiều bị cảnh ngại lòng, sự ngại lý, hằng muốn trốn cảnh an lòng, bỏ sự
theo lý; đâu biết tại lòng ngại cảnh, lý ngại sự, chớ kỳ thiệt: Lòng
không cảnh mới không, lý dứt sự mới dứt. Chẳng nên dụng tâm trái ngược như thế.
Lại nói, kẻ phàm chấp cảnh, người trí
chấp lòng. Lòng, cảnh đều không, mới thiệt chơn pháp. Quên cảnh còn dễ,
quên lòng rất khó. Người bằng chẳng dám quên lòng, e sa về chỗ “không“,
hết nơi tìm kiếm; chớ chẳng biết cái không vốn chẳng phải không trong ấy hẳn có
một cái chơn pháp giới.
Kẻ phàm phu đều theo cảnh sanh lòng, mới
có sự vui chán. Bằng muốn không cảnh thì phải không lòng. Lòng không thì cảnh
mới không, cảnh không thì lòng mới dứt. Bằng chẳng không lòng, cứ lo trừ cảnh,
cảnh đã chẳng trừ đặng, mà càng lại càng thêm rối rắm là khác.
Muôn pháp chỉ tại nơi tâm, mà tâm chẳng
có chi mà đặng. Đã không chi đặng mới thiệt là rốt ráo. Hà tất phải bo bo mà
cầu giải thoát?
Như thị hàng phục kỳ tâm
: Bằng thấy đặng tự tánh tức là không vọng niệm. Đã không vọng
niệm tức là hàng phục cái tâm.
Dủy : là vưng dạ; nhiên:
là hiệp ý. Nguyện nhạo dục văn : là lòng vui mừng, muốn nghe pháp.
Trần Hùng giải: Dủy: là dạ, nhiên:
là phải vậy.
Nhan Bính giải: Phát A nậu đa la tam
miệu tam bồ đề tâm: là phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ưng: là nên, trụ :
là còn hoài chẳng dứt.
Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: Như có trai lành
gái tín nào mộ đạo, phát lòng Bồ Đề,
phải làm thế nào mà đặng còn hoài chẳng dứt? Làm thế nào mà hàng phục cái
vọng tâm?
Phật bảo: Đáng khen cho! Là đáng khen! –
Ấy là lời thở than khen ngợi. Phát lòng Bồ Đề nên trụ như vậy…. nên hàng phục cái tâm như vậy… Như vậy là chỉ cái việc ấy.
Dủy nhiên:
là lời “vưng dạ” của ông Tu Bồ Đề, so cùng lời dạy của thầy Tăng
chẳng khác ([74]).
Nhạo : là ưa muốn, là ưa muốn
nghe nói pháp.
Trí Giả Thiền Sư giải:
Tụng:
Ít có ai như Phật,
Đạo mầu tột Niết Bàn.
Thế nào là phục trụ,
Pháp ấy rất gian nan.
Lý nhị nghi huyền diệu,
Giáo tam thắng ([75])
rộng khoan.
Đáng khen nghe phải lòng,
Lục tặc khó che ngăn.
Xuyên Thiền Sư giải: Thường thường cái
việc chi cũng bởi sự dặn dò cặn kẽ mà ra.
Tụng:
Bảy tay, tám chơn.
Mặt quỉ, đầu thần,
Chặt mấy không rã.
Đã hoài không vàng.
Lắm lúc múa men trên thế giới.
Bổn lai chẳng khỏi điện Không vương.
CHƯƠNG BA
16.-ÂM :
Phật cáo Tu Bồ Đề: “Chư Bồ Tát Ma ha
tát ưng như thị, hàng phục kỳ tâm”.
NGHĨA :
Phật
bảo Tu Bồ Đề: ” Các đại Bồ Tát, nên hàng phục cái vọng tâm như vậy”.
Giải : Lý Văn Hội giải: Ma
ha tát là lớn. Tâm lượng rộng lớn, không thể so lường, là người rất tỏ ngộ.
17.-ÂM:
Sở hữu nhứt thế chúng sanh chi loại.
NGHĨA :
Bằng có cả thảy các loại chúng sanh.
Giải : Lục Tổ giải: Nhứt
thế: là tóm góp.
Sau này sẽ có phân riêng chín loại.
Vương Nhựt Hưu giải: Phàm có sanh, đều
gọi là chúng sanh. Trên từ chư Thiên, dưới đến loài xủng động ([76])
đều chẳng khỏi có sanh, cho nên nói: Cả thảy chúng sanh. Chúng sanh tuy vô số
vô cùng, nhưng chẳng ngoài chín loài. (Bài sau có giải).
Lý Văn Hội giải: Chúng sanh : là
cả thảy: Lành, dữ, phàm, Thánh, còn lòng chấp bỏ, dấy sanh vô lượng vô biên
phiền não, vọng tưởng, luân hồi trong lục đạo.
Cổ Đức có nói:
Hoa giác tốt tươi ít kẻ trồng
Lửa lòng ung đốt hằng ngày nhúm.
Là nói những người mê muội chịu các sự
phiền não, lại hớn hở an vui, vốn chẳng phải người tỏ đạo, có khác chi là hình
cây tượng gỗ.
Hoặc hạng người trung căn, cho phiền não
là khổ, thì trí huệ ấy cũng không bằng ngu si; như vậy không phải là lầm hay
sao?
Chớ nên chứa để nơi lòng. Bằng không như
thế, học đạo để dùng vào đâu? Thiệt chẳng ích chi cho mình. Phải lấy sức trí
huệ mà thắng nó mới đặng.
18.-ÂM :
Nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược
thấp sanh, nhược hóa sanh; nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược
vô tưởng, nhược phi hữu tưởng phi vô tưởng.
NGHĨA :
Hoặc sanh trứng, sanh con, sanh chỗ ướt,
hóa sanh, hoặc có sắc, không sắc, có tư tưởng, không tư tưởng, chẳng phải có tư
tưởng, chẳng phải không có tư tưởng.
Giải : Lục Tổ giải :
Loài sanh trứng là loài mê tánh;
Loài sanh con là loài tập tánh;
Loài sanh chỗ ướt là loài theo tà tánh;
Loài sanh hóa là loài theo thú tánh,
Bởi mê nên gây các nghiệp, bởi tập nên
hay dời đổi, bởi theo đen nên lòng chẳng định, bởi theo thú nên đọa vào A tỳ (Địa ngục).
Lấy tâm mà tu tâm, thì vọng sanh phải
quấy. Chẳng tỏ đặng cái lý không
tướng, cho nên nói: Hữu sắc.
Lòng giữ ngay thẳng, chẳng làm việc cung
kỉnh cúng dường, chỉ rỏ lòng ngay tức là Phật, chẳng tu phước huệ, cho
nên nói Vô sắc.
Chẳng tỏ lý Trung đạo, mắt thấy, tai nghe, thì để ý
suy nghĩ, ưa chấp pháp tướng, miệng thì nói hạnh Phật, mà lòng chẳng làm theo,
cho nên nói: “Hữu tưởng”.
Người mê ngồi thiền, tính bề trừ vọng,
chẳng học đạo từ, bi, hỷ, xả, trí
huệ phương tiện, cũng như cây đá không có tác dụng, cho nên nói: “Vô
tưởng”.
Chẳng chấp cả hai pháp tướng (hữu tưởng,
vô tưởng) cho nên nói: “Phi hữu tưởng”. Lòng còn cầu lý, cho
nên nói: “Phi vô tưởng” ([77]).
Vương Nhựt Hưu giải: Nhược noãn sanh,
lớn như chim cánh vàng (Kim sí điểu); cho đến nhỏ như loài rận, rệp.
Nhược thai sanh:
Lớn như voi, sư tử; bực trung như người; nhỏ như mèo, chuột.
Nhược thấp sanh:
Như cá, trạnh, ba ba, cua đinh, cho đến các thứ vi trùng trong nước.
Nhược hóa sanh:
Như sâu, bọ trong các thứ gạo, bắp, trái, hột, ở cõi Thiên, nhơn, địa ngục mà
hóa sanh ra.
Bốn loài trên đây, đều gọi là chúng sanh
ở cõi “Dục giới”.
Nhược hữu sắc:
Sắc là sắc thân, là chỉ các hàng Thiên nhơn, từ cõi Sơ thiền Thiên cho đến cõi Tứ thiền Thiên, tuy có sắc
thân, mà không có hình nam hay nữ. Đã hết tình dục, nên gọi “Sắc
giới”.
Nhược vô sắc:
Là chỉ các Thiên nhơn cõi “Vô sắc giới”, cao hơn cõi Tứ
thiền Thiên – duy có tánh linh,
không có sắc thân, nên gọi “Vô sắc”.
Nhược hữu tưởng:
Là chỉ các Thiên nhơn cõi trời “Hữu tưởng”, Thiên nhơn ấy
không có sắc thân duy có tánh tưởng niệm mà thôi, từ đây trở lên, đều gọi “Vô
sắc giới”.
Nhược vô tưởng:
Là chỉ các Thiên nhơn cõi trời “Vô tưởng”, cao hơn cõi trời “Hữu
tưởng”, một niệm lặng lẽ chẳng động, nên nói: “Vô tưởng”.
Nhược Phi hữu tưởng Phi vô tưởng: Là chỉ
các Thiên nhơn cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, cao hơn cõi trời Vô
tưởng, một niệm vắng lặng chẳng động, nên nói Phi hữu tưởng. Song
chẳng phải cây đá mà không có tưởng, nên nói: Phi vô tưởng. Cõi trời
này, sánh với ba cõi kia, thì lại cao tột hơn, còn người thì sống rất lâu,
chẳng những tám muôn kiếp mà thôi.
Lý Văn Hội giải: Nhược noãn sanh
là bởi còn tham chấp cái vô minh, nên bị sự tối tăm nó bao phủ.
Thai sanh
: là bởi xúc động cảnh trần nên mới sanh lòng tà vậy,
Thấp sanh:
là vừa dấy ác niệm, liền đọa vào tam
đồ ([78]);
cũng vì vậy mà mắc phải tham, sân, si.
Hóa sanh
: là cả thảy phiền não vốn thiệt không căn, dấy lòng vọng tưởng, thì thoạt nhiên mà có.
Kinh Giáo Trung có nói: “Cả thảy
chúng sanh, tánh vốn cụ túc, tùy nghiệp mà chịu quả: Tại cái nhân vô minh
nên sanh trứng; tại phiền não bao trùm nên sanh con; tại tùy các loại ưa
muốn dầm thấm, nên sanh chỗ ướt; tại hay khởi ra phiền não, nên sanh hóa.
Lại nói: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, nếu
hồi quang soi lại, mà còn chỗ tham lậu, thì phải đọa vào bốn loài: thai,
noãn, thấp, hóa.
Sắc, thinh, hương, vị, nếu
hồi quang soi lại, mà không chỗ tham lậu thì chứng đặng bốn quả A La Hán.
Ông Phó Đại Sĩ có làm lời tụng:
Không sanh vừa khởi hỏi Phật cảm ứng phân bày.
Trước dạy trụ như thế, Sau khuyên tu cách này.
Noãn, thai cùng thấp, hóa Phương tiện động từ bi.
Bằng chấp mê tà kiến, Thì trụ tướng chẳng sai.
Hữu sắc: là kẻ phàm phu, lòng
còn chấp có, vọng sanh phải quấy, chẳng tỏ cái lý “không tướng”.
Vô sắc: là chấp trước cái
tướng “không”, chẳng tu phước huệ.
Hữu tưởng :
là mắt thấy, tai nghe, liền sanh vọng tưởng, miệng thì nói hạnh Phật, mà
lòng chẳng làm theo.
Vô tưởng:
là ngồi thiền trừ vọng, cũng như cây đá, chẳng học đạo từ bi, trí huệ, phương tiện.
Phi hữu tưởng,
như Kinh Giáo Trung nói: “Có không đều dứt, nói, nín thảy quên”. Bằng
có lòng chấp bỏ, ghét thương, thì chẳng tỏ lý Trung đạo.
Ông Lâm Tế Thiền sư có giải: Vào phàm, vào Thánh, vào nhiễm, vào tịnh, chốn
chốn hiện ra các quốc độ, đều là các pháp tướng “không”, vậy mới
thiệt là thấy rõ lý chơn chánh. Bằng ai còn yêu Thánh, ghét phàm, thì hãy còn
nổi chìm trong biển sanh tử.
Phi vô tưởng :
là còn có lòng cầu lý.
19.-ÂM :
Ngã giai linh nhập Vô dư Niết bàn nhi diệt độ chi.
NGHĨA :
Ta đều khiến cho đặng rõ lý Vô dư Niết bàn (giải thoát) mà diệt độ.
Giải : Lý Văn Hội giải: Ngã
: là Phật tự xưng, giai : là gồm, linh : là khiến, nhập
: là tỏ thấu, Vô dư : là chơn thường vắng lặng.
Kinh Pháp Hoa có nói: “Phật sẽ vì
trừ dứt, khiến thảy chẳng còn dư…”.
Niết bàn :
là lòng Bồ Tát không còn chấp bỏ, ví như mặt trăng tròn vo êm lặng. Còn chúng
sanh bởi mê về pháp “Niết bàn không tướng”, nên mắc phải cái
thân sanh tử có tướng.
Diệt : là trừ dứt; độ:
là hóa độ.
Lục Tổ giải: Như Lai chỉ rõ trong ba giới, chín cõi đều có sẵn cái lòng “huyền diệu Niết
bàn” khiến cho tự mình tỏ ngộ lấy.
Vô Dư : là không còn cái tập
khí ([79])
phiền não.
Niết bàn: viên mãn, thanh tịnh khiến cho dứt hết cả thảy tập khí chẳng sanh
nữa, thì mới hạp với lý ấy.
Độ : là đưa qua biển lớn
sanh tử.
Lòng Phật bình đẳng, nguyện cùng với cả
thảy chúng sanh: đồng tỏ ngộ cái lý Vô tướng Niết bàn viên mãn thanh tịnh;
đồng độ qua khỏi biển lớn sanh tử, đồng chứng quả với chư Phật.
Muôn sự phiền não sai biệt nhau, đều bởi
lòng ô nhiễm, mới có thân hình vô số, đều gọi chung là chúng sanh. Cái lòng đại
bi phổ hóa của Như Lai, đều khiến cho đặng rõ lý Vô dư Niết bàn mà diệt độ cả.
Trong Chứng Đạo Ca có
nói: “Kẻ ngộ đồng lên nẻo Niết bàn”.
Chú giải: Niết bàn : là chẳng sanh
chẳng diệt. Niết: là chẳng sanh, bàn : là chẳng diệt, tức là nẻo
“Vô sanh”.
Ông Xung Ứng Chơn Nhơn, Châu Sử Khanh,
lúc luận đàm cùng ông Bất Thác Hòa thượng, có chỉ khói nhang mà nói: “Muốn
rõ Hữu dư Niết bàn của người học đạo, hãy coi tro trong lư thì biết. Còn
muốn rõ Vô dư Niết bàn của người
học đạo, hãy coi tro trong lư đã bay đi hết thì biết”.
Vương Nhựt Hưu giải: Niết bàn: là Vô vi.
Kinh Lăng Già có nói: “Niết bàn là chỗ thanh tịnh, chẳng chết chẳng sống; cả
thảy các bực tu hành đều nương về đó”. Vậy thì, Niết bàn là chỗ để siêu thoát nẻo luân hồi, xa lìa
đường sanh tử. Thiệt là chỗ rất nhiệm mầu, chớ chẳng phải gọi là chết. Người
đời không rõ lý ấy, nên nhận lầm là chết, thiệt rất sai lầm.
Vô dư Niết bàn tức là Đại Niết bàn là nói ngoài Niết bàn này lại không còn chi dư nữa, cho nên nói: Vô
dư Niết bàn.
Bài này nói chín loại chúng sanh, trong
các thế giới của bài trước đã giải, đều hóa độ cho đặng làm Phật và chứng đặng
Niết bàn cả.
20.-ÂM :
Như thị diệt độ vô lượng vô số vô biên
chúng sanh, thiệt vô chúng sanh đắc diệt độ giả .
NGHĨA :
Diệt độ chúng sanh vô lượng vô số vô biên
như vậy, nhưng thiệt chẳng có chúng sanh nào mà đặng diệt độ cả.
Giải : Vương Nhựt Hưu giải:
Cả thảy chúng sanh đều bởi trong nghiệp duyên mà hiện ra.
Hễlàm nghiệp duyên người, thì sanh làm
người.
Tu nghiệp duyên cõi Trời, thì sanh về cõi
Trời.
Tạo nghiệp duyên súc sanh, thì sanh làm
súc sanh.
Gây nghiệp duyên địa ngục, thì sanh ở địa
ngục.
Chín loài chúng sanh, như bài trên đã
nói, thì không chi là chẳng phải bởi nghiệp duyên mà sanh ra. Vốn thiệt không
có chi gọi là chúng sanh cả, nên Bồ Tát phát tâm hóa độ cho, đều đặng thành
Phật, đồng chứng Niết bàn, chớ thiệt không có một chúng sanh nào nhờ cái pháp
Niết bàn cả.
Tăng Nhược Nột giải: Trong cái nghĩa bực nhứt ([80])
thì không có chúng sanh nào độ đặng, tức là tâm thường trụ.
Bằng thấy có độ đặng, tức là còn sanh
diệt. Cũng bởi cả thảy chúng sanh, bổn lai ([81]) vốn là
Phật; thì có chúng sanh đâu mà độ? Cho nên nói:
Chơn pháp giới bình đẳng,
Phật không độ chúng sanh.
Trần Hùng giải: Trong cái “tánh” đã sẵn có trí huệ Đại thừa, nhưng chúng
sanh chẳng hay tự tỏ ngộ lấy.
Phật, thiệt mở đường tỏ ngộ cho chúng
sanh vô lượng vô số vô biên; khiến cho những chúng sanh trong lòng còn các sự
ngu si tà kiến, phiền não thảy đều diệt độ. Diệt độ rất nhiều như vậy, sao lại
nói: Không có chúng sanh nào đặng diệt độ?
– Là bởi để về phần chúng sanh, tự tánh
tự độ lấy, chớ Phật ta nào có công chi.
Trong kinh Bảo Đàn, Lục Tổ có nói:
“Tự tánh tự độ, gọi là chơn độ”.
Kinh Tịnh Danh có nói: “Cả thảy
chúng sanh, bổn tánh sẵn diệt độ, chẳng cần phải diệt độ nữa”.
Văn Thù Bồ Tát hỏi Phật: “Thế nào là
thiệt không có chúng sanh nào đặng diệt độ?”.
Đáp: “Tánh vốn thanh tịnh, chẳng
sanh chẳng diệt, nên không có chúng sanh nào đặng diệt độ cả, cũng không có
Niết bàn nào mà đến cả; đều để về phần chúng sanh tự tánh tự độ lấy mà
thôi”.
Kinh Hoa Nghiêm có nói:
Bằng ai muốn tỏ biết,
Cả thảy Phật ba đời,
Hồi quang tánh Pháp giới,
Gây việc bởi lòng người.
Bài kệ trong Tạo Hóa Nhơn Tâm có nói:
Nghiệp duyên bởi tại lòng.
Ảnh hưởng nào sai chạy.
Tạo hóa vốn không làm,
Quần sanh tự tạo lấy.
Lý Văn Hội giải: Vô lượng vô số vô
biên chúng sanh : là khởi ra vô lượng vô số vô biên lòng phiền não.
Đắc diệt độ là đã tỏ ngộ, thì lòng không chấp bỏ, cả thảy
phiền não đổi làm diệu dụng, cho nên nói: “Không có chúng sanh nào đặng
diệt độ cả”.
Kinh Bửu Tích có nói:
“Người khôn cùng khổ lạc.
Chẳng động tợ hư không”.
Tiêu Diêu Ông giải: Thường hay xem xét
tánh phiền não vốn không, việc đã qua rồi thì thôi, chớ nên lưu ý.
Lại nói: Tánh phiền não vốn không, chớ
nên nghi ngại, phải coi như mộng huyễn, không cần chú ý. Dầu cho cái tình còn
động, có khác nào cái tiếng dội kia, dội rồi liền dứt.
21.-ÂM :
Hà dĩ cố ? – Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát hữu ngã
tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ Tát.
NGHĨA :
Bởi cớ sao ? – Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát
mà có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, thì chẳng phải là
Bồ Tát .
Giải : Lục Tổ giải: Người tu
hành cũng có bốn tướng.
1. – Lòng có năng sở, mà khinh dễ
chúng sanh là ngã tướng.
2. – Ỷ mình là người giữ giới, khinh kẻ
phá giới là nhơn tướng.
3. – Nhàm chán cái khổ của ba đường ([82])
muốn sanh về các cõi Trời là Chúng sanh tướng.
4. – Lòng muốn sống lâu mà cầu tu nghiệp
phước, chấp pháp chẳng quên là thọ
giả tướng.
Có bốn tướng ấy tức là chúng sanh; không
bốn tướng ấy tức là Phật.
Tăng Nhược Nột giải: Ngã tướng : là bởi cái lục
thức ([83])
của mình nối nhau chẳng dứt. Trong ấy lại chấp “có ta”, hiểu như thế,
là chấp theo bề trong, cho nên nói: “Ngã tướng”.
Nhơn tướng:
là ngoài cái cảnh lục đạo ([84])
kêu chung là người, các cảnh ấy mỗi thứ còn có chấp trước, phân biệt, hơn thua;
có đây, có kia. Hiểu như thế là chấp theo bề ngoài, cho nên nói: “Nhơn
tướng”.
Chúng sanh tướng :
là bởi cái tâm thức, trước hết nhờ tinh cha huyết mẹ, rồi tiếp theo có bốn ấm:
Sắc, thọ, tưởng và hành hòa hiệp lại, cho nên nói: Chúng sanh tướng.
Thọ giả tướng:
là kể cho mạng căn một đời của ta chẳng dứt, cho nên nói: “Thọ giả
tướng”.
Trần Hùng giải: Tham, sân, si, ái là bốn nghiệp dữ.
Tham thì hay vì việc
“riêng của mình, ấy là có ngã tướng “.
Sân thì hay phân biệt người ta, ấy là có nhơn
tướng.
Si thì ngang ngược, chẳng kỉnh nhường, ấy là chúng
sanh tướng.
Ái thì trông mong cho đặng sống lâu, ấy là thọ giả tướng.
Như Lai chẳng chấp có độ chúng sanh, mà
cho là có công. Rốt lại cũng chẳng có chi là “Sở đắc”, là bởi đã dứt
hết bốn tướng.
Kinh Viên Giác có nói: “Chưa trừ dứt
bốn tướng, chẳng đặng quả Bồ đề”.
Bồ Tát phát lòng cầu đạo Vô thượng Bồ đề,
thọ giáo pháp “Không tướng” của Như Lai, há còn có bốn tướng sao? Nếu
còn có một tướng nào, thì ắt dấy lòng chấp có độ chúng sanh, tức là kiến thức
của chúng sanh, chớ chẳng phải là Bồ Tát. Bồ Tát cùng chúng sanh, tánh vốn
chẳng khác; ngộ thì chúng sanh là
Bồ Tát, mê thì Bồ Tát là chúng
sanh; cũng bởi mê, ngộ bốn tướng ấy mà thôi.
Hà dĩ cố là
lời biện luận. Phật e cho các Bồ Tát chẳng tỏ cái lý “không tướng của chơn
không”, vì vậy nên mới biện luận đến bốn tướng ấy.
(Trong phần thứ 17 và 25 cũng đều nói như
vậy).
Nhan Bính giải: ([85]):Nhứt
thế chúng sanh: Kinh Niết Bàn có nói: “Thấy đặng tánh Phật, chẳng gọi
là chúng sanh, không thấy đặng tánh Phật, thì gọi là chúng sanh”.
Ma ha: Đại, là Phật gọi ông
Tu Bồ Đề cùng các bực Đại giác tánh.
Hoặc loài sanh trứng, sanh con, sanh chỗ
ướt, sanh hóa, là loài xuẩn động hàm linh (bò, bay, máy, cựa) có hình sắc,
không hình sắc, có tình tưởng, không tình tưởng, cho đến chẳng thuộc hai cảnh
có không; chúng sanh hình thể tuy chẳng đồng, nhưng chơn tánh vốn không có khác.
Chín loài chúng sanh ấy, Phật đều khiến
cho tỏ lý Vô dư Niết bàn mà diệt độ cả.
Niết bàn:
Chẳng sanh gọi là Niết, chẳng tử
gọi là bàn.
Trong kinh có nói:
“Như Lai chứng Niết bàn.
Bặt dứt đường sanh tử”.
Diệt độ: Là
diệt dứt cả thảy phiền não, độ qua khỏi biển
khổ sanh tử.
Linh : là khiến, là Phật đều
khiến cho tỏ ý Vô dư Niết bàn.
Vô dư: Bực La Hán, tuy chứng
đặng Niết bàn, nhưng hãy còn dư
thân trí, nên nói: Hữu dư Niết bàn. Đến bực không còn dư thân trí, mới
gọi: Vô dư Niết bàn.
Thiệt vô chúng sanh đắc diệt độ giả là chúng sanh đã tỏ ngộ bổn tánh vắng lặng
rồi, lại còn diệt độ cái gì nữa! Nếu như bổn tướng mà chưa đặng bấy giờ trừ dứt
thì đâu phải là bực Bồ Tát giác tánh?!
(Chỗ này ông Nhan Bính có dẫn bài tụng
của ông Phó Đại Sĩ, song đã có đăng nơi đệ thứ hai, đoạn Trường hàng số 18, nên
không đem vào đây).
Lý Văn Hội giải: Ngã tướng : là ỷ
mình có danh vị, quyền thế, giàu có và tài năng, ưa cầu thân cùng bực cao sang,
mà khinh bỉ những người hèn dốt.
Nhơn tướng:
là chấp lòng năng sở ; chấp lòng tri giải, chưa đặng nói đặng, chưa
chứng nói chứng; ỷ mình giữ giới khinh kẻ phá giới.
Chúng sanh tướng:
là có cái lòng hy vọng, hoặc nói chánh làm tà, miệng lành lòng dữ.
Thọ giả tướng:
là trong lúc hiểu tợ hồ như “ngộ” nên đối cảnh sanh tình, chấp trước
các tướng, mong cầu sự phước lợi.
Có bốn tướng ấy thì đồng với chúng sanh,
chẳng phải là Bồ Tát.
Lâm Tế Thiền sư giải: Trong cái thân điền
([86])
ngũ uẩn có vị “Vô vị Chơn nhơn” ([87]), sộ sộ
rõ ràng sao chẳng biết dùng? Ấy vậy mỗi giờ chớ cho hở dứt, thì trước mắt đều
là đó (xúc mục giai thị).
Bởi tình sanh nên trí mới khác, vì vọng
tướng nên thể mới riêng. Vậy nên phải luân hồi trong ba cõi, mà chịu các điều
thống khổ.
Dám hỏi các người: “Trước mắt đều là
đó, mà đó là cái chi?”.
Mỗi mỗi non sông nào trở ngại.
Trùng trùng lầu các mặc kinh doanh.
Xuyên Thiền sư giải: Đội trời đạp đất,
mũi thẳng mắt ngang.
Tụng:
Sờ sờ đạo cả,
Chói chói rõ ràng.
Người người sẵn đủ,
Kẻ kẻ hoàn toàn.
Bởi chưng sai một niệm,
Hiện tượng cả muôn ngàn.
CHƯƠNG TƯ
22.-ÂM :
Phú thứ, Tu Bồ Đề!
NGHĨA :
Lại nói tiếp: Tu Bồ Đề này!
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Phú
thứ là biên tiếp thêm lời vấn đáp
của Phật cùng Tu Bồ Đề. Ấy là lời của người viết kinh nói.
Nhan Bính giải: Phú thứ : là lại
nói tiếp.
Lý Văn Hội giải: Phú thứ: là tiếp
thêm bài trước, khởi ra lời sau.
23.-ÂM :
Bồ Tát ư pháp ưng vô sở trụ, hành ư Bố
thí.
NGHĨA :
Bồ Tát làm việc Bố thí, theo phép, thì
không có chỗ trụ .
Giải : Sớ Sao giải: Ưng vô sở trụ: Ưng: là nên,
vô sở trụ: là lòng chẳng nên chấp trước.
Lý Văn Hội giải: Bồ Tát ư pháp : là nên cả thảy
pháp “không tướng”.
Ưng vô sở trụ :
là không chấp trước cả thảy các pháp.
Kinh Pháp Hoa có nói: “Trong mười
phương quốc độ. Chỉ có pháp Nhứt thừa”. ([88])
“Ấy gọi là tâm. Tâm tức là pháp,
pháp tức là Tâm”.
Hạng người trong hai bực thừa ([89])
chẳng hay tỏ ngộ, nói ngoài tâm riêng có pháp, lại sanh điều chấp trước theo
pháp tướng.
Ấy là kiến giải đồng với chúng sanh.
Ông Tiêu Diêu Ông có giải: Kẻ phàm phu chẳng biết tự mình là Phật, chỉ cầu ở
ngoài, chấp tướng mê chơn, phân biệt cảnh khác, chẳng vì giúp ích cho đạo, chỉ
mong phước lợi, ví như tên bắn trên không, người vào chỗ tối.
Ông Cu Chi Hòa Thượng, hễ gặp ông Tăng nào đến hỏi đạo, thì đưa lên một ngón
tay. Vậy nên Phật Giám Thiền sư có
lời tụng:
Chẳng khả dụng tâm kiếm ở ngoài,
Trong tiêu tức đó có do lai,
Báo tin Đạt Mạ Tây thiên lại,
Chỉ tại Cu Chi một ngón tay.
Bồ Tát thì ngộ đặng “nhơn,
pháp” đều không, lòng không chấp bỏ, rõ thấu Thánh phàm một bực, sắc không
một loài, lành dữ một thể.
Long Tế Hòa Thượng giải:
Tụng:
Tâm, cảnh chẳng còn sanh,
Sắc, không mới hiểu rành,
Bổn lai như muốn rõ,
Ở nước biển non xanh.
Ấy là lòng của Bồ Tát không còn chi trụ
trước.
Hành ư bố thí: Bố nghĩa là khắp; thí
nghĩa là tản ra. Là nói dứt hết bốn
tướng: “Ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả” cùng cái lòng phiền não, vọng
tưởng, chấp bỏ, ghét thương.
Đức Thế Tôn dùng giáo pháp mà bố thí,
trong thì diệt trừ cả thảy chấp trước, ngoài thì lợi ích cho cả thảy chúng
sanh.
Bồ Tát bố thí không nên trụ trước, chẳng
thấy có “ta” là người bố thí, chẳng thấy có “người” là kẻ
thọ thí, chẳng thấy có “vật” là của tín thí. Ba thể đều không, trụ
“chỗ không trụ”. Thanh tịnh bố thí ; chẳng sợ mình nghèo, chẳng trông
trả ơn, chẳng cần phước báu.
Kẻ phàm phu bố thí, vọng cầu phước lợi.
Ấy là bố thí trụ tướng.
Vĩnh Gia Đại Sư giải:
Cầu phước nhơn, thiên mà bố thí.
Như tên bắn bổng giữa hư không
Tiêu Diêu Ông giải: Như người tụng kinh Kim Cang này, mà tỏ đặng lý: Trụ cái tâm không chỗ trụ,
đặng cái pháp không chỗ đặng; ấy là tu Huệ nghiệp.
Bằng người mỗi ngày có công đọc tụng, mà
vọng cầu phước lợi; ấy là tu phước nghiệp.
Hai điều ấy, cách nhau rất xa, như trời
với vực vậy.
Kinh Pháp Hoa có nói: “Như đời sau
có người đọc tụng kinh này, mà chẳng còn tham muốn những đồ ăn uống, y phục mền
chiếu, là vật để nuôi sự sống, thì cái sở nguyện mới là chẳng uổng”.
Trương Vô Tận giải: Phàm người học đạo,
chẳng nên để ý về sự ăn no, mặc ấm, cốt yếu tại nơi cầu pháp Vô thượng Bồ đề là pháp xuất thế gian. Bằng cho việc ấy là
không vừa ý mà hờn lòng, chỉ lo về sự ăn mặc thì có ích chi?
24.-ÂM :
Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thinh,
hương, vị, xúc, pháp bố thí.
NGHĨA :
Là nói: Chẳng trụ sắc mà bố thí, chẳng
trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí ([90]).
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Sắc:
là hình sắc; thinh : là âm nhạc; hương: là hơi hám; vị: là
mùi vị; xúc : là nam nữ tình dục, cảm xúc; pháp: là so lường suy
nghĩ. Phương pháp ấy là dạy bảo chúng sanh chẳng cho mê chấp sáu trần.
Trần Hùng giải: Kinh Ma ha Bát Nhã có nói: “Mắt biết sắc,
tai biết tiếng, mũi biết hơi, lưỡi biết mùi, thân biết trơn láng, mềm mỏng, ý
biết phương pháp”.
Lại trong Sám Pháp có nói: “Mắt
nhiễm sắc, tai nhiễm tiếng, mũi nhiễm hơi, lưỡi nhiễm mùi, thân nhiễm mịn màng
mềm mại, ý nhiễm phương pháp, nên gây ra cả thảy nghiệp”.
Đây nói ” trụ” nghĩa là sự biết
và sự nhiễm.
Kẻ phàm phu sáu căn chẳng tịnh, nên tham
chấp sáu điều ấy cho vừa ý muốn, ấy là sáu trần. Có một điều nào trong căn,
trần mà chưa vừa, thì cũng bố thí mong cầu cho đặng. Ấy là bố thí trụ tướng.
Bồ Tát vưng giáo pháp “Không
tướng” của Như Lai, không cầu sái sự ưa muốn, không chấp lòng hay bố thí,
chỉ dùng pháp mà bố thí, lợi ích cả thảy chúng sanh, như nước lưu thông trong
đất. Chẳng có chi ngăn ngại. Ấy là bố thí không trụ tướng.
Kinh Hoa Nghiêm có nói:
“Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp,
Cả thảy “lục căn” chẳng vọng
sanh,
Vì tế độ chung cho chúng loại,
Trí “Vô thượng tối thắng”
thường hành”.
Ấy là làm việc bố thí.
Kinh Hoa Nghiêm, cuốn thứ 24 cũng có nói:
“Nhãn thức biết cả thảy các
thứ sắc; nhĩ thức biết cả thảy các thứ thinh; tỹ thức biết cả thảy các thứ hương; thiệt thức biết cả thảy các thứ vị; thân thức biết cả thảy các thứ xúc; ý thức biết cả thảy các thứ pháp”.
Kinh Thiên Địa Bát Dương có nói: “Nhãn
thường thấy cả thảy vô tận sắc; nhĩ thường nghe cả thảy vô tận thinh; tỹ thường ngửi cả thảy vô tận hương; thiệt thường nếm cả thảy vô tận vị; thân thường cảm giác cả thảy vô tận xúc; ý thường tư tưởng cả thảy vô tận pháp”.
Như trong hai hiệu kinh ấy đã nói:
“Cả thảy các thứ thinh, và cả thảy vô tận thinh”. Mà ông Vương chỉ nói thinh là âm nhạc, thì e lỗi về sự nê
chấp theo âm nhạc?
Lại nói: Cả thảy các thứ xúc, và cả thảy
vô tận xúc, mà ông Vương chỉ nói xúc là nam nữ tình dục, thì e lỗi về sự nê
chấp theo nam nữ tình dục?
Trương Vô Tận giải: Bất trụ sắc bố thí là tánh trí huệ soi thấy cả thảy đều
không.
Đàn na: là kẻ bố thí.
Bực Bồ Tát có chấp sắc đâu mà bỏ.
Gọi là bố thí là như thuốc đối với bịnh,
không đối với có. Có cùng bịnh đã trừ, không với thuốc đều bỏ. Sắc, không đã
dứt, Trung đạo đâu còn, thì có pháp chi mà đặng?
Hai bực thừa (Nhị thừa) bỏ sắc chấp
không, mà cho là bố thí chẳng trụ sắc.
Trong kinh của Huyền Trang Pháp sư dịch,
có nói: “Không trụ sắc, không trụ chẳng phải sắc,thinh, hương, vị, xúc,
pháp một cách như nhau”. Cho nên không, có thảy đều không trụ. Nghĩa là: Có cái không đâu mà chấp, có cái có đâu mà bỏ! Không, có vốn đồng một thể bình đẳng. Bình đẳng mà bố
thí mới là đặng tánh Pháp giới (Lý
tánh của Chơn như).
Chẳng chấp có bố thí, chẳng chấp không bố
thí, hai bên có không đừng cho
ngăn ngại, lòng bố thí rộng lớn cũng như hư không, thì đặng công đức lại cũng
như vậy. Cho nên trong kinh này, lấy mười phương hư không mà so sánh cùng phước
bố thí cũng là ý đó.
Ông Phó Đại Sĩ có lời tụng :
Pháp môn của lục độ, Gồm sáu hạnh ba đàn,
Vô húy, tư sanh, pháp,
Tu trì giới luật toàn;
Hai bên đều chẳng lập, Trung đạo cũng không an.
Tìm lý “Vô sanh nhẫn” Kíp trừ vọng phản quang.
Bất trụ thinh :
là thanh tịnh không ngăn ngại.
Thi la: là giới.
Hai bực thừa lầm tưởng: Thinh là do sắc
sanh ra, mới theo thinh trần mà phân biệt. Nghe vui thì mừng, nghe buồn thì
thương; muốn bỏ thinh mà chấp không thinh, lại cho là giới.
Bồ Tát có thinh đâu mà bỏ? Nếu cho có
sắc, thì thinh do đó mà sanh, sắc đã vốn không, thì thinh do đâu mà có? Bằng đã
ngộ đặng lý ấy, tuy ở trong vòng sanh tử, mà sanh tử chẳng ràng buộc đặng, ở
trong cảnh lục trần mà lục trần cũng không ô nhiễm đặng; dầu ở nơi nào, chốn
nào, lòng cũng vẫn thường thanh tịnh.
Tụng:
Trì giới đặng thanh tịnh, Kiếp vô lượng tạo nhân,
Vọng tâm như oán tặc, Tham ái, tợ Sâm Thần ([91])
Chỗ dục không mê dục, Ở trần chẳng nhiễm trần,
Nương theo Ly Cấu Địa ([92]) Ắt chứng Pháp vương thân (Phật).
Bất trụ hương :
là thấy sắc mà vẫn thanh tịnh.
Sằn đề :
là nhẫn nhục.
Hai bực thừa vọng sanh nhẫn nhục, bởi e
phạm về chấp trước, nên muốn lánh xa, lại cho là nhẫn nhục. Như vậy là bỏ sắc chấp không, chẳng tỏ lý Trung đạo, đâu biết
đặng hương trần là vốn không.
Bồ Tát, nhẫn cũng không nhẫn, nhục cũng không
nhục, chỉ để tự tánh cho thanh tịnh, chẳng sanh lòng khởi diệt, nên tâm địa mới
là tỏ ngộ.
Cho nên Cổ Đức có nói : “Kẻ sĩ minh
tâm tỏ như gương sáng, thâu rút các hình, không chi ngăn ngại, hàm dung sự
thanh tịnh, bao la, không bờ không bực.
Lại có lời tụng:
Cảnh nhục như sừng thỏ Nhẫn tâm tợ huyễn phao,
Dụng công phu chớ trễ, Điều khổ nạn liền tiêu.
Chi quấy mà chi phải? Chẳng
hèn cũng chẳng cao.
Giặc tham sân muốn dứt, Lấy trí huệ làm đao.
Bất trụ vị là nói tánh chúng sanh cùng tánh Như Lai vốn
không phân biệt.
Tỳ ly da:
là tinh tấn.
Tỏ đặng cái căn của lưỡi vốn không, là
chẳng chấp vị.
Cho nên nói: Ăn những món chi, ví như
uống thuốc, dầu ngon hay dở, chớ khá khen chê.
Ông Triệu Pháp sư có nói: “Hội đủ muôn
pháp đem về nơi mình, chỉ có bực Thánh nhơn mà thôi”.
Ông Triều Thái Phó có nói: “Cả thảy
phàm phu đều là mê muội, bằng có kẻ nào hồi tâm tín ngưỡng, tìm xét lý mầu cho
tâm địa sáng suốt, ấy là mê mà đặng ngộ”.
Ông Kỉnh Sơn Quả Thiền sư có nói: “Phật với chúng sanh tướng vốn không
khác, chỉ vì mê ngộ, nên khác nẻo, đường”.
Ông Huỳnh Nghiệt Thiền sư có nói về: “Trí thực và thức thực: “Thân
tứ đại có sự đáng lo là: Đói với đau. Tùy phận mà cấp dưỡng, chẳng chấp trước,
nên nói trí thực; có tình ưa đắm mùi ngon, vọng sanh lòng phân biệt, chỉ toan
đẹp miệng, chẳng biết chán nhàm, nên nói thức thực”.
Hai bực thừa, tuy chẳng chấp các mùi ăn
uống, nhưng còn chấp các mùi đạo pháp, lại lấy làm chỗ tham chấp đó mà cho là
tinh tấn.
Lòng Bồ Tát đối với pháp tướng, như chiêm
bao, huyễn hoặc; gặp duyên thì thí, qua rồi thì thôi.
Kinh Viên Giác có nói: “Soi tỏ các
tướng như chốn hư không, ấy gọi là Như Lai tùy sự thuận lợi mà giác tánh”.
Ông Phó Đại Sĩ có lời tụng:
Bởi tánh huệ cần tu, Chứng thành địa thứ tư.
(Diệu huệ địa)
Tục, chơn đâu có thiệt, Nhơn pháp thảy đều hư.
Cao hạ không tham chấp, Nhân duyên hãy diệt trừ.
Hồi quang đừng giải đãi, Chẳng những đến Vô dư.
Bất trụ xúc
là nói lòng không chấp bỏ: trong đó Bồ đề đâu mà chấp, ngoài có phiền não đâu
mà bỏ.
Thiền na
: là tịnh lự (dứt lo).
Hai bực thừa nhận cái xúc làm sắc thân:
Như sắc thân mà có, Xúc trần mới tính trừ.
Sắc thân nguyên chẳng có, Xúc
lại có bao giờ?
Hựu: Tỏ lý xúc không sanh, Uổng công toan chẳng chấp.
Bao nhiêu những pháp môn. Vốn có chi là pháp?
Lục Tổ có nói: “Cả thảy muôn pháp
đều bởi tâm sanh, tâm chẳng chỗ sanh thì pháp không chỗ chấp”.
Ông Thái Dương Thiền Sư có lời tụng:
Thái Dương pháp thiền, Mỗi bữa liên miên.
Luôn luôn không dứt, Xúc mục là duyên.
Bằng hay đặng vậy, Pháp pháp hiện tiền.
Ông Phó Đại Sĩ có lời tụng:
Sông thiền cơn phẳng lặng, Sóng tịnh nước đều bình.
Có định tâm liền giác, Không lo, tánh ắt linh.
Y tha do vọng khởi, Biến kế hẳn hư danh,
Bằng rõ thông nguyên lý, Nghĩa
viên thành mới minh.
Bất trụ pháp là soi thấy thân tâm, pháp
tướng đều không.
Bát Nhã: là trí huệ.
Các pháp thuộc ý, ý thuộc thức, thức ấy
là vọng.
Trong kinh Kim Cang Tam muội có nói:
“Cảnh giới thấy đó chẳng phải bổn thức của ta”.
Hai bực thừa phân biệt các tướng đều là
vọng thức, thì bổn thức lại có đâu mà đặng!
Bồ Tát tỏ thấu cái bổn thức đã rốt ráo,
nên mới không phân biệt.
Ông Phó Đại Sĩ có lời tụng:
Huệ đăng dường mặt nhựt, Năm uẩn tợ thành Càn([93])
Sáng tối thường xen lẫn, Xưa nay thấy rõ ràng.
Chấp nên chưa dứt vọng, Nhơn ngã hẳn còn mang.
Dùng trí hồi quang lại, Hư danh sẽ tỏ tường.
Lời tụng chung sáu pháp Ba la mật :
Ba kiếp đại tăng kỳ ([94]),
Tu muôn hạnh chỉnh tề.
Ngã nhơn nay đã ngộ, Thánh đạo cử theo về.
Lý “nhị không” ([95]) lần
tỏ, Hạnh “tam muội” ([96]) chẳng nghi.
Ở an nơi cảnh đẹp, Thong thả có lo chi?
Lâm Tế Thiền sư giải: Phật có pháp Lục
thông là:
1.- Đến chỗ sắc chẳng bị sắc nhiễm.
2.- Đến chỗ thinh chẳng bị thinh nhiễm.
3.- Đễn chỗ hương chẳng bị hương nhiễm.
4.- Đến chỗ vị chẳng bị vị nhiễm.
5.- Đến chỗ xúc chẳng bị xúc nhiễm.
6.- Đến chỗ pháp chẳng bị pháp nhiễm.
Bởi tỏ thấu sáu thứ ấy đều là không
tướng, nên nó không thể ràng buộc đặng. Vậy mới gọi là người hành đạo không nhơ
nhiễm. Tuy là còn cái thân ngũ uẩn uế trược, nhưng cũng chứng đặng bực Địa
Hạnh Bồ Tát.
Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Vốn một điểm tinh minh chia sáu căn hòa
hiệp. Một điểm tinh minh là một cái tâm, sáu cái hòa hiệp là sáu căn. Căn đều
hiệp với trần:
Nhãn hiệp với sắc, Nhĩ hiệp với thinh;
Tỹ hiệp với hương; Thiệt hiệp với vị;
Thân hiệp với xúc; Ý hiệp với pháp.
Ở trung gian sanh ra sáu thức, cộng là 18
giới. Bằng tỏ đặng 18 giới ấy, cả thảy đều không. Thân sáu thứ hòa hiệp làm một
tinh minh, thiệt là người tỏ ngộ; chỉ còn có cái chơn tâm rỗng rang thanh tịnh
mà thôi.
25.-ÂM :
Tu Bồ Đề, Bồ Tát ưng như thị bố thí: bất
trụ ư tướng.
NGHĨA :
Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên bố thí như vậy:
Chẳng nên trụ tướng .
Giải : Lục Tổ giải: Bố thí mà cái tâm không trụ tướng
chẳng chấp là có bố thí ; chẳng thấy có vật bố thí, chẳng phân biệt có người thọ thí, cho nên nói: Bố
thí không chấp tướng.
Tăng Nhược Nột giải: Ưng như thị bố
thí :là chỉ về sáu trần. Bất trụ
tướng bố thí là chẳng chấp các tướng của sáu trần. Bằng bố thí mà chấp
tướng thì chỉ có đặng phước báu nhơn thiên mà thôi.
Lý Văn Hội giải: Bồ Tát ưng như thị bố
thí là diệt trừ cả thảy các lòng
phiền não ghét thương; nhưng bổn tánh phiền não đều là “vọng kiến”, thì có chi đâu mà bỏ?
Trong Kinh có nói: Cả thảy các cái
“có” đều như chiêm bao huyễn hoặc, cả thảy các cái “không”
đều là giặc là ma.
Tiêu Diêu Ông giải: Tánh phiền não là
cảnh giới của Phật. Phải quán tưởng tánh phiền não vốn không, mới thiệt là
người tu hành học đạo.
Bằng nương theo pháp quán tưởng, làm cho
chín chắn, thì chẳng cần cầu pháp chi khác nữa.
Vả chăng người kiến tánh, trong mười hai
giờ, phàm gặp cảnh thuận nghịch, lòng vẫn an vững tự nhiên, chẳng đổi dời theo
muôn cảnh. Dầu người mắng nhiếc, ta vẫn như không, thì những lời ác ấy trở lại
cho người. Cho nên nói: “Ai làm nấy chịu”.
Ví như có người cầm đuốc mà toan đốt
trời, càng thêm mệt nhọc, nào có ích chi!
Vậy nên Cổ Đức có nói:
Lòng theo muôn cảnh chuyển,
Lý chuyển rất nên mầu.
Tùy hạng người viên giác,
Chẳng vui cũng chẳng rầu.
26.-ÂM :
Hà dĩ cố? Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố
thí, kỳ phước đức bất khả tư lương.
NGHĨA:
Bởi cớ sao? Nếu Bồ tát bố thí chẳng trụ
tướng, thì phước đức không thể so lường đặng.
Giải : Sớ Sao giải: Hà dĩ
cố : là tỏ ý hỏi- Bố thí vốn để cầu phước, nay bảo chẳng chấp tướng, là ý
làm sao? – Phật tự đáp: “Như Bồ Tát bố thí chẳng chấp tướng, thì phước đức
không thể so lường đặng”. Bằng thông cái lý ba thể chuyển luân đều không
mới gọi là bố thí chẳng chấp tướng.
Bất trụ :
là lòng chẳng chấp hữu vi.
Trần Hùng giải: Đức Thế Tôn có đáp cùng ông Văn Thù rằng: “Thí của là người
phàm, thí pháp là bực Thánh”.
Kẻ phàm phu bố thí dùng bảy báu đầy cả
tam thiên thế giới, đặng mà cầu phước. Ấy là thí tài là bố thí trụ tướng.
Vả lại làm như vậy, là mong cho đặng phước
báo nhơn thiên, khi hưởng hết rồi, thì cái kiếp luân hồi cũng chẳng khỏi. Bực Bồ Tát bố
thí, chỉ một lòng thanh tịnh lợi ích cho cả thảy chúng sanh, đặng bực đại thí
chủ thí pháp. Ấy là bố thí không trụ tướng.
Tuy chẳng cầu phước, mà tự nhiên lìa khỏi
cái khổ sanh tử, hưởng đặng sự khoái lạc: Siêu thoát ba cõi, tự tại muôn đời.
Cho nên nói: Phước đức vô hạn, không thể so lường bàn nghĩ đặng.
Phật thương chúng sanh đời mạt thế, mắc phải sáu trần ô nhiễm, chưa dễ gì hóa độ cho đặng, nên mới
dùng cái thuyết phước đức vô hạn mà khuyến nhủ, cho mau tỏ ngộ về hội Pháp thí.
Kinh Duy Ma có nói: “Nên làm hội
Pháp thí, chớ chẳng cần làm hội tài thí”.
Nhan Bính giải: Trụ là chấp trước. Bồ Tát đối với Phật pháp thì
nên bố thí không chấp trước. Bố thí là xả thí, là chẳng trụ sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp mà bố thí. Sáu điều
ấy, gọi là sáu trần: nhãntham sắc, nhĩ tham thinh, tỹ tham hương, thiệt tham vị,
tình trần đối với nhau gọi là xúc, tham trước hữu vi gọi là pháp. Bổn tánh vẫn thanh tịnh vốn không sáu căn, thì sáu trần do đâu mà có? – Cho nên Phật nói:
“Nên phải bố thí như thế,
chẳng đặng trụ tướng”. Bằng bố
thí không trước tướng, thì phước đức sánh tày chốn hư không không thế so
lường đặng”.
Lý Văn Hội giải: Bất trụ ư tướng là chẳng phải duy có thứ sắc thấy đó mới là
tướng, cho đến các thứ phân biệt, cũng đều gọi là tướng cả. Các tướng ấy đều bởi nhân duyên mà sanh ra. Phải biết cả thảy thứ phân biệt
đều như mộng huyễn, gặp duyên thì thí duyên qua rồi thì thôi. Cho nên Phật nói:
“Phàm chỗ nào có tướng đều là hư vọng”.
Lại ông Tây Minh Hòa Thượng có nói:
Pháp tướng, bằng như có, Mới cho rằng trụ tướng.
Pháp tướng vốn là không, Nên rằng không trụ tướng,
Bố thí đã không trụ tướng, thì phước đức
lại làm sao mà so lường đặng?
Tiêu Diêu Ông giải: Phải biết các pháp
như chiêm bao, như huyễn hoặc, như bóng, như tiếng dội, như trăng dưới nước,
như bóng trong gương.
Lại nói: Tỏ thấu cả thảy pháp, chẳng chấp
cả thảy tướng; lòng như hư không tự nhiên, không ngăn ngại. Nếu lòng còn trụ
tướng thì thuộc về chấp pháp. Cho nên biết cả thảy pháp không trụ cả thảy
tướng, mới thấy đặng tánh Phật.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Không tầm mà bố thí Công
đức khó so lường.
Tế độ người nghèo thiếu, Nghĩa nhơn chớ tính bàn.
Hạng phàm phu thấp thỏi Hay cổ võ khoe khoang,
Muốn rõ hình đàn thí, Hư không khắp thập phương.
Xuyên Thiền sư giải: Muốn đi khắp thiên
hạ, chẳng chi bằng “Nhứt nghệ tinh”.
Tụng:
Gấm tốt xứ Tây Xuyên,
Thêm hoa mới vẹn tuyền.
Muốn tin cho chắc chắn,
Bắc đẩu phía Nam xem.
Trống không chẳng vướng ly hào niệm.
Bởi thế nên xưng “Đại Giác
Tiên”.
27.-ÂM :
Tu Bồ Đề ! Ư ý vân hà? Đông phương hư
không khả tư lương phủ?- “Phất dã, Thế Tôn !”. – “Tu Bồ Đề! Nam,
Tây, Bắc phương tứ duy thượng, hạ hư không, khả tư lương phủ?”. –
“Phất dã, Thế Tôn!”. – “Tu Bồ Đề! Bồ Tát vô trụ tướng bố thí,
phước đức diệc phục như thị, bất khả tư lương. Tu Bồ Đề ! Bồ Tát đản ưng như sở
giáo trụ”.
NGHĨA :
Này Tu Bồ Đề ! Ý ông thế nào? Hư không
phương Đông, có so lường đặng chăng?- “Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng
đặng”.- “Tu Bồ Đề! Còn như hư không phương Nam, phương Tây, phương
Bắc bốn hướng bên cạnh, phương trên và phương dưới, có so lường đặng
chăng?”.- “Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng đặng”.- “Tu Bồ Đề! Bồ
Tát bố thí mà chẳng trụ tướng, thì phước đức lại cũng như vậy; không thể so
lường đặng. Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên trụ theo chỗ ta dạy đó”. (TRỤ CHỖ KHÔNG
TRỤ)
Giải : Lý Văn Hội giải: Phất
dã Thế Tôn: là ông Tu Bồ Đề nói cõi hư không, ta suy nghĩ, thiệt không thể
so lường đặng. Bất khả tư lương : là đã giác ngộ rồi, lòng không
“năng sở” tức không có bốn tướng: Ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, thì
có chi đâu mà so lường! Đản ưng như sở giáo trụ: là những người học đạo
phải y theo lời Phật dạy, trụ chỗ ” không trụ” thì sẽ đặng tỏ ngộ.
Tạ Linh Vận giải: Lời Thánh không sai, lý
chẳng khá bỏ, nên phải an tâm mà vưng theo lời dạy của Phật.
Trần Hùng giải: Phật bảo: Nên trụ theo
chỗ ta dạy đó, đồng một nghĩa với câu “Trụ vô sở trụ”, trong kinh Hoa Nghiêm.
Pháp của Như Lai dạy Bồ Tát, không ngoài
cái pháp “Trụ vô sở trụ”, còn Bồ Tát chịu giáo pháp của Như
Lai, không dám biến cải, chỉ phải y theo lời dạy là: Lấy pháp không trụ mà làm
chỗ trụ.
Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Trụ chỗ Bát Nhã Ba la mật “.
Kinh Văn Thù Bát Nhã có nói: “Phật hỏi ông Văn Thù Sư Lợi:
– “Nên làm thế nào mà trụ vào Bát
Nhã Ba la mật?”.
– “Dùng pháp không trụ là trụ Bát Nhã Ba la mật”.
– “Thế nào pháp không trụ mà gọi là
trụ Bát Nhã Ba la mật?”.
– “Dùng pháp không trụ tướng tức là
trụ Bát Nhã Ba la mật“.
Vậy thì pháp trụ đã rõ ràng, không còn
chi là chẳng phải cái ý nghĩa trụ chỗ không trụ.
Kinh Tam Muội có nói:
“Thuyết pháp của Như Lai, Lý “vô trụ” chẳng ngoài.
Ta tuân theo giáo lý, Mới
thiệt kính tôn Ngài”.
Nhan Bính giải: Tứ duy là bốn
hướng góc: Như Đông Nam, Đông Bắc v.v… Bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn
hướng góc thượng phương và hạ phương cộng chung là mười phương.
Phật hỏi: “Hư không của mười phương,
có thể so lường đặng chăng?”.
Tu Bồ Đề:
“Không thế so lường đặng”, là bởi không có chi lớn hơn hư không của
mười phương, nên Phật mượn đặng ví dụ với phước đức.
Phó Đại Sĩ có nói:
Muốn biết hình đàn thí,
Hư không khắp thập phương.
Phật nói: “Bồ Tát bố thí không trụ
tướng, phước đức lại cũng như cõi hư không ấy không thể so lường tính toán
đặng. Bồ Tát phải theo chỗ chỉ dạy của Phật mà trụ. Phật dạy chỗ trụ đó, lộng
lạc như cõi hư không của mười phương là: Trụ chỗ không trụ.
Xuyên Thiền sư giải: Đáng cho là biết lễ.
Tụng:
Hư không bổn thể lớn bao la,
Lý đạo lại càng quá thẫm xa.
Trăng gió năm hồ thường tự tại,
Chào xuân đua nở lập lòe hoa.
CHƯƠNG NĂM
28.-ÂM :
Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ thân tướng
khiến Như Lai phủ?”.
NGHĨA :
Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có nên dùng
thân tướng mà cho là Như Lai chăng?”.
Giải : Bảo Tích Như Lai giải:
Chơn thân của Như Lai vốn không sanh diệt, rỗng rang hằng còn, nhưng mượn năm
uẩn mà chịu sắc thân như người phàm, hầu có thuyết pháp hóa độ. Cũng nhập thần
vào thai mẹ vậy; song, sánh với tướng phàm đều là khác, cho nên nói: “Bằng
thấy các tướng chẳng phải tướng, tức rõ đặng Như Lai”.
Tụng:
Tưởng phàm dầu diệt tánh còn hoài,
Thể giác Chơn như chẳng kém phai.
Tỏ lý “đoạn, thường” căn quả
khác,
Mới rằng Phật, nhãn thấy Như Lai.
Vương Nhựt Hưu giải: Đây nói Như Lai là
chơn tánh Phật.
Phật kêu ông Tu Bồ Đề mà hỏi: “Có
nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Chơn tánh Phật chăng?”.
29.-ÂM :
Phất dã, Thế Tôn! Bất khả dĩ thân tướng
đắc kiến Như Lai.
NGHĨA :
Bạch đức Thế Tôn! Không. Không nên dùng
thân tướng mà cho là Như Lai.
Giải : Vương Nhựt Hưu giải:
Ông Tu Bồ Đề trả lời: “Không”. Rồi lại bạch cùng đức Thế Tôn:
“Không nên dùng thân tướng mà cho là chơn tánh Như Lai”. Vây thì,
trước nói “không” là nói đại lược rồi sau mới nói rõ.
Lý Văn Hội giải: Bất khả dĩ thân tướng
đắc kiến Như Lai : là ông Tu Bồ Đề nói: “Sắc thân thì có tướng, pháp
thân thì không tướng”. Sắc thân là đất, nước, lửa, gió, (địa, thủy, hỏa,
phong) giả hiệp lại mà thành, Pháp thân là không hình dạng tướng mạo; sắc thân
tức phàm phu, pháp thân tức Như Lai. Ông Tu Bồ Đề cho hạng phàm phu chỉ biết có
sắc thân, chớ chẳng thấy đặng pháp thân, nên mới đáp như thế !
30.-ÂM :
Hà dĩ cố? – Như Lai sở thuyết thân tướng
tức phi thân tướng.
NGHĨA :
Bởi cớ sao? – Bởi Như Lai thường nói thân
tướng, tức chẳng phải thân tướng.
Giải : Vương Nhựt Hưu giải:
Đây nói Như Lai là sắc thân của Phật.
Ông Tu Bồ Đề tự hỏi: “Bởi cớ sao
chẳng nên dùng thân tướng mà cho là chơn tánh Như Lai?”. Rồi tự đáp:
“Như Lai thường nói: Thân tướng không phải là chơn thiệt”. Cho nên
nói: “Chẳng phải thân tướng” vì không có cái thân tướng chơn
thiệt”.
Lý Văn Hội giải: Như Lai sở thuyết
thân tướng tức phi thân tướng: Phi là không sắc thân. Phàm phu gọi sắc thân
là thiệt có, mới chấp trước mà tu hành, nên không thấy đặng tánh Phật; phải bị
sanh tử luân hồi trở nên thâm trọng. Còn pháp thân của Như Lai, vốn không có
tướng. Cho nên nói: “Thân tướng là chẳng phải thân tướng”.
Kinh Hoa Nghiêm có nói:
“Phật lấy pháp làm thân.
Thanh tịnh như hư không”..
Cho nên ông Vân Môn Đại sư có nói:
“Nếu khi đó mà ta gặp thì đập một roi cho chết, mà cho chó ăn”. Ấy là
người Đại thừa tiên giác, mở trói gở niêm, giải nghi phá chấp cho đời vậy.
Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Người học đạo
như muốn biết lẽ nhiệm mầu, chỉ có đừng chấp trước điều chi trong lòng thì đủ.
Pháp thân của chơn Phật cũng như hư
không, nên nói Pháp thân tức hư không. Hư không tức Pháp thân. Người đời gọi Pháp
thân khắp cả hư không, trong hư không có hàm súc Pháp thân, chớ chẳng biết Pháp
thân tức là hư không, hư không cũng tức là Pháp thân.
Hư không cùng Pháp thân, tướng không
khác; Phật cùng chúng sanh tướng không khác; sanh tử cùng Niết bàn tướng không
khác; phiền não cùng Bồ đề tướng cũng không khác: “Lìa cả thảy tướng tức
là chư Phật”.
Xuyên Thiền sư giải: Nói thử coi, hiện nay đi, đứng, nằm,
ngồi là tướng gì đó? Đừng ngủ gục!
Tụng:
Vào sông kiếm nước khéo cơ cầu!
Lên núi còn tìm núi ở đâu?
Yến nói oanh kêu cùng một cách,
Hỏi chi ba trước với ba sau.
31.-ÂM:
Phật cáo Tu Bồ Đề: “Phàm sở hữu
tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng, phi tướng tức kiến Như Lai”.
NGHĨA:
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Phàm chỗ nào có
tướng đều là hư vọng. Bằng cho các tướng chẳng phải tướng tức rõ đặng Như
Lai”.
Giải : Trần Hùng giải: Ông Tu
Bồ Đề muốn cho mỗi người đều tự thấy Phật tánh của mình. Vậy nên mới nói:
“Là chẳng phải thân tướng”.
Sắc thân là cái thể không có chơn thiệt
của tướng, cho nên nói: “Đều là, hư vọng”.
Pháp thân chẳng phải tướng, trong ấy chỉ
có cái bổn thể của Chơn Như.
Bằng thấy các tướng chẳng phải tướng, là
thấy trong sắc thân, trong tự tánh có Như Lai. Như Lai mà không cầu ở ngoài,
thì mới thấy tự tánh.
Kinh Bảo Đàn có nói: “Phật tức là tánh, lìa tánh thì không còn Phật nào
khác”.
Nhan Bính giải: Phật hỏi: “Nên dùng
thân tướng mà cho là Như Lai chăng?”.
Ông Tu Bồ Đề đáp: “Chẳng nên”.
Như Lai :
là tự tánh, chẳng phải có tới lui, còn sắc thân tứ đại, vốn bởi vọng niệm mà
sanh ra. Bằng chấp lấy thân tướng hư vọng ấy, mà muốn rõ chơn tánh Như Lai, thì
ví như nhận kẻ giặc làm con, hẳn không phải lẽ. Cho nên Phật bảo ông Tu Bồ Đề:
“Phàm chỗ có tướng đều hư vọng, bằng thấy các tướng chẳng phải tướng, tức
thấy Như Lai”. Như biết hồi
quang phản chiếu, thấy đặng thân tướng không có chi là tướng, thì mới rõ tự
tánh Như Lai.
Lý Văn Hội giải: Phàm sở hữu tướng giai thị như vọng:
Hư : là chẳng thiệt; vọng: là không chơn. Đã không chơn thiệt, thì
tướng tức là chẳng phải tướng.
Lại nói : “Chẳng phải có một mình
thân tướng của Phật, là chẳng phải tướng mà thôi. Phàm cái chi mà có tướng,
cũng đều là hư vọng cả.
Sắc thân có tướng, nên nói là hư vọng;
còn Pháp thân không có tướng, nên nói là chẳng phải tướng”.
Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến
Như Lai, là nói: Tướng hư vọng tức là “Nhơn không”;
chẳng phải tướng tức là “Pháp không”. Bằng biết nhơn, pháp đều
không thì rõ tự tánh.
Kinh Pháp Hoa có nói : “Tất cả các tướng, thảy đều vắng
lặng”. Lại nói: “Bực Bồ Tát xem các pháp tánh không có hai tướng cũng như hư không”.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Như Lai nói sắc thân, Phương tiện độ thời nhân.
E đọa vào không kiền, Nên quyền phải giả xưng,
Tướng băm hai có mấy? Hình tám chục không nhưng
Giác thể nguyên không thể, Không thân mới thiệt chân.
Xuyên Thiền sư giải: Núi là núi, nước là nước. Phật ở đâu?
Tụng:
Có tưởng sờ sờ là giả vọng,
Không hình bặt bặt tức thiên khô;
Đàng hoàng sộ sộ nào xen lộn;
Chói lói hào quang khắp thái hư.
CHƯƠNG SÁU
32.-ÂM:
Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: “Thế Tôn!
Phả hữu chúng sanh đắc văn như thị ngôn thuyết chương cú, sanh thiệt tín
phủ?”. Phật cáo Tu Bồ Đề:
“Mạc tác thị thuyết: Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bá tuế, hữu trì giới tu
phước giả, ư thử chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thiệt”.
NGHĨA:
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Như có chúng sanh nào đặng nghe những câu bài giảng giải như vậy, có sanh
lòng tin thiệt chăng?”. Phật bảo
Tu Bồ Đề: “Chớ có nói lời ấy khi Như Lai diệt độ rồi, sau năm trăm năm sau
([97]) có
kẻ nào trì giới tu phước, mà sanh lòng tin những câu bài ấy, thì lấy đó làm
thiệt.
Trần Hùng giải: Kinh Hoa Nghiêm
có nói:
“Tin, thiệt cội nguồn của đạo đức,
Vun bồi cả thảy những căn lành”.
Kinh Trí Độ Luận có nói : Pháp pháp như biển cả, duy có sự tin mới
đặng vào; bởi sự thiệt tín là cái thềm thang của thiệt đế.
Ông Tu Bồ Đề nghi chúng sanh chẳng sanh
lòng thiệt tín, mới hỏi như vậy. Phật lại e ngăn ngại lòng thiệt tín của chúng
sanh, nên bảo rằng: “Chớ nói lời ấy”.
Tăng Nhược Nột giải: Trì giới là chẳng làm điều dữ, tu phước là vưng chịu những việc lành. Vả lại trì
giới tu phước tức là gieo căn
lành.
Lý Văn Hội giải: Đắc văn như thị ngôn thuyết v.v.. giải: Ông Tu Bồ Đề nói: Trước kia Phật
đã nói: Bố thí không trụ tướng,
tức là Nhân thâm, thấy đặng chơn tánh Như Lai, không có tướng, tức là Quả
thâm, đã luận về “nhân quả”, thế này không ai tin mà nghe
theo, nên mới hỏi như vậy.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Quả lớn bởi nhân thâm, Lý mầu nhiệm khó tầm.
Đến thời kỳ mạt kiếp, E đạo pháp tiêu trầm.
Thiện Hiện nghe chưa rõ. Nghĩa cao sợ phải lầm.
Bằng hai tin pháp ấy Mới
thiệt bực minh tâm.
Hữu trì giới tu phước là: Không chấp
trước các tướng, tức là trì giới,
lòng hằng vắng lặng, không các vọng niệm, tức là tu phước. Người ấy chẳng bị các cảnh mê
hoặc, mới sanh lòng tin chắc, lấy đó làm thiệt.
Từ Thọ Thiền sư giải:
“Niệm niệm thường yên lặng.
Hằng ngày có đại công”.
Ấy là cái dấu bước của chư Phật ba đời,
Tổ Sư lục đại làm cái công không có công, thì công ấy chẳng hư mất.
Xuyên Thiền sư giải: Phật vàng chẳng tự
độ khỏi lò, Phật cây chẳng tự độ khỏi lửa, Phật đất chẳng tự độ khỏi nước.
Tụng:
Hình dung ba Phật đều không thiệt,
Ở trước con ngươi trước mắt người.
Biết đặng bổn lai là quí báu,
Mừng xuân chim hót đóa hoa cười.
33.-ÂM:
Đương tri thị nhơn, bất ư nhứt Phật, nhị
Phật, tam, tứ, ngũ Phật, nhi chúng ([98])
thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở chúng chư thiện căn.
NGHĨA:
Nên biết người ấy, chẳng những là gieo
căn lành trong một kiếp Phật, hai kiếp Phật, ba, bốn, năm kiếp Phật, mà đã gieo
các căn lành, đến vô lượng ngàn muôn kiếp Phật rồi vậy.
Giải : Lý Văn Hội giải: Bất ư nhứt Phật, nhị Phật là một kiếp thì một vị Phật ra đời – Chúng chư thiện căn là cả thảy việc lành của thế gian kể chẳng
xiết; đại khái là chẳng làm các điều dữ, vâng chịu những việc lành.
Kinh Pháp Hoa có nói:
Phương tiện khéo tùy nghi, Không còn quái ngại chi,
Lòng hoan hỷ sốt sắng, Thành Phật hẳn đương thì.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Nương người, (y tha) không tự lập,
Mượn cớ đặng làm ra,
Ác lặn cây không bóng,
Đèn soi sáng cả nhà.
Lục Tổ giải: Sao gọi là gieo các căn lành? Là đối với chư Phật
phải một lòng cúng dường thuận
theo giáo pháp, đối với các vị Bồ Tát, bực Thiện tri thức, Sư Tăng, cha mẹ,
người tuổi cao đức lớn, và bực Tôn Trưởng, thường phải cung kỉnh cúng dường,vâng
lời dạy bảo chẳng nên trái ý, ấy là gieo các căn lành. Đối với cả
thảy chúng sanh nghèo khổ, dấy lòng thương xót, chẳng nên khinh bỉ, có yêu cầu
điều chi, tùy sức mình mà tế độ, ấy là gieo các căn lành; đối với cả
thảy kẻ hung dữ phải nhu hòa nhịn nhục, vui vẻ phụng thù, chẳng nên trái ý,
đặng khiến kẻ ấy phải lòng hoan hỷ, dứt sự hung hăng, ấy là gieo các căn
lành; đối với chúng sanh trong sáu đường chẳng có; sát hại, khi dễ,
nhiếc mắng, chửi đánh cùng là ăn thịt, thường làm việc lợi ích cho chúng nó, ấy
là gieo các căn lành.
Vương Nhựt Hưu giải: Sao gọi là gieo
các căn lành?- Là lòng chí thành niệm danh hiệu của Phật, hoặc dưng một nén
hương, hoặc lạy, hoặc dưng một vật chi mà cúng dường, đều gọi là gieo
các căn lành.
Tăng Nhược Nột giải: Phải rõ đã gieo nhiều căn lành là
thấy Phật nhiều, nghe pháp nhiều, mà tu hành lại cũng nhiều.
34.-ÂM:
Văn thị chương cú, nãi chí nhứt niệm sanh
tịnh tín giả. Tu Bồ Đề: Như Lai tất tri tất kiến, thị chư chúng sanh đắc như
thị vô lượng phước đức.
NGHĨA:
Nghe những câu bài ấy, cho đến nhứt niệm
([99]) sanh
lòng tin chắc, thì Tu Bồ Đề này: Như Lai đều biết hết thấy hết, các chúng sanh
ấy đặng cái phước đức vô lượng như vậy (gieo căn lành).
Giải – Lục Tổ giải: Lòng
tin: làtin pháp Bát Nhã Ba la mật hay trừ cả thảy phiền não;
tin pháp Bát Nhã Ba la mật hay thành tựu cả thảy công đức xuất thế
gian; tin pháp Bát Nhã Ba la mật hay xuất sanh cả thảy chư Phật; tin chắc Phật
tánh của tự mình Bổn Lai thanh tịnh, không có ô nhiễm, sánh với tánh của chư
Phật bình đẳng như một; tin chắc chúng sanh trong sáu đường bổn lai
không tướng; tin chắc cả thảy chúng sanh đều đặng thành Phật. Ấy mới là lòng “Tịnh
tín”.
Lý Văn Hội giải: Nãi chí nhứt
niệm sanh tịnh tín là kẻ phàm phu ở trong các pháp, khởi sanh ra cả thảy
điều tà kiến, lành, dữ, Thánh, phàm, có lòng chấp bỏ, mỗi mỗi đều là vọng
niệm, nên không sanh lòng tịnh tín đặng. Còn Bồ Tát tỏ ngộ nhơn,
pháp đều không, không các vọng niệm, lòng hằng thanh tịnh, tin
nghe chánh pháp cho nên nói: Nhứt niệm sanh lòng tin chắc. Đắc như
thị vô lượng phước đức là Như Lai rõ biết chúng sanh không vọng niệm, lòng
hằng thanh tịnh kính tin chánh pháp, sanh đặng trí huệ: Công đức cùng tột không
thế so lường đặng.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Tín tâm sanh một niệm, Chư Phật thảy tường tri.
Bằng trước tu nhân ấy, Ắt sau chứng quả ni.
Ba tăng kỳ đại
kiếp, Sáu độ hạnh thường trì.
Gieo đặng nhân vô lậu, Đáng
xưng bất khả tư nghì([100]).
Xuyên Thiền sư giải: Gieo giống cam thảo
thì ngọt, gieo giống huỳnh liên thì đắng; làm nhân nào thì đặng quả nấy.
Lại nói: Trồng dưa đặng dưa, trồng đậu
đặng đậu.
Tụng:
Một, hai vị Phật đến muôn ngàn.
Sống mũi nằm xuôi cặp mắt ngang,
Thuở trước đã từng gieo thiện lực,
Ngày nay mới đặng phước hoàn toàn.
Tu Bồ Đề! Tu Bồ Đề!!
Mặc áo, ăn cơm điều tiểu sự,
Sao còn riêng có chỗ nghi nan!!
35.-ÂM:
Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh vô phục ngã
tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng,thọ giả tướng,vô pháp tướng, diệc vô phi
pháp tướng.
NGHĨA:
Bởi cớ sao? – Bởi các chúng sanh ấy không
còn có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng
pháp cũng không có tướng phi pháp.
Giải : Lý Văn Hội giải: Vô
phục ngã nhơn v.v. là không ỷ thị: Danh vị, quyền thế, giàu có, tài năng,
tinh tấn, trì giới mà khinh bỉ kẻ ngu dốt, nghèo hèn, lười biếng, phá giới; lại
không có lòng năng sở trì giới, không có lòng tham cầu hy vọng; lời nói
và việc làm phù hạp với nhau – Vô
pháp tướng, là trong kinh có nói: “Tâm sanh thì cả thảy pháp sanh, tâm
diệt thì cả thảy pháp diệt, lòng đã thanh tịnh thì các pháp đều không”.
Cho nên không chấp bỏ cả thảy các pháp tướng, tà kiến lành dữ, Thánh
phàm – Diệc vô phi pháp tướng là
không chấp lòng tri giải, không chấp lòng sở đắc, không nhơn,
không pháp. Trong thì tỏ đặng thiệt tướng, ngoài thì ứng với hư duyên.
Triệu Pháp sư giải: Vô pháp tướng là rõ cái pháp chẳng phải có, để trừ lòng chấp
có. Diệc vô phi pháp tướng là rõ cái pháp chẳng phải không, để trừ lòng
chấp không.
Tăng Nhược Nột giải: Pháp tướng là
tà kiến về chấp có. Phi pháp tướng là tà kiến về chấp
không. Bỏ hết cái chấp hai bên, cho nên nói “không”.
Viên Ngộ Thiền sư giải: Người khôn
lanh, gót chân đạp sát đất, xương sườn xương sống cứng như sắt, dạo khắp thế
gian, xem muôn vật đều giả dối, tự tâm làm chủ. Chẳng theo tình đời, dứt tuyệt
ngã nhơn, bỏ hết tri giải;
bấy giờ đặng thấy tánh, thành Phật. Trực chỉ cái diệu tâm làm thềm
thang. Đến khi có làm việc chi, thì ngoài ứng theo hư duyên mà chẳng sa vào
hang ổ. Rõ đặng một chút sự lâu dài, giữ thân tâm vắng lặng, vượt khỏi cảnh
trần lao; đặng như vậy, thì đã lành mà lại thêm lành.
Xuyên Thiền sư giải: Tròn tợ Thái
hư, không thiếu cũng không dư.
Tụng:
Pháp cùng phi pháp tướng:
Buông nắm tức bàn tay ([101])
Muôn dặm mây bay vẹt,
Trời xanh một dạng bày.
36.-ÂM:
Hà dĩ cố? – Thị chư chúng sanh nhược tâm
thủ tướng, tức vi trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nhược thủ pháp tướng,
tức trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Hà dĩ cố? – Nhược thủ phi pháp tướng,
tức trước ngã, nhơn, chúng sanh thọ giả.
NGHĨA:
Bởi cớ sao? Bởi các chúng sanh ấy, nếu
lòng còn chấp tướng, tức còn trước tướng, ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nếu
chấp pháp tướng, cũng là trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Bởi cớ sao? Bằng
chấp phi pháp tướng, cũng là trước tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
Giải: Lý Văn Hội giải: Lòng còn chấp tướng ắt sanh vọng niệm,
nên mắc phải bốn tướng ấy.
Viên Ngộ Thiền sư giải: Chư Phật mở bày, Tổ sư chỉ dạy, duy cái diệu
tánh khẳng khái phụng thừa, chẳng
sanh một niệm, tột thấu ngọn nguồn, đến lúc hoàn thành không lao tâm lực tự tại
tiêu diêu, vốn không chấp bỏ, mới thiệt là chỗ nhiệm mầu.
Tiêu Diêu Ông giải: Có niệm không tỏ, là cảnh giới kẻ phàm,
có niệm có tỏ, là cảnh giới người hiền, không niệm có tỏ là cảnh giới bực
Thánh.
Người trí tự hiểu lấy, dầu có nói, nói
cũng không đặng.
Huỳnh Nghiệt Thiền sư nói với Bùi Thừa
tướng : Phật với chúng sanh, chỉ có một
cái tâm, vốn không sai biệt. Cái tâm ấy từ đời vô thỉ đến nay, không hình không tướng,
chẳng sanh chẳng diệt, ví như hư không, không có bờ bực; duy có cái tâm ấy mới
thiệt là Phật.
Phật với chúng sanh vốn không khác lạ,
nhưng bởi chúng sanh chấp sự tướng cầu ở ngoài, càng cầu càng mất. Dùng Phật mà
tìm Phật, lấy tâm mà cầu tâm, dầu cùng kiếp mãn đời, rốt không chi đặng. Chớ
nào biết dứt tưởng quên lo, thì tự nhiên có Phật hiện tiền!
Tâm tức là Phật, Phật tức chúng sanh. Khi
làm chúng sanh tâm cũng không bớt, lúc làm chư Phật tâm cũng chẳng thêm; gặp
duyên thì thí, duyên qua rồi thì thôi. Vốn đã sẵn đủ chẳng đợi mượn sự tu hành mới có.
Bằng chẳng tin chắc cái tâm là Phật, dầu
cho tu hành trải bao nhiêu kiếp, cũng không thành đạo đặng.
Thủ Pháp tướng : là cho ngoài cái tâm lại
có pháp, nên mới chấp các tướng.
Lại nói: Tạo dữ, tạo lành đều là trước
tướng. Trước tướng tạo dữ, luống chịu luân hồi, trước tướng tạo lành luống chịu
lao khổ; thảy đều chẳng bằng tự mình nhận biết bổn tâm.
Ngoài tâm không pháp, tâm tức là pháp.
Ngoài pháp không tâm, mà nếu cho tâm là không tâm, thì tâm trở nên có. Cả thảy
duy có tự mình hiểu lấy mà thôi.
Nhược thủ phi Pháp tướng : là
còn các tướng: Chấp bỏ lành dữ, phàm Thánh.
Từ Thọ Thiền sư giải:
Tụng:
Đồ sộ chùa xưa cửa Thuận Thiên,
Bóng thiều nhấp nhoáng vọi khe tiên.
Bổn lai vật vật tâm là pháp,
Trong đấy mấy người đặng liễu nhiên?
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Nhơn không, pháp cũng Hai tướng bổn lai đồng không,
Biến kể danh chưa rõ, Y tha lý chẳng thông.
Viên thành ngày một ngắm, Lưu chuyển thuở nào xong.
Muốn biết vô sanh nhẫn, Như như chẳng động lòng.
37.-ÂM:
Thị cố bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi
pháp.
NGHĨA:
Như thế thì, chẳng nên chấp pháp, cũng
chẳng nên chấp phi pháp.
Giải : Lý Văn Hội giải : Bất
ưng thủ pháp v.v… là có không đều bỏ, nói nín thảy quên.
Nếu dùng pháp tướng tức là chấp pháp, còn dùng phi pháp tướng tức là chấp không; có chấp thì phiền não dấy sanh, không chấp thì tín tâm thanh tịnh.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Không vẫn nguyên nơi có, Vì
không, có mới sanh.
Có không đâu có khác, Không có vốn không hình.
Không có nào chơn thể, Có không bởi vọng tình.
Có không như tiếng dội, Không có lý nên minh.
Xuyên Thiền sư giải: Vàng chẳng đổi vàng, nước không rửa
nước.
Tụng:
Leo cây níu nhánh cũng chưa rành,
Chót núi buông tay mới đại danh.
Gió lạnh canh khuya câu chẳng có,
Đầy thuyền duy có bóng trăng thanh.
38.- ÂM :
Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết
nhữ đẳng Tỳ Khưu tri ngã thuyết pháp như phiệt([102])
dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp?
NGHĨA:
Bởi cái nghĩa ấy, nên Như Lai thường dạy
các thầy Tỳ khưu phải biết Ta nói pháp, ví như cái bè. Pháp còn phải bỏ thay,
huống chi là chẳng phải pháp.
Giải : Vương Nhựt Hưu giải:
Phạt ([103])
(phiệt), là kết tre và cây thành bè đặng làm đò đưa rước, là đồ để đi dưới nước
cũng như ghe vậy. Dĩ thị nghĩa cố là chỉ các lời nói của bài trước.
Phật thường dạy các thầy Tỳ Khưu, phải
biết việc thuyết pháp của Phật, ví cũng như ghe và bè vậy. Lúc chưa qua sông
thì không nên không dùng ghe, bè, ví như lúc chưa tỏ ngộ chơn tánh thì
không nên không dùng Phật pháp; còn khi đã qua sông rồi thì không còn ghe bè
nữa, ví như khi tỏ ngộ chơn tánh rồi thì không cần Phật pháp nữa vậy.
Như thế thì, khi tỏ ngộ rồi, Phật pháp còn phải bỏ thay huống chi là
ngoại đạo. Cho nên nói: “Pháp còn phải bỏ huống chi là chẳng phải
pháp”.
Ông Phó Đại Sĩ có tụng:
Nên mượn bè qua biển,
Đến bờ khỏi dùng thuyền,
Lời nói ấy rất nên đúng lý.
Tăng Nhược Nột giải: Kinh Phật Dụ có nói: “Nếu biết đặng nghĩa ví dụ dùng
bè ấy, thì pháp lành còn phải bỏ, huống chi là pháp chẳng lành. Như muốn qua
sông trước phải dùng bè, khi qua đến bờ phải bỏ nó lại”.
Nhan Bính giải: Pháp tướng thuộc có, phi pháp tướng thuộc không, đều còn tà kiến cả hai, hẳn phải dứt hết. Cho nên nói:
“Không nên thủ pháp cũng
không nên thủ phi pháp “.
Dĩ thị nghĩa cố v.v… Phật là thuyền lớn; ví như người lúc chưa qua sông,
phải mượn thuyền bè, khi đã đến bờ rồi phải bỏ thuyền bè đi, không nên chấp
trước; cũng như người chưa qua khỏi biển khổ sanh tử, phải mượn Phật pháp mới
độ thoát đặng, khi độ đặng rồi, pháp cũng phải bỏ. Cho nên ông Triệu Châu có nói: “Có, có một chữ Phật, ta cũng
chẳng muốn nghe”.
Phật pháp còn phải bỏ huống chi là chẳng
phải Phật pháp.
Lý Văn Hội giải: Chấp có nói không, thì
dùng bè mà chi? Chấp có đã bỏ, chấp không đâu còn, như đã qua sông, đâu dùng bè
nữa?
Ông Phó Đại Sĩ có tụng:
Nên mượn bè qua biển, Đến bờ khỏi dụng thuyền,
Ngã nhơn danh đã cưỡng, Giáo pháp chấp sao nên
Hai phía đều không lập, Trung lưu cũng chẳng yên,
Hữu vô bằng có một, Phải bị ố tâm điền.
Vả lại khi chưa rõ tánh, đương ở trong
biển khổ sanh tử, mà gặp đặng bực thiện tri thức, lấy lời dạy bảo, phân biệt
các pháp tướng, chừng thấy đặng tự
tánh rồi, thì đâu còn chấp trước
nữa.
Pháp thượng ưng xả:
Trong kinh có nói:
“Bằng muốn hiểu rành cảnh giới Phật.
Trong lòng thanh tịnh tợ hư không”
Ngoài không còn một pháp chi mà kiến lập;
thì pháp còn phải bỏ, huống chi là chẳng phải pháp.
Xuyên Thiền Sư giải: Nước đến thì sông
thành.
Tụng:
Trọn ngày lăng xăng,
Việc ấy không can.
Chẳng cầu giải thoát,
Chẳng muốn thiên đàng,
Bằng hay niệm đặng lòng vô niệm,
Trên đỉnh Tỳ lư cũng bước ngang.
CHƯƠNG BẢY
39.-ÂM:
Tu Bồ Đề? Ư ý vân hà? – Như Lai đắc A nậu
đa la tam miệu tam bồ đề gia? Như Lai hữu sở thuyết pháp gia? Tu Bồ Đề ngôn: “Như ngã giải Phật sở
thuyết nghĩa, vô hữu định pháp, danh A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, diệc vô
hữu định pháp Như Lai khả thuyết”.
NGHĨA:
Này Tu Bồ Đề? Ý ông thế nào? – Như Lai có
đặng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như Lai có chỗ chi thuyết pháp
chăng? Tu Bồ Đề bạch Phật: “Như
con rõ nghĩa của Phật nói, thì không có định chắc pháp chi kêu là Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có định chắc pháp chi mà Như Lai nói”.
Giải : Tăng Nhược Nột giải:
Không sanh tỏ thấu ý Phật nên nói trong cái nghĩa thứ nhứt, không có định chắc
là có pháp chi mà đặng, và có pháp chi mà thuyết.
Trần Hùng giải: Trong kinh Lăng Già luận
bảy thứ “không” có , có nói. Cả thảy pháp, lìa bỏ lời nói là
không; nghĩa thứ nhứt thì bực
Thánh trí mới là đại không.
Như Lai tỏ đặng lý mầu nhiệm của nhơn
không vốn không pháp chi mà đặng, cũng không pháp chi mà thuyết, nên mới
lập ra lời hỏi ấy.
Đạo Vô thượng Bồ đề là nghĩa thứ nhứt tất sâu xa không thế
hình trạng đặng; hoặc trì giới nhẫn nhục mà đặng; hoặc tinh tấn thiền định mà
đặng; hoặc xây tháp cất chùa, hoặc xưng niệm Nam mô cũng đều đặng cả, đâu có phải câu nệ theo pháp
chi mà nhứt định hay sao?
Như Lai thương chúng sanh chưa tỏ ngộ,
chẳng nỡ làm thinh mà không dùng ngôn thuyết, hoặc vì kẻ có chí cầu Thắng
pháp mà thuyết, hoặc vì kẻ cầu Vô thượng huệ mà thuyết, hoặc vì kẻ cầu Thanh Văn mà thuyết, hoặc vì kẻ cầu làm Bích Chi Phật
mà thuyết, đều ứng theo cơ duyên mà trả lời, tùy chỗ cầu hỏi mà đáp lại,
nào có pháp chi định chắc đâu?
Phật đã tột thấu cái nghĩa biến thông
không chấp không trước, còn ông Tu Bồ Đề nói hai lần “không có pháp chi
định chắc” vậy không phải là rõ đặng nghĩa của Phật thuyết hay sao?
Lý Văn Hội giải: Như Lai hữu sở thuyết
pháp gia: Là ý của Phật hỏi đó, là còn e cho người nói Như Lai có chỗ
thuyết – Vô hữu định pháp là căn
khí có chậm mau, tài học có cao
thấp, tùy cơ duyên mà lập pháp, nhận chứng bịnh mà đầu thang.
Kinh Pháp Hoa có nói: “Các căn khí có mau chậm, hoặc tinh tấn giải đãi, tùy theo
tài lực mà thuyết pháp, cho nên pháp không định chắc mê ngộ khác nhau. Khi chưa
tỏ ngộ tợ hồ không chỗ đặng, đến khi tỏ ngộ rồi tợ hồ có chỗ đặng. Đặng cùng không đặng
đều là vọng kiến, nhưng chẳng nên chấp trước mới hiệp lý trung đạo;
nào phải có pháp chi định chắc mà thuyết đâu?
Xuyên Thiền sư giải: Lạnh thì nói lạnh,
nóng thì nói nóng.
Tụng:
Mây ở Nam san mưa Bắc san,
Giống lừa, giống ngựa kể muôn ngàn.
Kìa coi lấy nước vô tình đó,
Mấy chỗ theo vuông mấy chỗ tròn.
40.-ÂM:
Hà dĩ cố? – Như Lai sở thuyết pháp, giai
bất khả thủ, bất khả thuyết phi pháp phi phi pháp.
NGHĨA:
Bởi cớ sao? Bởi chỗ thuyết pháp, của Như
Lai, đều chẳng nên chấp, là chẳng nên nói phi pháp cùng chẳng phải phi pháp.
Giải : Tạ Linh Vận giải: Phi
pháp là chẳng có, phi phi pháp là chẳng không; có không đều không, mới
là đúng lý.
Vương Nhựt Hưu giải: Pháp là vì chúng sanh mà lập ra, chớ chẳng phải là
có pháp chơn thiệt, cho nên nói: “Chẳng phải pháp”. Nhưng mà, cũng
phải mượn pháp để khai ngộ cho chúng sanh, lại cũng không nên nói quyết là
“Chẳng phải phi pháp”. Cho nên nói: “Chẳng phải phi pháp”.
Trần Hùng giải: Pháp của Như Lai thuyết
đó, là pháp Vô thượng Bồ đề, dùng tâm tánh mà tu thì đặng, chớ không
dùng sắc tướng mà lấy đặng; nếu lấy đặng thì làm sao thấu đáo đến chỗ nhiệm mầu
của tánh lý? Dùng tâm truyền thì đặng, chớ dùng lời nói mà nói thì không đặng;
nếu nói đặng thì làm sao mà siêu thoát cái phạm vi của ngôn ý? Cho nên ông Tu
Bồ Đề mới biện luận đến hai lần “chẳng nên”.
Cái pháp ấy, nhiệm mầu huyền diệu sâu xa
khó hiểu, một lý cho là có, tuy có mà chẳng hề có, một lý cho là không, tuy
không mà chẳng hề không. Ấy là cái ý nghĩa “phi pháp chẳng phải phi
pháp”. Chơn không mà chẳng không, cũng như vậy chăng?
Lý Văn Hội giải: Bất khả thủ : là
ông Không Sanh rất e cho người học đạo không tỏ cái ý “vô tướng”
của Như Lai. Bất khả thuyết: là rất e cho người học đạo chấp trước những
câu bài của Như Lai nói. Phi: là không – Phi phi : là chẳng
không.
Huỳnh Nghiệt Thiền Sư giải: Pháp vốn
chẳng có, nhưng chớ cho là không, pháp vốn chẳng không, nhưng chớ cho là có.
Nói không, thành ra đoạn diệt, nói có, phạm vào tà kiến.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Tu hành lìa luận thuyết, Tự
thuở hẳn vô nhơn.
Lý nhị không viên mãn, Chứng tam muội pháp thân
Trước tâm thì phải vọng, Không
chấp mới rằng chơn
Nếu tỏ “phi phi pháp”, Tiêu diêu khỏi lục trần.
Xuyên Thiền sư giải: Vậy là làm sao?
Tụng:
Làm sao cũng chẳng đặng,
Chẳng sao cũng chẳng đặng.
Trống rỗng cõi hư không,
Chim bay không ảnh dạng,
Thôi!
Giong ruỗi ngựa xe lại trở về,
Đông Tây Nam Bắc dầu du ngoạn.
41.-ÂM:
Sở dĩ giả hà? – Nhứt thế Hiền Thánh giai
dĩ vô vi pháp nhi hữu si biệt.
NGHĨA:
Sở dĩ sao? – Cả thảy Hiền Thánh đều dùng
pháp “vô vi” mà cũng có hơn kém.
Giải : Sớ Sao giải: Chưa tỏ
đặng lý nhơn không; pháp không đều gọi là chấp trước, tỏ hai cái lý không ấy gọi là vô vi.
Bồ Tát đều chứng đặng hai cái lý không; Thanh Văn mới khỏi nhơn không chưa thông pháp không, cho nên nói:
“Khỏi đặng một cái quấy” (ly nhứt phi). Viện chứng cái nghĩa ấy cho
nên nói: “Mà có hơn kém”.
Lục Tổ giải: Căn tánh của ba bực thừa, sự
hiểu rõ chẳng đồng nhau, nghe thấy có cao thấp, cho nên nói: “hơn
kém” Phật nói cái thuyết “vô vi” ấy tức là “vô
trụ”, vô trụ tức là “vô
tướng”, vô tướng tức là “vô khởi”, vô khởi tức là “vô diệt”, rỗng rang
vắng lặng, tỏ soi đều đủ, xem xét không ngại, mới thiệt là tánh Phật giải
thoát.
Phật tức là giác, giác tức là quán chiếu (hồi quang phản
chiếu) quán chiếu tức là trí huệ, trí huệ tức là Bát Nhã.
Vương Nhựt Hưu giải: Đã nói là Hiền Thánh
đều dùng pháp vô vi mà có hơn kém là cớ sao? Là bởi pháp vô vi,
hễ tỏ đặng còn thấp thì làm người Hiền, như bốn quả Tu Đà Hoàn v.v… tỏ đặng cao thì làm bực
Thánh, như Bồ Tát, Phật. Bởi vậy nên mới nói là “hơn kém” đó
chăng?
Nhan Bính giải: Phật hỏi ông Tu Bồ Đề:
“Như Lai đặng Vô thượng Chánh
giác chăng! Như Lai có chỗ chi
thuyết pháp chăng?”.
Đáp: Như tôi rõ đặng cái
nghĩa lý của Phật, đều không có pháp chi nhứt định là Vô thượng Chánh giác và thuyết pháp cả – Bởi sao vậy? Là bởi chỗ
thuyết pháp của Như Lai như người uống nước, lạnh ấm tự mình biết lấy.
Bất khả thủ, bất khả thuyết phi pháp phi
phi pháp : Pháp thuộc về có, phi pháp thuộc về không. Chấp có thì trước tướng, chấp
không lại lạc vào không. Cho nên nói: “Chẳng phải pháp, chẳng phải phi
pháp”.
Dĩ là dùng, vô vi là tự nhiên giác tánh, không mượn ai làm nên
cả thảy Hiền Thánh đều dùng phép vô
vi ấy. Nhưng mà pháp vốn là vô vi, bởi hiểu có cao thấp mới sanh ra
hơn kém chớ đáo đầu thì cũng có một mà thôi.
Lý Văn Hội giải: Pháp tánh vô vi vốn không có tướng nhứt định là cao thấp đặng,
bằng có nhứt định hẳn không hơn kém. Hữu si biệt là căn khí có mau chậm, tài học có thấp cao,
cho nên nói: “hơn kém”. Mà đã có hơn kém thì không có tướng
nhứt định.
Hải Giác Nguyện Thiền Sư
Tụng:
Chế nhiều đồ khéo quí,
Bởi thợ hay dùng trí.
Hà tất chốn Tỳ va, ([104])
Người người rằng bất nhị. ([105])
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Pháp, nhơn đều gọi chấp, Tỏ thấu thảy vô vi.
Bồ Tát đặng tề chứng , Thanh
Văn khỏi nhứt phi.
Bằng tham sân dứt hết, Thì thiệt tướng còn chi.
Quán ấy mà thường dụng, Hẳn thành Phật chẳng
nghi.
Xuyên Thiền sư giải: Sai thù chừng một mảy, trời đất cách xa
nhau.
Tụng:
Người chánh nói pháp tà,
Phép tà trở lại chánh.
Người tà nói pháp chánh,
Phép chánh thảy đều tà.
Quít Giang Nam chỉ miền Giang Bắc,
Bởn tớn chào xuân nẩy nở hoa.
CHƯƠNG TÁM
42.-ÂM:
Tu
Bồ Đề: Ư ý vân hà? – Nhược nhơn mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo ([106]) dĩ
dụng bố thí, thị nhơn sở đắc phước đức ninh vi đa phủ?
NGHĨA:
Này
Tu Bồ Đề: Ý ông thế nào? – Bằng có người dùng bảy báu chất đầy cả tam thiên đại
thiên thế giới, đem ra mà bố thí, người ấy có đặng phước đức nhiều chăng?
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Tam
thiên đại thiên thế giới là chỗ có
ánh sáng của mặt nhựt, mặt nguyệt đây, gọi là một tiểu thế giới, nơi trung gian
có núi Tu Di, mặt nhựt mặt nguyệt thì vận hành chung quanh núi ấy, nên bốn phía
chia ra làm bốn châu thiên hạ là: Phương Nam: Diêm Phù Đề, phương Đông: Phất Bà
Đề; phương Tây: Cù Và Ni; và phương Bắc : Uất Đan Việt.
Còn đường vận hành của mặt nhựt mặt
nguyệt, thì từ phân nửa núi trở xuống mà thôi, cho nên sự cao của núi ấy, thì
phân nửa núi sắp lên, cao khỏi trên đường vận hành của mặt nhựt mặt nguyệt;
trên ấy lại chia ra bốn phương mỗi phương có tám cõi trời; và ở trung gian một
cõi, cộng là ba mươi ba cõi trời; gọi là Tam thập Tam thiên. Tiếng Phạm kêu là
cõi Trời Đao Lợi (Đao Lợi Thiên).
Bốn châu thiên hạ mà có mặt nhựt mặt
nguyệt vận hành đó là một cõi tiểu
thế giới, một ngàn tiểu thế giới như vậy là một tiểu thiên, một ngàn tiểu thiên là một trung thiên, một ngàn trung thiên là đại thiên. Bởi ba lần nói: “thiên”
cho nên nói: “Tam thiên đại thiên”, chớ kỳ thiệt có một đại
thiên mà thôi; như vậy đó mới kêu là
“Đại thế giới” (ba mươi
ba ngàn triệu: 33.000.000.000 thế giới).
Ninh vi đa phủ:
Chữ ninh là của Thầy phiên dịch dùng làm chữ trợ, chẳng
cần để ý khảo nghĩa làm chi.
Lục Tổ giải: Bài này là Như Lai hỏi cái ý đó thể nào?
Bố thícúng dường là phước đức ở
ngoài thân, thọ trì kinh điển là
phước ở trong thân, cũng gọi là: Công đức. Thân phước là ăn mặc, tánh phước là trí huệ, tuy có ăn mặc mà tánh ngu mê, là
kiếp trước bố thí cúng dường mà
không thọ trì kinh điển. Còn thông minh trí huệ lại nghèo
hèn thiếu ăn thiếu mặc, là kiếp trước trì kinh nghe pháp mà không bố thí cúng dường.
Tu phước đức bề ngoài tức là sự ăn mặc,
tu phước đức bề trong tức là Trí huệ. Tiền tài là báu của thế, Bát
Nhã là báu trong tâm; trong ngoài
song tu mới là toàn đức.
Ấy là xưng tụng “Công đức trì
kinh hơn phước đức bố thí “.
Sớ Sao giải: Thất bảo là kim, ngân, lưu ly, san hô, mã não, pha ly,
xích chơn châu.
Ý Phật muốn rõ vô vi, nên trước đem phước hữu lậu mà hỏi ông Thiện Hiện : “Dùng bảy báu đầy cả Tam
thiên thế giới đem ra bố thí, đặng phước đức nhiều chăng?”. Bài sau
ông Tu Bồ Đề đáp lại.
43.-ÂM:
Tu
Bồ Đề ngôn: “Thậm đa, Thế Tôn! Hà dĩ cố? – Thị phước đức, tức phi phước
đức tánh, thị cố, Như Lai thuyết phước đức đa”.
NGHĨA:
Tu
Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều. Bởi cớ sao? – Bởi phước đức
ấy, chẳng phải phước đức tánh, cho nên Như Lai nói phước đức nhiều”.
Giải : Tạ Linh Vận giải:
Phước đức vốn không có tánh bởi tùy nhân duyên mới có nhiều, nhiều thì dễ chấp trước nên phải
bỏ đi.
Lục Tổ giải: Dùng bảy báu đầy Tam thiên
thế giới mà bố thí, đặng phước
tuy nhiều, nhưng không chút chi lợi ích cho tánh cả. Nương theo “Ma ha
Bát Nhã Ba la mật đa” mà tu
hành, khiến cho tự tánh chẳng đọa vào quả báo mới gọi là công đức tánh.
Lòng có “năng sở” là
chẳng phải công đức tánh; dứt lòng “năng sở” mới gọi là công đức tánh; tuân theo giáo pháp
của Phật, làm theo hạnh của Phật, mới gọi công đức tánh; không tuân theo giáo
pháp của Phật, không làm theo hạnh của Phật; là chẳng phải Công đức tánh.
Tăng Nhược Nột giải: Ông Không Sanh nói
bảy báu đầy cả đại thiên đó, hễ báu nhiều thì phước nhiều, cho nên nói: “Rất
nhiều”.
Thị phước đức là “sự phước” – Tức phi phước đức tánh là chẳng phải phước đức của tánh Bát Nhã; mà đã chẳng phải “lý
phước” thì chẳng đến quả Bồ đề – Thị cố Như Lai thuyết phước đức đa
là sự phước của thế gian, cho nên
nói “nhiều”.
Tăng Tử Vinh giải: Bố thí mà trụ tướng, chỉ đặng cái nhân hữu lậu,
phước báu của cõi nhơn Thiên mà thôi còn lìa tướng mà trì kinh thì mới chứng đặng cái lý vô vi, công đức vô cùng vô tận.
Trần Hùng giải: Chứa của báu mà bố
thí, trì kinh cho tinh tấn,
đều là một phần trong sáu độ.
Phật hóa độ chúng sanh, chưa hề ngăn trở
việc bố thí, nhưng sự tinh tấn
lại càng ưa hơn.
Bởi người đời hay chấp sự dùng bảy báu
cho nhiều mà bố thí, để cầu phước lợi, chớ chẳng biết dùng cái báu của
giác tánh đặng mà tu công đức trong tánh mình. Cho nên
Ngài gộp lại mà hỏi, đặng so sánh sự hơn thua.
Trì kinh tinh tấn,
là nói theo lý tánh mà tu, tánh vốn đầy khắp chốn Thái hư, thì công đức cũng như
vậy, cho nên nói: Công đức tánh.
Chứa báu mà bố thí là mượn vật mà tu, vật có chừng thì phước đức
cũng có chừng, sánh với công đức tánh
không đặng. Cho nên ông Tu Bồ Đề
nói: “Phước đức ấy là chẳng phải công đức tánh “. Lại đoán ngay rằng:
“Như Lai nói phước đức nhiều đó là bởi có số hạn, nên mới tính nhiều ít
đặng”.
Ngũ Tổ thường nói: “Tự tánh, nếu mê,
phước nào cứu đặng”. Lục Tổ
cũng nói: “Công đức ở trong tự tánh, chẳng phải bố thí cúng dường mà cầu đặng”. Lại nói: “Mình tự ngộ
tự tu lấy, mới thiệt công đức của tự tánh “.
Lời của hai Tổ nói đó thiệt là rất đúng
với huyền lý.
Nhan Bính giải: Phật hỏi: “Bằng
người dùng bảy báu đầy cả thế giới mà bố thí đặng phước nhiều
chăng?”.
Ông Tu Bồ Đề đáp: “Phước đức tuy
nhiều, rốt lại chẳng phải công – đức tánh“.
Lý Văn Hội giải: Dùng bảy báu đầy cả đại
thiên thế giới mà bố thí, ấy là bố thí trụ tướng, để mong cầu phước lợi, đặng phước tuy nhiều, nhưng
không có minh tâm kiến tánh đặng.
Ông Phó Đại Sĩ có lời :
Tụng:
Chứa báu cả tam thiên,
Đặng đem chưởng phước điền.
Chỉ gây nhân trược lậu,
Chẳng khỏi cõi nhơn Thiên.
Vậy nên biết bố thí trụ tướng là chẳng phải phước đức tánh – Nếu lòng không “năng sở” mà biết kiến tánh minh tâm, mới là Phước đức tánh
Xuyên Thiền sư giải: Việc chi cũng bởi vô
tâm mà đặng.
Tụng:
Thí báu dầu đầy cả đại thiên,
Phước duyên chẳng thoát khỏi nhơn Thiên
Phải tường phước đức nguyên không tánh,
Mua đặng “phong quang” khỏi dụng tiền.
44.-ÂM:
Nhược
phục hữu nhơn, ư thử kinh trung thọ trì nãi chí tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn
thuyết, kỳ phước thắng bỉ.
NGHĨA:
Bằng
có người thọ trì kinh này nhẫn đến những tứ cú kệ lại vì người mà diễn thuyết,
thì phước này hơn phước đức kia.
Giải : Sớ Sao giải: Thử
kinh là người người sẵn có, kẻ kẻ
vẹn toàn, trên từ chư Phật, dưới đến loài rận, kiến v.v… đều có kinh này. Ấy
là tâm diệu viên giác không chi
sánh kịp.
Nhan Bính giải: Phục hữu nhơn ư thử
kinh trung thọ trì v.v.. Thọ là bấy
giờ thừa thọ (vâng chịu) – Trì là
buổi buổi phụng trì (vâng giữ).
Bằng diễn thuyết lại cho người khác, cũng
như một ngọn đèn, mồi ra trăm ngàn muôn ngọn, thì phước ấy hơn phước kia – Thế
nào là hơn phước kia? – Là bởi phước kia là phước thí bảy báu tức là bố thí trụ tướng thì đặng cái phước hữu lậu mà thôi, đến khi
phước hết rồi cũng phải đọa lạc.
Còn công này: Bởi trì kinh mà ngộ tánh. Tứ cú kệ hiện ra ở trước, đồng như chốn Thái hư, lịch
kiếp cũng không hề hoại, cho nên nói:
Cầu phước nhơn Thiên mà bố thí,
Như tên bắn bổng giữa hư không.
Hựu: Hết trớn thì tên rơi xuống đất,
Gây nên kiếp khác chí không đoạt.
Đâu bằng pháp “Thiệt tướng vô
vi”,
Nhảy một nhảy vào trong cõi Phật.
Kinh Tứ Cú Quyết Nghi Kim Cang là cốt tủy của Đại Tạng kinh, còn Tứ
cú kệ lại là cốt tủy của kinh Kim
Cang. Bằng người thọ trì kinh này mà không rõ thấu Tứ cú kệ ở chỗ nào, thì đâu có thoát khỏi vòng sanh tử
mà làm Phật làm Tổ đặng.
Xưa nay luận Tứ cú kệ chẳng phải là một; hoặc nói thinh, hương, vị,
xúc, pháp; hoặc nói hai bài kệ trong kinh này; hoặc nói câu : “Nhược kiến
chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai” ; hoặc nói nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt;
hoặc nói Hữu vi, Vô vi, Phi hữu vi, Phi vô vi; hoặc nói Hữu đế, Vô đế, Chơn đế,
Tục đế; đều là chấp sự thấy hiểu của mình chớ không chi là định luận.
Duy có Đồng Bài Ký có nói: Thiên Thân Bồ
Tát lên cung Đâu Suất hỏi Đức Di Lặc: “Thế nào là Tứ cú kệ?”. Đáp: Vô ngã, vô nhơn,
vô chúng sanh, vô thọ giả. Còn Lục Tổ Đại sư lại nói là : Ma Ha Bát Nhã
Ba La Mật Đa.
Bằng chấp theo mấy lời không định chắc,
không căn cứ đó, nào khác chi đếm đồ châu báu của người, thì mình không hưởng
đặng lấy nửa đồng. May nhờ ông Phó Đại Sĩ lộ cái tiêu tức, rất nên thân thiết
như vầy: “Luận về Tứ cú kệ, khắn khắn chẳng nên rời ” – Lấy đó
mà suy thì Tứ cú kệ, vốn chẳng
phải là cầu, ở ngoài, chỉ tại tâm địa ta tỏ sáng mới thiệt là Tứ cú kệ. Bằng chẳng phải vậy, sao Lục Tổ
lại giải Tứ cú kệ là: “Ngã nhơn chóng dứt, vọng tưởng
mau trừ “, dứt lời liền thành Phật!
Ví bằng kệ ấy mà truyền miệng đặng, chỉ
dạy đặng dùng thông minh mà suy nghĩ đặng; thì Phật ta là Thầy cõi Thiên
nhơn, ở thế bốn mươi chín năm, thuyết
pháp cho cả chúng sanh, đến ba trăm
năm mươi độ; còn trong kinh này đến mười bốn chỗ nói Tứ cú kệ, so lại
không chỉ bảo cho rõ ràng đoan đích? Có phải Phật ta tiếc chi mấy lời nói mà
không thuyết pháp đâu? Cũng bởi e cho người chấp lấy ngón tay làm mặt nguyệt,
luống nê cố theo câu CHẾT trong kinh mà không lo hồi quang phản chiếu câu SỐNG của tự mình.
Vả lại Phật ta còn không dám chấp
trước mà chỉ dạy thay huống chi làai ? Ta sở dĩ nói câu sống đây là: Sanh
tử thoát ngoài vòng, Thánh phàm đứng dưới gió. Trong chỗ nhựt dụng thường
hành, chữ chữ phóng quang, đầu đầu hiện rõ, vốn không một điểm bút mặc nào mà ố
đặng. Dầu kẻ có tài nghe rồi liền hiểu cũng phải ngẩn ngơ, huống chi là những
hạng kiến thức hẹp hòi, mà phân biệt phải quấy cho đặng! Duy
có độ lượng hơn người mới biết đặng cái lỗ mũi vốn là ở trước mặt.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Chứa báu cả tam thiên, Đặng đem chưởng phước điền.
Chỉ gây nhân trược lậu, Chẳng khỏi cõi nhân thiên.
Dùng Tứ cú trì tụng, Với Chư Phật tạo duyên.
Biển vô vi muốn tới, Thuyền Bát Nhã mau lên.
Vua Huyền Tông giải: Tam thiên trân bảo
tuy nhiều, hưởng hết phải mang sanh
diệt.
Tứ cú kinh văn vẫn ít, tỏ rồi chứng quả Bồ đề.
Bách Trượng Thiền sư giải: Nhãn, nhĩ, tỹ,
thiệt, mỗi mỗi bằng chẳng tham nhiễm cả thảy các pháp, mới gọi là thọ trì Tứ
cú kệ, cũng gọi là Tiên nhơn trong bốn quả, mà cũng gọi là bực La
Hán đặng Lục thông.
Bằng hay Thọ trì Tứ cú kệ công đức lớn hơn phước bố thí bảy báu đầy cả Đại thiên kia.
Trần Hùng giải: Kinh Tam muội có nói:
“Cả thảy Phật pháp đều thâu lại ở trong “Tứ cú kệ”. Cho
nên ngộ đặng cũng không phải tại học chữ nghĩa cho nhiều, chỉ trong nhứt
niệm mà tỏ ngộ thiệt đế thì mới thông thấu Thiên tánh đặng.
Bằng có người sốt sắng tu hành: Để lòng thì
khắn khắn giữ lâu không nản, còn nói ra thì ai nấy cũng đều thông. Người như
vậy chẳng phải là giác tánh riêng
cho một mình mình mà thôi, mà cũng giác tánh cho cả muôn triệu người nữa; công đức ấy không
phải lớn sao? Sánh lại thì hơn phước đức của bảy báu đó rất nhiều.
Lý Văn Hội giải: Thọ trì là thân,
khẩu, ý đều thanh tịnh.
Hiểu thấu nghĩa kinh, làm theo lời dạy,
ví như thuyền vượt biển, không chỗ chẳng thông; ấy cũng kêu là thọ trì. Đã không hiểu nghĩa kinh mà lại
thêm giải đãi, lòng miệng khác nhau, ví như thuyền vào xẻo nhỏ, ắt phải trở
ngại; ấy chẳng phải là thọ trì.
Tứ cú kệ,
ông Xuyên Thiền sư có giải ở quyển chót trong phần Ứng Hóa Phi Chơn , đệ32.
Trương Vô Tận giải: Phật là Vô thượng Pháp vương, lời vàng tuyên bá
giáo thánh văn linh, bằng một phen đọc tụng thì đặng Chuyển pháp luân.
Quỉ Dạ xoa truyền khắp hư không, thấu đến Tứ thiên vương, Tứ thiên vương tiếp đặng, đệ báo đến Phạm thiên, thông khắp mọi nơi tối sáng.
Các vị Long thần đều ưa mến, ví như chiếu lịnh nhà vua truyền
bố khắp trong hoàn vũ, ai dám chẳng tuân? Công đức tụng kinh rất oai nghiêm thế ấy.
Bằng chỉ lưu hình thức mà không dụng tinh
thần, ngoài lặng lẽ mà trong xao động, tầm hàng đếm chữ mà thôi, thì có khác
nào: Chim hót xuân, ve ngâm hạ, dầu có tụng cả muôn ngàn biến, cũng không ích
gì.
Ông Trì Dương Hương San cậy ông Thiền sư
sai một ông Tăng qua Đại Thông Trấn cầu kinh nơi nhà họ Trần, có làm bài tụng:
Văn lạ nghĩa nghi tìm thấu lý,
Chớ lâu đời cứ giùi trong giấy,
Xem kinh phải dụng lực xem kinh,
Thường thấy xem kinh duy mắt thấy.
45.-ÂM:
Hà
dĩ cố? – Tu Bồ Đề! Nhứt thế chư Phật cập chư Phật A nậu đa la tam miệu tam bồ
đề pháp, giai tùng thử kinh xuất.
NGHĨA:
Bởi
cớ sao? – Này Tu Bồ Đề! Cả thảy chư Phật với pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác của chư Phật đều do nơi kinh này mà ra.
Giải : Sớ Sao giải: Trong
kinh nói: “Chư Phật ba đời và cả thảy diệu pháp A nậu Bồ đề đều bởi kinh này mà ra”, là tỏ cái công
quả trì kinh đã mãn, cho rõ nghĩa của bài trước.
Lại Tâm Kinh có nói: ” Chư Phật ba
đời bởi nhờ pháp Bát Nhã Ba la mật đa mà đặng quả A nậu Bồ đề,
cũng đồng nghĩa ấy”.
Lại Trung Quốc sư có nói: Kinh này ví như
đại địa, vật chi chẳng phải bởi đất mà sanh? Chư Phật chỉ tại cái tâm, pháp nào
chẳng phải bởi tâm mà lập? Cho nên nói: “Đều bởi kinh này mà ra”.
Vương Nhựt Hưu giải: A nậu đa la tam
miệu tam Bồ đề là chơn tánh – Nhứt thiết chư Phật A nậu đa la
tam miệu tam Bồ đề là pháp của chư
Phật cầu Chơn tánh.
Hà dĩ cố :
là Phật tự hỏi “Bởi cớ sao mà thọ trì giảng giải kinh này lại đặng phước đức nhiều hơn phước
đức bố thí bảy báu đầy cả tam thiên thế giới kia?”.
– Lại tự đáp: “Cái pháp cầu chơn tánh của cả thảy chư Phật đều bởi kinh này mà
ra”. Vậy thì công đức của kinh này thiệt rất lớn không cùng không
tột.
Nhan Bính giải: Hà dĩ cố nhứt thiết
chư Phật v.v… là Đại Tạng kinh và pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư vị cổ Phật, đều bởi kinh này mà ra – Thử
kinh là ngoài ra không còn kinh nào
nữa.
Tăng Nhược Nột giải: Giai tùng thử
kinh xuất là chẳng phải chỉ câu văn
lời nói trong kinh này mà chỉ là cái thiệt tướng Bát Nhã, tức là cái tâm. Cái
tâm ấy làm tánh thể cho khắp cả các pháp. Tự mình nhứt niệm thì sanh ra cả thảy
các pháp.
Lý Văn Hội giải: Phước đức không tướng sanh ra Ứng thân Phật; trí huệ không tướng sanh ra Chơn thân Phật, là
nói bởi trong cái tâm của tự mình
xuất sanh ra pháp Bồ đề.
Xuyên Thiền sư giải: Nói thử coi, kinh
này ở đâu mà ra?
Trên đỉnh Tu Di, giữa giòng đại hải
chăng?
Tụng:
Phật Tổ ban ơn mới dụng quyền,
Lời lời ghi chép để tuyên truyền.
Kinh này tông chỉ là vô tướng.
Ở giữa không trung vượt thiết thuyền.
Mà đừng có hiểu lầm đa!
46.-ÂM:
Tu
Bồ Đề! Sở vị Phật Pháp giả, tức phi Phật Pháp.
NGHĨA:
Này
Tu Bồ Đề! Gọi là Phật Pháp ấy, nhưng chẳng phải Phật Pháp.
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Sở
vị Phật pháp là cái pháp A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề của bài trên nói đó.
Phật e cho người nê cố rằng có Phật Pháp,
cho nên nói: “Phật Pháp chẳng phải có Phật Pháp chơn thiệt, chỉ cưỡng danh
là Phật Pháp vậy thôi. Là bởi Phật Pháp xưa nay vốn không hề có, chỉ mượn đặng
mà khai ngộ cho chúng sanh, chớ đối với bổn tánh thì không chi là chơn thiệt
cả”.
Lục Tổ giải: Như Lai nói
“Phật”, khiến cho người giác, nói “Pháp”, khiến cho người
ngộ. Bằng không giác ngộ, còn chấp Phật Pháp ở ngoài, thì không phải là Phật
Pháp.
Nhan Bính giải: Sở vị Phật Pháp tức
phi Phật Pháp là nói rồi liền bỏ.
Lý Văn Hội giải: Hai bực thừa chấp trước
các tướng cho là Phật Pháp, nên mới tầm cầu ở ngoài.
Văn Thù Sư Lợi giải: Cả thảy chúng sanh
ngu mê điên đảo chẳng biết giác ngộ.
Vả lại các pháp tu hành đều chẳng lìa khỏi thân mình. Bằng theo ngoài thân mà
tu hành, hẳn không phải lẽ.
Bồ Tát đối với cả thảy Phật Pháp, đều
không chấp trước, mà cũng chẳng lìa bỏ; thấy như không thấy, nghe như
không nghe, tâm cảnh vắng lặng tự nhiên thanh tịnh. Cho nên nói: “Phật
Pháp nhưng chẳng phải Phật Pháp”.
Người hiểu đạo đã giác ngộ> rồi thì biết các tướng đều
không. Chỉ phải dùng vị sở đắc tri
giải ([107])
làm phương thuốc hay, mới trị cái tâm bịnh vọng tưởng chấp trước đặng, thì tâm địa tự nhiên điều phục, không
còn chi quái ngại nữa.
Xuyên Thiền Sư giải: Đem táo ngọt đổi bầu
đắng của ngươi.
Tụng:
Phật pháp không pháp,
Hay tha hay đoạt.
Có phóng có thâu.
Có sanh có sát.
Nơi giữa mi gian phóng bạch hào.
Người ngu còn đợi hỏi Bồ Tát.
CHƯƠNG CHÍN
47.-ÂM:
Tu
Bồ Đề! Ư ý vân hà? Tu Đà Hoàn năng tác thị niệm: “Ngã đắc Tu Đà Hoàn quả
phủ?”. Tu Bồ Đề ngôn: “Phất
dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tu Đà Hoàn danh vi Nhập Lưu, nhi vô sở nhập: Bất nhập
sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, thị danh Tu Đà Hoàn” ([108]).
NGHĨA:
“Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Tu Đà
Hoàn có tưởng như vầy: “Tưởng mình đặng quả Tu Đà Hoàn chăng?”. Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn!
Không thể đặng. Bởi cớ sao? – Bởi Tu Đà Hoàn, kêu là quả Nhập Lưu, nhưng không
chỗ nhiễm (nhập) là chẳng nhiễm sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là Tu
Đà Hoàn”.
Giải : Trần Hùng giải: Tu
Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán là bốn quả. A La Hán là bực nhứt trong cả thảy hạng hàm phu. Phật
bảo ông Di Lặc Bồ Tát, trong kinh Pháp Hoa đã thường nói: Bảo ông Đại Huệ Bồ
Tát, trong kinh Lăng Già cũng đã thường có nói.
Trong kinh Đại Niết Bàn Phật có nói:
“Bằng thầy Tỳ Khưu nào muốn đặng quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A
Na Hàm, A La Hán, thì phải cầu tu tập hai pháp: Xa ma tha và Tỳ
bà xá na.
Trong kinh Đại Bát Nhã có nói: Quả Dự
Lưu, quả Nhứt Lai, quả Bất
Hườn, quả A La Hán, cũng như đây nói bốn quả vậy.
Lại nói: Lúc tu hành, pháp Bát Nhã Ba la mật không nên chấp trước,
quả Dự Lưu, quả Nhứt Lai, quả Bất Hườn, quả A La Hán,
hay là thấy bốn A La Hán ấy đắc
quả, mà không có sanh lòng “sở đắc”.
Nay Phật ta e bốn quả A La Hán ấy, chẳng biết lấy sự vô niệm làm tông, mà manh lòng sở đắc, cho nên lập bốn điều hỏi: “Có
tưởng cho mình đặng quả, đặng đạo chăng?”. Ông Tu Bồ Đề đều đáp
“không”; rồi lại biện luận đặng mà hình dung thiệt lý của cái “sở
đắc”.
Vả lại Nhập Lưu là mới nhập vào
lưu của bực Thánh nhơn.
Tu Đà Hoàn đã chứng đặng quả Nhập Lưu, nên gọi là Nhập
Lưu, mà lòng không “sở đắc”, nên nói: “Không chỗ
nhập”. Sở dĩ nói không chỗ nhập đó, là không nhập cái cảnh giới của lục
trần.
Nên nói: Tu Đà Hoàn.
Lý Văn Hội giải: Phật hỏi quả thứ nhứt:
Tu Đà Hoàn đó, là biết thân là vọng,
muốn thấu lý vô vi, dứt trừ cái
tướng chấp trước nhơn ngã, dùng
lòng không chấp, hạp với lý không “sở đắc”. Không chấp thì
lòng không, không sở đắc thì lý tịnh; tuy vậy mới bỏ đặng phiền não
thô trọng, chớ chưa dứt hết phiền não vi tế. Quả ấy khỏi đọa vào A
tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Ấy là quả trước nhứt của người học đạo.
Tiêu Diêu Ông giải: Phiền não là cội gốc của Bồ đề, bằng người tỏ
thấu mà luyện tập, thì đặng cái pháp xuất thế gian; ví như gò cao đất
nổng, thì không sanh bông sen đặng vì bông sen chỉ sanh nơi đất bùn, đất ướt mà
thôi.
Lại nói: Chớ cho phiền não làm hao
kém lòng Bồ đề, ví như mặt nhựt, mặt nguyệt ẩn trong mây khói, mà vẫn
không hao kém, châu ngọc rớt nơi bùn lầy, mà cũng chẳng ố nhơ, không sợ phiền
não ngăn ngại, chỉ lo gìn giữ lòng Bồ đề.
Nhập Lưu là bỏ phàm nhập Thánh, là mới vào bực Thánh.
Nhi vô sở nhập là tu cái nghiệp vô lậu, không nhiễm sáu
trần, nhưng mà chưa lìa khỏi cảnh trần đặng.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Mới bỏ phàm vào Thánh. Bớt phiền não tế vi.
Trừ xong lòng hữu ngã, Lên tới nẻo vô vi.
Thân trước gây nhân quả, Ngày nay biết ghét chê.
Nhơn thiên chuyển bảy kiếp, Ưa thù tịnh
quên về.
Bất nhập sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp
là
nhàm chỗ ồn ào, tìm nơi thanh vắng; nhưng cảnh sáu trần hãy còn tưởng niệm. Sở dĩ nói không nhiễm sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp là vậy.
Viên Ngộ Thiền sư giải: Nghiệp duyên chưa dứt, thì đối với cảnh đời còn biết bao là
điều giao thiệp! Xử cảnh ấy, phải làm làm sao cho có rỗng rang thênh thang mới
đặng. Người đời đều phải tùy theo duyên phận, bất tất lánh chỗ ồn ào tìm nơi
thanh vắng? Chỉ làm cho trong không ngoài thuận, tuy ở chốn náo nhiệt nhộn
nhàn, cũng điềm nhiên an ổn; xảy có mảy may gì còn sai suyển thì ắt không thế
nào làm đặng.
48.-ÂM:
Tu
Bồ Đề! Ư ý vân hà? Tư Đà Hàm năng tác thị niệm: “Ngã đắc Tư Đà Hàm quả
phủ?”. Tu Bồ Đề ngôn: “Phất
dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? – Tư Đà Hàm danh Nhứt Vãng Lai, nhi thiệt vô vãng lai,
thị danh Tư Đà Hàm”.
NGHĨA:
Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Tư đà Hàm có
tưởng như vầy: “Tưởng mình đặng quả Tư Đà Hàm chăng?”. Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn
! Không thể đặng”. Bởi cớ sao? – Bởi Tư Đà Hàm, kêu là quả Nhứt Vãng Lai,
nhưng thiệt không cái tướng Vãng Lai, nên gọi là Tư Đà Hàm”.
Giải : Triệu Pháp sư giải: Nhứt
Vãng Lai là một kiếp sanh cõi người, rồi mới đặng vào Niết bàn, cho nên nói: Quả Nhứt Vãng
Lai. Nhi thiệt vô vãng lai là khi
chứng quả vô vi, chẳng còn chấp
tướng vãng lai nữa.
Lục Tổ giải: Tư Đà Hàm kêu là quả Nhứt
Vãng Lai, là sanh về cõi Trời, rồi phải sanh xuống cõi người, chừng chết ở
cõi người lại trở sanh về cõi Trời.
Cõi Dục giới có chín điều “tư hoặc” (lầm
tưởng) đã dứt đặng sáu điều, nên nói: Quả Tư Đà Hàm.
Bực Đại thừa Tư Đà hàm, mắt thấy
các cảnh, lòng còn có một lần sanh
diệt, chớ không có hai lần, cho nên nói: Quả Nhứt Vãng Lai.
Vương Nhựt Hưu giải: Nhứt Vãng Lai
là cái sắc thân chỉ có một lần qua lại cõi Trời cõi người, còn cái chơn tánh vẫn khắp cả hư không, thế giới, đâu có chi là
qua lại! Cái sắc thân qua lại đó chẳng phải là chơn thiệt, chỉ cưỡng danh là
qua lại, cho nên nói: “Thiệt không có qua lại”.
Trần Hùng giải: Nhứt Vãng Lai là
một lần lên cõi Trời, một lần lại cõi người, rồi không trở lại thế gian nữa.
Tư Đà Hàm đã chứng đặng quả Nhứt Lai nên nói: Nhứt
Vãng Lai.
Vả lại, lòng không chấp cái sở đắc, mà cũng không còn tướng sanh diệt; nên nói: Tư Đà Hàm.
Lý Văn Hội giải: Quả thứ hai: Tư Đà
Hàm, là tu hành tinh tấn, tu
nghiệp Vô lậu, niệm niệm không
chấp cảnh giới sáu trần, nhưng cái tâm chưa đặng trọn rỗng rang thanh
tịnh.
Nhứt Vãng Lai
là Báo thân mãn rồi lại phải sanh về cõi Trời một lần nữa.
Thiệt vô vãng lai
là niệm trước xảy vọng, niệm sau liền giác, thiệt không có lòng chấp là đắc
quả, mà lòng đã không “ta”, đâu còn qua lại, cho nên nói: “Thiệt
không cái tướng qua lại”.
49.-ÂM:
Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? A Na Hàm năng tác
thị niệm: “Ngã đắc A Na Hàm quả phủ?”. Tu Bồ Đề ngôn: “Phất dã, Thế
Tôn! Hà dĩ cố? – A Na Hàm danh vi Bất Lai, nhi thiệt vô Bất Lai, thị cố danh A
Na Hàm”.
NGHĨA:
“Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? A Na Hàm
có tưởng như vầy: Tưởng mình đặng quả A Na Hàm chăng?”. Tu Bồ Đề bạch Phật “Bạch đức Thế
Tôn ! Không thể đặng. Bởi cớ sao? – Bởi A Na Hàm, kêu là
quả Bất Lai, nhưng không chấp cái tướng Bất Lai; nên gọi là A Na Hàm”.
Giải : Tăng Nhược Nột giải: A
Na Hàm : là Bất Lai. Đã dứt sự tư hoặc của cõi Dục giới, không sanh về cõi ấy nữa cho nên
nói: Bất Lai.
Nhi thiệt vô Bất Lai :
là không chấp cái tướng Bất Lai.
Trần Hùng giải: Bất Lai là không trở lại sanh ở cõi Dục giới nữa.
A Na Hàm đã
chứng đặng quả Bất Lai nên nói: Bất
Lai. Vả lại lòng không có “sở đắc”, mà cũng không còn
tướng Bất Lai, nên nói A Na Hàm!
Lý Văn Hội giải: Quả thứ ba A Na Hàm là đã tỏ nhơn, pháp đều không, tiệm tu hạnh tinh tấn, niệm niệm không thối chuyển cái lòng Bồ đề.
Danh vi Bất Lai là đã diệt trừ đặng. Trong không lòng dục,
ngoài không cảnh dục; đã lìa cõi Dục giới không còn sanh trở lại nữa, nên nói: “Bất
Lai”.
Trong lòng vắng lặng không
“ta”, không còn có tướng Bất Lai cho nên nói: “Thiệt không chấp tướng
Bất Lai”.
Xuyên Thiền Sư giải: Các điều (làm) không
thường, cả thảy đều khổ.
Tụng:
Ba vị Thinh Văn thoát nghiệp trần.
Tới lui tìm đạo có sơ thân.
Rõ ràng bốn quả nguyên không quả,
Hóa độ thân không tức Pháp thân.
50.-ÂM:
Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? A La Hán năng tác
thị niệm : “Ngã đắc A La Hán đạo phủ?”. Tu Bồ Đề ngôn: “Phất dã, Thế Tôn! Hà
dĩ cố? – Thiệt vô hữu pháp danh A La Hán”. Thế Tôn! Nhược A La Hán tác thị niệm: Ngã
đắc A La Hán đạo, tức vi trước ngã, nhơn, chúng sanh thọ giả”.
NGHĨA:
Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? – A La Hán có
tưởng như vầy: “Tưởng mình đặng đạo A La Hán chăng?”. Tu Bồ Đề bạch Phật : “Bạch đức Thế
Tôn ! Không thể đặng. Bởi cớ sao? Bởi thiệt không có pháp chi, kêu là A La Hán
cả”.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu A La Hán mà có tưởng như vầy: “Tưởng mình
đặng đạo A La Hán, tức là trước tướng: Ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả”.
Giải : Tạ Linh Vận giải: A
La Hán : là Vô Sanh, không còn thân tướng, không còn sanh nữa; nên nói: Vô
Sanh. Bằng có lòng tưởng niệm thì còn có tướng ngã, nhơn.
Có lời chú giải như vầy: “Quả A
La Hán, sanh đã hết, hạnh đã lập, công việc đã xong, chẳng có hậu hữu nữa.
Đối với các tướng các pháp, thiệt không có cái “sở đắc”, lại
cũng không sanh về ba cõi nữa, cho
nên nói: Bất Sanh”.
Tăng Nhược Nột giải: A La Hán gồm
có ba nghĩa: 1. Dứt hết phiền não
nghi hoặc; 2. Hậu thân chẳng còn sanh nữa; 3. Đáng chịu cho nhơn thiên
cúng dường. Lại cũng gọi là quả Vô học.
Từ Sơ quả cho đến quả A La Hán,
cũng đều chứng cái thể vô vi ấy, chớ không còn riêng có pháp chi cả. Bởi
không còn chấp bỏ, cho nên mới có mấy lần nói “thiệt không”
đó.
Lại nói: Bằng A La Hán có dấy lòng tưởng rằng “đắc quả”,
thì còn có sự lỗi về chấp trước
tướng ngã nhơn.
Trần Hùng giải: Các lậu nghiệp đã hết, không còn phiền não nữa, nên nói: A La Hán.
A La Hán chỉ làm theo cái pháp sẵn có, là pháp Bát
Nhã Ba la mật mà đắc đạo; bằng tự có
pháp chi, thì hẳn chưa dứt lòng “sở đắc”, đâu đặng xưng là quả
ấy. Cho nên nói: Thiệt không có pháp chi gọi là A La Hán cả“.
Kinh Pháp Hoa có nói: “Đối với các
pháp không nhiễm, cũng chứng đặng quả A La Hán “, là vậy đó.
Từ quả Tu Đà Hoàn cho đến A La Hán, từ đắc quả cho đến
đắc đạo, cứ theo thứ lớp mà tu, thì đạo Vô thượng Bồ đề, cũng có thể theo thứ lớp
mà đến đặng.
Nhan Bính giải: Tu theo bốn quả ấy, kêu
là Tứ bất hườn.
Tu Đà Hoàn danh vi Nhập Lưu là tùy thuận thế tình – Nhi vô sở nhập là bổn tánh vốn không, cho nên nói: Ở trần
chẳng nhiễm trần – Tư Đà Hàm, danh Nhứt Vãng Lai là sắc thân tuy có qua lại, mà Pháp thân lặng lẽ chẳng động; thiệt không có qua lại.
A La Hán danh vi Bất Lai là
đã dứt sanh tử- Nhi thiệt vô Bất Lai là cưỡng danh là Bất Lai, chớ thiệt không có chi động tịnh
– A La Hán năng tác thị niệm ngã đắc A La Hán đạo là còn trước tướng.
Thiệt không có pháp chi, chỉ cưỡng danh
là A La Hán vậy thôi.
Trần Hùng giải: Thế Tôn là kêu; Thế Tôn đặng khởi sự hỏi. Niệm là lòng móng tưởng (vọng niệm).
Ông Tu Bồ Đề bạch đức Thế Tôn:
“Bằng A La Hán có tướng cho
mình đắc đạo, là manh lòng “sở đắc” thì bốn điều trước
tướng sai lầm đó, không chi là không
làm. Cho nên nói: “Phải bị trước tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ
giả”.
Lý Văn Hội giải: Quả thứ tư A La Hán là ông Tu Bồ Đề đã đặng quả ấy, vì các nghiệp lậu đã hết, không còn sự phiền não – Thiệt vô
hữu pháp là có phiền não đâu mà dứt, có tham sân đâu mà bỏ; tình không thuận nghịch, cảnh trí
đều quên, đâu có lòng chi hòng chấp là đắc quả! Lòng ta đã không, thì không có
tưởng mình là “đắc đạo”. Bằng tưởng có chỗ đắc đạo, có chỗ đắc pháp,
ấy là hạnh của kẻ phàm phu, thì phải còn chấp tướng về ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
51.-ÂM:
Thế Tôn! Phật thuyết ngã đắc vô tránh tam
muội, nhơn trung tối vi đệ nhứt, thị đệ nhứt, ly dục A La Hán. Thế Tôn! Ngã bất tác thị niệm: Ngã thị ly
dục A La Hán.
NGHĨA:
Bạch đức Thế Tôn! Phật nói con là người
đặng pháp vô tránh tam muội, thiệt đúng bực nhứt, mà cũng là bực ly dục A La
Hán thứ nhứt nữa. Bạch đức Thế Tôn!
Con chẳng tưởng như vậy : Tôi mới phải bực ly dục A La Hán.
Giải : Lục Tổ giải: Tam muội
: là chánh thọ, hay là chánh kiến: Lìa khỏi chín mươi lăm thứ tà kiến là chánh kiến.
Vương Nhựt Hưu giải: Tam muội hay
là Tam Ma Địa, hay là Tam Ma Đề là Chánh định, hay là Chánh
thọ, là cách tư tưởng của pháp nhập định. Chánh định là pháp chánh của nhập định- Chánh thọ là trong khi định phải tư tưởng một cái cảnh
giới, mà chẳng phải là vọng tưởng, cho nên nói: Chánh thọ. Người
đời chẳng biết lý ấy, lại cho pháp tam muội là cái lý thú hay, nên thấy ai hay về nghề
điểm trà thì kêu là điểm trà tam muội, còn hay về nghề giảng độc lại kêu là
giảng độc tam muội, đều là chẳng biết chỗ khởi duyên, nên vọng sanh mà
đặt tên như thế.
Trong hạng người đặng pháp Tam muội duy có ông Tu Bồ Đề là bực nhứt.
Tăng Nhược Nột giải: Vô tranh,
trong kinh Niết bàn có nói: Ông Tu Bồ Đề trụ chỗ hư không.
Bằng có chúng sanh nào chẳng ưa ta đứng,
thì ta trọn ngày ngồi hoài chẳng dậy, còn chẳng ưa ta ngồi, thì ta trọn ngày
đứng mãi không dời; một niệm chẳng dấy, các pháp không tranh.
Tam muội
là đặng cái chỗ nhiệm mầu của lý vô tranh, đứng bực nhứt trong hàng đệ
tử.
Lý Văn Hội giải: Tam muội : là chánh
định; niệm niệm không sanh diệt, gọi là chánh định. Cho nên nói: Trong hạng
người tam muội thiệt là đứng bực nhứt.
Ly dục A La Hán:
là hay lìa bỏ cả thảy pháp, mà lòng cũng không có chấp rằng Ly dục; bốn
tướng vi tế thảy đều dứt hết, chẳng
sanh lòng tham nhiễm; cho nên nói: Ly dục.
Lại nói: Cái lòng “không ta” đã
vắng lặng, chẳng còn tưởng như vầy: “Ta Ly dục”, “ta đắc đạo”. Bằng
tư tưởng như thế, thì lòng còn sanh diệt, chẳng đặng gọi là bực Ly
dục A La Hán.
Xuyên Thiền sư giải: Nắm chặt thì mây che
cửa động, lỏng buông thì trăng lặn vực trong.
Tụng:
Nói ngựa hà tằng ngựa,
Kêu, trâu vị tất trâu.
Hai bên đều bỏ hết,
Trung đạo lại còn đâu.
Chim hốt bay xa trời sáu cửa!
Kiền khôn tự tại khó tìm cầu.
52.-ÂM:
Thế Tôn! Ngã, nhược tác thị niệm: Ngã đắc
A La Hán đạo, Thế Tôn tức bất thuyếtTu Bồ Đề thị nhạo A Lan Na hánh ([109])
giả. Dĩ Tu Bồ Đề, thiệt vô sở hành, nhi danh Tu Bồ Đề thị nhạo A Lan Na
hánh” (_1_).
NGHĨA:
Bạch đức Thế Tôn! Bằng con có tưởng như
vầy: Con đặng đạo A La Hán, thì đức Thế Tôn chẳng có nói Tu Bồ Đề này ưa làm
theo hạnh A Lan Na. Bởi Tu Bồ Đề này, thiệt không có làm cái chi, mới gọi là Tu
Bồ Đề, ưa làm theo hạnh A Lan Na cho.
Giải : Tăng Nhược Nột giải: A
Lan Na : là Vô tranh. Ông Tu Bồ Đề có nói: “Đức Thế Tôn tuy
xưng tán Ta, nhưng Ta thiệt không tưởng như vậy; bằng Ta có tưởng như vậy, thì đức
Thế Tôn chẳng chịu nhận cho Ta là đặng cái hạnh Vô tranh bực nhứt”.
Lại nói: Lìa sự tham dục của ba cõi, chứng đặng đạo pháp của bốn quả,
thấu lý Vô tranh tam muội, mới đặng gọi là Tu Bồ Đề; bởi chữ Tu
Bồ Đề là Không Sanh cho nên nói: “Ưa làm theo hạnh lành A
Lan Na. Bằng chấp trước có chỗ làm thì không phải là hạnh Vô Tranh “.
Trần Hùng giải: Tam muội là Chánh thọ, hiểu lý Vô sanh nhẫn,
ưa sự vui vắng lặng, là bực Vô tranh tam muội.
Kinh Hoa Nghiêm có nói:
“Còn tranh còn sanh tử
Không tranh tức Niết bàn”.
Lục Tổ có kệ rằng:
Tranh là lòng thắng phụ,
Trái với lý hành đạo.
Trước tướng đã sanh tâm,
Tài nào đặng tam muội.
Ông Tu Bồ Đề đã chứng đặng cái lý mầu nhiệm
không tướng của chơn không đặng sáu muôn pháp Tam muội, mà pháp Vô tranh tam muội lại là đúng hơn hết.
Dùng sức Tam muội mà siêu thoát ra
khỏi ngoài vật cảnh, chẳng bị vật cảnh nó dắt dẫn đẩy xô; vậy mới đáng cho là Ly
A La Hán bực nhứt.
Ông Tu Bồ Đề lại hỏi đức Thế Tôn:
“Tôi chẳng có tưởng như vậy” thì đủ biết cho ông không còn lòng “sở
đắc”.
Lại nói Ông Tu Bồ Đề e đại chúng chẳng
biết bỏ lòng “sở đắc” nên mới cầu hỏi đức Thế Tôn đến ba bốn phen.
Ngã là Tu Bồ Đề tự xưng, Tu Bồ Đề cũng là ông tự xưng – Nhạo là ưa – Nói “Nhạo A La Hán”
là người ưa làm hạnh Vô tranh.
Vả lại manh động ở lòng là niệm, còn làm
ra công việc là hành. Có làm công việc ấy, thì có hạnh ấy, có hạnh ấy thì tỏ
cái “sở đắc” ấy. Ông Tu Bồ Đề đặng Vô tranh tam muội là bởi có hạnh ấy vậy.
Vả chăng, nói: “Vô sở hành”
là bởi lòng không “sở đắc”. Có hạnh ấy mà lòng không “sở
đắc”, thiệt rất đáng cho đức Thế Tôn xưng tặng cho là ưa làm theo hạnh
A Lan Na.
Nhan Bính giải: Bằng A La Hán còn vọng niệm, còn tưởng “sở
đắc” thì bị trước bốn tướng.
“Phật thuyết: Ngã đắc Vô tranh Tam
muội nhơn trung “Vô tranh” là tánh Phật bao hàm cả
Đại thiên thế giới, không có đấu tranh.
Tam muội :
là chánh kiến, là bực nhứt trong hạng người thường, và không có đua
tranh – Thị đệ nhứt ly dục A La Hán đã dứt hết lục dục – A Lan Na hánh là không có cái hạnh ngã nhơn- Thị nhạo A
Lan Na hánh là tột thấu bổn tánh
vắng lặng ráo rốt, thiệt không có cái sở hành. Sở hành gọi “là
hánh”, nhạo là ưa.
Lý Văn Hội giải: A Lan Na: vô
tranh. Nếu lòng còn tưởng như vậy là lòng còn sanh diệt tức còn tranh đấu – Tu Bồ Đề thiệt không có
cái sở hành là không sanh diệt.
Bởi vậy, Phật mới khen ông, là ưa theo hạnh A Lan Na.
Bách Trượng Thiền sư giải: Nếu bây giờ,
mà cả thảy các pháp, còn đình lưu mảy may trong tạng phủ, thì chẳng siêu thoát
ra khỏi vòng cho đặng; bằng sanh lòng động niệm có “sở cầu”, “sở
đắc”, thì thành ra con giã can. ([110])
Còn trong lòng không có “sở
cầu”, “sở đắc”, thì người ấy không sanh các điều dữ,
không chấp tướng ngã nhơn, ấy là nhét hòn núi Tu Di vào trong hột cải.
Chẳng khởi cả thảy tham sân, thì
uống nước của bốn biển cả mới đặng.
Chẳng đem những câu chuyện mừng giận vào
lỗ tai, đối với cả thảy các cảnh không lầm lỗi rối loạn, không giận giũi, mừng
vui, dứt bỏ, thâu thập cho đặng thanh tịnh; ấy là người vô sự. Đặng như vậy thì
hơn cả thảy những ông Tăng tri giả, tinh tấn; đáng cho là có thiên nhãn, có Pháp giới tánh, xe
chở nhân quả. Phật ra đời hóa
độ chúng sanh.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Không sanh thì không diệt, Không ngã ắt không nhơn.
Dứt đặng nhân phiền não, Trừ luôn nghiệp hậuthân.
Cảnh tâm đều tịch tịnh, Quyết định khỏi tham sân.
Trí mọn khôn bi mẫn. Tự mình dưỡng tánh chơn.
Xuyên Thiền sư giải: Chiếu đối với lời
nói trước thì lại không hạp.
Tụng:
Bụng sò ẩn ngọc xanh,
Kẹt đá vùi châu đỏ.
Có xạ tự nhiên thơm,
Cần chi đứng trước gió.
Sanh nhai coi lại tợ hồ không.
Ứng dụng đầu đầu đều sẵn có.
53.-ÂM:
Phật
cáo Tu Bồ Đề: “Ư ý vân hà? Như Lai tích tại Nhiên Đăng Phật sở; ư pháp,
hữu sở đắc phủ?”. – “Phất
dã, Thế Tôn! Như Lai tại Nhiên Đăng Phật sở, ư pháp thiệt vô sở đắc”.
NGHĨA:
Phật
bảo Tu Bồ Đề: “Ý ông thế nào? Như Lai thuở trước ở chỗ Phật Nhiên Đăng;
pháp có chỗ chi đặng chăng?”.
“Bạch đức Thế Tôn ! Không. Như Lai khi ở chỗ Phật Nhiên Đăng, thiệt
không có chỗ chi đặng pháp cả”.
Giải : Lưu Đẩu giải: Thuở Như Lai còn làm Bồ Tát, ở chỗ Phật
Nhiên Đăng, đối với cái pháp rốt ráo không có chỗ chi mà đặng, ấy là nói không chấp
trước.
Lục Tô> giải: Phật Nhiên Đăng là thầy thọ ký của Phật Thích Ca Mâu Ni, nên mới có
câu hỏi ông Tu Bồ Đề: “Khi ta ở chỗ thầy ta mà nghe pháp, vậy có đặng pháp
chi chăng?”.
Ông Tu Bồ Đề vẫn biết cái pháp là nhờ
thầy chỉ dạy, nhưng thiệt không có chi mà đặng; chỉ tỏ tự tánh nguyên lai là
thanh tịnh, vốn không một mảy trần lao, vắng lặng mà thường quang chiếu ắt tu thành Phật. Cho nên biết
đức Thế Tôn khi ở chỗ Phật Nhiên Đăng, cái pháp thiệt không có chi mà đặng cả.
Vương Nhựt Hưu giải: Như Lai : là Phật tự xưng – Tích
là thuở xưa – Nhiên Đăng là Phật Đính Quang là Bổn sư của Phật Thích Ca.
Trần Hùng giải: Tám vị Vương tử đều học với Phật Diệu
Quang, đặng thành đạo Phật, mà vị Phật sau rốt hết là Phật Nhiên Đăng; 16 vị
Vương tử đều xuất gia làm Sa Di; đều đặng huệ của Phật, mà vị Phật sau
rốt hết là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Phật Nhiên Đăng là thầy thọ ký của Phật Thích Ca. Ngài nhờ thầy chỉ dạy, đặng
pháp Vô thượng Bồ đề làm đặng một
vị Pháp Vương của đạo Thích,
mà cái pháp lại không có chỗ chi đặng hay sao. Duy tại không chấp cái chỗ chi
đặng đó thôi.
Phật e các bực Bồ Tát chưa dứt đặng lòng sở đắc nên lập lời hỏi ấy. Còn ông Tu Bồ Đề rất tỏ ý
của Phật, nên đáp: “Chẳng đặng”.
Vả lại, nói cái pháp, thiệt không có chỗ
chi mà đặng, là bởi biết Như Lai vốn đặng tâm truyền.
Còn nói “thiệt” là để dứt lòng
nghi của đại chúng.
Lý Văn Hội giải: Ư pháp hữu sở đắc phủ là Như Lai muốn phá lòng chấp trước của hai bực thừa, cho nên mới hỏi lời ấy.
Ông Bạch Lạc Thiên có hỏi ông Xuyên Thiền
sư: “Không tu không chứng, nào khác kẻ phàm phu?”.
Đáp: “Phàm phu bị vô minh,
hai bực thừa còn chấp trước, khỏi hai bịnh ấy mới là chơn tu”.
Người chơn tu chẳng cần năng, chẳng giải
đãi; cần thì gần chấp trước , giải đãi thì đọa vô minh. Ấy là lẽ
mầu nhiệm của cái tâm, mà cũng là pháp môn của người bắt đầu học đạo.
Ư pháp thiệt vô sở đắc là ông Tu Bồ Đề nói Như Lai tự tánh vốn là
thanh tịnh, nên lúc Phật ở chỗ Phật Nhiên Đăng, cái pháp, thiệt không chỗ chi
mà đặng.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Trước xưng rằng Thiên Huệ, Nay hiệu gọi
Năng Nhơn.
Xét kỹ duyên đều vọng, Suy ra thể chẳng chơn.
Tự như nào có quả, Thiệt lý hẳn không nhân.
Thọ ký đinh ninh đó, Đâu hay bởi cựu thân.
Xuyên Thiền sư giải: Xưa đó, nay cũng đó.
Tụng:
Một tay chỉ thiên, Một tay chỉ địa.
May mảy chẳng xem, Đông Tây bốn phía.
Bình sanh đởm lượng lớn tày trời.
Day xích xí quần ma khiếp vía.
54.-ÂM:
” Tu
Bồ Đề! Ư ý vân hà? – Bồ Tát trang nghiêm Phật độ phủ?”. – “Phất dã, Thế Tôn. Hà dĩ cố? . Trang
nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm thị danh trang nghiêm”.
NGHĨA:
” Tu
Bồ Đề! Ý ông thế nào? Bồ Tát có trang nghiêm Phật độ chăng?”.
– “Bạch đức Thế Tôn ! Không.Bởi cớ sao? Bởi trang nghiêm Phật độ,
nhưng chẳng phải trang nghiêm, chỉ cưỡng danh là trang nghiêm”.
Giải : Triệu Pháp sư giải: Ấy là nói tâm độ Phật lìa tướng trang nghiêm.
Sớ Sao giải: Phật độ là diệu tánh của Phật là chơn tâm của chúng sanh. Tâm độ
như vậy, nên cho là tướng hảo trang
nghiêm chăng?
Phất dã là ông Thiện Hiện lấy lý mà đáp.
Hỏi : “Thế nào là tâm độ không trang nghiêm? Thế nào là tánh không có
tướng, thể đồng hư không? Còn trang nghiêm thế nào, mới gọi là trang
nghiêm”.
Đáp: Sáu độ, muôn hạnh: Bố thí,
giới,tinh,nhẫn, định, huệ, các môn ấy và cả thảy thiện pháp đều gọi là
trang nghiêm.
Lại nói: “Nếu còn chấp đoạn kiến,
thường kiến thì chẳng phải Tịnh độ”.
Trong kinh nói: “Muốn tịnh Phật
độ thì mới tịnh tâm, tịnh tâm tức là
tịnh Phật độ”.
Hỏi: Tâm thế nào là tịnh?
Đáp: Ngoài chẳng nhiễm sáu trần, trong
không chấp ngã nhơn, không chấp đoạn diệt, ấy là Tịnh độ.
Vương Nhựt Hưu giải: Bởi cớ sao? Đã là Bồ
Tát mà còn nói trang nghiêm là làm sao? Là mỗi một Đạ>i thiên thế giới thì
có một vị Phật hóa độ. Như thế giới này là chỗ của Phật Thích Ca hóa độ còn thế
giới phương Đông là chỗ của Phật A Súc Bệ hóa độ vậy. Mỗi một đại thế giới thì
có một vị Phật hóa độ, cho nên mỗi đại thế giới đều gọi là Phật độ.
Mà nói Bồ Tát trang nghiêm đó, là Bồ Tát
ở trong Phật độ làm các việc tốt lành, để cải cách cho thế giới: cũng như đức
Phật A Di Đà, thuở còn làm Bồ Tát, làm ra vô lượng việc tốt lành; nên nghiệp
phước, duyên lành ấy cải cách thế giới đặng, như đại địa đều là vàng bạc, rừng
cây lầu đài, đều là châu báu v.v.. cho nên nói: Trang nghiêm.
Phật lại tự hỏi: “Bởi cớ sao?”.
Bồ Tát nói mình phải trang nghiêm Phật độ cho thanh tịnh, là chẳng phải chơn
thiệt? Rồi tự đáp: “Trang nghiêm Phật độ nhưng chẳng phải trang nghiêm,
chỉ cưỡng danh là trang nghiêm”; là trong chơn tánh chẳng có chi trang
nghiêm; mà nói trang nghiêm đó là hư danh vậy thôi, bởi có một chơn tánh chơn
thiệt, chớ không có chi chơn thiệt cả.
Trần Hùng giải: Kinh Duy Ma có
nói: “Tùy cái lòng tịnh cõi Phật tịnh”. Như vậy thì lòng ta thanh
tịnh, tức là Phật độ trang nghiêm, chớ có cần chi những điều trang sức bề
ngoài.
Cung điện bằng châu báu, lầu đài lại vẽ
vời đều là trang sức bề ngoài, ấy là trang nghiêm của kẻ phàm phu, chớ không
phải trang nghiêm của bực Bồ Tát.
Muốn biết trang nghiêm của bực Bồ Tát,
thì phải tìm cầu trong chỗ chẳng trang nghiêm, thì hẳn có đủ muôn hạnh trang
nghiêm; cho nên nói: Trang nghiêm.
Lý Văn Hội giải:
Trang nghiêm Phật độ là cất chùa, viết kinh,
Bố thí, cúng dường, ấy là trước tướng trang nghiêm, còn lòng
thanh tịnh chẳng vọng ngoại cầu, tự tại, tùy duyên, không có chi “sở
đắc”, đi, đứng, nằm, ngồi, đúng với lý đạo. Cho nên nói: Trang nghiêm Phật
độ.
Bàng Bà đang xem Tạng kinh, ông Duy Na
xin hỏi nghĩa
hồi hướng. Bàng Bà lấy cái lược ở phía
trước đó, giắt lên đằng sau ót mà nói:
“Hồi hướng đó đa!”. Như thế thì
cái tâm không còn chi là
“năng sở”.
Nghiêm nghị không năng sở,
Diệt trừ tướng ngã nhơn.
Đoạn thường đều chẳng nhiễm.
Siêu xuất cõi trần huờn.
Xuyên Thiền sư giải: Cái khổ của mẹ đẻ, áo vải ông Thanh
Châu.
Tụng:
Rửa ráy toàn thân sắc trắng phau,
Tranh hơn vẻ đẹp với hoa, lau.
Cửu cao sẵn chỗ làm chưn đứng,
Đầu đỏ càng xinh lại hại nào?([111])
55.-ÂM:
” Thị
cố, Tu Bồ Đề! Chư Bồ Tát Ma ha tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ
sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp, sanh tâm, ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm”.
NGHĨA :
“Bởi vậy. Này Tu Bồ Đề. Các đại Bồ
Tát nên sanh tâm thanh tịnh như vậy; chẳng nên sanh tâm trụ sắc, chẳng nên sanh
tâm trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp; nên sanh tâm không chỗ chi trụ”.
Giải : Sớ Sao giải: Ưng :
là nên, là nói “nên sanh tâm thanh tịnh như vậy”; là Phật dạy sanh
tâm chơn như không nhiễm.
Hỏi : Thế nào là sanh tâm thanh tịnh?
Đáp : Chẳng nên sanh tâm trụ sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Lại Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Bằng
chuyển vật đặng thì đồng với Như Lai”, kẻ phàm phu bị vật dục nó chuyển,
còn Bồ Tát chuyển đặng vật. Chuyển đặng như vậy, cho nên nói: “Nên sanh
tâm không có chỗ trụ”.
Vương Nhựt Hưu giải: Bồ Tát Ma ha tát
: là Giác chúng sanh, hay là Đại
chúng sanh, kỳ thiệt đều gọi là Bồ Tát cả – Như thị : là chỉ lại bài
văn sau, là chẳng nên sanh tâm trụ chỗ có hình sắc, mà cũng chẳng nên sanh tâm
trụ chỗ có tiếng tăm, hơi hám, mùi vị, cảm xúc và cả thảy phương pháp nữa.
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm : là chẳng
nên sanh tâm trụ trước sáu trần, chỉ nên sanh tâm
“không sở chỗ trước”.
Chư Phật giáo hóa chúng sanh, có nghĩa
bực nhứt và nghĩa bực nhì.
Kinh này nói nghĩa bực nhứt, tuy rất cao mà dễ hiểu, nhưng vậy chớ không
dễ gì mà thấu đáo chỗ ráo rốt cho đặng. Còn pháp Tịnh độ tuy là nghĩa
bực nhì mà mỗi người đều có gọi thể
hành đạo đặng cả.
Phật nói tu Tịnh độ mà rõ nghĩa
bực nhứt, đọc tụng kinh điển Đại thừa là bực “Thượng phẩm, thượng
sanh” là bực Bồ Tát, thoát khỏi vòng sanh tử. Vậy thì người tu Tịnh
độ chẳng nên chẳng hiểu nghĩa kinh này mà thọ trì đọc tụng, hầu có lên trên bực Thượng phẩm Thượng sanh?
Trần Hùng giải: Bồ Tát trang nghiêm đã chẳng phải là tại
trang sức bề ngoài, thì hẳn nên cầu ở lòng ta. Nếu lòng mà thanh tịnh, lại còn
trang nghiêm nào hơn nữa? Cho nên nói: “Nên sanh tâm thanh tịnh như
vậy”.
Phàm sanh tâm trụ trước vào sáu trần đều không phải là tâm thanh tịnh; Bồ Tát có
nên như thế sao?
Vả chăng, tâm của Phật vốn là thanh tịnh
không tướng, đâu có chỗ chi mà trụ; Bồ Tát thọ giáo pháp của Như Lai cũng nên
như thế. Cho nên nói: “Nên sanh tâm không có chỗ trụ”. Đồng với câu :
“Nên sanh tâm không có chỗ trụ” trong phần thứ mười bốn.
Phật nói về cái khổ của sáu trần,
thường thường dùng sắc mà nói trước, rồi kế đó mới nói thinh, hương, vị,
xúc, pháp thì càng thấy tướng sáu
trần duy cái sắc là thế tình dễ mê nhiễm hơn hết.
Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang cho Lục Tổ vừa
đến câu: “Nên sanh tâm không có chỗ trụ”; dứt lời Lục Tổ liền tỏ ngộ
mà nói: “Nào dè tự tánh vốn là thanh tịnh; nào dè tự tánh vốn không sanh
diệt, nào dè tự tánh vốn đã sẵn đủ; nào dè tự tánh vốn không lay động”.
Ngũ Tổ nói: “Chẳng biết bổn tâm học
đạo vô ích, bằng dứt lời mà biết đặng bổn tâm, thấy đặng tự tánh, tức là bực Trượng
phu Thiên nhơn sư” (Thầy của cõi trời cõi người).
Lý Văn Hội giải: Lòng của Bồ Tát thường thường vắng lặng:
Không các vọng niệm, chẳng sanh
chẳng diệt, chẳng động chẳng lay, ấy là lòng thanh tịnh; còn lòng của phàm phu
bị vô minh diệt vọng tưởng điên đảo các tà kiến, chấp bỏ lành dữ phàm Thánh; ấy là
lòng trược loạn.
Bất ưng trụ sắc sanh tâm : là nếu lòng thanh
tịnh, thì chẳng bị các cảnh nó hoặc loạn.
Tiêu Diêu Ông giải: Bằng người mà tâm
cảnh thanh tịnh là cõi tịnh của Phật, còn tâm cảnh trược loạn là cõi uế của ma.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Tâm ý đều an lặng, Tức là Tịnh độ nhân,
Đâu cầu dùng phước trí Hẳn bỏ dứt tham sân
Nghiêm nghị không năng sở, Diệt trừ tướng ngã nhơn.
Đoạn thường đều chẳng Siêu xuất cõi trần hườn. nhiễm,
Xuyên Thiền sư giải: Tuy vậy biết liệu thế nào! Trước mắt kia
biết làm sao đặng?
Tụng:
Thấy sắc không mê sắc,
Nghe thinh chẳng đắm thinh.
Sắc, thinh không trở ngại,
Mới đáng bực viên minh.
Lý Văn Hội giải: Tâm của chúng sanh vốn không có chi mà
trụ, bởi tại cái cảnh cảm xúc mà sanh; chẳng biết xúc cảnh là không, lại tưởng
thế pháp là có, bèn trụ theo cảnh; cũng ví như viên hầu mò nguyệt, mắt bịnh
thấy hoa vậy.
Cả thảy muôn pháp đều bởi tại tâm mà sanh
ra; bằng ngộ chơn tánh tức là không trụ. Tâm không chỗ trụ tức là trí huệ, thì
không có các phiền não; ví như hư không không có chi quái ngại. Còn tâm có chỗ
trụ, tức là vọng niệm, thì sáu trần đều khởi lên; ví như đám mây lại
qua không định.
Kinh Duy Ma có nói: “Muốn đặng Tịnh
độ thì phải tịnh tâm, tùy theo cái tâm tịnh tức là Phật độ tịnh”.
Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Nếu tâm mà thanh
tịnh thì chẳng cần phải mượn ngôn thuyết chi, chỉ không cả thảy tâm tức là trí “vô
lậu”. Bọn ngươi, mỗi ngày đi, đứng, nằm, ngồi, chuyện giảng, chớ nên chấp
trước pháp Hữu vi; trong nháy mắt, lúc buông lời, đều phải giữ theo
pháp Vô lậu.
Những kẻ tu hành học đạo đời nay, đều chấp trước cả thảy thinh sắc, chẳng biết làm cho cái tâm
đặng như hư không, như cây khô, khối đá, như tro nguội, lửa tàn; vậy mới có một
ít phần hạp với lý đạo cho.
Bằng không như vậy, thì một ngày khác
cũng phải bị vua Diêm vương khảo đả. Bọn ngươi, chỉ phải lìa bỏ cái pháp có,
không cái tâm như mặt nhựt, thường ở chốn hư không, chẳng chấp có soi sáng, mà
tự nhiên soi sáng, như vậy há không phải là một việc nhẹ ít tốn công lực hay
sao?
Đến lúc ấy, không còn có chỗ dựa nương,
tức là con đường của chư Phật; mới thiệt là “Nên sanh tâm không có chỗ
trụ”; ấy là Pháp thân thanh tịnh của bọn người, là pháp Vô thượng Chánh giác vậy.
Xuyên Thiền sư giải: Lui lại, lui lại, xem coi khố đá động
kia cà.
Tụng:
Canh khuya nhà vắng thủ lâm tuyền.
Phẳng lặng êm đềm cảnh tự nhiên.
Hà sự gió Tây xao xác thổi.
Bỗng nhiên inh ỏi nhạn kêu sương.
56.-ÂM:
“Tu Bồ Đề! Thí như hữu nhơn, thân
như Tu Di sơn ([112])
vương, ư ý vân hà? Thị thân vi đại phủ?”. Tu Bồ Đề ngôn: “Thậm đại, Thế
Tôn! Hà dĩ cố? – Phật thuyết phi thân,
thị danh đại thân”.
NGHĨA:
“Tu Bồ Đề! Ví như có người, thân
bằng núi chúa Tu Di ý ông thế nào – Thân ấy có lớn chăng?”. Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn
! Rất lớn. Bởi cớ sao? – Bởi Phật nói chẳng phải thân, mới gọi là thân
lớn”.
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Tu Di sơn vương là bởi núi ấy
cao hơn hết các núi trong bốn châu thiên hạ. Sơn vương là núi chúa của các núi.
Mặt nhựt, mặt nguyệt, đi chung quanh núi
ấy mà phân ra ngày đêm, bởi ấy mà chia bốn phía làm bốn châu thiên hạ. Ở trên
có ba mươi ba cõi Trời, thiệt đáng cho là rất lớn. Thân người có đâu mà lớn như
thế? Ấy là sự thí dụ nên nói: “Ví như có người thân như núi chúa Tu
Di” – Tuy rất lớn như thế mà cũng chẳng phải chơn thiệt, chỉ cưỡng danh
vậy thôi. Cho nên nói: “Phật nói chẳng phải thân, mới gọi là thân
lớn”. Sao vậy? Là bởi có hình, tướng đều là hư vọng. Tam thiên thế giới
cũng đều là hư vọng, huống chi là thân Tu Di sơn. Duy có chơn tánh mới là chơn
thiệt mà thôi.
Kinh này nói nghĩa thứ nhứt của chơn tánh, nên cho cả thảy đều là hư vọng.
Cả thảy sở dĩ đều cho là hư vọng đó, là bởi có hình tướng; mà đã có hình tướng
thì phải hư hoại, dầu chưa hư hoại là do nơi nghiệp lực nó duy trì, có phải là
chẳng hư hoại đâu đến khi nghiệp lực hết rồi thì cũng phải hư hoại vậy. Duy có
chơn tánh không có hình tướng, nên không hoại đặng, vậy nên mới cho là không
hoại. Từ đời vô thỉ, đến nay không
có hao kém, nên nói: “Chơn tánh thường trụ”.
Trần Hùng giải: Núi Tu Di cao lớn đến ba trăm ba mươi sáu muôn dặm (3 triệu 360
ngàn dặm) là chúa của các núi; mà nó chơn thân lớn như thế hẳn không thế ấy.
Duy có Phật thì chơn tánh thanh tịnh không có tướng không trụ trước, không quái ngại, bao cả Thái
hư, trùm cả sa giới; dầu núi Tu Di cũng chẳng đủ mà so sánh với sự lớn ấy đặng.
Phật muốn cho người tỏ ngộ chơn tâm, nên
mượn cái “thân lớn” mà hỏi, còn ông Tu Bồ Đề tỏ thấu ý Phật nên mới
đáp: “Rất lớn” rồi lại e cho đại chúng chưa hiểu, nên lại nói:
“Phật nói chẳng phải thân, mới gọi là thân lớn”.
Phi thân:
là Pháp thân, tức chơn tâm.
Ông Văn Thù Bồ Tát hỏi đức Thế Tôn:
“Sao gọi là thân lớn?”.
Đáp: “Chẳng phải
thân, mới là thân lớn”.
Đủ cả thảy giới, định, huệ, tỏ
pháp thanh tịnh, mới là “thân lớn”, cũng là chỉ cái chơn tâm mà nói.
Như thế thì, chơn tâm cũng có thế mà nuốt
cả núi Tu Di đặng.
Nhan Bính giải: Sắc thân tuy lớn như núi Tu Di, rốt lại cũng chẳng phải
lớn, là bởi còn sanh diệt.
Phật nói: “Chẳng phải thân”, mà
chẳng phải thân tức là thân. Còn bổn tánh không có cái thân vọng ấy, nên nói:
Thân lớn, là nói Pháp thân của Phật sung mãn bao trùm khắp cả pháp giới.
Lý Văn Hội giải: Sắc thân tuy lớn nhưng tâm lượng cũng nhỏ dầu cho thân
hình bằng núi chúa Tu Di đi nữa, mà có tướng thì cũng có thể so lường đặng. Còn
tâm lượng của pháp thân rộng lớn sánh tày hư không, không hình không tướng,
không thế so lường; cho nên nói: “Thân lớn”.
Viên Ngộ Thiền sư giải: “Chẳng lên
núi Thái Sơn, chẳng biết trời cao, chẳng vượt biển Thương Minh chưa tường biển
rộng”. Ấy là luận về cái phạm vi còn hèn thấp, chớ như hạng xem cõi nhơn
thiên ở trong hột lúa, biển cả ở đầu mảy lông, cõi Phù Tràng Vương, Hoa
tạng giới ở trong lông mày lông nheo; thì nói thử coi người ấy an thân lập mạng
ở chỗ nào? – Hiểu rõ đặng cùng chăng? Ấy là.
Vô lượng hư không khôn đựng chứa,
Rỗng rang thấu đến chỗ Oai Âm ([113]).
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Chỉ núi Tu Di lớn, Dùng so sánh Pháp thân.
Châu vi bao bảy báu, Độ hạnh rất nhiều môn.
Sắc đẹp khoe xanh trắng, Duyên lành kết quả nhân.
Có hình đâu phải lớn, Không tưởng mới là chơn.
Xuyên Thiền sư giải: Giả như có, rồi ở
chỗ nào?
Tụng:
Thế giới bao nhiêu vật hữu hình,
Tu Di sừng sựng cũng hư danh.
Dầu cho ngươi chỉ muôn điều có.
Ta nói đều “không” lý mới minh.
Phải theo chỗ ấy mà ngộ nhập.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
57.-ÂM:
“Tu Bồ Đề! Như Hằng hà trung sở hữu
sa số, như thị sa đẳng Hằng hà. Ư ý vân hà? Thị chư Hằng hà sa ninh vi đa
phủ?”.
NGHĨA:
“Này Tu Bồ Đề! Như dùng số cát trong
sông Hằng mà ví dụ có những sông Hằng khác nhiều bằng số cát như vậy.
–
Ý ông thế nào? Số cát của những sông Hằng ấy sao ? Có nhiều chăng ?”.
Giải : Vương Nhựt Hưu giải:
Xứ Tây Thổ có con sông kêu là sông Hằng. Phật hay dùng cát của sông ấy mà nói,
là bởi chúng nhơn thường thấy nên mượn đặng ví dụ cho dễ hiểu.
Phật cũng dùng cát ấy mà hỏi ông Tu Bồ
Đề: “Nhiều chăng? Là muốn cho biết trước số cát ấy là thật nhiều, rồi sau
mới nói”.
Chữ “ninh” nhà nho thủ nghĩa như chữ khởi, như thử là “làm sao” là của thầy phiên dịch
dùng để làm chữ trợ, không cần phải khảo nghĩa.
58.-ÂM:
Tu Bồ Đề ngôn: “Thậm đa, Thế Tôn !
đản chư Hằng hà, thượng đa vô số, hà huống kỳ sa ! “.
NGHĨA:
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Rất nhiều. Những sông Hằng còn nhiều vô số thay, huống chi là cát!”.
Giải : Lý Văn Hội giải: Như
Hằng hà trung sở hữu sa số là mỗi
hột cát thì một sông Hằng, mà nói số cát của những cả thảy sông ấy, vậy thì
sông Hằng còn nhiều vô số thay, huống chi là cát.
Xuyên Thiền sư giải: Trước ba ba, sau
cũng ba ba.
Tụng:
Tằng mằng đếm cát một, hai, ba;
Cát ví sông Hằng số quá đa.
Trước mắt ngắm xem không một pháp.
Mới là tịch tịnh, Tát bà ha.
59.-ÂM:
“Tu Bồ Đề! Ngã kim thiệt ngôn cáo
nhữ! Nhược hữu: Thiện nam tử, thiện nữ nhơn dĩ thất bảo mãn nhĩ sở hằng hà sa
số tam thiên đại thiên thế giới dĩ tụng bố thí, đắc phước đa phủ?”.
Tu Bồ Đề ngôn: “Thậm đa, Thế
Tôn!”.
Phật cáo Tu Bồ Đề: “Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn ư thử kinh
trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng vị tha nhơn thuyết, nhi thử phước đức
thắng tiền phước đức”.
NGHĨA:
“Này Tu Bồ Đề! Nay ta bảo thiệt
ngươi! Nếu có : trai lành, gái tín nào, dùng bảy báu đầy cả hằng hà sa số tam
thiên đại thiên thế giới ấy, đem ra mà bố thí, có đặng phước nhiều
chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn ! Rất nhiều”.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Bằng trai lành, gái tín nào thọ trì theo trong
kinh này cho đến những tứ cú kệ và diễn thuyết lại cho người khác, thì phước
đức ấy hơn phước đức trước kia”.
Giải : Triệu Pháp sư giải:
Bởi cái phước bố thí thì còn
nhiễm nên còn chìm đắm trong tam hữu (ba cõi). Còn phước trì kinh thì thanh tịnh, siêu thăng qua bờ kia đặng,
cho nên nói: “Hơn”.
Sớ Sao giải: Phật lại nói rõ phước vô vi hơn phước hữu vi – Kinh Viên
Giác có nói: “Có pháp môn Đại Đà la ni kêu là Viên Giác; lưu bố ra cả thảy tánh chơn
như Niết bàn”.
Như vậy thì nếu không có Tứ cú kệ trong kinh này làm sao mà Viên Giác diệu tánh đặng? Bởi Viên Giác diệu tánh nên lưu bố ra cả thảy pháp Chơn như, lý của Niết bàn; cái nẻo
chẳng sanh chẳng diệt từ đó mà ra.
Nghĩa nhiệm mầu này cũng đồng với nghĩa
trong phần thứ tám.
Tỏ đặng như vậy, thọ trì không bỏ, tự
lợi lợi tha, khắp cùng loại hữu tình đều rõ đạo ấy; phước ấy tức là phước vô vi, hơn phước bố thí bảy báu hằng hà kia. Vậy nên đệ này mới gọi là
đệ “Vô Vi phước lớn”.
Vương Nhựt Hưu giải: Phật lại bảo ông Tu
Bồ Đề: “Như trai lành, gái tín nào thọ trì theo nghĩa lý trong kinh này,
cho đến những Tứ cú kệ rồi giảng giải lại cho người khác thì đã khỏi ác
nghiệp buộc ràng, mà lại đặng tỏ ngộ chơn tánh. Còn người nghe đặng cái chí lý này,
rồi cũng lần lần tỏ ngộ chơn tánh”.
Lâu ngày thì căn lành viên mãn: Siêu
thoát luân hồi, khỏi vòng sanh tử, muôn kiếp cũng không cùng tột. Cho
nên phước đức ấy nhiều hơn phước bố
thí bảy báu đầy cả hằng hà thế giới
kia đến vô lượng vô số.
Phật thường nói thí của có khi hết, thí
pháp hưởng không cùng; thí của chẳng siêu khỏi cõi trần, thí pháp thoát ra khỏi
ngoài tam giới.
Ấy vậy thì phước thí pháp hơn phước kia
vô lượng vô số, chẳng có chi là lạ cả.
Trần Hùng giải: Bảy báu tuy nhiều, bất
quá là vật hữu hạn của nhơn gian, dùng mà bố thí, thì chỉ đặng cái phước
hữu hạn mà thôi. Bằng sánh với câu kệ trong kinh này, nếu ngộ đặng thì sanh về
Thiên giới, há không phải là hơn kém cách xa nhau cả muôn triệu hay sao?
Kinh Tam Muội có nói: “Nếu như có
người đem vàng bạc đầy cả thành mà bố
thí, cũng chẳng bằng người thọ
trì “Tứ cú kệ” của kinh này”.
Nay có trai lành, gái tín nào, mà thọ trì
kệ ấy chẳng những là rõ đặng tự tánh, lại giảng giải cho người cũng kiến tánh
nữa, thì cả hai đều đặng sanh về Thiên giới thành đạo Vô thượng Bồ đề, xem lại cái phước bảy báu
kia vẫn không đủ luận. Cho nên nói: “Hơn phước đức trước kia”.
Kinh Hoa Nghiêm có nói:
Như vật báu trong xó,
Không đến không thấy rõ
Phật pháp chẳng ai truyền,
Tuy huệ cũng không ngộ.
Vậy thì các công đức giảng giải còn có
chi là lớn hơn.
Nhan Bính giải: Đem bảy báu đầy cả thế
giới mà bố thí, đặng phước tuy nhiều, nhưng thuộc về phước hữu lậu, thì chưa
khỏi đặng sự cùng tận, chẳng bằng thọ trì Tứ cú trong kinh này, rồi giảng dạy lại người khác, tỏ
đặng chỗ “tri kiến” của Phật, thì phước đức ấy lịch kiếp vẫn
còn. Cho nên nói: “Hơn phước đức trước tướng kia“.
Lý Văn Hội giải: Thậm đa Thế Tôn :
là bố thí bảy báu đầy cả hằng hà tam thiên thế giới,
đặng phước rất nhiều. Thọ trì Tứ cú kệ: Ông Xuyên Thiền sư đã có giải rõ
trong phần Ứng hóa phi chơn đệ ba mươi hai.
Vị tha nhơn thuyết:
là nếu giải kinh nghĩa Đại thừa này mà giáo hóa chúng sanh tỏ ngộ cái lòng:
“Trụ chỗ không trụ” “đặng phép không đặng”. Phải biết thọ
trì kinh này là công đức vô vi
hơn phước đức hữu vi là phước đức bố
thí bảy báu đầy cả hà sa thế giới.
Trí Giải Thiền sư giải:
Tụng:
Kể sông Hằng đã quá, Những cát lại càng nhiều.
Chứa báu bằng như thể, Thí tài số biết bao.
Chấp mê theo tướng giả. Lừng lẫy nhận tài cao.
Sánh với bốn câu kệ, Phước kia có chút nào.
Xuyên Thiền sư giải: Thau thiệt cũng
không đổi vàng đặng.
Tụng:
Đếm cát sông Hằng luống cực thân.
Lăng xăng sao khỏi, cảnh lao trần.
Đâu bằng tu dưỡng chơn như tánh,
Cây rụi đơm chồi đẹp vẻ xuân.
CHƯƠNG MƯỜI HAI
60.-ÂM:
Phục thứ: “Tu Bồ Đề! Tùy thuyết thị
kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng đương tri thử xứ, nhứt thiết thế gian; Thiên, Nhơn,
A tu la giai ưng cúng dường như Phật tháp miếu”.
NGHĨA:
Lại nói tiếp: “Này Tu Bồ Đề! Chỗ nào
tứ cú kệ, phải biết chỗ ấy, cả thảy thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la đều nên cúng
dường, cũng như tháp chùa, của Phật vậy”.
Giải : Trần Hùng giải: Tùy
thuyết là tùy thuận theo chúng sanh
mà thuyết pháp.
Thuyết kinh này, đến chỗ Tứ cú kệ thì cả Thiên, Nhơn, A tu la các đạo đều dùng: Hoa hương, chuỗi hột, tràng phan, bửu
cái, hương đăng, mà cung kỉnh cúng dường, như có tháp Xá lợi của Chơn thân Phật
ở đó vậy, huống chi là đọc tụng toàn cả bộ kinh này! Phải biết đọc tụng toàn cả
bộ kinh này, thì cái pháp đặng thành tựu đó, là pháp thượng thượng “xuất thế
gian”, chớ chẳng phải là pháp tầm thường.
Cho nên Đàn kinh có nói: “Pháp Ma
ha Bát Nhã Ba la mật là pháp rất tôn
thượng đúng bực nhứt”.
Tạ Linh Vận giải: Phong tẩn pháp thân gọi là tháp, tạo tượng, lập chùa gọi là
miễu.
Thể thánh nghi thần đều ở trong Tứ cú
kệ nên phải dưng cúng trí kỉnh cho
hết lòng.
Lục Tổ giải: Tùy chỗ nào có người ta, thì
nên giảng kinh này; thường phải giữ lòng không sở đắc, ắt trong thân ấy hiện toàn thân Xá
lợi của Như Lai. Cho nên nói:
“Như chỗ tháp miễu của Phật”.
Lòng thanh tịnh mà nói kinh này, khiến
cho thính giả trừ lòng mê vọng, tỏ ngộ bổn lai Phật tánh, thường giữ sự chơn
thiệt thì cảm phục đến Thiên, Nhơn, A tu la, Nhơn, Phi nhơn, các đạo
cũng đều đến cúng dường người trì kinh ấy.
Vương Nhựt Hưu giải: Nói tùy chỗ nào là
cả thảy những chỗ.
Bằng có người thọ trì, đọc tụng, diễn
thuyết, thì công đức oai nghi lực thiệt rất lớn, cho nên chỗ đó thành tháp
miễu, mà cả thảy mỗi người và Thiên đạo, A tu la đạo cũng đều cung kỉnh.
A tu la có ba thứ: một thứ thuộc về cõi Trời; một thứ
thuộc về cõi người; một thứ thuộc về cõi súc sanh. Đại khái cũng như người,
nhưng lòng tham sân cũng còn trọng, nên phải thác sanh về loại ấy. Hễ có phước
lớn thì sanh về cõi Trời. Phước nhỏ sanh về cõi người, bực hạ thì sanh về súc sanh.
Tăng Nhược Nột giải: Tháp miễu nói đủ thì là: Tháp bà, là phần mộ hay
là mả tròn – Miễu là chi đề,
chỗ thờ cốt Phật.
Lý Văn Hội giải: Tùy thuyết là lòng không phân biệt, các lý thuyết, tùy
chỗ khác nhau, gặp phàm thì nói phàm, còn gặp Thánh thì nói Thánh.
Đương tri thử xứ là nói cái tâm ấy – Như Phật tháp miễu là bằng người chỉ tham danh lợi lòng không
thanh tịnh mà nói kinh này, thì trở lại đọa vào luân hồi chớ có ích chi. Như lòng thanh tịnh thì phải
vắng lặng chẳng khởi vọng niệm.
Dùng lòng không sở đắc không tri giải ấy mà nói kinh này khiến cho những thính giả
sanh lòng thanh tịnh, không các vọng
niệm mới gọi là cúng dường, thì tuy huyễn thân tức là Pháp thân. Trong ấy có hiện toàn
thân Xá lợi của Như Lai, cảm phục đến cõi Thiên, Nhơn đều
phải cung kỉnh, nào có khác chi là tháp miễu.
61.-ÂM:
Hà huống hữu nhơn tận năng thọ trì đọc
tụng!
Tu Bồ Đề! Đương tri thị nhơn thành tựu
tối thượng đệ nhứt hy hữu chi pháp. Nhược thị kinh điển sở tại chi xứ, tức vi
hữu Phật, nhược tôn trọng đệ tử.
NGHĨA:
Huống chi, là người thọ trì đọc tụng toàn
cả kinh này!
– Tu Bồ Đề! Phải biết người ấy thành tựu đặng cái pháp tối thượng đệ
nhứt ít có. Bằng như chỗ nào có kinh điển này, tức có Phật, hoặc như bực đệ tử
tôn trọng vậy.
Giải : Lục Tổ giải: Tự tâm
tụng đặng kinh này, tự tâm rõ đặng kinh này, tự tâm thể đặng cái lý không chấp
trước, tuy ở chỗ nào cũng thường tu theo hạnh Phật, thì tự tâm tức là Phật. Cho
nên nói: “Ở các chỗ ấy tức là có Phật”.
Vương Nhựt Hưu giải: Tôn trọng đệ tử :
là đệ tử đặng tôn, đặng trọng, là thuộc về bực đại đệ tử, như Bồ Tát v.v…
Bằng hay thọ trì đọc tụng, thì như có
Phật cùng đại đệ tử ở đó vậy.
Tăng Nhược Nột giải: Kinh là Pháp Bảo.
Tức vi hữu Phật :
là Phật Bảo.
Nhược tôn trọng đệ tử :
là Tăng Bảo.
Kinh điển sở tại chi xứ :
là Tam Bảo ở chung lại.
Đệ tử : là sự học thì sau
thầy, nên nói đệ; sự hiểu bởi thầy mà sanh ra, nên nói tử.
Lại nói: Dùng theo lễ phụ huynh mà thờ
thầy, nên nói đệ tử.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Ba la mật lục độ, Công đức lớn hằng hà.
Kệ bốn câu thường tụng, Báu vô số khó quá
Pháp môn đều rõ thấu, Cảm phục đến Tu la,
Kinh sám hằng tôn tặng, Thinh danh tợ Phật Đà.
Lý Văn Hội giải: Thành tựu là thấy tánh không nghi – Tối thượng đệ
nhứt v.v… là Phật với chúng sanh
vốn không sai khác.
Bằng lòng thường thanh tịnh, chẳng sanh
chẳng diệt, không các vọng niệm, thì bấy giờ chắc đặng thành Phật.
Cao Thiền sư giải: Thân, khẩu, ý thanh tịnh, ấy là Phật
xuất thế; thân, khẩu, ý không tịnh, ấy là Phật diệt độ.
Sở tại chi xứ v.v… là
như cả thảy trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi, lòng không khởi diệt, rỗng rang thanh tịnh, thường
giữ theo hạnh Phật, niệm niệm tinh tấn, không có xao lãng, thì chỗ ấy tự
tâm là Phật. Ấy là con nhà Phật, cho nên mới đáng tôn trọng.
Lại nói:
Tức tâm là Phật, Phật đây nè!
Tìm mách nơi ngoài thiệt quá mê.
Nhứt niệm rỗng rang về bổn địa,
Dễ như rửa cẳng bước lên ghe.
Lại nói: Tâm
tức là Phật vốn không Phật khác, Phật tức là tâm vốn không tâm khác; ví như bàn
tay nắm, như nước thành sóng; sóng tức là nước, nắm cũng bàn tay.
Ông Vô Nghiệp Thiền sư hỏi ông Mã Tổ:
“Thế nào tức tâm là Phật?”.
Đáp: “Tại ngươi không rõ cái tâm ấy,
ngoài ra thì không có vật chi, mê tức chúng sanh, ngộ tức Phật, ví như bàn tay
nắm, nắm cũng bàn tay”. Dứt lời Sư liền ngộ.
Ông Tăng hỏi Ông Mã Tổ:
– Thế nào là Phật?
Đáp: – Tức tâm là Phật.
Ông Bách Trượng hỏi Ông Trường Khánh:
– Thế nào là Phật?
Đáp: – Cỡi trâu tìm trâu.
Ông Tăng hỏi Ông Thủ Sơn Hòa Thượng:
– Thế nào là Phật?
Đáp: – Nàng dâu cỡi lừa,
mẹ chồng giắt trống.
Ông Sơn Khuê Thiền sư có lời tụng :
Nhỏ gọi nàng dâu lớn mụ gia,
Cũng đồng địa rị cách không xa.
Đáng cười cỡi ngựa còn tìm ngựa.
Yên ngựa xương lừa xét chẳng ra. ([114])
Ông Tăng hỏi ông Từ Thọ:
– Thế nào là Phật?
Đáp : – Gánh nước bán ở bờ sông.
Ông Tăng hỏi ông Thái Dương:
– Thế nào là Phật?
Đáp : – Thế nào là chẳng phải Phật?
Ông Tăng hỏi ông Qui Tông:
– Thế nào là Phật?
– Ta nói với ngươi, ngươi tin chăng?.
– “Hòa Thượng nói thiệt đâu dám chẳng tin”.
– “Là ngươi đó đa!”.
Xuyên Thiền sư giải: Hiệp lại cũng như
vậy.
Tụng:
Tợ biển thẩm sâu, như non kiên cố.
Lật lại trở qua, chẳng đi chẳng trụ.
Sư tử lông vàng nhảy khỏi hang,
Hét gầm lũ cáo cả kinh hoàng,
Dùng mưu trù hoạch không dùng võ,
Ngoại đạo tà ma thảy phục hàng.
CHƯƠNG MƯỜI BA
62.-ÂM:
Nhĩ thời Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn:
“Thế Tôn! Đương hà danh thử kinh? Ngã đẳng vân hà phụng trì?”.
Phật cáo Tu Bồ Đề: “Thị kinh danh vi Kim Cang Bát Nhã Ba la mật dĩ
thị danh tự, nhữ đương phụng trì ?”.
NGHĨA:
Khi ấy Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức
Thế Tôn! Kinh này nên đặt tên chi? Chúng con phải phụng trì thế nào?”.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Kinh này đặt tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.
Ông nên dùng nghĩa của danh tự ấy mà phụng trì?”.
Vương Nhựt Hưu giải: Bát Nhã Ba la mật:
Trí huệ đáo bỉ ngạn. – Kim Cang trí
huệ đáo bỉ ngạn là nói: rõ đặng kinh này thì trí huệ cũng như loài
kim bén chắc, đoạn dứt ngoại vọng, mà thẳng đến bờ kia, là chỗ của chư Phật và
Bồ Tát. Dĩ thị danh tự.v… là vưng theo nghĩa ấy mà tu trì.
Trần Hùng giải: Ông Liễu Tông Nguyên có
nói: Chỉ dạy rõ rệt hơn hết, có chi cho bằng kinh. Kinh này khi chưa đặt tên.
Ông Tu Bồ Đề xin Phật đặt tên. Phật đặt là “Kim Cang Bát Nhã Ba La
Mật”, lại dạy phải phụng thừa vưng giữ theo danh tự ấy, nhứt tâm truyền bá
cho thiên hạ đời sau.
Lý Văn Hội giải: Kim Cang là vật
bén chắc, nên mới mượn loại kim mà ví dụ – Bát Nhã là: trí huệ, là Phật
dạy chúng sanh hãy dùng sức trí huệ đặng soi thấu các pháp, thì có pháp
chi vật chi mà chẳng phải là không, ví như thép bén hễ chạm đến vật chi thì
cũng đều phải đứt phải nát, vậy cho nên nói: “Bát Nhã Ba la mật là đến bờ bên kia”. Nếu lòng thanh tịnh,
cả thảy vọng niệm chẳng sanh thì mới độ thoát cái biển khổ sanh tử đặng.
Nhữ đương phụng trì là lòng phải phụng trì trong lúc đi, đứng, nằm,
ngồi, chớ có phân biệt ngã nhơn phải quấy.
Viên Ngộ Thiền sư giải: “Vừa manh
động ra việc phải quấy, thì rối loạn bổn tâm”, chỉ có một câu ấy làm cho
kinh động bấy nhiêu người, phải so sánh suy nghĩ. Bằng đởm đương đặng, dứt bỏ
đặng, thì sẽ thấu một bên chỗ Phật. Bằng như theo lời nói ấy, mà chuyển trở cái
chỗ rối loạn, thì phải hồi quang, phản chiếu mới đặng.
Thiên Đàn Thạch Cổ Ký có nói: “Thất
độ mảy may gây phải cái nhân hắc ám; tà ngôn giây phút, phạm vào sự quấy cấm
không. Phật trời nghe thấy, gang tấc chẳng xa, căn dặn người ai, xét suy cho
kỹ”.
Lư Sơn Qui Tông Thường Thiền sư có nói:
Có ông Tọa chủ đến ra mắt, lại nhằm lúc ông đương dẫy cỏ, kế gặp một con rắn,
ông bèn chặt đứt.
Tọa chủ nói: “Bấy lâu hâm mộ nhà Sư,
nay mới biết nguyên là một Sa môn hạnh xấu”. Ông nói: “Ấy,
ngươi xấu hay ta xấu?”.
Các ngươi hãy nói thử coi, ông Tăng ấy
quấy lại chỗ nào?
Ông Phần Dương Chiêu Thiền sư có làm lời
tụng:
Lư nhạc Tông sư bực thượng ky (cơ),
Gặp duyên chặt rắn dấy từ bi.
Ngu si Tọa chủ sanh mê chấp.
“Hạnh xấu” gây nên việc thị
phi.
Ông Tử Tâm Hòa Thượng có nói: “Việc
ấy, nếu cho là phải, thì như bị gai đâm trong con mắt; bằng cho là không phải,
thì như mở mắt mà ngủ gục”. Các người nói thử coi, rốt lại, sao mới là
phải? Có hiểu rõ chăng?”.
Dễ bề luyện sắt ra vàng bạc,
Khó nỗi khuyên người dứt thị phi.
Xuyên Thiền sư giải: Hôm nay cũng việc
tình cờ, đi ra một chút ai ngờ gặp to.
Tụng:
Nước chẳng nhận chìm, Lửa
không cháy thét
Gió chẳng hề xiêu; Dao
không thể chặt.
Mềm lụn hơn tơ; Cứng
khư quá sắt.
Dưới đất trên trời; Xưa
nay chả biết…
Hả! hả!!
63.- ÂM:
Sở dĩ giả hà? – Tu Bồ Đề! Phật thuyết Bát
Nhã Ba la mật, tức phi Bát Nhã Ba la mật, thị danh Bát Nhã Ba la mật.
NGHĨA:
Sở dĩ sao? – Này Tu Bồ Đề! Phật nói Bát
Nhã Ba la mật, nhưng chẳng phải Bát Nhã Ba la mật chỉ cưỡng danh là Bát Nhã Ba
la mật.
Giải : Vương Nhựt Hưu giải:
Sự nói dùng trí huệ đến bờ kia, thì trong chơn tánh không chi mà có, nên nói
chẳng phải trí huệ đến bờ kia, chỉ cưỡng danh là trí huệ đến bờ kia đặng dùng
mà hóa độ chúng sanh vậy thôi.
Trần Hùng giải: Ông Liễu Tông Nguyên có
nói: “Pháp, thiệt rất đúng, thì có pháp chi mà hơn pháp Bát Nhã!”.
Kinh Lăng Già có nói: “Dùng trí huệ mà quan sát, chẳng đọa vào hai bên,
đặng đến địa vị bực Thánh tự giác, ấy là pháp Bát Nhã Ba la mật”.
Kinh Tam Muội có nói: “Lòng chẳng
chấp có tâm, chẳng chấp hư không, chẳng nương các pháp, chẳng trụ trí huệ, ấy
là Bát Nhã Ba la mật “. Vậy thì pháp Bát Nhã Ba la mật là một pháp rất đúng! Nguyên của chính miệng
Phật nói ra; nên nói “Phật nói”, rồi sau lấy tâm mà truyền tâm, thì
chứng đặng pháp Bát Nhã Tam muội ấy; pháp ấy thoát khỏi ra ngoài sự ngôn ý, mà
cũng không có chi là “sở đắc”. Vậy chẳng phải là Bát Nhã Ba
la mật chớ đặt là tên gì?
Đã chẳng phải như vậy mà đặt tên như vậy,
vậy mới là đúng với cái tên; vậy thì cái câu: “Ngươi nên phụng
trì” đó cũng bởi nơi danh tự ấy.
Nhan Bính giải: Ấy là ông Tu Bồ Đề xin Phật đặt tên kinh, rồi lại hỏi: “Thế
nào mà phụng trì?”.
Đáp : “Kinh này đặt tên
là Bát Nhã Ba la mật”.
Vả lại cái bổn tánh diệu minh rỗng
rang như cõi Thái hư thể đã là không thì có tên chi mà đặt?
Như Lai e người sanh lòng đoạn diệt, bất đắc dĩ phải cưỡng mà đặt
vậy thôi. Cho nên ông Phó Đại Sĩ có tụng:
“E người sanh đoạn diệt,
Quyền phải lập hư danh”.
Lý Văn Hội giải: Phật thuyết Bát Nhã
Ba la mật: là sự chắc của thiệt tướng Bát Nhã, sự bén của cái quang chiếu Bát Nhã; dứt đặng nguồn cội phiền não mà thấu đến nẻo Niết bàn.
Tức phi Bát Nhã Ba la mật là đã biết pháp thể vẫn không vốn không vọng niệm; bằng không chi quái ngại, hà
tất phải trì giới nhẫn nhục? Rỗng rang thanh tịnh, tự tại tiêu diêu, mới
là Bát Nhã Ba la mật.
Xuyên Thiền sư giải: Cũng còn sự so sánh.
Tụng:
Một tay đè, một tay xách;
Thổi tiêu quảng nhịp trường canh,
Đờn không dây khảy khúc vô sanh,
Chẳ>ng cần xang, xề, ca ngâm mới.
Âm điệu thông rồi hiểu giả danh.
64.-ÂM:
“Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu
sở thuyết pháp phủ?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Như Lai vô sở thuyết”.
NGHĨA:
“Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Như
Lai có chỗ chi thuyết pháp chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Như Lai không có chỗ chi
thuyết pháp cả”.
Giải : Nhan Bính giải: Phật hỏi: “Có chỗ chi thuyết pháp
chăng?”. Ông Tu Bồ Đề đáp: “Như Lai không có chỗ chi thuyết, là bởi
tỏ ngộ rồi, thì không có chỗ lại nói đặng; bằng nói có chỗ thuyết, tức là chê
Phật”.
Cho nên khi Phật sắp nhập Niết bàn,
ông Văn Thù xin Phật “Chuyển pháp luân” lại. Phật bảo rằng:
“Ta ở thế 49 năm, chưa hề nói lấy một chữ gì, mà nay ngươi xin ta “Chuyển
pháp luân” lại! Vậy thì Ta có Chuyển pháp luân hay sao?”.
Lại Phật có kệ rằng:
Từ sau khi Giác ngộ,
Sông Bạt đề vào ngụ;
Hai chỗ chỉ trên đây,
Chưa hề nói một chữ.
Lý Văn Hội giải: Bổn tâm vốn tịnh, các
pháp vốn không, lại có pháp chi mà thuyết – Hai bực thừa còn chấp nhơn, pháp
là có, nên mới có chỗ thuyết. Còn Bồ
Tát tỏ ngộ nhơn, pháp đều không,
nên không có chỗ thuyết.
Cho nên trong Kinh mới nói: “Bằng có
người nói Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là chê Phật”.
Từ Thọ Thiền sư giải:
Tụng:
Tự tánh dường thu nguyệt
Vực sâu màu nước biếc;
Vật chi dám sánh tày;
Mà biểu làm sao thuyết.
Ông Hàng Sơn nói chẳng đặng thì nín. Các
người có nói đặng chăng? Làm sao cho cái miệng như tấm tảng đá, mới tỏ rõ thấu
đáo đặng.
Bằng hay, tỏ ngộ tướng, tánh vốn không,
có không đều bỏ, nói, nín thảy quên; vậy mới thấy đặng tự tánh thanh tịnh cho.
Tuy trọn ngày nói cũng không có nói, tuy trọn ngày thuyết cũng là không thuyết.
Bảo Ninh Dõng Thiền sư giải:
Tụng:
Con cái trong thân cả lũ đoàn,
Đứa xưng tái bá đứa xưng vương.
Thế mà có đứa không hay nói,
Đại Phật từ bi chẳng dám đương.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Trong danh không có Trong nghĩa cũng không nghĩa, danh.
Đao trí huệ rèn đúc, Ải tham vọng phá banh.
Kíp qua nơi bỉ ngạn, Mới khơi chốn mê tình.
Người trí tu chơn tánh, Đứa ngu chuộng sắc, thinh.
Xuyên Thiền sư giải: Nói nho nhỏ, nói nho nhỏ!
Tụng:
Vào cỏ tìm người chẳng quản bao,
Dùng dao gọt vết mó tay vào.
Tới lui vi bẳng không tông tích,
Văn thể ràng ràng chẳng thấy sao?
65.-ÂM:
“Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Tam thiên đại
thiên thế giới sở hữu vi trần thị vi đa phủ?”. Tu Bồ Đề ngôn: “Thậm đa, Thế
Tôn !”. Tu Bồ Đề! Chư vi trần,
Như Lai thuyết phi vi trần, thị danh, vi trần; Như Lai thuyết thế giới, phi thế
giới, thị danh thế giới.
NGHĨA:
“Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? – Trong
tam thiên đại thiên thế giới có những vi trần, vậy là nhiều chăng?”.
Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn ! Rất nhiều”.
– Tu Bồ Đề! Những vi trần, Như Lai nói chẳng phải vi trần chỉ cưỡng danh
là vi trần – Như Lai nói thế giới, cũng chẳng phải thế giới, chỉ cưỡng danh là
thế giới.
Giải : Trần Hùng giải: Kinh
Hoa Nghiêm có nói: Trong ba ngàn đại thiên thế giới là bởi tại vô lượng nhân
duyên mà tạo ra cả thảy chúng sanh,
chớ không phải thế giới nào khác hơn nữa. Ngộ cũng chỗ ấy, mà mê cũng chỗ ấy.
Lòng ngộ là lòng thanh tịnh có lòng ấy mà ở thế giới ấy là thế giới thanh tịnh;
lòng mê là lòng vi trần; có lòng ấy ở thế giới ấy, tức là thế giới vi trần.
Ấy vậy: Biết bao nhiêu là vi trần, thì
biết bao nhiêu là thế giới. Cho nên ông Tu Bồ Đề đáp: “Rất nhiều”,
thiệt là đáng lắm.
Lại nói: Chư vi trần là cái lòng vi trần của cả thảy chúng sanh.
Phật Hóa thân ở nơi vi trần thế giới, ứng
hiện ra biết bao nhiêu là đại thần lực, khai mở cái pháp Thanh tịnh Vô cấu:
1. Khiến cho cả thảy chúng sanh, đều sanh
lòng thanh tịnh, không thể cho vi trần nó ô nhiễm, nên nói: Chẳng phải vi trần.
2. Đặng cái pháp xuất thế gian, không để cho thế gian nó vi
phạm, nên nói: Chẳng phải thế giới.
Thế Tôn đáp với ông Văn Thù: “Nói
thế lìa thế, nói trần lìa trần”; ấy là cái pháp ráo rốt. Còn nói:
“Chẳng phải vi trần, chẳng phải thế giới”, tức là cái lý lìa trần lìa
thế vậy.
Nhan Bính giải: Thế giới, vi trần, cả hai
đều chẳng phải chơn thiệt.
Trong kinh có nói: “Cả thảy núi non có
khi sụp lở, cả thảy sông rạch có khi khô cạn, duy Pháp thân thường còn,
chẳng hoại”.
Lý Văn Hội giải: Vi trần là chúng sanh, vọng niệm nên phiền não, khách trần nó che lấp cái tánh thanh tịnh, ví cũng như
bụi trần ô nhiễm vậy.
Vọng tưởng phiền não như thế, cũng như người nhặm con mắt thấy hoa
trên không, kẻ si mê mò trăng dưới nước, bắt bóng trong gương; đã uổng công lại
thêm vô ích.
Phó Đại Sĩ
Tụng:
Vi trần thành thế giới, Thế giới hóa vi trần.
Giới ấy nhơn thiên quả, Trần là trược lậu nhân.
Nhân vi trần chẳng thiệt, Quả thế giới không chơn.
Nhân quả cho rằng huyễn, Mới thanh tịnh pháp thân.
Tụng tiếp:
Vọng tưởng dây thành rắn, Chấp mê bởi tại lòng.
Nhát, kinh ma xó tối, Nhặm, thấy sắc trên không.
Một việc tuy không khác, Ba người nói chẳng đồng.
Biết rằng đều mộng huyễn, Xe lớn mặt thong dong.
Triều Thái Phó giải: Niệm sanh, niệm dứt
đều bởi tại lòng. Niệm sanh thì cả thảy phiền não đều sanh, niệm dứt thì cả thảy phiền não đều dứt; đã tự lòng thì phải làm thế nào đặng
cho không niệm.
Cổ Đức có nói:
Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện,
Sáu căn vừa động đám mây che.
Sát Thiền sư giải:
Chơn tịnh vừa sanh may mảy niệm,
Diêm phù đã chốc tám ngàn năm.
Tiêu Diêu Ông giải:
Tụng:
Chẳng sợ niệm sanh, Chỉ e
ngộ trễ.
Ngộ mau dứt mau, Nhị diệu hạp lẽ.
Lỗi cải quấy chừa, Nhan, Cừ ([115])
kỉnh lễ.
Viên Ngộ Thiền sư lên Pháp đường nói :
Mười phương tụ hội về,
Kẻ kẻ học vô vi.
Ấy thiệt trường thi Phật,
Tâm không mới trúng đề.
Đại trượng phu phải có chí khí oanh liệt
khẳng khái, anh linh, đạp phá Hóa thành, về nhà ngồi an ổn. Ngoài chẳng
thấy có cả thảy cảnh giới, trong chẳng thấy có tự mình, trên chẳng thấy có chư
Thánh, dưới chẳng thấy có phàm phu; sạch sạch bóng, đỏ đỏ thắm, một niệm chẳng
sanh như thùng không đáy. Như vậy không phải là “tâm không” sao?
Đến chỗ ấy lại còn rầy đánh nữa sao? –
Lại còn huyền diệu lý tánh nữa
sao? – Lại còn kia đây phải quấy nữa sao? – Bấy giờ ví như một điểm tuyết rớt
trong lò lửa, như thế không phải là trường thi Phật hay sao?
Tuy vậy mà cũng phải nương lấy thềm
thang, ví bằng đừng nói cái câu “nương thềm thang” rồi nói làm sao
chớ?
Ấy là:
Trong hội quần tiên không ảnh tích,
Giữa trường đa sĩ chiếm khôi khoa.
Tiêu Diêu Ông giải: Tan canh thức dậy duyên
niệm chưa sanh, tinh thần tĩnh mỉnh, bên tai chỉ nghe tỏ rõ, như có ba thứ
diệu âm: một là tiếng rửa ngọc dưới suối trong, hai là tiếng khánh ngân khua
động trên không; ba là tiếng ve kêu véo vắt; lặng lẽ lóng nghe giúp mùi thiền
duyệt, ở yên diệu cảnh chả có chi hơn. Hiểu rõ đặng cùng chăng?
Người đau xem giống hình cò ốm,
Tai bịnh nghe in tiếng dế kêu.
Phi vi trần thị danh vi trần:
là một niệm tỏ rồi nên diệu dụng niệm trước không các vọng tưởng, rỗng
rang thanh tịnh, là chẳng phải vi trần, niệm sau không thanh tịnh ấy là vi
trần.
Phi thế giới thị danh thế giới : làbằng không vọng niệm tức thế giới Phật, còn có vọng niệm tức
thế giới chúng sanh. Niệm trước thanh tịnh tức chẳng phải thế giới, niệm sau
không thanh tịnh tức là thế giới.
Tạ Linh Vận giải: Tan ra làm vi trần, hiệp lại thành thế
giới, không tánh là chẳng chẳng phải vi trần thế giới, giả danh là vi trần thế
giới.
Xuyên Thiền sư giải: Phương Nam: Thiệm Bộ Châu, phương Bắc:
Uất Đơn việt.
Tụng:
Trên trời che, Dưới đất chở,
Đói thì ăn, buồn thì ngủ,
Đông độ Tây thiên, Tây thiên Đông độ,
Tháng giêng, mồng một tức đầu năm,
Đồng cả thế gian đâu cũng có.
66.-ÂM:
Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? – Khả dĩ tam thập
nhị tướng kiến Như Lai phủ? – Phất
dã, Thế Tôn ! Bất khả dĩ tam thập nhị tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? – Như Lai thuyết tam thập nhị
tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng?”.
NGHĨA:
Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? – Nên dùng ba
mươi hai tướng mà cho là Như Lai chăng? – Bạch đức Thế Tôn! Không – Chẳng nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là
Như Lai.
Bởi cớ sao? – Bởi Như Lai nói ba mươi hai tướng, nhưng chẳng phải tướng,
chỉ cưỡng danh là ba mươi hai tướng ?”.
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Vi trần trong tam thiên thế giới thiệt
cũng là nhiều; nhưng gặp mưa thì thành bùn, mà bị lửa lại thành ra ngói gạch,
hẳn không có định thể, không chi là chơn thiệt vi trần cả; cho nên nói: Chẳng
phải vi trần, chỉ cưỡng danh vậy thôi.
Ấy là nói về vật thiệt nhỏ mà thiệt
nhiều, còn như vật thiệt lớn như là thế giới, mà thế giới cũng chẳng phải là
chơn thiệt; đến khi kiếp số hết rồi thì phải hư hoại. Ấy là hư vọng chẳng phải
chơn thiệt chỉ cưỡng danh là thế giới.
Phật tuy hiện sắc thân ra ba mươi hai
tướng, chớ đến khi nhập Niết bàn thì cũng đều không cả. Chẳng nên dùng tướng ấy
mà cho là chơn tánh Phật, cho nên nói: Chẳng nên dùng ba mươi hai tướng mà cho
là chơn tánh Như Lai – Chữ Như Lai này tức là chơn tánh Phật, còn bài sau nói:
“Như Lai nói ba mươi hai tướng”, chữ “Như Lai” đó tức là sắc
thân Phật.
Phật nói : “Ta nói ba mươi hai tướng
là chẳng phải tướng” (chẳng phải tướng chơn thiệt), chỉ cưỡng danh vậy
thôi.
Đại ý trong phần này nói: Nhỏ như vi
trần, lớn như thế giới, tốt như sắc thân Phật, thảy đều hư vọng giả
hiệp, chỉ có cái hư danh mà thôi, rốt rồi cũng phải biến hoại, duy có cái chơn
tánh mới là chơn thiệt; nên từ xưa đến nay chẳng hề biến hoại.
Trần Hùng giải: Ba mươi hai tướng tốt đẹp
khác thường, hình thể sáng chói như ngọc lưu ly. Tướng ấy chẳng phải là tại dục
ái mà sanh, cũng như Kinh Lăng Nghiêm nói vậy. Nếu nói không phải tại dục ái mà
sanh thì hẳn bởi tại tiền thân có tu ba mươi hai hạnh mà có.
Người đời luống chấp ba mươi hai tướng mà
chẳng tu ba mươi hai hạnh, thì làm sao mà thấy đặng Pháp thân Như Lai?
Lại nói: Như Lai bởi có hạnh ấy nên mới
có tướng ấy.
Nói tướng là đại ý nói bởi ba mươi hai
hạnh, còn nói chẳng phải tướng là nói Pháp thân.
Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Pháp
thân của chư Phật không thể nghĩ bàn
đặng, không hình sắc cũng không ảnh tượng”.
Vậy nên nói ba mươi hai tướng của Như
Lai, là bởi cớ ấy, chớ không chi khác.
Kinh Bát Nhã có nói về ba mươi hai tướng
của Như Lai:
1.
Dưới bàn chân đầy đủ,
2.
Dưới chân có cả ngàn chỉ khu ốc,
3.
Tay chân mềm dịu,
4.
Ngón chân như chân nhạn,
5.
Ngón tay ngón chân đều no tròn,
6.
Gót xứng với bàn chân,
7.
Bàn chân xứng với gót,
8.
Hai chân tròn vót như chân nai,
9.
Tay dài thòng tới đầu gối,
10.
Âm tướng qui tàng,
11.
Chân lông ửng màu xanh tía,
12.
Lông đều xoay qua phía hữu,
13.
Da trơn mịn không dính dơ,
14.
Màu da sắc vàng,
15.
Tay chân vai cổ, bảy chỗ đầy đủ,
16.
Cổ tròn lạ thường,
17.
Hai cái nách no đủ,
18.
Dung nghi đoan chánh,
19.
Thân tướng trang nghiêm,
20.
Hình thể xứng nhau,
21.
Oai dung như sư tử,
22.
Chói hào quang mỗi phía một tầm,
23.
Hàm răng bốn mươi cái khít và bằng,
24.
Bốn răng cấm trắng và bén,
25.
Trong miệng có mùi thơm,
26.
Lưỡi dài che đặng cả cái mặt,
27.
Tiếng Phạm dịu dàng đủ giọng,
28.
Lông nheo như Ngưu vương,
29.
Con mắt có quầng đỏ,
30.
Mặt như trăng tròn,
31.
Chỗ gian mi có lông trắng,
32.
Trên đầu lồi thịt lên như đầu tóc.
Nhan Bính giải: Cứ theo tướng tốt đẹp của
Như Lai là cái bổn tánh rỗng rang vắng lặng không có tướng chi cả, chớ chẳng
phải dùng ba mươi hai tướng mà cho bổn tánh đặng.
Khi Phật ở trên cõi Trời Đao Lợi, ông Mục
Liên biểu thợ chạm ba mươi hai tướng của Phật; thợ chạm đặng có ba mươi một
tướng, duy còn tướng Phạm âm chạm không đặng.
Ông Viện chủ hỏi ông Nam Tuyền: “Thế
nào là tướng Phạm âm?”.
Đáp: “Sái thì hai người”.
Lý Văn Hội giải: Tam thập nhị tướng là nhãn,
nhĩ, tỹ, thiệt, thân, trong năm
căn ấy đều đủ sáu hạnh Ba la mật;
là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Còn cái căn ý sẵn đủ pháp Vô
trụ, Vô vi, đủ hạnh thanh tịnh mới gọi là ba mươi hai tướng.
Như Lai thuyết tam thập nhị tướng v.v…
là nói Pháp thân có danh không
tướng, nên nói chẳng phải tướng, mà đã tỏ đặng chẳng phải tướng thì rõ đặng
chơn tánh Như Lai.
Tiêu Diêu Ông giải: Phải biết Pháp
thân của chư Phật, bổn tánh không có
thân chi, lấy tướng hảo trang nghiêm mà làm thân. Cho nên ông Lâm Tế có nói: “Chơn Phật không hình, chơn đạo
không thể, chơn pháp không tướng” là vậy.
Xuyên Thiền sư giải: Mượn áo của bà mừng
tuổi bà.
Tụng:
Ngươi có thì ta có,
Ngươi không ta cũng không.
Có, không đều chẳng chấp,
Đối diện miệng mồm đồng.
67.-ÂM:
“Tu Bồ Đề? Nhược hữu Thiện nam tử;
Thiện nữ nhơn, dĩ Hằng hà sa đẳng thân mạng ([116])
bố thí.
NGHĨA:
“Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành, gái
tín nào đem thân mạng bằng như số cát sông Hằng mà bố thí.
Giải : Lý Văn Hội giải: Như
có người đem cả thân mạng mà bố thí đặng cầu đạo Vô thượng Bồ đề, là trụ
tướng bố thí.
Kinh Thiền Yếu có nói: “Nếu mà cầu
tướng bề ngoài, dầu lịch kiếp cũng không chi đặng”.
Lại kinh Giáo Trung có nói: “Nếu
tưởng cho có thân mà bỏ đặng, thì chẳng tỏ cái nghĩa Uẩn không“.
Thuở xưa có vua nước Kế Tân mang gươm đến
chỗ ông Sư Tử Tôn giả ([117])
mà hỏi rằng:
– Sư tỏ đặng cái lý Uẩn không chăng?.
– Đã đặng rồi.
– Hãy cho ta cái đầu.
– Thân còn chẳng có, huống chi là đầu.
Dứt lời vua bèn chém đầu Tôn giả, thì
thấy máu trắng như sữa, phun vọt lên cao hơn một trượng, rồi thình lình cái tay
của vua tự nhiên rụng xuống.
Bởi biết đặng nhơn, pháp đều không, nên bố thí chẳng trụ tướng. Sở dĩ ông Tôn giả
không sợ chết là thế ấy.
Ông Phó Đại Sĩ có lời tụng:
“Pháp tánh không sau trước,
Dung quang chẳng cựu tân.
Uẩn không là giả hiệp,
Chỉ có ngã cùng nhân “.
Cho nên đem cả thân mạng mà bố thí
thì trở lại không hạp với đạo Bồ đề. Nếu chẳng rõ đặng Phật tánh, dầu
cho đem cả thân mạng như số cát sông Hằng, mà bố thí, nào có ích chi!
Tụng tiếp:
Dùng thân mạng bố thí, Nghiệp phước lợi càng xa.
Ngăn ngại lòng A nậu, Lu mờ tánh Mật đa,
Vượn khờ mò bóng nguyệt, Mắt chóa lượm vàng hoa.
Biển ái thường chìm nổi, Sông mê luống lại qua.
68.-ÂM:
Nhược phục hữu nhơn ư thử kinh trung, nãi
chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn thuyết, kỳ phước thậm đa”.
NGHĨA:
Nếu lại có người giữ theo trong kinh này
mà thọ trì cho đến những tứ cú kệ và diễn thuyết lại cho người khác, thì đặng
phước rất nhiều”.
Giải : Nhan Bính giải: Đẳng thân mạng bố thí, đẳng là sánh, là tuy ham làm phước chớ rốt lại cũng
chẳng rõ bổn tánh. Ví như sanh nhằm nhà giàu sang kiêu căng phóng túng thì
không dễ gì là chẳng tạo nghiệp, hẳn phải bị lấy nghiệp báo; đâu bằng thọ trì Tứ
cú kệ rồi vì người mà giảng giải; tự lợi lợi tha, đặng phước rất nhiều.
Phó Đại sĩ giải:
Tụng:
Tứ cú trong kinh nói, Nên trì niệm tại thân.
Người ngu coi tợ huyễn, Kẻ trí nhận rằng chân,
Pháp tánh không sau trước, Dung quang chẳng “cựu tân”.
Uẩn không là giả hiệp, Chỉ có ngã cùng nhân,
Xuyên Thiền sư giải: Hai sắc chung một
bàn.
Tụng:
Rành nghề chùy ít hay rành kiếm,
Người thiện nghệ đều gồm lão luyện,
Khỏi dụng an bài sẵn tự tâm,
Xử thân phải đủ tài quyền biến.
La la lý! Lý la la!…
Trên non hoa trổ, Dưới nội chim ca.
Lúc này mà đắc ý, Tùy chỗ tát bà ha.
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
69.-ÂM:
Nhĩ thời Tu Bồ Đề văn thuyết thị kinh,
thâm giải nghĩa thu, thế lụy bi khấp, nhi bạch Phật ngôn:
“Hy hữu Thế Tôn! Phật thuyết như thị thậm thâm kinh điển; ngã tùng
tích lai sở đắc huệ nhãn, vị tằng đắc văn như thị chi kinh”.
NGHĨA:
Khi ấy, Tu Bồ Đề nghe nói kinh này, tỏ
đặng cái nghĩa sâu xa, nên sa nước mắt, than khóc mà bạch Phật rằng: “Như đức Thế Tôn ít có! – Phật nói
kinh điển rất sâu xa dường ấy, tôi từ khi đặng huệ nhãn đến nay, chưa từng nghe
đặng kinh như vậy”.
Giải : Trần Hùng giải: Thâm
giải nghĩa thú là ông Tu Bồ Đề đã tỏ
cái lý không tướng của chơn không.
Thế lụy bi khấp :
là thương phận mình gặp Phật rất muộn nên không tỏ ngộ sớm.
Nhan Bính giải: Thâm giải là rất sáng suốt, tỏ ngộ.
Lý Văn Hội giải: Ông Tu Bồ Đề nghe thuyết
kinh này tỏ ngộ nhơn pháp đều
không thấu đặng cái lý trung đạo, nên than thở là ít có rồi cảm động mà
sa khóc.
Vị tằng đắc văn :
làkhi trước đặng huệ nhãn, biết cái có là không, ngày nay nghe kinh này:
cái không lại cũng bỏ.
Ấy là tỏ lý Trung đạo, nên muốn
đem giáo pháp mà truyền lại đời sau.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Nghe rõ lý kinh giải, Nửa vui nửa lại rầu,
Khách trần đừng có Năng sở cũng không cầu. nhiễm,
Tỏ tánh mê cho chóng, Chứng thành Phật chẳng lâu.
Bởi nhờ trí tự tại, Phương tiện dạy người tu.
Xuyên Thiền sư giải: Đáng cười cho; nói
dấu trước mặt.
Tụng:
Từ nhỏ từng quen thú bốn phương,
Non Đoài mấy độ với sông Tương.
Một mai gặp đặng đàng hương lý,
Biết đã nhiều năm lạc dặm trường.
70.-ÂM:
Thế Tôn! Nhược phục hữu nhơn đắc văn thị
kinh, tín tâm thanh tịnh, tức sanh thiệt tướng; đương tri thị nhơn thành tựu đệ
nhứt hy hữu công đức.
NGHĨA:
Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người đặng
nghe kinh này, mà lòng tin thanh tịnh, bèn sanh thiệt tướng, phải biết người ấy
thành tựu cái công đức thứ nhứt ít có.
Giải : Lý Văn Hội giải : Tín
tâm thanh tịnh là tin đặng cái bổn
lai không có pháp chi mà đặng; chẳng khởi vọng niệm, lòng thường vắng
lặng, rỗng rang thanh tịnh.
Tức sanh thiệt tướng :
là rỗng rang tỏ ngộ, muôn pháp bởi lòng thanh tịnh mà kiến tạo ra mới là thiệt
tướng.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Vốn chẳng tâm “vô cảnh”, Cảnh “vô tâm” vẫn không.
Cảnh vong tâm phải dứt, Tâm diệt cảnh nào mong.
Thiệt tướng kinh thường Nhiệm
mầu lý khó thông. nói,
Liễu tri duy có Phật, Tiểu Thánh hẳn không trông.
Trần Hùng giải: Trong cái tánh có đủ Pháp
thân của Như Lai, như vậy mới gọi là
sanh thiệt tướng.
Kinh Viên Giác có nói: “Cả thảy thiệt
tướng đều bởi tánh thanh tịnh, tỏ lý mà chứng đặng thiệt tướng; ta vốn biết cái
công đức thành tựu Pháp thân cũng không hơn đặng”. Cho nên nói: “Thứ
nhứt ít có”, thiệt đáng thay!
Trong kinh này, thường thường hễ nói đức
thì có nói phước, đây lại nói riêng công đức mà không nói phước, là đến khi
công thành quả mãn thì phước không đủ luận.
Cho nên trong Đàn kinh có câu: “Công
đức ở trong Pháp thân chẳng phải
ở tại phước”.
Nhan Bính giải: Tức sanh thiệt tướng:
là tỏ đặng tự tánh.
Thành tựu đệ nhứt v.v..
là: mê tức Phật là chúng sanh, ngộ tức chúng sanh là Phật. Đạo của chư Phật
đồng với nhau, không có pháp chi bằng bực đặng.
71.-ÂM:
Thế Tôn! Thị thiệt tướng giả, tức thị phi
tướng; thị cố, Như Lai thuyết danh thiệt tướng.
NGHĨA:
Bạch đức Thế Tôn! Thiệt tướng ấy, nhưng
chẳng phải tướng; cho nên Như Lai nói: Cưỡng danh là thiệt tướng.
Giải : Nhan Bính giải: Phật
nói: “Thiệt tướng không có tướng”. Còn nói cái thiệt tướng ấy, nhưng
chẳng phải tướng, là trống rỗng như cõi Thái hư, không có chút hình tướng chi. Nếu
tỏ đặng thiệt tướng thì không nên chấp trước lấy nó; như lời tụng của ông Phó Đại Sĩ:
“Bỉ ngạn tránh xa đi” thì thiệt tướng chỉ có cái hư danh, vốn không
có chi mà đặng.
Lý Văn Hội giải: Tức thị phi tướng :
là thiệt tướng không có tướng, nên nói: “Chẳng phải”; nhưng mà chẳng
phải là không có thiệt tướng! Ví như: lông rùa, sừng thỏ, thì nói: Rùa không
lông, thỏ không sừng, chớ không nói: Không có lông rùa, sừng thỏ. Còn thiệt
tướng thì nó thiệt tướng chẳng có tướng, chớ không nói chẳng có thiệt tướng vậy.
Đạt Ma giải: Nếu rõ thiệt tướng thì biết
“chẳng phải tướng”. Nếu rõ “chẳng phải tướng” thì các sắc
tướng cũng vậy. Phải biết ở nơi sắc mà chẳng có sanh sắc, ở nơi tướng mà chẳng
có ngại tướng, ví như chất muối trong nước, sắc thanh trong màu, quyết rằng
thiệt có, nhưng chẳng thấy hình là vậy.
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Chúng sanh với thọ giả,
Ngũ uẩn cưỡng hư danh.
Sừng thỏ không chi thiệt,
Lông rùa chẳng có hình.
Xuyên Thiền sư giải: Sơn hà đại địa chỗ
nào mà có?
Tụng:
Lóng nghe nước phẳng Xa thấy núi xanh xanh. lặng.
Xuân hết hoa còn lại, Người gần chim chẳng kinh.
Đầu đầu bày đã lộ, Vật vật thể đều bình.
Sao lại còn chưa rõ, Điều điều thiện rất minh.
72.-ÂM:
Thế Tôn! Ngã kinh đắc văn như thị kinh
điển, tín giải thọ trì bất túc vi nan.
NGHĨA:
Bạch đức Thế Tôn! Con nay đặng nghe kinh
điển như vậy, tin hiểu mà thọ trì, chẳng đủ là khó.
Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Tín
giải : là tin theo nghĩa ấy mà hiểu rõ. Thọ trì: là vưng theo nghĩa
ấy mà trì tụng.
Trần Hùng giải: Không lòng hồ nghi là tín, hiểu thấu ý
nghĩa là giải, kính vưng khắn khắn là thọ, bội phục luôn luôn là trì.
Lý Văn Hội giải: Tỏ ngộ nhơn pháp đều không, lòng không
chấp bỏ, rỗng rang thanh tịnh, ấy là tín giải thọ trì.
Như Lai dùng pháp từ bi phương tiện đặng hóa độ người mê; mê tức Phật là chúng sanh, ngộ tức
chúng sanh là Phật. Nếu hay tỏ ngộ muôn pháp đều không, nhận chứng bịnh mà đầu
thang; dùng: mê đối ngộ, lành đối dữ, tịnh đối động, huệ đối ngu. Các thứ tu
hành duy có so sánh như thế, việc ác chẳng nên làm, điều lành phải ráng sức.
Cứ do theo đó mà làm, thì thong dong tự
tại nào có khó chi!
Phó Đại Sĩ giải:
Tụng:
Không sanh nghe lý Như cỏ lộn trong vừng nhiệm, (cây).
Kẻ tục xem môn dạy, Tợ sen ở lửa hừng.
E người sanh đoạn diệt, Nên Phật vạch che giăng.
Các tướng đều lìa bỏ, Rõ ràng ứng, hóa thân.
Xuyên Thiền sư giải : Bằng sau không nói,
thì lời trước khó thông.
Tụng:
Khó khó!… Khó tợ lên trời quá khó khăn.
Dễ dễ!! Dễ như thức, ngủ, dễ như ăn.
Đi thuyền yếu tại người Ai
nói phong ba dậy đất coi lái, bằng.
73.-ÂM:
Nhược đương lai thế, hậu ngũ bá (_1_)
tuế, kỳ hữu chúng sanh đắc văn thị kinh, tín giải thọ trì, thị nhơn tức vi đệ
nhứt hy hữu.
Hà dĩ cố? – Thử nhơn vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sanh tướng,
vô thọ giả tướng.
NGHĨA:
Nếu qua đến đời vị lai, sau năm trăm năm
sau, có chúng sanh đặng nghe kinh này, tin hiểu mà thọ trì, thì người ấy thiệt
là đệ nhứt rất ít có.
Bởi cớ sao? – Bởi người ấy, không ngã tướng, không nhơn tướng, không
chúng sanh tướng, không thọ giả tướng.
Giải : Lý Văn Hội giải: Bằng
người lòng thường vắng lặng rỗng rang thanh tịnh, chẳng chấp các tướng; ngộ cái
tâm không có chỗ trụ, tỏ cái pháp không có “sở đắc”, vậy mới
là “thứ nhứt ít có”.
Xuyên Thiền sư giải: Đi đứng nằm ngồi, ăn
cơm mặc áo, lại có việc gì?
Tụng:
Đất thì chắc, Gió thì tan;
Lửa tánh nóng, Nước tánh hàn.
Phật Đà chân đạp đất , Cột phướng ngọn đưa lên.
Muốn tin cho chắc chắn, Bắc đẩu phía Nam xem.
74.-ÂM:
“Sở dĩ giả hà? – Ngã tướng tức thị
phi tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức thị phi tướng.
Hà dĩ cố? – Ly nhứt thiết tướng, tức danh chư Phật”.
NGHĨA:
“Sở dĩ sao? – Ngã tướng, tức chẳng
phải tướng, mà nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng cũng tức là chẳng
phải tướng.
Bởi cớ sao? – Lìa cả thảy tướng, tức là chư Phật”.
Giải : Lý Văn Hội giải: Tức
thị phi tướng: là trước nói “không tướng”, ấy là bỏ tướng đặng rõ
cái nghĩa “không”, rồi lại nói “chẳng phải tướng”, ấy là tỏ
ngộ bốn tướng bổn lai chẳng sanh, cho rõ cái thiệt tướng.
Ly nhứt thế chư tướng v.v…
là tỏ ngộ