Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm

0
39

KINH 
ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM 

Đời Đường, sa môn Bát Lạt Mật Đế
(người Trung-Thiên-trúc) dịch từ Phạn văn ra Hán văn
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn và chú thích

Cư sĩ Hạnh Cơ dịch, giới thiệu, chú thích, đánh máy và trình bày
Cư sĩ Tịnh Kiên đọc và sửa chữa bản thảo
Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam in lần thứ nhất, California,
2012

Hạ tải về máy nhà: Phiên bản PDF:
[Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm 1 PDF]
[Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm 2 PDF]

 
Đệ tử chúng con, Hạnh Cơ và Tịnh Kiên,
chí thành đảnh lễ Chư Tôn Đức Ân Sư:
 
Hòa thượng bổn sư Thích Huyền Tân
Hòa thượng giáo thọ Thích Đôn Hậu
Hòa thượng giáo thọ Thích Chánh Thống
Hòa thượng giáo thọ Thích Trí Thủ
Hòa thượng giáo thọ Thích Trí Hữu
Hòa thượng giáo thọ Thích Trí Thành
Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Hòa
Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Hoa
Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Minh
Hòa thượng giáo thọ Thích Thiện Siêu
Hòa thượng giáo thọ Thích Như Ý (Trà-am)
Hòa thượng giáo thọ Thích Viên Giác
Hòa thượng giáo thọ Thích Huyền Quang
Hòa thượng giáo dưỡng Thích Chí Tín
Hòa thượng giáo thọ Thích Huyền Vi
Hòa thượng giáo thọ Thích Định Tuệ
Hòa thượng giáo thọ Thích Thuyền Ấn
Hòa thượng giáo đạo Thích Đỗng Minh
Ni trưởng bổn sư Thích Nữ Đàm Thu
GIỚI THIỆU
Kinh
Đại Phật Đảnh
Thủ
Lăng Nghiêm
 

Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm là tên gọi tắt của Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu
Nghĩa
Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm (Đại
Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng
Nghiêm Kinh
)
, do sa môn Bát Lạt Mật Đế
(người Trung Thiên-trúc) dịch vào năm 705 (đời Đường) tại chùa Chế-chỉ ở Quảng-châu
(tỉnh Quảng-đông), được thu vào
Tạng Đại Chánh, quyển 19, kinh số 945. Tên kinh này cũng thường được gọi một cách
ngắn gọn là
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (hoặc
gọn hơn nữa là
Kinh Lăng Nghiêm); nhưng
khác với bản
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, do pháp sư Cưu Ma La Thập (344-413) dịch vào đời Diêu-Tần (Tạng Đại
Chánh, quyển 15). Theo Khai Nguyên
Thích Giáo Lục
của pháp sư Trí Thăng (đời
Đường), kinh này đã do sa môn Hoài Địch (?-? – người Trung-quốc) dịch; nhưng
trong
Tạng Đại Chánh (quyển 19) thì
ghi người dịch là sa môn Bát Lạt Mật Đế, mà không có tên sa môn Hoài Địch. Theo
pháp sư Viên Anh (1878-1953) trong tác phẩm
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Kinh Giảng Nghĩa, pháp sư Bát Lạt Mật Đế
là vị “dịch chủ” (người dịch chính
thức
và là vị đứng đầu của đạo tràng phiên dịch), còn sa môn Hoài Địch thì phụ
trách
việc “chứng nghĩa” (thẩm định
sự chính xác của văn dịch).

Ý nghĩa đề kinh:

Đại Phật Đảnh. Chữ “đại” ở đây có nghĩa là rộng lớn
bao trùm, rốt ráo cùng cực. “Phật đảnh” là tướng “nhục kế” trên đỉnh đầu của đức
Phật
. Đó là tướng cao quí, nhiệm mầu nhất trong 32 tướng tốt của đức Phật, con
mắt phàm phu của chúng sinh không thể thấy được.

Như Lai Mật Nhân. “Như Lai” là danh hiệu đầu tiên trong mười
danh hiệu
chung của chư Phật; Như Lai tức là Phật. “Mật nhân” nghĩa là nguyên
nhân
sâu kín huyền nhiệm, đó tức là chân tâm tịch tĩnh, thanh tịnh, thường hằng.

Tu Chứng Liễu Nghĩa. “Liễu nghĩa”
có nghĩa là tiến thẳng tới chỗ rốt ráo cùng cực, đó là giải thoát trọn vẹn, niết
bàn
tuyệt đối, là quả vị Vô thượng Bồ đề, là Phật. Nương vào chân tâm bất sinh
diệt để tu hành, tu mà không trước tướng, tu mà không tu, đó gọi là “tu liễu
nghĩa”; chấm dứt sinh diệt, thể nhập thật tánh vạn hữu, giải thoát rốt ráo, đạt
niết bàn tuyệt đối, gọi là “chứng liễu nghĩa”. Cả tu và chứng đều liễu nghĩa, gọi
là “tu chứng liễu nghĩa”.

– Chư Bồ Tát Vạn Hạnh. Bồ-tát tu
số
hạnh, gọi tổng quát là “muôn hạnh”. Bồ-tát vận dụng trí tuệtừ bi, trên
thì cầu đạo quả giác ngộ, dưới thì cứu độ chúng sinh, tự lợilợi tha gồm đủ,
đó là “muôn hạnh của chư vị Bồ-tát”.

Thủ Lăng Nghiêm. Ba chữ này là phần chủ yếu trong đề
kinh. Chữ “thủ lăng” có nghĩa là tất cả đều rốt ráo; chữ “nghiêm” nghĩa là bền
chắc. “Thủ-lăng-nghiêm” là tên một loại định,
và đó là loại định lực rốt ráo, kiên cố, bao trùm tất cả các loại định khác, chỉ
có chư vị Bồ-tát ở các bậc Thập-địa, Đẳng-giác
và Phật (Diệu-giác) mới đạt được; bởi vậy, nó được gọi là “đại định”, hay “đại
căn bản định”. Nó chính là chân tâm bản lai thanh tịnh, tịch tĩnh, thường hằng,
không lay động, không tán loạn, không dời đổi, cho nên cũng được gọi là “Phật tánh”.

Định Thủ Lăng Nghiêm rộng lớn,
sâu nhiệm, siêu việt thời giankhông gian, không thể đem tâm thức vọng tưởng
phân biệt của chúng sinhnhận biết được, giống như tướng “nhục kế” trên đỉnh
đầu của đức Phật (đại Phật đảnh), con mắt của chúng sinh phàm phu không thể
trông thấy được.

Định Thủ Lăng Nghiêm là cái nhân
sâu kín, từ đó mà phát khởi ra vô lượng công đức trí tuệ của chư Phật, và cũng từ
đó mà chư Phật thành tựu đạo quả Bồ Đề Niết Bàn Vô Thượng; cho nên nó được gọi
là “Như Lai mật nhân”.

Định Thủ Lăng Nghiêm là loại định
rốt ráo, vô thượng, cho nên tu định này tức là tu pháp môn viên đốn (trọn vẹn,
nhanh chóng), để chứng đạt tức thì đạo quả rốt ráo, tối thượng, gọi là “tu chứng
liễu nghĩa”.

Chư vị Bồ-tát
thực hiện muôn hạnh tự lợi, lợi tha hoàn toàn viên mãn đều do thành tựu được định Thủ Lăng Nghiêm này, cho nên định
này cũng tức là “chư Bồ-tát vạn hạnh”.

Chân tâm
thanh tịnh, tịch tĩnh, thường hằng, vốn sẵn có nơi chúng sinh. Nhưng vì chúng
sinh
mê lầm, không tự nhận biết được, si cuồng chấp có thân tâm ta và sự vật ở
ngoài ta, chạy theo trần cảnh mà phát sinh phiền não, đắm trước, tạo ra vô số tội
lỗi
; rồi theo nghiệp lực, quả báoluân chuyển trong sinh tử luân hồi. Đức Phật
thương xót, nói
Kinh Thủ Lăng Nghiêm này để độ cho các chúng sinhcăn cơ cao,
nhanh chóng phá trừ mê muội, dứt tuyệt phiền não, chứng nhập đại định Thủ Lăng Nghiêm, trực nhận bản
tâm
thanh tịnh thường trú, sáng suốt nhiệm mầu, đạt được địa vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác
.

Vị thính giả
đương cơ để Phật nói
Kinh Thủ Lăng
Nghiêm
này là tôn giả A Nan (hay A Nan
Đà
). Ngài là em chú bác của đức Phật, sau khi theo Phật xuất gia, được làm thị
giả
hầu cận Phật trong một thời gian dài, trở thành vị đệ tử được nghe Phật nói
pháp nhiều nhất, đầy đủ nhất, và nhớ kĩ nhất, được mọi người tôn kính xưng là vị
thánh tăng nghe nhiều hiểu rộng nhất (đa
văn đệ nhất
) trong tăng đoàn của Phật; và được liệt vào một trong mười vị đại đệ
tử
của Phật.

* 

Dịch giả của
bản kinh này là sa môn Bát Lạt Mật Đế (Pramiti,
?-?). Ngài là người Trung
Thiên-trúc, trên đường viễn du hoằng pháp, đã mang nguyên bản Phạn văn của
Kinh Thủ Lăng Nghiêm đến chùa Chế-chỉ ở thành phố Quảng-châu (tỉnh Quảng-đông, Trung-quốc)
năm 705 (đời Đường), và dịch bộ kinh này ra Hán văn ngay năm đó.

Theo truyền
thuyết
,
Kinh Thủ Lăng Nghiêm vốn được cất giữ ở Long cung. Nhân Bồ Tát Long
Thọ
(thế kỉ thứ 2-3 TL) xuống Long cung thuyết pháp, thấy trong kho có bộ kinh
này, bèn lấy ra xem, cho đó là bộ kinh hi hữu. Ngài tụng thầm hết bộ kinh, và
nhớ thuộc lòng. Trở về lại trú xứ, ngài chép bộ kinh ấy ra để trình lên quốc
vương
xin lưu truyền. Nhà vua cũng cho đó là Pháp bảo hiếm có, bèn ban lệnh cất
vào kho, làm vật quốc bảo của Thiên-trúc, không những bị cấm mang ra khỏi nước
mà còn bị cấm dạy cho các du tăng ngoại quốc đến Thiên-trúc tu học.

Kinh này khi
chưa truyền đến Trung-quốc, thì tên của nó đã được người Trung-quốc nghe biết
và kính ngưỡng rồi. Nguyên do là vì, một hôm nọ, một vị Phạn tăng lên núi
Thiên-thai tham kiến đại sư Trí Khải (538-597), nghe đại sư giảng pháp môn “Chỉ
Quán”, vị Phạn tăng rất bội phục, nói rằng: “Pháp môn Chỉ Quán do ngài phát
minh ra rất gần với giáo nghĩa của
Kinh
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm ở Thiên-trúc!”
Đại sư Trí Khải rất xúc động khi nghe vị Phạn tăng nói lên điều đó. Ngài muốn
được nhìn tận mắt bộ kinh ấy để xem pháp môn Chỉ Quán của mình giống với lời dạy
của đức Phật tới mức nào; hoặc có gì khác nhau. Ngài liền xây một cái đài ngay
trên núi Thiên-thai, gọi là Bái-kinh đài; mỗi ngày đều hướng về phương Tây lễ lạy,
cầu nguyện cho bộ kinh ấy được truyền sang Trung-quốc. Ngài đã lễ lạy như thế
cho
đến ngày viên tịch, ròng rã 18
năm, không một ngày gián đoạn! – Mà kinh ấy vẫn chưa đến! Việc này đã được loan
truyền đi khắp nước.
(Một thuyết
khác nói rằng: Ngài Thiên Thai Trí Giả theo học đạo thiền sư Huệ Tư ở núi
Nam-nhạc, đắc Pháp Hoa Tam Muội, thấy được pháp hội Linh-sơn nghiễm nhiên chưa
tan. Từ đó xem Kinh, Luật hoát nhiên thông suốt. Đến khi ngài giải thích ý
nghĩa
sáu căn trong sạch trong kinh
Pháp Hoa
thì trầm ngâm rất lâu. Có một vị tăng người Ấn nói với ngài: “Chỉ có
kinh Thủ Lăng Nghiêm là nói rõ ràng công đức của sáu căn, đủ để y chứng.” Từ đó
ngài Trí Giả khao khát ngưỡng mộ. Suốt 16
năm, mỗi sáng tối hướng về phương Tây lễ bái. Ở phía trái chùa Thiên-thai ở núi
Nam-nhạc vẫn còn đài kinh… Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông, Nhẫn Tế thiền
dịch.
)

Mãi cho tới đầu
thế kỉ thứ 8, ngài Bát Lạt Mật Đế mới đem
Kinh Thủ Lăng Nghiêm truyền đến
Trung-quốc. Nguyên vì bấy giờ bộ kinh ấy bị cấm truyền ra khỏi Ấn-độ, nên các
trạm gác biên giới kiểm soát rất gắt gao, ngài phải đem bộ kinh ấy đi ba lần mới
qua lọt biên giới. Hai lần đầu, dù ngài dấu kĩ đến thế nào, các quan viên biên
phòng vẫn khám xét ra. Vì là người xuất gia, ngài đã không bị xử phạt, nhưng vẫn
bị đuổi về, không cho đi ra khỏi nước. Tuy vậy, ngài vẫn quyết chí đi nữa. Lần
này, không còn cách nào khác, ngài bèn chép lại bản kinh ấy với chữ thật nhỏ,
trên những miếng da thật mỏng, cuộn lại, rồi xẻ bắp tay của chính mình ra, nhét
bộ “kinh da” vào trong đó, và may kín lại. Đợi cho đến khi vết thương hoàn toàn
lành lặn, ngài lại ra đi. Lần này thì bộ kinh đã không bị khám phá, cho nên
ngài đã được phép rời Ấn-độ. Ngài theo đường hàng hải, đến Quảng-châu (Trung-quốc)
vào năm 705 (đời vua Đường Trung-tông). Sau khi gặp được chư tăng ở chùa Chế-chỉ,
Quảng-châu, ngài mới cho biết là ngài đã mang được bộ
Kinh Thủ Lăng Nghiêm đến đây. Ai nghe cũng đều vui mừng, vì đó là
điều mọi người từng mong đợi từ hơn trăm năm nay. Khi được hỏi bộ kinh ở đâu,
ngài mới rạch cánh tay theo vết may cũ, lấy bộ “kinh da” từ trong ấy ra. Máu chảy
dầm dề, phải rửa thật sạch sẽ, bấy giờ bộ kinh mới hiện ra tỏ rõ. Liền đó, bộ
kinh
đã được dịch ra Hán văn ngay tại chùa Chế-chỉ. Sau khi bộ kinh này được dịch
xong, ngài liền xuống thuyền trở về Thiên-trúc để chịu tội với vua, vì đã trái
lệnh
, tự ý đem
Kinh Lăng Nghiêm truyền
sang Trung-quốc.

* 

Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm này, tại Trung-hoa, từ các đời Đường, Tống đến nay, đã có hàng trăm
nhà chú giải. Khi có ý định dịch bộ kinh này ra Việt ngữ, chúng tôi may mắn
được quyển
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa của pháp sư Viên Anh (1878-1953, người
Phúc-kiến, Trung-quốc), vì vậy, chúng tôi đã y theo phần “chánh văn” trong tác
phẩm
này để dịch; và phần “giảng nghĩa” của pháp sư cũng giúp ý cho chúng tôi rất
nhiều trong lúc dịch. Ngoài ra, chúng tôi cũng tham khảo hai bản Việt dịch khác
của hai bậc dịch giả tiền bốichúng tôi đang có trong tủ sách gia đình, đó
là bộ
Kinh Thủ Lăng Nghiêm của bác sĩ
Tâm Minh LÊ ĐÌNH THÁM (1897-1969, người Điện-bàn, Quảng-nam, VN) dịch, và bộ
Kinh
Lăng Nghiêm
Tông Thông của thiền sư NHẪN
TẾ (1889-1951, chùa Tây-tạng, Bình-dương, VN) dịch.

Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm, trong nguyên bản Hán văn, được chia làm 10 quyển, nhưng không có tiêu
đề
cho mỗi quyển. Nay dịch ra Việt văn, chúng tôi xin mạo muội đặt tiêu đề cho
mỗi quyển ấy, để quí vị đồng tu nắm được ý tổng quát của nội dung từng quyển
trong khi đọc tụng.

* 

Ý Kinh cao
sâu mầu nhiệm, biển học mênh mông, mà khả năng hiểu biết của chúng tôi thì quá
cạn cợt, cho nên sự diễn đạt chắc chắn có lắm sai sót. Chúng tôi rất mong nhận
được sự chỉ giáo của các bậc thiện tri thức cao minh.

Việc dịch
kinh
này ra tiếng Việt, nếu có được chút ít công đức nào, xin thành tâm nguyện đem
hồi hướng cho chúng sinh, tiêu trừ vọng tưởng, tăng trưởng lòng tin thanh tịnh,
sớm thành tựu đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.

Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo

tác đại chứng minh 

Cung kính giới thiệu,
Miền Tây Gia-nã-đại, mùa An Cư năm 2011
Cư sĩ HẠNH CƠ
 
 
CUNG
BẠCH
 
Con chí thành đảnh lễ
Đức Thích Ca Thế Tôn
Đấng Vô Thượng Pháp Vương
Bậc Đạo Sư ba thừa
Cha Lành khắp ba cõi
Vì thương đàn con dại
Nói kinh Thủ Lăng Nghiêm
Chỉ bày thật rõ ràng
Đâu là tâm chân thường
Đâu là nguồn vọng tưởng
Khiến cho ngàn vạn ức
Các thính chúng hiện tiền
Chứng ngộ tánh Bồ Đề
Thoát luân hồi sáu nẻo
 
Để báo đáp ơn Phật
Nay con xin phát tâm
Dịch kinh Lăng Nghiêm này
Ra ngôn từ nước Việt
Mong truyền bá rộng rãi
Trong Phật tử Việt-nam
Được cơ duyên hành trì
Thắp sáng đèn trí tuệ
Lời Phật cao sâu quá
Tâm con còn tối tăm
Chắc chắnsai lầm
Cúi lạy đức Thế Tôn
Xin xót thương tha thứ
Con nguyện cùng thiện hữu
Siêng năng thường đọc tụng
Bỏ vọng tưởng đảo điên
Về bản tâm chân thường
 
Nếu có chút phước đức
Xin nguyện đem hồi hướng
Cho chúng sinh và con
Phiền não sạch nghiệp tiêu
Chóng lên bờ giải thoát
 
Nam Mô Hiện Tọa Đạo Tràng Thuyết Kinh
Giáo Chủ
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Kinh
Nam Mô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả
 
Miền Tây Gia-nã-đại, mùa An Cư năm 2011
Ưu-bà-tắc giới đệ tử Hạnh Cơ
kính lạy
 
 
KINH
ĐẠI PHẬT ĐẢNH
NHƯ LAI MẬT NHÂN
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ TÁT VẠN
HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM (1)
 
Đời Đường, Sa môn Bát Lạt Mật Đế (người
Trung Thiên-trúc)
chủ tọa Đạo Tràng Phiên Dịch, tụng tiếng
Phạn.
Sa môn Di Già Thích Ca (người nước Ô-trành)
dịch Phạn văn ra Hán văn.
Sa môn Hoài Địch (người Trung-hoa) hiệu
chính, chứng nghĩa.
Bồ-tát giới đệ tử Phòng Dung (người
Trung-hoa)
nhuận văn, chép thành bản kinh hiện hành.(2)