Kinh Đại Hồi Hướng

0
35


KINH ĐẠI
HỒI HƯỚNG

Việt Dịch: Thích Thiện Trì

(Bản chữ Hán thất dịch danh,
Đại Tạng quyển 33, Kinh Tập bộ tứ, số 825, trang 827)

Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng tám ngàn vị Tỳ kheo
vân tập ở vườn cây của Trưởng giả Cấp Cô ĐộcThái tử Kỳ Đà (*) tại nước
vệ
. Lúc bấy giờ cả đại chúng lớp lớp trước sau quây quần quanh Thế Tôn, nghe
Thế Tôn thuyết pháp. Trong khi đó có một vị Bồ Tát hiệu Minh Thiên ở giữa pháp
hội
từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, quỳ gối bên phải sát đất, cung
kính
chắp tay bạch Phật rằng;

Kính
bạch Thế Tôn! Con có một điều muốn thưa hỏi, mong Thế Tôn từ bi chỉ dạy.

Phật
bảo
Bồ Tát Minh Thiên rằng:

Thiện
nam
tử! Có điều chi ông cứ hỏi, chớ có nghi ngại Như Lai sẽ tuỳ tiện mà giải
đáp
.

Bồ
Tát
Minh Thiên liền bạch Phật:

Bồ
Tát
làm cách nào chỉ tu chút ít pháp lành mà được phước quả lớn và nếu làm
nhiều việc công đức thì được phước quả vô lượng ?

Phật
đáp: Hay thay! Hay thay! Này Minh Thiên, ông đã từng cúng dường vô lượng chư
Phật, gieo trồng rất nhiều công đức, gần gũi các bậc thiện tri thức, và đã vì
chúng sanh ưa tu phước đức mà hỏi lên những điều sâu xa như thế. Vậy ông hảy
lắng nghe, lắng nghe, và khéo suy nghĩ kỹ.

Bồ
Tát
Minh Thiên bạch Phật rằng: Kính bạch Thế Tôn con xin thọ giáo.

Phật
bảo
: Minh Thiên! Đối với chư Phật quá khứ, hiện tạivị lai, các đại Bồ Tát
nên tu hạnh từ về thân, tu hạnh từ về miệng, tu hạnh từ về ý, chuyên tâm niệm
các công đức mà chư Phật từng làm.

Lại
nữa, này Minh Thiên ! Bồ Tát cần nên đi đến các chùa, tháp, tôn miếu,
những nơi có thờ Phật, để lễ bái cúng dường, đi quanh bên phải, quì gối chắp
tay
, dâng hoa, đốt hương, treo tràng phan, bảo cái, trổi nhạc cung kính cúng
dường
. Dùng âm thanh vi diệu ca tụng những câu kinh kệ nghĩa lý thậm thâm. Tán
dương
công đức chư Phật. Tuỳ hỷ khuyến khích, ca ngợi các thiện.

Minh
Thiên ! Thế nào là Bồ Tát đoái với chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai tu hạnh
từ về thân, tu hạnh từ về miệng, tu hạnh từ về ý và niệm công đức của chư Phật?

Thiện
nam
tử! Bồ Tát nên nghĩ rằng: Như Lai là bậc Vô Thượng, là bậc Tối Tôn,
là bậc Tối Thắng, là bậc Sư tử Vương dũng mãnh không sợ sệt. Tự cứu độ
mình, cứu độ mọi loài, tự mình an vui, đem an vui cho kẻ khác, tự mình
diệt trừ khổ não, diệt trừ khổ não cho kẻ khác, thuyết pháp chơn đế, giáo hoá
chúng sanh, giới đức thanh tịnh đầy đũ hoàn toàn, năng lực biện tài không hề sợ
sệt. Vĩnh viễn dứt trừ tập khí chướng ngại. Tự tại vô ngại trước mọi hoàn cảnh
và mọi sự vật không ai sánh bằng, Chuyên tâm niệm công đức của chư Phật như
vậy, rồi quì xuống đất dâng hoa hương, tràng phan bảo cái, trổi nhạc cúng
dường
. Đó là Bồ Tát tu hạnh từ về thân.

Dùng
âm thanh vi diệu ca tụng những câu kinh kệ nghĩa lý thậm thâm. Tán thán
lượng
công đức của Như Lai. Đó là Bồ Tát tu hạnh từ về miệng. Với căn lành
tu niệm nơi thân khẩu nói trên mà hết lòng chí thành cung kính. Đó là Bồ Tát tu
hạnh từ về ý.

Minh
Thiên ! Ấy là Bồ Tát đối với chư Phật quá khứ , hiện tại, vị lai, chánh niệm tu
tập
hạnh từ về thân miệng ý.

Phật
lại bảo Bồ Tát Minh Thiên rằng:

Lại
nữa, Bồ Tát đối với chúng sanh quá khứ , hiện tại, vị lai cũng nên tu hạnh từ
về thân, tu hạnh từ về miệng, tu hạnh từ về ý, quan niệm bình đẳng đối với
chúng sanh.

Minh
Thiên ! thế nào là Bồ Tát đối với chúng sanh trong ba thì gian nên tu hạnh từ
về thân, miệng, ý và quan niêm bình đẳng.

Như
vầy
, Minh Thiên ! Bồ Tát không sát hại chúng sanh, không trộm cắp của kẻ khác,
không tà dâm, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói
hung dữ, không tham lam, không giận hờn, không si mê tà kiến.

Thế
nào là Bồ Tát không hại chúng sanh ?

Đối
với tất cả chúng sanh, từ bi thương xót và sanh lòng hổ thẹn, đau đớn trước
hành động giết hại, vất bỏ cả dao gậy, những khí cụ đánh đập, đâm chém, bắn
giết.

Không
trộm cắp nghĩa là thấy của rơi giữa phố chợ, xóm làng, ngoài đường, bất hoặc ở
nơi nào không người, nếu không phải vật của mình thì không bao giờ lượm. Vật gì
của ai, không cho thì không lấy.

Không
tà dâm (là nói với Bồ Tát tại gia, nếu Bồ Tát xuất giađoạn dâm) nghĩa là
nam nữ đã có chồng vợ thì không được ngoại tình, cả với những người còn
lệ thuộc gia đình nếu chưa có lễ nghi hợp thức thì không được xâm phạm, cho chí
nếu người khác phái cầm đưa vật gì thì cũng không nên móng dục tình.

Không
nói dối nghĩa là luôn luôn nói ngay thực , không khi nào chuyện có nói không
chuyện không nói có, khi đối với hương lân làng xã hoặc đứng trứơc quan chức,
pháp toà đối chứng việc gì, nên chơn thành khai nói đúng với sự thật, dù phải
chịu chết cũng đành, chứ không nói dối.

Không
nói thêu dệt nghĩa là nói đúng lúc, nói chơn thật, biết rõ nghĩa lý mới nói,
lợi ích
kẻ khác mà nói, lòng nghĩ sao miệng nói vậy, không nói sai khác, không
nói thêm bớt.

Không
nói hai lưỡi nghĩa là đối giữa người này, người kia, bên này bên nọ nên luôn
luôn mong hoà hợp lẫn nhau, không đem chuyện người này xuyên tạc người nọ,
không gây sự nghi ngờ xích mích giữa hai bên.

Không
nói hung dữ nghĩa là luôn luôn lấy lời ôn hoà nhỏ nhẹ tỏ bày, dẩn dắt cho
người, niềm nỡ chào hỏi, hoàn toàn không bao giờ dùng những lời đắng cay, độc
ác
chưởi rủa tác hại chúng sanh

Không
tham lam nghĩa là đối với tài lợi của kẽ khác không móng ý tham muốn, thấy
người đến xin, tâm không lẫn tiếc.

Không
giận hờn nghĩa là đối với tất cả chúng sanh, dứt trừ những điều sân hận bực
tức
, nên khởi tâm niệm từ bi thương sót, tâm niệm đem lại sự lợi ích, tâm niệm
đem lại sự an vui cho chúng sanh, khéo léo tuỳ thuận nhiếp hoá tất cả.

Không
tà kiến nghĩa là phải biết nhận thức đúng: Cuộc sống cần có sự bố thí, có sự
cứu tế, có sự giáo dục hướng dẫn, có đạo cha mẹ, có đời này đời sau, có khổ có
vui, có mọi hành động và quả báo của thế gian, có các bậc A la hán tu đạo xuất
thế
tự thân chứng quả, đã dứt sanh tử, đã thành tựu tịnh hạnh, đã hoàn tất mọi
việc
làm, tự biết không còn thọ thân đời sau nữa.

Minh
Thiên nên biết rằng: không sát hại, không trộm cắp, không tà dâm là tu hạnh từ
về thân. Không nói dối, không thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói hung dữ
Bồ Tát tu hạnh từ về miệng. Không tham lam, không giận hờn, không si mê
kiến
Bồ Tát tu hạnh từ về ý. Thế là Bồ Tát quan niệm bình đẳng đối với tất
cả chúng sanh.

Minh
Thiên! Bồ Tát tu hạnh từ về thân, tu hạnh từ về miệng , tu hạnh từ về ý đối với
chư phật quá khứ, hiện tạivị lai, cũng như tu hạnh từ về thân, tu hạnh từ
về miệng, tu hạnh từ về ýđối với tất cả chúng sanh quá khứ. Hiện tạivị lai
được những phươc báo công đức gì đều đem công đức đó hồi hướng cho tất cả chúng
sanh
đồng thành Chánh Đẳng Chánh Giác.

Minh
Thiên ! khi Bồ Tát thành tựu vô lượng công đức như vậy thì hãy đem công đức ấy
hồi hướng vô lượng trí tuệ. Lại cùng tất cả chúng sanh hồi hướng về quả vị
Chánh Đẳng Chánh Giác.

Công
đức
này có ba thứ:

Quá khứ không

Hiện tại không

Vị lai không

Không
có người hồi hướng.

Không
có pháp hồi hướng.

Khôngcó
nơi hồi hướng.

Bồ
Tát
nên hồi hướng như vậy. Khi hồi hướng như vậy, ba chỗ đều thanh tịnh. Đem
công đức thanh tịnh đó cho tất cả chúng sanh đồng hồi hướng về quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác
. Người hồi hướng như vậy, không có phàm phu và pháp phàm
phu
, cũng không có tín hành, không có pháp hành, không có bát nhẫn (1), không
có Hướng Tu Đà Hoàn, Quả Tu Đà Hoàn, không có Hướng Tư Đà Hàm, Quả Tư Đà Hàm,
không có Hướng A Na Hàm, Quả A Na Hàm, không có Hướng A La Hán, Quả A La Hán,
không có Hướng Bích Chi phật, Quả Bích Chi phật. Cũng không có Hướng Phật và
Quả Phật.

Tại
sao thế? – Vì pháp tánh không vướng mắc, không sanh, không trú, không diệt.

Thế nên Bồ Tát đem ba thứ công đức thanh tịnh của ba cách hồi hướng này cho tất cả
chúng sanh, đồng hồi hướng về quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bồ
Tát
hồi hướng như vậy, lại nguyện rằng: “Nếu tôi sanh ra chỗ nào, đều thường
gặp Phật, đạt dược pháp chánh định thậm thâm, thấy được vô lượng Phật, thành
tựu
sự hiểu biết sâu rộng, trí tuệ thanh tịnh, thề không bỏ chúng sanh “.

Khi
Phật nói pháp này, có trăm ngàn vị Thiên Nhơn đều nguyện vãng sanh về cõi Phật
A Súc.

Bấy
giờ Phật bảo Tôn giả A Nan: “Khi ta vừa nói pháp thậm thâm này, thì có trăm
ngàn Thiên Nhơn đều nguyện vãng sanh về cõi nước Phật A Súc. Rồi từ một cõi
Phật
này đến một cõii Phật khác cúng dường chư Phật, nghe pháp, được pháp tổng
trì
, ghi nhận tu hành đúng như Chánh pháp. Tất cả những vị ấy đều sẽ thành tựu
trí tuệ không thể nghĩ bàn, và sẽ được làm Phật ở cõi Ngũ trược, đều đồng một
danh hiệu, gọi là Cam Lồ Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Khi
thọ ký cho các vị Trời ấy, có trăm ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác
.

Bấy
giờ Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật rằng:

“Bạch
Thế Tôn! Theo nghĩa Phật nói thì con biết rằng như vậy là đạt được công đức
rộng lớn, là công đức vô lượngcông đức vô biên!”.

Phật
bảo
: “Kiều Thi Ca! pháp này hoàn toàn thanh tịnh”.

Kiều
Thi Ca
thưa: “ Bạch Thế Tôn, kinh này tên gì và phải phụng trì như thế nào?”

Phật
đáp: “Thích Đề Hoàn Nhơn Kiều Thi Ca ! Kinh này tên là Đại Hồi Hướng, cũng gọi
Thậm Thâm Pháp Tánh Hồi Hướng. Các ông nên đúng như vậy mà phụng trì.

Kiều
Thi Ca
, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này
thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả
chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc!”

Khi
nghe Phật thuyết pháp này, các Tỳ kheo, Đế thích, Phạm Thiên, Trời, Người, A Tu
La
v.v.. đều vui vẻ phụng hành.

Chú
thích:

(1) Bát nhẫn: Là trí nhẫn được và chứng nhậptứ đế của cõi Dục và hai cõi trên
–Sắc và Vô sắc-Nhẫn tứ đế của cõi Dục gọi là tứ pháp nhẫn; Khổ Pháp nhẫn, Tập
Pháp
nhẫn, Diệt Pháp nhẫn, Đạo Pháp nhẫn. Nhẫn tứ đế của cõi Sắc và Vô sắc goi
là: Khổ Loại nhẫn, Tập Loại nhẫn, Diệt Loại nhẫn, Đạo Loại nhẫn – Loại là tợ
loại, vì ở hai cõi trên sự nhẫn không hoàn toàn giống như cõi Dục, bỡi lẽ các
cõi trên tương đối ít khổ hơn. Nhờ bát nhỗn mà đoạn được kiến hoặc ba cõi. Đoạn
được kiến hoặc rồi, quán chiếu một cách rõ ràng thì gọi là bát trí. Bát nhẫn
Vô gián đạo, bát tríGiải thoát đạo. Nhẫn là nhơn của Trí, Trí là quả của
Nhẫn. Hợp cả bát tríbát nhẫn gọi là mười sáu tâm kiến đạo.

Phụ
chú:

(*)
Cấp Cô Độc tên thậtTu Đạt Đa, cũng gọi là trưởng giả Tu Đạt. Ông thường
giúp đỡ trẻ mồ côi và người già cả không có gia đình con cái. Do đó người đời
bấy giờ thường gọi là Cấp Cô Độc,

Kỳ
Đà, còn gọi là Thệ Đa,(vì phiên âm tuỳ mỗi nơi nên có hơi khác) có nghĩa là
Chiến Thắng, tức Thái tử con vua Ba Tư Nặc. Vì khi sanh Thái tử, nhằm lúc nhà
vua giao chiến với ngoại quốc được thắng trận, nên lấy đó đặt tên cho Thái tử.

Trưởng
giả
Tu Đạt lúc đầu chưa biết Phật pháp, nhơn có việc đến thành Vương Xá, gặp
Phật ông sanh lòng tín kính, mới đảnh lễ thỉnh Phật về ở nước Xá Vệ để thuyết
pháp
. Phật nhận lời và phái ngài Xá Lợi Phất đến trước để tìm chỗ thích nghi
cho Tăng chúng đến ở. Trưởng giả Tu Đạt và ngài Xá Lợi Phất đi tìm khắp nơi
trong thành Xá Vệ, chỉ có vườn cây của Thái tử Kỳ Đà là nơi thích hợp nhất.
Trưởng giả đến hỏi Thái tử để mua khu vườn ấy mà lập tịnh xá, Thái tử không có
ý định bán vườn, nhưng trước sự khẩn khoản của Trưởng giả, Thái tử vui miệng
nói: “Trưởng giả cứ đem vàng trải đủ thì tôi sẽ nhượng khu vườn đó cho”. Sẳn có
nhiều vàng, lại nhiệt tâm vì đạo, Trưởng giả không ngần ngại cho người mở kho
chở vàng đến, lần lượt trải vàng lên các khoảng đất trống. Đến khi còn lại một
phần đất và những chỗ có cây chưa trải được thì Trưởng giả đứng ngẫm nghĩ. Lúc
đó Thái tử mới nói với Trưởng giả rằng: “Hay là Trưởng giả nghĩ đắc giá, thôi
thì Trưởng giả cứ đem vàng về và vườn tôi để lại cho tôi chứ không sao”. Thái
tử
ngạc nhiên khi nghe Trưởng giả đáp; ‘Thưa, tôi đang tính các khoảng còn lại
phải dùng hết bao nhiêu vàng nữa, và những chỗ có cây thì phải làm sao? Chứ tôi
không nghĩ đến việc giá cã.” Thái độ cương quyếtthành thật của Trưởng giả
đã làm cho Thái tử cảm động, phát tâm cúng cả cây cối và phần đất còn lại. Đoạn
cả hai người đồng chung kiến lập tịnh xá thỉnh Phậtchúng tăng đến ở để
thuyết pháp. Nên sau này những hội thuyết pháp tại đó đều có ghi tên hai vị đại
thí chủ
ấy trong kinh.