Kim Cang Quyết Nghi

0
35

KIM CANG QUYẾT
NGHI

Tam Tạng Pháp sư
Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch.
Sa môn Hám Sơn
Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn – Việt Dịch: Hạnh Huệ
Thành Hội Phật
Gíao TP. HCM ấn hành PL. 2539-1995

Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật

Hai chữ Kim Cang,
nhiều người giải nghĩa dựa trên tính bền chắc sắc bén có thể cắt đứt. Đây là
nói phiếm. Nhưng ở Tây Vức có của báu Kim Cang, báu này rất bền chắc chẳng thể
hư hoại, lại phá hoại được tất cả vật. Nếu lấy báu này để dụ cho Bát Nhã đoạn
trừ được phiền não, thì tuy gần với lý, nhưng đều chẳng phải ý Phật, chỉ là tri
kiến
theo thói xưa tầm thường.

Bởi vì Bát Nhã
trí tuệ, chính là tâm của Phật, tức là trí huệ Phật; Ba La Mật nghĩa là đến bờ
bên kia
. Là chỉ chỗ cùng cực của tâm.

Nay để Kim Cang
Bát Nhã Ba La Mậtbiểu thị ý nghĩa của kinh này, đặc biệt hiển lộ một mảnh
tâm Kim Cang của Phật.

Ngoài ra tâm Kim
Cang
là bổn tâm tu nhơn chứng quả của Phật. Nay đức Phật ra đời giáo hóa chúng
sanh
toàn dùng tâm này. Ngài dạy Bồ Tát dùng tâm Kim Cang làm gốc tu nhơn, làm
cửa đầu tiên để vào Đại thừa. Vì thế nên đặc biệt chỉ ra tâm Kim Cang để dứt
nghi. Vì tâm này chẳng phải là thường tình của chúng sanhthế gian, nên cả
thế gian chẳng thể biết Phật. Lại nữa Phật vốn chẳng phải là người thế gian, mà
nay bỗng nhiên đến nhân gian thì người người thấy sanh nghi. Và những việc làm
hằng ngày của Phật, việc việc đều chẳng đồng, nói năng chẳng đồng, quy củ chẳng
đồng với thế gian, mọi sự cùng thế gian trái nhau. Nên làm động khiến người
thấy sanh nghi. Vì thế các vị Thiên, Ma vương muốn hại Phật; Điều Đạt, A
Xà Thế
muốn giết Phật. Rồi tất cả mọi người đều phỉ báng Phật. Nên Phật nói:
“Ta ra đời tất cả Trời, Người, A Tu La, ngoại đạo, Ma vương đều phải kinh sợ,
nghi hoặc”. Đúng thế! Chẳng những Trời, Người sanh nghi, mà các bậc Thượng thủ
trong hàng đệ tử như Ca Diếp v.v… cũng đều nghi Phật. Vì pháp nói ra chợt
không, chợt có, chợt phải, chợt trái, hoặc khen hoặc chê, hoặc khuyến khích
hoặc la rầy, toàn không có lời nhất định. Nên các đệ tử nghe pháp đều nghi và không
tin. Vì thế họ nói rằng “Chẳng phải ma giả làm Phật, làm não loạn tâm ta ư?”.
Bậc Thượng thủ còn như thế, thì có thể biết kẻ tân học ra sao!

Vì pháp của Phật
thuyết
khó tin khó hiểu, nên Phật ra đời từ lúc thuyết pháp đầu tiên đến ba
mươi năm sau mà đệ tử còn hoài nghi chẳng tin. Như thế nỗi hàm oan của Phật rất
lâu vậy. Hôm nay may mắn có được ngài Không Sanh rõ biết được chút ít, thấy
biết được Thế Tôn chút ít liền tán thán. Nên Thế Tôn nhơn mối nghi của ngài
Không Sanh mà quyết phá, để phơi bày mảnh chơn tâm Kim Cang của mình, bày tỏ
minh bạch cho ngài, khiến ngài liễu ngộ chẳng nghi, và khiến mối nghi của những
người nghe chóng dứt. Nên kinh này chính thật Phật dạy tự tâm để đoạn đứt mối
nghi của đệ tử học Phật, chẳng phải nói Bát Nhã hay đoạn trừ phiền não của
chúng sanh. Như vậy chẳng đúng. Chỉ thấy trong kinh mỗi chỗ đều là mối nghi của
ngài Không Sanh, nghi tâm của Phật. Phật biểu hiện tâm này để phá nghi kia. Đâu
hề nói dùng trí tuệ đoạn trừ phiền não của chúng sanh? Cho nên đề kinh này chỉ
là pháp, không phải là dụ. Chỉ cần đoạn trừ mối nghi của đệ tử, thì đoạn trừ
được phiền não của chúng sanh. Kinh này chỉ có một vị là đoạn nghi, sanh lòng
tin
làm chủ yếu. Vì người học đạo lấy tin làm gốc, lấy nghi làm chướng. Nghi có
ba loại:

Nghi người,

Nghi pháp,
Nghi mình.

Nghi người,
nghĩa là cho người chẳng chân thật. Chẳng hạn như đệ tử nghe Phật thuyết: sắc
thân
, pháp thân, thân lớn, thân nhỏ thì chẳng biết cái nào là Phật thật. Đây là
nghi người (nghi Phật).

Lại nữa, Phật
thuyết
pháp vừa mới nói có rồi lại không, rồi lại nói chẳng không. Vì lời nói
bất nhất nên rất đáng nghi. Đây là nghi Pháp.

Hoặc có người
nghe mà có thể tin được, chẳng nghi ở Pháp, nhưng lại thấy Pháp rộng lớn, bèn
nghi tự mình căn cơ thấp kém, chẳng thể gánh vác nổi, chẳng thể tu hành được.
Đây là nghi mình.

Nay trong kinh
này, ba cái nghi đều có. Phật tùy chỗ nghi của ngài Không Sanh liền đuổi phá,
dứt hết mối nghi. Nên nói: “Nghi hối đã hết hẳn thì an trụ trong thực trí”. Ấy là
ý chỉ của kinh này.

Phương này, rất
nhiều người giải kinh Kim Cang, nhưng đều chẳng hợp ý Phật. Riêng ở Tây Vức, Bồ
Tát Thiên
Thân dùng 27 mối nghi phân chia kinh rất đúng. Tuy ý xuất ra từ thánh
nhân
, nhưng luận truyền đến phương này đã trải qua phiên dịch. Người phiên dịch
khéo vụng chẳng đồng, lời không đạt ý, ngược lại còn sanh trệ ngại khiến người
học khó xét. Ý chỉ vi diệu sâu xa này chẳng phải miệng nói. Một khi rơi vào nói
năng liền thành cặn bã, huống là dính mắc văn tự cạn cợt thì làm sao đạt được
chỗ vi diệu. Cái khó của sự chú thuật là ở chỗ miêu tả tâm Phật, không chỗ nào
chẳng sửa cái xấu của sự nhăn mày, giống như người đời viết lại hành trạng, chỉ
có thể thuật lại sự việc, chẳng thể truyền hết tinh thần. Đây là cái khó vậy.

Nay giải quyết
nghi, cái hay là ở chỗ thấy trước được mối nghi của ngài Không Sanh làm chủ
yếu. Nếu nghi tình toàn lộ, lời phá nghi của Phật chẳng đợi giải thích mà tự rõ
sáng. Nên giải nghi này, trước hết đưa ra điều nghi ở trước bản văn, rồi mỗi
đoạn đều theo đó mà phá. Nếu quên lời mà lãnh ngộ thì được tông này vậy.

Chánh
Văn:

Tôi Nghe
Như Vậy, Một Thời Phật ở Vườn Cấp Cô Độc, Trong Rừng Kỳ Đà, Nước Xá Vệ, Cùng
Chúng Đại Tỳ Kheo 1250 Người Câu Hội.

Giải:

Đây là nghi
thức
thuyết pháp khi Phật ở đời. Các thuyết đều giải thích đầy đủ. Đây chẳng
diễn nhiều.

Chánh
Văn:

Bấy Giờ
Đức Thế Tôn Đến Giờ Ăn, Đắp Y Ôm Bát Vào Thành Lớn Xá Vệ Khất Thực. Ở Trong
Thành Này Thứ Lớp Khất Thực Xong, Trở Về Chỗ Mình, Thọ Thực Xong, Cất Y Bát,
Rửa Chân, Trải Tòa Mà Ngồi.

Giải:

Đây là
sanh hoạt bình thường của Phật ở tại thế gian, chỗ hằng ngày hoạt động cùng mọi
người
không khác. Lại không có gì kỳ đặc. Trong đó chỉ có một điểm cùng người chẳng
đồng. Điều đó rất hiếm người biết được.

Chánh
Văn:

Lúc Đó
Trưởng Lão Tu Bồ Đề ở Trong Đại Chúng Từ Tòa Đứng Dậy, Vạch Áo Vai Phải, Gối
Phải Sát Đất, Chấp Tay Cung KínhBạch Phật Rằng: “Hi Hữu Thay! Thế Tôn!”.

Giải:

Như Lai ở đời
nhật dụng tầm thường như mọi người, mà trong đó có một điểm chẳng đồng. Người
người giáp mặt với Phật đều chẳng biết. Ngày hôm nay ngài Không Sanh chợt khám phá
ra. Vì thế Ngài khen rằng: “Ít có!” Than ôi! Như Lai cùng các đệ tử chu toàn
trong 30 năm mà các đệ tử một bề chẳng biết chỗ bước chân của Phật. Vì thế
chẳng biết nên họ cứ lờ lững bỏ qua, chỉ nói cũng như mọi người. Do đó, phàm
chỗ nói của Phật họ đa nghi mà chẳng tin. Nếu chẳng phải ngài Không Sanh nhìn
thấu thì trọn không có người biết Phật ư!

Chánh
Văn:

Như Lai
Kéo Hộ Niệm Các Bồ Tát, Khéo Phó Chúc Các Bồ Tát.

Giải:

Đây là ngài
Không Sanh khen chỗ “hi hữu” của Phật. Chính vì Ngài đích thân thấy được nỗi
khổ tâm của Như Lai. Bồ Tátđệ tử học Phật, tức là người xưa ở Tiểu thừa vừa
mới phát tâm đại thừa, là Bồ Tát bị tán loạn bởi “không”, Phật một lòng hộ niệm
cho hạng này, không có ý nào khác, chỉ muốn dặn dò giao phó tâm này cho họ. Hộ niệm
là bổn nguyện của Phật ra đời, chỉ muốn cho tất cả chúng sanh không khác với
Phật. Người người đều thành Phật mới thỏa lòng. Nhưng vì chúng sanh đức mỏng,
cấu dày, tâm chí khiếp nhược, chẳng thể gánh vác, giống như đứa trẻ con, Phật
như mẹ hiền hộ niệm trẻ không một chút lơi lỏng bỏ qua, mọi thứ đều chu tất.
Phật chăm lo nhớ thương như là bảo bọc đứa con mới sinh, nên nói là “hộ niệm”.
Chỉ muốn tất cả chúng sanh thẳng đến thành Phật mới thôi, nên nói là phó chúc.
Nhưng chẳng dám nói rõ, chỉ thầm dùng phương tiện để thành tựu, nên nói là
“khéo”. Kinh nói: “Ta lấy vô lượng vô số phương tiện dẫn đường cho chúng sanh
để mọi người đều đến được chỗ nhất thiết trí”. Đó là nghĩa hộ niệm phó chúc.

Chánh
Văn:

Thế Tôn!
Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề, Làm Thế Nào An Trụ, Thế
Nào Hàng Phục Tâm Kia?

Giải:

Đây là ngài
Không Sanh đặc biệt hỏi phương pháp an tâm. Vì lúc đầuTiểu thừa, chỉ riêng
tự độ, chẳng chịu độ sanh, nên gọi là tâm nhỏ. Nay nhờ ơn Như Lai hơn hai mươi năm
dùng nhiều cách gạn lọc, kích khởi tâm độ sanh, nên gọi chúng sanh có tâm lớn
Bồ Tát, cốt khiến cho họ dưới giáo hóa chúng sanh, trên cầu Phật quả. Hạng
này tự nhận lợi sanh, nên nói phát tâm Bồ Đề. Đây là Không Sanh đã tin tâm
Phật
. Nhưng thấy Bồ Tát mới phát đại tâm, chưa ngộ thật tướng “chân không”,
cùng với “thiên không” đã chấp giữ trước kia, hai cái khó biện rõ. Vì Niết bàn của
Tiểu thừa lúc trước có thể bám lấy để an trụ tâm này. Nay đã xả bỏ cái “không”
trước mà chưa được “chân không”. Nghĩa là: “Tiến tới không có chỗ chứng mới,
thối lui thì mất chỗ cũ”; gọi là loạn ý “không”, vì một bề chấp trước vào danh
ngôn
chưa quên tập khí, muốn có chỗ bám vào, lại chấp trướcnhất định có quả
Phật có thể cầu, nên nói cầu đến quả Phật, và cho đó là chỗ trụ. Nếu muốn trên
cầu quả Phật, ắt dưới giáo hóa chúng sanh. Chúng sanh độ hết mới được thành
Phật
. Mà nay đầy mắt trông thấy ba ngàn đại thiên thế giới, chúng sanh vô lượng
vô biên, bao giờ mới có thể được hết? Chúng sanh chẳng hết, làm sao được thành
quả
Phật? Vì tâm cầu trụ gấp gáp, nên tâm này chẳng an, không thể hàng phục. Vì
thế Không Sanh đặc biệt thỉnh phương pháp an trụ tâm này. Nhưng Không Sanh đã
thấy Phật tâmtán thánhi hữu, mà lại mở miệng riêng hỏi hai lời như thế
là thế nào? Vì tâm của mỗi người đều nghĩ: “Thế Tôn hôm nay đã thành chánh quả,
nên chúng ta thấy Thế Tôn tâm an ổn tự tại trong chỗ dùng hằng ngày. Còn người
mới phát tâm cầu quả Phật thì tâm bất định, làm thế nào để an trụ, thế nào để
hàng phục tâm?” Ý ở đây là hỏi như vậy.

An tâm,
tức là Nhị Tổ hầu Tổ Đạt Ma xin phép an tâm. Đạt Ma trả lời: “Đem tâm đến đây
ta sẽ an cho ông”. Nhị Tổ thưa: “Con tìm tâm trọn không thể được”. Tổ nói:
“Đã an tâm cho ông rồi”. Nhưng ở dưới cửa Tổ sư một lời liền xong, do đó là
Tông. Nay Thế tôn thuyết khá nhiều pháp an tâm, tâm lão bà lận đận, do đó là
Giáo. Cuối cùng chỉ là cái “tìm tâm trọn chẳng thể được”. Từ Tứ Tổ về
trước đều lấy kinh Lăng Già để ấn tâm. Đến Hoàng Mai, Lục Tổ đều lấy kinh Kim
Cang
để ấn tâm. Nên kinh này chẳng phải tướng văn tự, chẳng thể dùng ngôn ngữ
văn tự để xem. Vi diệu là ở chỗ lìa lời. Trong kinh này, phàm nói “ý ông nghĩ
sao?” đều là hỏi ngược lại cái nghi đó. Vì tâm của mọi người theo lời mà khởi
nghi. Tuy chưa thổ lộ mà tâm đã động niệm, nghĩa là ý lời phân biệt, đó gọi là
tập khí danh ngôn.

Chánh
Văn:

Phật
Nói: “Lành Thay! Lành Thay! Tu Bồ Đề! Như Lời Ông Nói, Như Lai Khéo Hộ Niệm Các
Bồ Tát, Khéo Phó Chúc Các Bồ Tát. Ông Nay Lắng Nghe, Ta Sẽ Vì Ông Mà Nói.

Thiện Nam Tử, Thiện
Nữ
Nhơn Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề, Nên Như Thế Mà Trụ, Như Thế Mà Hàng Phục
Tâm”.

Giải:

Chỗ hỏi của
Không Sanh, ý nói Bồ Tát phát tâm chẳng được an tâm an nhàn tự tại bằng Phật.
Vậy muốn cầu bằng Phật ắt phải giống như hành vi hằng ngày của Phật, mới làm Phật
được. Ta xem tâm Phật an nhàn như thế mà tâm Bồ Tát chẳng được an trụ. Làm sao
hàng phục khiến tâm an? Ý Phật đáp rằng: “Bồ Tát muốn cầu tâm an làm Phật chẳng
cần cầu gì khác, chỉ như ông hội được tâm hộ niệm phó chúc của ta, tâm này tự
an. Cũng chẳng cần hàng phục kiểu nào khác. Nên nói: “Như chỗ ông đã nói”. Chỉ
cần tâm được an là đủ, đâu cần hàng phục gì nữa, chỉ nên như thế mà thôi. Nên
nói: “Như thị”.

Chánh
Văn:

Đúng Vậy
Thế Tôn! Nguyện Xin Muốn Nghe.

Giải:

“Đúng vậy” tức
là Không Sanh tin thẳng tâm Phật vô ngại. Đã thấy tâm Phật dường như chẳng cần
nói, chỉ vì các Bồ Tát chưa lãnh ý này nên muốn thích nghe.

Chánh
Văn:

Phật Bảo
Tu Bồ Đề: “Các Vị Đại Bồ Tát Nên Như Thế Mà Hàng Phục Tâm”.

Giải:

Đây là Phật chỉ
dạy phương pháp an tâm. Nghĩa ở văn sau. Trước hỏi Phật hai việc an trụ và hàng
phục
. Nay chỉ chịu nói hàng phục, chẳng nói an trụ. Hàng phàm phu nhị thừa
thường một bề chấp trước chỗ trụ. Đây là tập khí danh ngôn. Người thú hướng
tiến đến Đại thừa, trước cần đuổi tập khí danh ngôn này, bởi vì chúng sanh
Niết bàn đều chẳng phải là pháp thực, trọn chẳng thể được. Đó là vì lấy danh
ngôn
làm thể. Danh ngôn đã xả bỏ, tập khí chóng không thì tâm này chẳng đợi
hàng phục mà tự yên tĩnh lặng lẽ. Do đó chỉ dạy hàng phục tâm, chẳng nói trụ
tâm
sợ dẫn đến tập khí. Chỗ nói “tâm cuồng chẳng dứt, dứt tức Bồ Đề”, nghĩa là
chỉ cần sạch hết phàm tình, chớ không có thánh giải nào khác. Phật chẳng lấy một
pháp thực nào mà buộc người. Cho nên chẳng nói trụ.

Chánh
Văn:

Có Tất Cả
Các Loại Chúng Sanh Hoặc Noãn Sanh, Thai Sanh, Thấp Sanh, Hóa Sanh; Hoặc Có
Sắc, Hoặc Không Sắc; Hoặc Có Tướng, Hoặc Không Tưởng, Hoặc Chẳng Phải Có Tưởng,
Chẳng Phải Không Tưởng… Ta Đều Khiến Vào Vô Dư Niết BànDiệt Độ. Như Thế
Diệt Độ Vô Lượng, Vô Số, Vô Biên Chúng SanhThực KhôngChúng Sanh Được
Diệt Độ, Vì Sao? Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát Có Tướng Ngã, Tướng Nhơn, Tướng Chúng
Sanh
, Tướng Thọ Giả Tức Chẳng Phải Bồ Tát.

Giải:

Đây là Thế Tôn
chỉ dạy thẳng pháp quán để an tâm. Nhưng Bồ Tát phát tâm, chỗ cầu là quả Phật,
chỗ giáo hóachúng sanh.Chỉ có hai việc mà thôi. Sở dĩ tâm chẳng yên vì chưa
thấy chúng sanh như như. Đầy mắt đều là chúng sanh thì khi nào mới được độ hết?

Chúng sanh
chẳng hết thì quả Phật khó cầu. Vì thấy quá xa vời tâm chẳng an mà miệt mài
chẳng dừng, do đó phải cầu hàng phục tâm. Nay Phật dạy phương pháp độ sanh, chủ
yếu là quán sát vô ngã. Bồ Tát thấy chúng sanh nhiều, khó độ hết, vì có tướng
ngã thì thấy tướng người. Người người đối đãi nhau thì trong ba ngàn thế giới
chúng sanh đâu có giới hạn, sanh sôi nảy nở chẳng giảm nên Bồ Tát sợ khó độ
tận. Thật sự Bồ Tát chưa thấy chúng sanh vốn tự như như. Chúng sanh tuy nhiều
nhưng chỉ gồm trong 12 loại, dù có vô lượng cũng chỉ có 12. Quán sát 12 loại
từng thứ một, tóm lại cũng chỉ gồm trong bốn thứ sinh: thai, trứng, thấp, hóa
mà thôi. Và trong bốn loại sinh chẳng qua chỉ có hai pháp sắc và tâm mà thôi.
Tại sắc, chẳng qua có sắc và không sắc. Luận về tâm chẳng qua có tướng và
không tướng. Dù đến tột cùng thì cũng dừng ở chỗ “chẳng phải có” “chẳng phải
không”. Trong 12 loại này đã gồm hết pháp giới chúng sanh. Lại nhiều gì ư?
Huống 12 loại gọi là chúng sanh, thì sắc, tâm của chúng sanh vốn là giả hợp. Đã
giả hợp thì chúng sanh vốn không, chỉ vì vọng mà thấy có. Nếu lấy “vốn không”
quán chúng sanh thì chúng sanh vốn tự như như. Chúng sanh đã như, tức đều
thành tịch diệt. Đây là độ tận khiến tất cả vào Vô Dư Niết Bàn, lại khó sao?

Tịnh Danh nói:
“Tất cả chúng sanh rốt ráo vắng lặng, chẳng cần phải diệt nữa”. Như thế diệt độ
vô số vô lượng vô biên chúng sanh, kỳ thực không có một chúng sanh nào được diệt
độ
. Vì sao? Vì vốn vô ngã. Vì có ngã thì có nhơn, có nhơn thì có chúng sanh,
thọ giả. Nếu có bốn tướng này thì chẳng gọi là Bồ Tát, còn nói gì đến độ sanh?
Vì thế Bồ Tát độ sanh nên quán vô ngã. Vô ngã thì vô nhơn; đã vô ngã, vô nhơn
thì cõi chúng sanh tự nhiên vắng lặng. Chúng sanh vắng lặng thì quả Phật chẳng
xa. Còn sợ gì lâu xa? Vì thế Bồ Tát nên quán vô ngã.

Văn dưới đây
nói rằng: “Biết tất cả pháp vô ngã, nhẫn được thành tựu, đó là chân Bồ Tát”.

Nghi rằng:

Phật dạy Bồ Tát
độ sanh, lấy bố thí làm gốc. Người nhận bố thí đều là chúng sanh. Nay chúng
sanh
đều không thì trong sự bố thí ai là người nhận.

Cho nên văn
dưới đáp rằng “Bồ Tát bố thí chẳng nên dính mắc tướng chúng sanh”.

Chánh
Văn:

Lại Nữa,
Tu Bồ Đề, Bồ Tát Đối Với Pháp Nên Không Chỗ Trụ Mà Làm Việc Bố Thí. Nghĩa Là
Chẳng Trụ Sắc Bố Thí, Chẳng Trụ Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp Bố Thí. Tu Bồ Đề!
Bồ Tát Nên Bố Thí Như Thế, Chẳng Trụ Vào Tướng.

Giải:

Đây là phá cái
nghi dính mắc vào tướng. Không Sanh nhơn nghe chúng sanh đều không, thì nghi
rằng:

“Chúng sanh đã
không thì Bồ Tát bố thí không có người nhận, vì lục trần chẳng có, chúng sanh
vốn không”. Vì thế nói “nên không chỗ trụ”. Đây là dạy chẳng nên dính mắc tướng
trần của chúng sanh. Lại thầm nghi rằng “nếu chẳng trụ tướng thì làm sao có
phước?” Nên văn dưới đáp “Lấy phước lìa tướng thì phước lớn hơn”.

Chánh
Văn:

Vì Sao?
Nếu Bồ Tát Chẳng Trụ Tướng Bố Thí Thì Phước Đức Chẳng Thể Nghi Lường, Tu Bồ Đề:
Ý Ông Nghĩ Sao? Hư Không ở Phương Đông Có Thể Suy Lường Chăng?

– Chẳng
Được, Bạch Thế Tôn.

– Tu Bồ
Đề! Phương Nam,
Phương Tây, Phương Bắc, Bốn Hướng, Trên Dưới Có Thể Nghĩ Lường Chăng?

– Chẳng
Được, Bạch Thế Tôn.

– Tu Bồ
Đề! Bồ Tát Không Trụ Tướng Bố Thí, Phước Đức Cũng Lại Như Thế, Chẳng Thể Nghĩ
Lường.

Giải:

Đây là phá cái
nghi chấp tướng để chỉ bày diệu hạnh của sự lìa tướng. Nhưng Bồ Tát bố thí
chuyên vì cầu phước, nếu tâm cầu phước dính mắc ở tướng thì phước chẳng lớn.
Cho nên Thế Tôn tạm chỉ phước lìa tướng lớn hơn, khiến họ an tâm. Dính mắc
tướng bố thí thì giới hạn nơi có tướng, mà tướng chúng sanh như hạt bụi nhỏ, dù
gặt được phước thì phước đó có là bao? Nếu ngay lúc bố thí cho chúng sanh chẳng
thấy có người cho người nhận, cũng chẳng thấy có vật bị cho, như thế tam luân
đều không, không tướng có thể trụ. Phước chẳng trụ tướng thì chẳng thể nghĩ
bàn. Vì thế lấy hư không mà dụ.

Chánh
Văn:

Tu Bồ Đề!
Bồ Tát Chỉ Nên Như Chỗ Dạy Mà Trụ.

Giải:

Đây là
kết thúc lời dạy pháp an tâm. Trước hỏi tâm không thể an trụ, nên phải hàng
phục
. Thế Tôn dạy cho phương pháp hàng phục là dùng pháp quán vô ngã làm chủ
yếu. Vô ngã thì vô nhơn. Nhơn ngã đều quên thì tự tâm vắng lặng thì tất cả chúng
sanh
đều vắng lặng. Chúng sanh đã vắng lặng thì Phật chẳng cần cầu. Thế thì tâm
theo đuổi tìm cầu dừng, tình thủ xả mất, trong ngoài đều không, nhất tâm chẳng
động. Đó gọi là pháp an tâm. Do đó kết luận là Như.

Nghi:

Trước lấy bố
thí
làm phước để dưới giáo hóa chúng sanh, chỉ vì trên cầu Phật quả. Nay tướng
chúng sanh là không, thể tam luân vắng lặng. Ắt đó là cái nhân bày đặt rỗng.
Lấy cái nhân vô tướng mà cầu quả hữu tướng được ư? Huống là hiện thấy thân
tướng
Như Lai rõ ràng, chẳng phải nhân vô tướng mà có thể đạt được. Đây là dùng
tướng mà thấy Như Lai nên Phật phá rằng:

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Ý Ông Nghĩ Sao? Có Thể Dùng Thân Tướng Thấy Như Lai Chăng?

– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn. Chẳng Thể Dùng Thân Tướng Thấy Được Như Lai. Vì Sao? Như
Lai
Nói Thân Tướng Tức Chẳng Phải Thân Tướng.

Phật Bảo:

Tu Bồ
Đề
, Phàm Cái Gì Có Tướng Đều Là Hư Vọng. Nếu Thấy Các Tướng Chẳng Phải Tướng
Tức Thấy Như Lai.

Giải:

Đây chỉ thẳng
diệu hạnh vô tướng. Ngài Không Sanh vì nghe nhân vô tướng bèn nghi nhân này
chẳng thể cầu quả Phật có tướng. Đó là dùng tướng mà thấy Như Lai. Đây là chấp vào
tướng ứng hóa của Phật, chưa thấy chân thể của Pháp thân. Thế Tôn bèn phá kiến
chấp về tướng. Không Sanh lãnh ý chỉ nên Phật bảo thẳng chẳng thể dùng tướng mà
thấy được Như Lai. Như Lai thuyết về thân, là nói pháp thân, nên nói chẳng phải
thân. Nhưng pháp thân cũng chẳng có tướng, tức là nơi tướng của các pháp thấy
cái không tướng của Như Lai, chẳng phải là bỏ các pháp ra ngoài mà có một tướng
trạng riêng. Đây là nhân vô tướng khế hợp với quả vô tướng đã rõ ràng.

Nghi:

Lấy nhân
tướng
khế hợp với quả vô tướng, nghĩa này rất sâu, khó tin, khó hiểu. Bèn nghi.

Chánh
Văn:

Tu Bồ Đề
Bạch Phật Rằng:

– Bạch
Thế Tôn, Có Chúng Sanh Nào Được Nghe Chương Cú Ngôn Thuyết Như Thế Sanh Lòng
Tin
Chơn Thật Chăng?

Phật Bảo:

Tu Bồ
Đề
, Chớ Nói Như Thế. Khi Như Lai Diệt Độ. Sau Năm Trăm Năm Có Người Trì Giới,
Tu Phước, Ở Chương Cú Này Sanh Lòng Tin, Cho Đây Là Thực. Nên Biết Người Này
Chẳng Phải ở Một Đức Phật, Hai Đức Phật, Ba, Bốn, Năm Đức Phật Trồng Căn Lành,
Mà Đã Ở Vô Lượng Trăm Ngàn Vạn Phật Trồng Căn Lành. Người Nghe Chương Cú Này
Chỉ Cần Một Niệm Sanh Lòng Tin Thanh Tịnh. Tu Bồ Đề, Như Lai Ắt Biết, Ắt Thấy
Những Chúng Sanh Này Được Vô Lượng Phước Đức Như Thế. Vì Sao? Vì Những Chúng
Sanh
Này Nếu Tâm Chấp Giữ Tướng Thì Dính Mắc Ngã, Nhơn, Chúng Sanh Nầy Nếu Tâm Chấp
Giữ Tướng Thì Dính Mắc Ngã, Nhơn, Chúng Sanh, Thọ Giả. Nếu Chấp Giữ Tướng
Pháp Tức Dính Mắc Ngã, Nhơn, Chúng Sanh, Thọ Giả. Vì Sao? Vì Nếu Chấp Giữ Tướng
Phi Pháp Tức Dính Mắc Ngã, Nhơn, Chúng Sanh, Thọ Giả. Vậy Chẳng Nên Chấp Giữ
Phi Pháp. Như Lai Thường Nói “Tỳ Kheo Các Ông Nên Biết, Ta Thuyết Pháp Thí Như
Chiếc Bè, Pháp Còn Nên Xả Huống Là Phi Pháp”.

Giải:

Đây chỉ thẳng
tri kiến của Phật. Do ban đầu Không Sanh chấp nhân có tướng nên Phật dùng bố
thí
không trụ nơi tướng để phá. Lại nghi nhân vô tướng chẳng thể khế hợp với quả
hữu tướng, vì chấp Phật có tướng trạng. Do đó Phật lấy pháp thân chẳng có tướng
để phá. Thế thì, nhân vô tướng khế hợp với quả vô tướng đã rõ ràng. Như thế thì
nhân quả đều không, người và pháp đều mất. Nghĩa này rất sâu, khó tin khó hiểu.
Nên nghi hỏi Phật “Không biết có thể có người tin được pháp này chăng? “Phả” tức
là “có thể”, ngôn thuyết chương cú” tức chỉ thuyết nhân quả vô tướng ở trước.
Phật đáp: “Há không có người này sao!”. Người tin pháp này chẳng phải là người tầm
thường, mà là người trì giới tu phước mới có thể tin được. Người này cũng chẳng
ở một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật trồng căn lành, mà từ chỗ
vô lượng ngàn vạn đức Phật đã trồng căn lành, rễ đã ăn sâu rất lâu, mới có thể
tin được. Chúng sanh căn lớn loại này chỉ một niệm tin tâm, Ta ắt biết, ắt
thấy, họ đã được phước vô lượng. Phước vô tướng này vượt hẳn cầu phước có tướng
đã rõ ràng. Vì sao người khế hợp vô tướng có thể được nhiều phước? Vì chúng
sanh
này, không có tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Chẳng những bốn tướng
này không, mà tất cả các tướng có không cũng đều không. Nên nói không có tướng
pháp, cũng không có tướng phi pháp. Vì tâm của chúng sanh này chẳng chấp giữ
tướng nên tất cả đều lìa. Nếu một niệm dính mắc vào bốn tướng của pháp, phi
pháp
, tức là dính mắc bốn tướng. Do chẳng chấp giữ tướng nên tâm, cảnh đều
không, được phước thù thắng như thế. Đây là sức Chân Tri Kiến của Như Lai. Vì
thế ta dạy Bồ Tát chẳng nên chấp giữ tướng của pháp, phi pháp. Vì cớ sao? Vì
một phen nhập vào pháp này thì người và pháp đều không, chóng lìa các sự chấp
giữ (thủ) mà khiến từ đó khởi các “hữu”. Há đó là việc nhỏ nhít ư? Vì thế Ta
thường dạy đệ tử nên xả bỏ pháp, tức xả bỏ tình. Tình mất thì trí tròn đủ. Do
đó nói: “Pháp còn phải xả, hà huống phi pháp”.

Nghi:

Ngài Không
Sanh nhân nghe Phật nói Phật không có sắc tướng và pháp chẳng thể giữ, bèn nghi
rằng “nếu Phật và Pháp cả hai đều không tướng thì không Phật, không Pháp. Nhưng
hiện thấy thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác; hiện nay Phật thuyết pháp, sao lại
nói không?”. Đây là nghi Phật nói lời trái nghịch, cho nên văn dưới vạch ra để
phá.

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Ý Ông Nghĩ Sao? Như Lai Được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác Chăng? Như Lai
Có Chỗ Thuyết Pháp Chăng?

Tu Bồ Đề
Thưa:

– Như Con
Hiểu Nghĩa Phật Nói Là Không Có Pháp Nhất Định Gọi Là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác
, Cũng Không Có Pháp Nhất Định Như Lai Có Thể Thuyết. Vì Sao? Pháp Do
Như Lai Thuyết Đều Chẳng Thể Nắm Giữ, Chẳng Thể Thuyết, Chẳng Phải Pháp, Chẳng
Phải Phi Pháp. Vì Sao Như Thế? Vì Tất Cả Hiền Thánh Đều Do Pháp Vô Vi Mà Có Sai
Khác.

Giải:

Điều này là trừ
cả hai tri kiến về Phật và về Pháp. Trong tâm Không Sanh vừa manh nha niệm có
Phật, có pháp, gọi là ý ngôn phân biệt, ngài ôm ấp mà chưa thố lộ. Phật phá
ngược lại nên gọi Ngài mà gạn rằng: “Ý ông nghĩ sao?”. Nghĩa là “Ý ông phân
biệt
thế nào? Bồ Đề của Phật thật có sở đắc ư? Như Lai thật có thuyết pháp ư?”.
Đây là gạn hỏi để thăm dò ý này. Không Sanh lãnh ý chỉ nên trình bày chỗ ngộ,
nói rằng đã hiểu Phật thuyết, nguyên không có pháp nhất định gọi là Bồ Đề, cũng
không có pháp nhất định Như Lai có thể thuyết. Đây là Không Sanh lãnh hội sâu
xa
ý chỉ không chấp thủ của Như Lai. Chẳng những Như Lai mà tất cả Hiền Thánh
đều do pháp vô vi mà có sai biệt nên không thể chấp thủ. Đây là ý khai quyền
hiển thực, đã bày ra một phần.

Nghi:

Không Sanh đã
lãnh ý chỉ không Phật, không Pháp, nhưng không biết khế hợp vô vi làm sao mà
được phước thù thắng? Cho nên dưới đây Như Lai đem lìa tướng để phá.

Chánh
văn:

Tu Bồ
Đề
Ý Ông Nghĩ Sao? Nếu Người Đem Bảy Báu Khắp Ba Ngàn Đại Thiên Thế Giới Bố
Thí
. Người Này Được Nhiều Phước Đức Chăng?

Tu Bồ Đề
Thưa:

– Rất
Nhiều, Bạch Thế Tôn! Vì Sao? Vì Phước Đức Này Chẳng Phải Tánh Phước Đức Nên Như
Lai
Nói Phước Đức Nhiều.



Phật Bảo:

– Nếu Lại
Có Người ở Trong Kinh Này Thọ Trì, Cho Đến Bốn Câu Kệ… Vì Người Khác Thuyết,
Phước Của Người Này Hơn Người Kia, Sao Thế? Tu Bồ Đề, Tất Cả Chư Phật Và Pháp
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác Của Chư Phật Đều Từ Kinh Này Mà Ra. Tu Bồ Đề,
Chỗ Gọi Phật Pháp Tức Chẳng Phải Phật Pháp.



Giải:

Đây là dùng phước
vô tướng để hiển pháp vô tướng là hơn hết. Không Sanh đã ngộ lý vô tướng nhưng
không biết khế hợp lý vô tướng sẽ được phước vô tướng. Phước này là sao hơn
phước hữu tướng kia? Nên Phật trước lấy bố thí hữu tướngso sánh phước đó
chẳng bằng phước thù thắng của việc trì bốn câu kệ. Bởi vì tất cả chư Phật đều
từ Bát Nhã này mà sanh ra, nên nói “Bát Nhã là mẹ của chư Phật”, do đó phước
lớn. Như người đời nói: “Mẹ nhơn con mà quý” vậy. Cho nên Bát Nhã hay sanh Phật
pháp, mà Bát Nhã vốn chẳng phải Phật pháp. Do đó nói “Chỗ gọi Phật pháp tức
chẳng phải Phật pháp”.

Nghi:

Pháp đã chẳng
thể thuyết, Phật chẳng thể thành, cả hai đều chẳng thể được. Vả lại, đức Thế
Tôn
ngày xưa vì Thinh văn chúng con thuyết pháp Tứ Đế, đó là pháp. Chúng con y theo
đó mà tu thì đắc quả. Chúng con nương theo Niết Bàn mà trụ, đây là có chỗ trụ.
Tại sao Thế Tôn nói tất cả đều không? Đây là ý ngôn phân biệt của đại chúng,
nên Thế Tôn lại nêu trở lại quả Tiểu thừa, hỏi ngược Không Sanh để thay cho lời
phá nghi.

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Ý Ông Nghĩ Sao? Tu Đà Hoàn Có Nghĩ Là “Ta Được Quả Tu Đà Hoàn Chăng?”.

Tu Bồ Đề
Thưa:

– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn! Vì Sao? Vì Tu Đà Hoàn Gọi Là Nhập Lưu, Mà Không Có Chỗ
Nhập. Chẳng Nhập Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp Thì Gọi Là Tu Đà Hoàn.

Tu Bồ
Đề
, Ý Ông Nghĩ Sao? Tư Đà Hàm Có Hay Nghĩ Thế Này “Ta Được Quả Tư Đà Hàm
Chăng?”.

– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn! Vì Sao? Vì Tư Đà Hàm Nghĩa Là “Nhất Vãng Lai” Mà Thực
Không
Trở Lại Thì Gọi Là Tư Đà Hàm.

Tu Bồ
Đề
, Ý Ông Nghĩ Sao? A Na Hàm Có Hay Nghĩ Thế Này “Ta Được Quả A Na Hàm Chăng?

– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn! Vì Sao? Vì A Na Hàm Gọi Là Bất Lai, Mà Thực KhôngBất
Lai
, Gọi Là A Na Hàm.

Tu Bồ
Đề
, Ý Ông Nghĩ Sao? A La Hán Có Hay Nghĩ Thế Này “Ta Được Quả A La Hán Chăng?”.

– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn! Vì Sao? Thực Không Có Pháp Gọi Là A La Hán, Bạch Thế Tôn,
Nếu A La Hán Nghĩ Như Vầy “Ta Được Đạo A La Hán” Tức Là Dính Mắc Ngã, Nhơn,
Chúng Sanh, Thọ Giả, Thế Tôn, Phật Nói Con Được Vô Tránh Tam Muội, Bậc Nhất
Trong Loài Người. Thế Tôn, Con Chẳng Nghĩ Rằng Con Là A La Hán Ly Dục. Thế Tôn,
Con Nếu Nghĩ Như Vầy “Con Được Đạo A La Hán”, Thế Tôn Ắt Chẳng Nói Tu Bồ Đề
Người Hành Hạnh A Lan Nhã, Vì Tu Bồ Đề Thực Không Có Chỗ Hành Nên Gọi Tu Bồ Đề
Là Ưa Hạnh A Lan Nhã”.

Giải:

Đây chính là
Chân Tông Vô Trụ, đại chúng nhân nghe Phật chẳng thể cầu, pháp chẳng thể giữ,
đó là tiến đến “chẳng thể trụ”. Nhưng mà ngày xưa Thế Tôn dạy Thanh Văn chúng con
khiến lìa sanh tử, an trụ Niết Bàn thì không phải là không quả, không pháp
thể trụ. Nay vì sao Thế Tôn lại nói Phật, pháp đều không? Đây là Tiểu thừa chưa
quên tập khí danh ngôn nên chấp có pháp thực, khó nhập vào Bát Nhã, do đó khởi
nghi nhiều lần. Thế Tôn mượn cái ngộ của Không Sanh làm cho đại chúng thông
suốt
. Nên nêu quả xưa mà hỏi ngược lại “Ý ông nghĩ sao?”. Tiếng Phạn Tu Đà Hoàn,
Trung Hoa dịch là Nhập Lưu, tức vào dòng. Nhập có nghĩa là nghịch. Nghĩa là
ngược dòng sanh tử, nhưng nói nghịch lưu chỉ là theo cái chẳng vào 6 trần gọi
là nghịch. Nghĩa là chẳng có “đây” có thể nghịch, có “kia” có thể vào trụ ở đó.

Tư Đà Hàm,
Trung Hoa gọi là Nhất Vãng Lai. Nghĩa là còn có một chút tư hoặc sót lại ở cõi
dục, nên chỉ cần trở lại một lần ở cõi dục rồi đoạn dứt, từ đây qua luôn. Đây cũng
chẳng phải có chỗ vãng lai thực để trụ.

A Na Hàm, Trung
Hoa nói là Bất Lai. Nghĩa là chẳng đến thọ sanh ở cõi dục nữa. Như thế mà thôi,
cũng chẳng phải có chỗ Bất Lai có thể trụ.

A La Hán, Trung
Hoa nói là Bất Sanh. Vì thấy các pháp kia tất cả đều không, thực không có các
pháp. Một tâm chẳng sanh, như thế mà thôi. Cũng chưa từng nghĩ “Ta là A La
Hán”, cũng chẳng có cõi A La Hán có thể trụ. Nếu A La Hán tự mình nghĩ rằng ta
A La Hán, thì đồng tri kiến với chúng sanh, tức dính mắc bốn tướng. Không
Sanh lấy mình mà nghiệm. Như Thế Tôn luôn luôn khen con đã được Vô Tránh Tam
Muội
, lại khen con là bậc tối thượng trong loài người. Lại nói con là bậc A La
Hán
ly dục bậc nhất. Nhờ ơn Thế Tôn hết lời khen ngợi như thế. Nhưng con từng
xét tâm mình, thật chưa hề có một niệm sanh tâm chấp trước con là bậc A La Hán
ly dục. Nếu con có niệm này. Thế Tôn đã chẳng nói con là người ưa hạnh tịch
tĩnh
. Lấy con mà quán thì biết ngày xưa Niết Bàn nguyên không có chỗ trụ, đủ
biết Bồ Đề của Như Lai chắc chắn không có thể trụ, còn nghi gì nữa?”. Văn dưới
giải quyết cái nghi “Phật nhất định có thành”.

Nghi:

Nghe sự khai
thị ở trên, quả Phật không trụ, đã rõ rồi. Quả đã không thể thành tại sao hiện
thấy Như Lai từ Phật Nhiên Đăng được thọ ký, ắt là Phật nhất định có thành. Há không
có quả có thể trụ ư? Dưới đây đáp là vô sở đắc.

Chánh
Văn:

Phật Bảo:

Tu Bồ
Đề
, Ý Ông Nghĩ Sao? Xưa Như Lai ở Chỗ Phật Nhiên Đăng Đối Với Pháp Có Chỗ Được
Chăng?

– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn! Như Lai Ở Chỗ Phật Nhiên Đăng Đối Với Pháp Thật Không
Chỗ Được.

Giải:

Đây là dạy ý
chỉ rốt ráo vô sở đắc. Vì nghe nói vô trụ đã ngộ Bồ Đề không trụ. Bèn nghi Bồ
Đề
tuy không trụ mà quả Phật quyết định có thành. Nếu quả Phật chẳng thành làm
sao truyền thọ? Nên Thế Tôn hỏi ngược lại Không Sanh để giải quyết. Vì Phật
Nhiên Đăng tuy nói thọ ký chỉ là ấn khế tâm này mà thôi. Thực không có chỗ
được. Nếu có chỗ được thì Phật Nhiên Đăng ắt không thọ ký cho ta.

Nghi:

Bồ Đề không
trụ, quả Phật chẳng được. Như thế thì chẳng cần trang nghiêm đất Phật, thế tại
sao Thế Tôn dạy ta hành Bồ Tát trang nghiêm cõi Phật?

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Ý Ông Nghĩ Sao? Bồ Tát Trang Nghiêm Cõi Phật Chăng?

– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn! Vì Sao? Vì Trang Nghiêm Cõi Phật Tức Chẳng Trang Nghiêm,
Ấy Gọi Là Trang Nghiêm.

– Thế
Nên, Tu Bồ Đề, Các Vị Đại Bồ Tát Nên Như Thế Mà Sanh Tâm Thanh Tịnh, Chẳng Nên
Trụ Sắc Sanh Tâm, Chẳng Nên Trụ Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp Sanh Tâm, Nên Không
Chỗ Trụ Mà Sanh Tâm.

Giải:

Đây là chỉ
thằng pháp an tâm. Mối nghi của Không Sanh là Phật đã không thành, Niết Bàn
chẳng trụ, nếu như thế thì cần gì trang nghiêm cõi Phật? Người chấp cái nghi
này cho rằng hạnh độ sanh thực ra cần phải trang nghiêm cõi Phật giống như sửa
chùa chiền. Đây là người ngu chấp tướng. Do đó Thế Tôn đặt nghi vấn với ngài
Không Sanh “Bồ Tát quả có trang nghiêm cõi Phật chăng?”. Không Sanh lãnh hội ý
chỉ, đáp rằng “Trang nghiêm chẳng phải trang nghiêm, đó gọi là trang nghiêm”.
Lấy gì để rõ được? Bởi vì cõi Phậtcõi Tịnh, mà tịnh độ này há có thể dùng
bảy báu chất đống để trang nghiêm sao? Chỗ thấy của chúng sanhuế độ, do ác
nghiệp
làm thành các loại khổ, trong khi chỗ của chư Phật là tịnh độ, chỉ do
giác tâm thanh tịnh làm sạch các uế nhiễm: Nghiệp nhiễm đã không thì cõi đất tự
trong sạch, tức là lấy tâm thanh tịnh để trang nghiêm. Nhưng sự trang nghiêm
này chẳng đồng với sự trang nghiêm kia, nên nói “chẳng phải là trang nghiêm mới
gọi là trang nghiêm”. Như thế xem lại, Bồ Tát trang nghiêm cõi Phật chẳng mượn
ở ngoài đến, chỉ là tự mình làm sạch tâm mình, tâm tịnh thì cõi đất tịnh. Nên
nói chỉ nên như thế sanh tâm tịnh mà thôi, chẳng cần kiểu trang nghiêm nào
khác.

Ngài Tu Bồ Đề
lại nghi “Đã nói thanh tịnh, làm sao sanh tâm?” Phật nói “Thanh tịnh như thế mà
sanh tâm” chỉ là chẳng nên sanh tâm nhiễm sáu trần mà thôi, không phải có cái
“thanh tịnh” có thể trụ mà sanh tâm. Chỗ nói “Chấp hết, tình quên, tâm thanh
tịnh
tự hiện”, vì thế “nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia”. Tam Tổ nói “Chẳng
theo hữu duyên, chẳng trụ không nhẫn” (mạc trục hữu duyên, chẳng trụ không
nhẫn
). Đây là lấy vô trụ sanh tâm làm pháp an tâm. .)1(Khéo léo nhiệm mầu của pháp an tâm chẳng qua
khỏi chỗ này Nên Lục Tổ một lần được nghe ngay đó đốn ngộ.

Nghi:

Đã chẳng
trang nghiêm cõi Phật là không có cõi Phật. Vậy Phật thân lớn ngàn trượng ở chỗ
nào? Đây là nghi báo thân ắt ở một cõi nước thật nào đó.

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Ví Như Có Người Thân Như Núi Chúa Tu Di, Ý Ông Nghĩ Sao? Thân Này Là Lớn
Chăng?

Tu Bồ Đề
Thưa:

– Rất
Lớn, Bạch Thế Tôn! Vì Sao? Phật Nói Không Phải Thân, Đây Gọi Là Thân Lớn.

Giải:

Đây là chỉ cõi
nước chơn thật của Pháp thân. Nhân nghe cõi Phật không có thể trang nghiêm bèn
nghi báo thân ắt có chỗ thật. Nếu chẳng trang nghiêm thì đến chỗ nào mà ở, mà trụ?
Phật lấy Pháp thân chẳng phải thân để phá. Ý nói cõi đất không phải là cõi đất,
chính đó là Thường Tịch Quang (ánh sáng thường lặng lẽ) vậy. Thân không phải là
thân tức là Pháp thân. Pháp thân không có tướng thì cõi Phật chẳng có hình. Nhưng
thân đã chẳng thể dùng tướng mà thấy thì cõi đất lại làm sao có thể trang
nghiêm? Đây là từ chỗ lìa tướng lục trần, lìa tướng tâm duyên, đến chỗ này là
phá các nghi, thẳng đến “thân và cõi nước đều không”. Tâm và cảnh cả hai đều
dứt mới là cực tắc của Bát Nhã để hiển lý Pháp Thân Vô Trụ. Do đó, từ khi chỉ
dạy (khai đạo) đến đây, lý đã rốt ráo, lời nói không đến được (cực lý quên
lời). Nếu có người tin được pháp này thì phước vô lượng. Nên dưới đây so sánh
phước đức.

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Như Số Cát Trong Sông Hằng, Số Sông Hằng Bằng Số Cát Như Thế, Ý Ông Nghĩ
Sao? Cát Của Các Sông Hằng Này Có Nhiều Không?

Tu Bồ Đề
Thưa:

– Rất
Nhiều, Bạch Thế Tôn! Chỉ Sông Hằng Mà Thôi Còn Nhiều Vô Số, Huống Là Cát Của
Chúng.

Tu Bồ
Đề
, Ta Nói Thực Cho Ông Hay. Nếu Có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn, Lấy Bảy Báu
Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới Nhiều Như Cát Của Số Sông Hằng Này Đem Bố Thí, Sẽ
Được Phước Nhiều Chăng?

Tu Bồ Đề
Thưa:

– Rất
Nhiều, Bạch Thế Tôn!

Phật Bảo
Tu Bồ Đề:

– Nếu
Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn Trong Kinh Này Chí Đến Thọ Trì 4 Câu Kệ v.v… Vì
Người Khác Nói Thì Phước Đức Này Vẫn Hơn Phước Đức Trước. Lại Nữa, Tu Bồ Đề,
Tùy Thuyết Kinh Này, Chỉ Cần Thọ Trì 4 Câu Kệ v.v… Nên Biết Nơi Này Tất Cả
Trời, Người, A Tu La Trong Thế Gian Đều Nên Cúng Dường, Xem Như Tháp Miếu Của
Phật, Huống Là Có Người Có Thể Thọ Trì Đọc Tụng Hết. Tu Bồ Đề, Nên Biết Người
Này Thành Tựu Pháp Tối Thượng Ít Có Đệ Nhất. Chỗ Nào Có Kinh Điển Này Thì Có
Phật Hoặc Đệ Tử Lớn Đáng Tôn Trọng Của Phật.

Giải:

Đây là dùng ví
dụ để hiển pháp thù thắng, nói phước của bốn câu hơn bảy báu nhiều như số cát
sông Hằng
. Vì pháp này là pháp tối thượng hy hữu bậc nhất. Bốn câu kệ này là
toàn thể pháp thân, không khác gì Phật trụ thế thuyết cho đệ tử.

Trước đã hiển
pháp thân xong, các nghi chóng phá, lời quên lý cực, Không Sanh lãnh được ý chỉ
bèn xin tên kinh để kết thúc.

Chánh
Văn:

Lúc Bấy
Giờ Tu Bồ Đề Bạch Rằng:

– Thế
Tôn! Nên Gọi Kinh Này Là Gì? Chúng Con Làm Sao Phụng Trì?

Phật Bảo:

Tu Bồ
Đề
, Kinh Này Gọi Là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Đó Là Danh Tự, Ông Nên Phụng
Trì. Vì Sao Như Thế? Tu Bồ Đề! Phật Nói Bát Nhã Ba La Mật, Tức Chẳng Phải Bát
Nhã Ba La Mật
, Mới Đúng Là Bát Nhã Ba La Mật.

Giải:

Đây là chỉ chỗ
trở về mé thật Bát Nhã. Không Sanh lãnh ngộ, toàn thể Bát Nhã đã lộ bày, lại
không pháp khác. Nên hỏi tên kinh để kết thúc. Thế Tôn chỉ bảo rằng: Kinh này
tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Ý nói pháp này không tên, chỉ là tâm. Lại
hỏi làm sao phụng trì. Phật bảo rằng: Tức đem tâm này phụng trì pháp này. Vì
tâm vốn không tâm thì pháp cũng không pháp. Nên nói: Bát Nhã tức không phải Bát
Nhã Ba La Mật
. Ngài Không Sanh khi chưa nghe pháp này tâm không an, nên lúc đầu
thỉnh Phật chỉ bày cách hàng phục tâm. Vì chỗ thấy đầy mắt đều là trần cảnh,
chúng sanh và Phật cách xa, dơ sạch khác đường, thủ xả khác hướng, nên tâm
chẳng an, khó hàng phục, do đó Ngài Không Sanh khởi lên các thứ nghi tình. Ban
đầu
nghi chúng sanh khó độ thì Phật bảo rằng chúng sanh vốn không. Lại nghi quả
Phật khó cầu thì Phật bảo quả Phật chẳng cần cầu. Tiếp đó nghi bố thí khó chu
tất, Phật lại bảo dùng tam luân không tịch. Nghi cõi Phật khó trang nghiêm thì
Phật bảo để tâm thanh tịnh ắt được trang nghiêm. Lại nghi báo thân không có chỗ
nương, thì Phật bảo pháp luân không cần chỗ nương, thì Phật bảo pháp thân không
cần chỗ nương. Đến đây sự kỹ lưỡng khéo léo của Không Sanh đã cùng tột, các
nghi như băng tan. Tâm Phật đã lộ bày hết, chẳng còn dư sót. Do đó người nghe
tâm an mà tự hàng phục, nên hỏi tên kinh để kết thúc. Thế Tôn chẳng lấy Pháp
thực
làm phiền người, chỉ gọi tâm này mà thôi, nên lấy đây để kết thúc. Văn dưới
là riêng dạy cực tắc của Pháp thân. Chỗ nói đầu sào trăm thước, lại tiến một
bước chỉ cần đủ con mắt Kim Cang thì mới được tương ưng cùng tột. Vì thế Không Sanh
lãnh ngộ rơi nước mắt, tán thán là khó lường, giống như người khách đi lâu trở
về
nhà, thấy mẹ hiền liền khóc thương vậy. Thẳng đến chỗ không thể suy nghĩ mới
thôi.

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Ý Ông Nghĩ Sao? Như Lai Có Chỗ Thuyết Pháp Chăng?

Tu Bồ Đề
Thưa:

– Bạch
Thế Tôn, Như Lai Không Chỗ Thuyết Pháp.

Giải:

Đây Không Sanh
đã ngộ lý Pháp thân bèn nghi Pháp thân không tướng thì ai đang thuyết pháp đây?
Đây là nghi pháp có chỗ thuyết nên Phật mới gạn hỏi lại, Tu Bồ Đề bèn ngộ thân
đã không thân, pháp cũng không thể thuyết.

Nghi:

Pháp thân không
tướng
, nhưng không tướng tức đọa vào đoạn diệt. Đoạn diệt không tướng thì ở chỗ
nào mà thấy pháp thân? Chúng có nghi này nên Phật bèn phá.

Chánh
Văn:

Tu
Bồ Đề
, Ý Ông Nghĩ Sao? Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới Chỗ Có Vi Trần, Đó Là Nhiều
Không?



Tu Bồ Đề
Thưa:



– Rất Nhiều,
Bạch Thế Tôn!

Tu
Bồ Đề
, Các Vi Trần Như Lai Nói Chẳng Phải Vi Trần Nên Gọi Là Vi Trần. Như Lai
Nói Thế Giới Chẳng Phải Thế Giới, Đó Là Thế Giới.



Giải:

Đây là chỉ các
pháp tuy không, nhưng chẳng rơi vào đoạn diệt. Nghe nói pháp thân không tướng,
lại nghi rơi vào đoạn diệt. Đoạn diệt thì không có chỗ tìm pháp thân. Thế Tôn
dạy trần trần cõi cõi đều là pháp thân. Nên gạn hỏi rằng “Vi trần trong Tam
thiên
, đại thiên thế giới có nhiều chăng?” Đáp: “Rất nhiều”. Nếu lấy vi trần
thế giới mà quán thì đầy mắt trần cảnh, vạn tượng rộn ràng. Nếu lấy không phải
vi trần thế giới mà quán thì một đường )1(rỗng rang, chân không
minh tịch, đó là “Tịch diệt linh hư nương nơi sum la mà hiển bày hình tượng.
Ngang dọc trong cảnh huyễn, tại một tánh mà dung chân”. Do đó “Trúc biếc xanh xanh
đều là chân như, hoa vàng mịt mịt thảy là Bát Nhã”, “Núi sông và đại địa toàn
lộ thân Pháp vương”. Muốn thấy pháp thân phải có đủ con mắt chánh Kim Cang mới
được. Nên nói thế giới chẳng phải thế giới, gọi là thế giới.

Nghi:

Nghe pháp
thân không tướng mới gọi là Phật. Nếu không tướng là Phật, nay hiện tiền Phật
32 tướng há không phải là Phật sao?

Đây là nhận hóa
thân
làm Chân Phật. Dưới đây lấy Pháp thânHóa thân một thể để phá.

Chánh
Văn:



Tu Bồ Đề,
Ý Ông Nghĩ Sao? Có Thể Lấy 32 Tướng Để Thấy Như Lai Chăng?



– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn! Chẳng Thể Lấy 32 Tướng Thấy Được Như Lai, Vì Sao? Vì Như
Lai
Thuyết 32 Tướng Tức Là Chẳng Phải Tướng, Nên Gọi 32 Tướng.

Giải:

Đây là dạy pháp
thân
hóa thân thầm là một vậy. Chớ bảo có tướng chẳng phải Phật. Phật ngay
nơi 32 tướng mà vốn không tướng. Tướng tức không tướng thì ứng thân tức pháp
thân
. Đến đây ba thânmột thể. Thân và cõi đất đều không, lý cực tình quên,
ngôn từ đều lặng nên mới tán thán: Người có thể khế hợp lý này, lần lượt chỉ dạy
cho người khác thì phước vô lượng.

Chánh Văn:



Tu Bồ Đề,
Nếu Có Thiện Nam
Tử, Thiện Nữ Nhơn Lấy Thân Mạng Bằng Số Cát Sông Hằng Đem Bố Thí. Nếu Lại Có
Người Trong Kinh Này Chí Đến Thọ Trì 4 Câu Kệ v.v… Vì Người Khác Nói, Phước Đó
Rất Nhiều.



Giải:

Đây là
giải bày cái thắng ích của pháp không. Thế Tôn hiển lý đã cùng cực, các nghi đã
phá, bốn tướng chóng không, ngã chấp đã mất, phân thân riêng lộ. Thế Tôn so
sánh
cái nhiều của sự bố thí thân mạng như cát sông hằng chẳng bằng thân tâm
thọ trì 4 câu kệ, vì người khác nói, phước vô tướng này thật chẳng thể lường.
Không Sanh toàn lãnh ý chỉ này, cảm kích vì chưa hề nghe, nên rơi nước mắt thương
khóc tán thán cho là ít có. Trước nói: “Khéo hộ niệm, khéo phó chúc” là đây
vậy.

+ Trước đã lãnh
ngộ.

+ Sau lại trần
tình
.

Chánh văn:



Lúc Đó Tu Bồ
Đề
Nghe Thuyết Kinh Này Hiểu Sâu Nghĩa Thú Rơi Lệ Khóc Thương Mà Bạch Phật
Rằng:

Hy Hữu
Thay Thế Tôn! Phật Thuyết Kinh Điển Thậm Thâm Như Thế, Con Từ Trước Đến Nay Đã
Được Huệ Nhãn Mà Chưa Từng Được Nghe Kinh Như Thế, Thế Tôn, Nếu Lại Có Người Được
Nghe Kinh Này, Lòng Tin Thanh Tịnh Tức Sanh Thực Tướng. Nên Biết Người Này
Thành Tựu Được Công Đức Hiếm Có Đệ Nhất. Thế Tôn! Thực Tướng Này Tức Chẳng Phải
Tướng Nên Như Lai Gọi Là Thực Tướng. Thế Tôn! Con Nay Được Nghe Kinh Điển Như
Thế, Tin Hiểu Thọ Trì Không Đủ Là Khó. Nếu Đời Sắp Tới, Sau 500 Năm, Có Chúng
Sanh
Được Nghe Kinh Này, Tin Hiểu Thọ Trì Thì Người Này Là Hy Hữu Đệ Nhất. Vì Sao?
Vì Người Này Chẳng Có Tướng Ngã, Tướng Nhân, Tướng Chúng Sanh, Tướng Thọ Giả.
Vì Sao Như Thế? Tướng Ngã Tức Không Tướng, Tướng Nhân, Tướng Chúng Sanh, Tướng
Thọ Giả Tức Không Phải Tướng. Vì Sao? Vì Lìa Tất Cả Tướng Tức Gọi Chư Phật.

Phật Bảo
Tu Bồ Đề:

– Đúng
Thế! Đúng Thế! Nếu Lại Có Người Nghe Được Kinh Này, Chẳng Kinh Chẳng Sợ, Chẳng
Hãi. Nên Biết Người Này Rất Là Hiếm Có. Vì Sao? Tu Bồ Đề! Như Lai Thuyết Đệ
Nhất Ba La Mật Tức Chẳng Phải Đệ Nhất Ba La Mật Mới Gọi Là Đệ Nhất Ba La Mật.

Giải:

Đây là ấn khế
tâm Phật nhập vào tri kiến Phật. Nhưng nhóm Ngài Không Sanh, các vị Tiểu Thừa
cùng chúng sanh đều là hạng chấp tướng, tức là Phật ra đời đến nay, đã hơn hai
mươi năm, thuyết các pháp chưa từng lìa tướng, sợ họ sanh nghi nên để hở mà
dạy, nhiều cách đào thải đến nay mới lộ ra bổn tâm. Vì sao? Vì bổn nguyện của
Phật là muốn khiến tất cả đều thú hướng đến đất Đại thừa rốt ráo. Nay sẽ dẫn
người Tiểu thừa xưa phát tâm Đại thừa, đặc biệt lấy tâm địa Kim Cang này làm
gốc tu nhân. Do đó trước dùng tâm này đoạn các nghi kia khiến sanh chánh tín.
Bát Nhã này là cửa ban đầu bước vào Đại thừa, là sơ tâm để Bồ Tát phát sanh
giác ngộ. Chỗ nói hộ niệm phó chúc là tâm này vậy. Vì đệ tử Tiểu thừa chưa hề
nghe mà nay mới nghe, từ xưa chưa hiểu mà nay mới ngộ, giống như đứa con mất
sữa chợt gặp mẹ hiền. Do đó Không Sanh vừa nghe, cảm kích rơi lệ cũng là đích
đáng. Vì thế tán thánhy hữu. Trước ngài Không Sanh khen Thế Tôn hy hữu
mới lóe thấy được tâm này của Thế Tôn nhưng vẫn chưa nghe nói đầy đủ. Nay được
Thế Tôn lộ hết, lớp lớp đuổi phá tiêu hết mối nghi. Đây mới thật là tâm hiếm
có. Bởi từ xưa đến nay chưa được nghe, thật là pháp hiếm có. Không Sanh tự
trình bày chỗ ngộ của mình, lại kích phát đồng bạn, ý nói tôi nghe mà ngộ, tự
nói hiếm có. Nếu lại có một người nghe có thể tin tự tâm thanh tịnh như thế,
thì thực tướng hiện tiền, các vọng tiêu diệt. Người này cũng tự là người hiếm
có. Vì sao? Vì pháp lìa tướng rất khó tin hiểu vậy.

Vả lại chúng ta
thân thấy Như Lai tuy là khó tin nhưng nghe diệu âm của Phật thì tin hiểu cũng
chẳng khó. Khi Phật diệt )1(độ cách đời thánh đã xa,
sau 500 năm, năm ác trược nặng, thời ma thạnh pháp yếu. Người có thể tin được pháp
này rất là khó. Nếu có người có thể tin thì đó là người hiếm có đệ nhất. Sao
thế? Vì người này có thể lìa bốn tướng. Nhưng bốn tướng là như như. Rõ được điều
này tức thấy được pháp thân. Nên nói “Hay lìa tất cả tướng tức gọi là Phật”.
Đây thật là hiếm có. Thế Tôn nghe nói bèn ấn hứa “Đúng thế! Đúng thế! Thật như lời
ông nói”. Vì pháp này lớn mà căn cơ nhỏ, người nghe đều sanh kinh nghi, sợ hãi.
Nghe mà không sanh kinh nghi sợ hãi quả là người hiếm có, vì chỗ ta nói chẳng ở
nơi lời. Nên nói “Tức chẳng phải đệ nhất mới gọi là đệ nhất”.

Nghi:

Trước nói bố
thí
là vật thọ dụng sáu trần, tức là bố thí bên ngoài (ngoại thí). Một bề khó
xả đã xả, tức xả cũng mong cầu phước. Thế Tôn đã dạy chẳng cho trụ tướng, nói
rằng phước vô tướng lớn hơn, đã vậy lại nói chẳng những đem bảy báu bố thí
không bằng phước vô tướng, mà ngay cả đem phước bố thí thân mạng như hằng sa
cũng khó so bằng. Lấy thân mạng là thí bên trong (nội thí). Nên Không Sanh lại
nghi rằng ngoại thí có thể quên, còn thân mạng khó xả, làm sao có thể xả được?
Thế Tôn biết được ý này nên rộng thuyết hạnh nhẫn nhục để phá. Cắt đứt thân thể
mà chẳng sân hận thì ngã không. Đây là ý nghi của đương cơ. Mật ý trong kinh
này là Thế Tôn muốn ngầm phá hai chấp ngã và pháp của Bồ Tát. Nhưng ngã chấp
thân tâm ngũ uẩn. Lại, thân ngũ uẩn này có giả danh, có thực pháp. Trước phá
giả danh, nay lấy cắt đứt thân thể để nghiệm phá thực pháp của ngũ uẩn.

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Nhẫn Nhục Ba La Mật, Như Lai Nói Chẳng Phải Nhẫn Nhục Ba La Mật Gọi Là Nhẫn
Nhục Ba La Mật
. Vì Sao? Tu Bồ Đề! Như Ta Xưa Bị Ca Lợi Vương Cắt Đứt Thân Thể, Lúc
Đó Ta Không Có Ngã Tướng, Không Nhân Tướng, Không Chúng Sanh Tướng, Không Thọ
Giả Tướng
. Sao Thế? Lúc Xưa, Khi Mỗi Phần Thân Bị Cắt Ra, Nếu Ta Có Ngã Tướng,
Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, Thọ Giả Tướng, Lẽ Ra Phải Sanh Sân Hận. Tu Bồ Đề,
Lại Nhớ Quá Khứ, Ở Năm Trăm Đời Ta Làm Tiên Nhân Nhẫn Nhục, Ở Các Đời Đó, Ta
Không Có Tướng Ngã, Tướng Nhân, Tướng Chúng Sanh, Tướng Thọ Giả. Vì Thế, Tu Bồ
Đề
Bồ Tát Nên Lìa Tất Cả Tướng, Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề, Chẳng Nên Trụ Sắc
Sanh Tâm, Chẳng Nên Trụ Thinh Hương Vị Xúc Pháp Sanh Tâm. Nên Sanh Tâm Không
Chỗ Trụ. Nếu Tâm Có Trụ Tức Chẳng Phải Trụ. Cho Nên Phật Nói Tâm Bồ Tát Chẳng
Nên Trụ Sắc Bố Thí. Tu Bồ Đề, Bồ Tát Vì Lợi Ích Tất Cả Chúng Sanh Nên Bố Thí
Như Thế. Như Lai Thuyết Tất Cả Tướng Tức Chẳng Phải Tướng. Lại Nói Tất Cả Chúng
Sanh
Tức Chẳng Phải Chúng Sanh.

Giải:

Đây là phá thực
pháp của ngủ uẩn. Để kết thúc, đáp lại câu hỏi “nên trụ thế nào?” Không Sanh
vừa nghe thân mạng bố thí, chẳng đạt được năm ấm vốn không, bèn nghi mà chẳng
tin, cho là rất khó. Nói bố thí 7 báu bên ngoài chẳng trụ ở tướng thì còn có
thể làm được. Nhưng xả thân mạng thì chẳng thể được. Không xả thân mạng thì ngã
tướng
chưa không. Rõ ràng là dính mắc nơi tướng thì khó khế hợp với chân không.
Nên Thế Tôn đặc biệt nêu ra hạnh nhẫn nhục, lúc bị Ca Lợi Vương cắt đứt thân
thể
, nếu ta chưa quên bốn tướng thì sanh sân hận. Do đó không sân là đạt bổn
tánh của năm ấm vốn không. Chỗ nói cắt nước, thổi ánh sáng, trạm nhiên chẳng
động, vì lìa tất cả tướng. Cho nên Ta dạy Bồ Tát nên lìa tất cả tướng phát tâm
Bồ Đề, chẳng nên trụ ở lục trần mà sanh tâm. Nên sanh tâm không chỗ trụ. Đây là
kết thúc văn trước gồm hội ý chỉ lìa tướng để đáp câu hỏi “làm sao trụ”. Lại dạy
rằng “Nếu tâm có chỗ trụ thì tâm cảnh đều là hư vọng, ắt là không phải trụ”.
Cho nên Phật thuyết Bồ Tát chẳng nên trụ ở tướng sắc mà hành bố thí là đây vậy.
Nhưng Bồ Tát đã vì lợi ích tất cả chúng sanh, đáng nên bố thí như thế mới là
diệu hạnh. Chẳng thể chấp trước mà sanh cái thấy ức đoán riêng. Như Lai thuyết
tất cả tướng đều là chân như, tất cả chúng sanh tức là chân như. Do đó trước
nói “Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai”. Nên trong phần
kết thúc Phật dạy rằng: “Các tướng tức là chẳng phải tướng, chúng sanh tức
chẳng phải chúng sanh”.

Nghi:

Đã nói chẳng
trụ ở tướng thì tất cả đều không, tức trí năng chứng cũng không, vì không có
Thể. Pháp không thể thì đâu có thể gây nhân lãnh quả? Ý đáp thật ra là khiến chỉ
nên tin chắc lời Phật dạy rằng cảnh giới tự chứng của Như Lai quyết không
dối
.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Như LaiChân Ngữ, Thật Ngữ, Như Ngữ, Bất Cuống Ngữ, Bất Dị Ngữ (nói
chân, nói thật, nói như, nói chẳng dối, nói chẳng khác). Tu Bồ Đề! Như Lai Đắc
Pháp
, Pháp Này Chẳng Thực, Chẳng Hư.

Giải:

Kết thúc này
khiến tin chắc thật. Không Sanh nghe Phật nói nhân quả đều không, liền nghi
rằng quả không thì chẳng cần dùng nhân. Nhân không thì chẳng thể được quả. Nay
trong nhân hành bố thí lại thêm sanh tâm chẳng trụ thì không quả thật có thể
chứng. Thế Tôn chỉ dạy chỉ cần thật tin chắc lời Phật, chẳng cần khởi nhiều
niệm nghi. Vì pháp Như Lai đắc được chẳng thực chẳng hư, chẳng thể đem tình
thức chấp trước mà cầu được. Dùng đây để phá.

Nghi:

Chẳng trụ
tướng
bố thí mà sanh tâm, tức đây là sanh tâm chẳng trụ, thì lấy gì hợp được
Bát Nhã? Dưới đáp phá.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Nếu Tâm Bồ Tát Trụ Ở Pháp Mà Hành Bố Thí Giống Như Người Vào Bóng Tối Thì
Không Thấy Gì. Nếu Tâm Bồ Tát Chẳng Trụ Pháp Mà Hành Bố Thí Thì Như Người Có Mắt,
Ánh Mặt Trời Chiếu Sáng, Thấy Các Thứ Sắc.

Giải:

Đây dạy sự lợi
ích
của Vô Trụ. Tâm có chỗ trụ thuộc về vô minh, vì tâm bị cảnh chướng. Như
người vào tối chẳng thấy một vật. Tâm không trụ, các chướng được trừ hết. Nhân
ngã
cả hai đều mất. Như mặt trời lên cao chiếu khắp vạn tượng. Do đó tâm không
chỗ trụ này là Bát Nhã chân thật. Chỗ chứng của Phật chỉ là tâm này mà thôi.

Nghi:

Lại, tâm
trụ
này, nếu là Bát Nhã làm sao có thể khế hợp với tâm Phật? Dưới đáp phá.

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Ở Đời Vị Lại Nếu Có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn Có Thể Nơi Kinh Này Thọ
Trì
, Đọc Tụng Thì Như Lai Dùng Trí Huệ Phật Ắt Biết Người Nầy Đều Được Thành
Tựu
Vô Lượng Vô Biên Công Đức. Tu Bồ Đề! Nếu Có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn
Buổi Sáng Sớm Lấy Thân Mạng Bằng Số Cát Sông Hằng Bố Thí, Buổi Trưa Lấy Thân Mạng
Bằng Số Cát Sông Hằng Bố Thí, Buổi Chiều Lấy Thân Mạng Bằng Số Cát Sông Hằng Bố
Thí
, Như Thế Vô Lượng Trăm Ngàn Vạn ức Kiếp Dùng Thân Bố Thí. Nếu Lại Có Người Chỉ
Nghe Kinh Điển Này, Tín Tâm Chẳng Trái Nghịch, Phước Đó Hơn Người Kia, Huống Gì
Ghi Chép Thọ Trì, Đọc Tụng, Vì Người Giải Nói.

Giải:

Đây bình đẳng vậy. Cái nghi của Không)1(dạy tâm và Phật Sanh toan bảo trí mình chẳng khế
hợp với trí Phật. Ý của Phật là Bát Nhã không văn tự, văn tự tức Bát Nhã; nhưng
Ta thuyết kinh này tức toàn bộ Bát Nhã. Nếu có người có thể tin nhận, ắt là
diệu khế với trí Phật. Phật dùng bổn trí rõ biết người này công đức vô lượng.
Đây là công đức của một niệm chóng khế hợp với tâm Phật. Giả sử, một ngày ba
thời dùng thân mạng như cát sông Hằng bố thí, công đức của người này hẳn nhiều,
nhưng chẳng bằng người có một niệm tín tâm tùy thuận Bát Nhã chẳng trái nghịch.
Có thể nói khéo nhập trí huệ Phật, phước này càng lớn hơn. Huống là lại biên
chép thọ trì đọc tụng, vì người khác giảng nói ư!

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Tóm Lại, Kinh Này Có Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn, Chẳng Thể Cân Lường,
Chẳng Có Bờ Mé. Như Lai Vì Người Phát Tâm Đại Thừa Mà Nói, Vì Người Phát Tâm
Tối Thượng Thừa Mà Nói. Nếu Có Người Có Thể Thọ Trì Đọc Tụng, Rộng Vì Người
Khác Nói, Như Lai Tất Biết Người Này, Tất Thấy Người Này Đều Thành Tựu Công Đức
Chẳng Thể So Lường, Chẳng Thể Cân Nhắc, Không Có Giới Hạn, Chẳng Thể Nghĩ Đến.
Hạng Người Như Thế Tức Là Gánh Vác Vô Thượng Bồ Đề Của Như Lai. Sao Vậy? Tu Bồ
Đề! Nếu Người Vui Pháp Nhỏ Thì Dính Mắc Ngã Kiến, Nhân Kiến, Chúng Sanh Kiến, Thọ
Giả
Kiến. Tức Nơi Kinh Này Chẳng Thể Nghe, Thọ Trì, Đọc Tụng, Vì Người Khác
Giảng Nói.

Giải:

Đây là tán thán
Bát Nhã chỉ dành riêng cho người căn cơ thượng thượng. Trước thường nói chấp
vào 4 tướng, đó là thô. Nay nói chấp vào 4 kiến, đó là tế.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Chỗ Chỗ Nơi Nơi Nếu Có Kinh Này Thì Tất Cả Thế Gian Trời, Người, A Tu La
Đều Phải Cúng Dường. Nên Đều Nên Cung
Kính
, Làm Lễ Vây
)1(Biết Đây Là Tháp Quanh, Dùng Hoa Hương Mà Rải.

Giải:

Đây là tán thán
Bát Nhã Pháp thân thường trụ.

Chánh
Văn:

Lại Nữa
Tu Bồ Đề! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn Thọ Trì, Đọc Tụng Kinh Này, Nếu Bị Người
Khinh Rẻ Người Này Tội Nghiệp Đời Trước, Đáng Lẽ Rơi Vào Đường Ác. Vì Đời Này
Bị Người Khinh Rẻ, Thì Tội Nghiệp Đời Trước Ắt Là Tiêu Diệt, Sẽ Được Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác
.

Giải:

Đây là tán thán
Bát Nhãlợi ích lìa chướng, ra khỏi sự ràng buộc, chẳng những diệt tội
còn được quả thù thắng.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ Đề!
Ta Nhớ Vô Thượng A Tăng Kỳ Kiếp Quá Khứ Ở Trước Phật Nhiên Đăng, Được Gặp 8
Trăm 4 Ngàn Vạn ức Na Do Tha Chư Phật Thảy Đều Cúng Dường, Thừa Sự, Chẳng Hề
Lơi Lỏng. Nếu Lại Có Người Ở Đời Sau Có Thể Thọ Trì, Đọc Tụng Kinh Này, Công
Đức
Có Được Đối Với Công Đức Cúng Dường Chư Phật Của Ta Nhiều Gấp Trăm Phần, Ngàn
Vạn ức Phần, Cho Đến Toán Số Ví Dụ Đều Chẳng Thể Đến. Tu Bồ Đề! Nếu Thiện Nam
Tử
Thiện Nữ Nhơn Ở Đời SauThọ Trì, Đọc Tụng Kinh Này, Công Đức Có Được, Nếu
Ta Nói Đầy Đủ Sẽ Có Người Nghe Sanh Tâm Cuồng Loạn, Hồ Nghi Chẳng Tin, Này Tu
Bồ Đề! Nên Biết, Ý Nghĩa Kinh Này Chẳng Thể Suy Nghĩ, Quả Báo Cũng Chẳng Thể
Suy Nghĩ.

Giải:

Đây là tán thán
người ngộ Bát Nhã một niệm chóng sanh vào nhà Phật, đời đời kiếp kiếp trọng
chẳng rời Phật, nên công đức này rất là thù thắng. Đời sau, trong thời mạt pháp
nếu có người có thể tin, công đức còn lớn hơn. Vì công đức Bát Nhã này không
thể suy nghĩ nên quả báo cũng chẳng thể nghĩ lường.

Từ ban đầu đã
hỏi “Làm sao an trụ, làm sao hàng phục tâm?”. Đến đây phá suốt nghi chấp của
chúng sanh phàm phu phát đại tâm tu hạnh Bồ Tát. Nhưng hai cái chấp về ngã và
pháp có thô, có tế. Trước đã phá hai chấp thô, tức là chấp thân tâm năm ấm
ngã và chấp việc làm của ta là hành lục độ duyên theo trần muốn cầu Bồ Đề, đó
chấp pháp. Hai chấp này đều là chấp tướng. Đây là phá cái nghi của Bồ Tát
mới phát tâm chưa ngộ được Bát Nhã để hiển ý: “dưới chẳng thấy chúng sanh
thể độ”. Sau đây bèn phá hai chấp ngã vi tế. Bồ Tát đã ngộ Bát Nhã nhưng còn
chấp:

– Có trí năng
chứng làm ngã.
– Có chân như sở
chứng làm nhân
– Năng chứng năng
ngộ là chúng sanh
Chứng ngộ chưa
quên, thầm thầm liên tục như mạng số là thọ giả.

Bốn tướng này
hết sức vi tế. Hai chấp vi tế này còn cái ngã giác ngã, cho nên văn dưới phát
huy chỉ nêu chữ “ngã”. Nếu phá chấp ngã này thì “Trên chẳng có quả Phật có thể
cầu”. Đoạn kinh này cùng với phần ở trước câu . Người đọc nên biết.)1(thì đồng mà ý thì khác

Chánh
Văn:

Lúc Đó Tu
Bồ Đề
Bạch Phật Rằng:

– Thưa
Thế Tôn! Thiện Nam
Tử Thiện Nữ Nhơn Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề Làm Sao An Trụ, Làm Sao Hàng Phục Tâm?

Phật Bảo
Tu Bồ Đề:

– Nếu
Thiện Nam
Tử, Thiện Nữ Nhơn Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề Nên Sanh Tâm Thế Này! Ta Nên Diệt Độ
Tất Cả Chúng Sanh, Diệt Độ Tất Cả Chúng Sanh Rồi Mà Không Có Một Chúng Sanh
Được Diệt Độ. Vì Sao? Tu Bồ Đề, Nếu Bồ Tát Có Tướng Ngã, Tướng Nhân, Tướng
Chúng Sanh, Tướng Thọ Giả Tức Chẳng Phải Bồ Tát, Vì Sao Như Thế? Vì Thực Không
Có Pháp Phật Tâm Vô Thượng Bồ Đề.

Giải:

Từ đây trở
xuống là phá hai chấp vi tế về ngã và về pháp. Phần đầu kinh nêu câu hỏi “Làm
sao an trụ, làm sao hàng phục tâm”, vì đối với Bồ Tát mới phát tâm còn ở trong phàm
phu
, tức là những chúng sanh tâm lớn mới phát tâm độ sanh. Do đó có các thứ
chấp tướng:
– Nương dính vào
sắc thân năm uẩn của chính mình mà tu hành.
– Hành bố thí còn
chấp trước vật thô sáu trần mà cầu quả phước.
– Cầu Bồ Đề
chấp trước thân sắc tướng của Hóa Phật.
– Cõi nước là cõi
nước có vật báu trang nghiêm.

Các thứ hành
đều không lìa tướng nên cách Bát Nhã rất xa.

Không Sanh khởi
nghi tới đâu bị Phật lớp lớp phá trừ tới đó, thẳng đến tất cả các tướng đều lìa
mới khế hợp được thực trí Bát Nhã chân như mà Không Sanh đã ngộ. Từ đây mối
nghi của đại chúng mới tiêu tan. Kinh văn này chẳng thể nghĩ nghì. Nửa quyển về
trước đều là ý này. Chỗ phá ngã này đều y nơi cái thấy của phàm phu khởi lên,
tức cái ngã của sắc tướng năm ấm, bốn tướng đều thô. Từ đoạn kinh này về sau là
phá cái chấp của Bồ Tát đã ngộ Bát Nhã, chỉ ra trí năng chứng chưa quên và lấy
đây chấp trước làm ngã: Đây là còn ngã giác ngã, là hai chấp vi tế về ngã và
pháp, bốn tướng đều tế. Vì thế đoạn kinh này nêu ra một chữ “ngã” làm đầu. Chỉ
nói “Ta nên diệt độ chúng sanh” mà không nói về bố thí, tức là công đức đã
tròn, chỉ còn cái thấy chúng sanh và Phật chưa mất. Do đó trước thô sau tế. Hỏi
“Trí tế này là ngã, sao lại hỏi “thế nào an trụ, thế nào hàng phục tâm” giống
với câu hỏi trước?”. Đáp: “Hỏi an trụ vì Bồ Tát này đã lìa ngũ uẩn nhưng vẫn
còn tập khí nên ở trong trí Chân như cũng cần cầu an trú. Vả lại vì gấp gáp
muốn cầu Bồ Đề, chấp rằng Bồ Đề có chỗ trụ, cầu mà chẳng được nên tâm này chẳng
an, cho nên nói “hàng phục”. Tâm cầu Phật này chưa an vì còn cái thấy phân biệt
giữa chúng sanh và Phật, do đó chẳng đạt được bình đẳng nhất như. Câu hỏi tuy
đồng mà ý khác. Nên Thế Tôn phá rằng: Người phát Bồ Đề nên quán thế này “Ta diệt
độ
tất cả chúng sanh xong, thực không có một chúng sanh được diệt độ”, vì chúng
sanh
vốn tự như như chẳng đợi diệt nữa. Nếu chấp có diệt độ thì dính mắc bốn
tướng, chẳng phải Bồ Tát. Đây là chẳng thấy chúng sanh có thể độ. Nhưng chúng
sanh
và Phật xưa nay bình đẳng. Chúng sanh đã không thể diệt thì thực không
pháp để có Bồ Tát phát tâm cầu Bồ Đề. Vì sao? Vì chúng sanh vốn tự tịch diệt,
tức là Bồ Đề rồi, như vậy làm sao còn phải cầu nữa? Đây không thấy quả Phật có
thể cầu.

Nghi:

Đã thực không
pháp có thể được Bồ Đề, thì chỗ ngộ Bát Nhã của tôi há không phải là pháp sao?
Thế Tôn ở chỗ Phật Nhiên Đăng nhân được pháp này mới thành Phật, há chẳng
phải được Bồ Đề ư? Sao nói không pháp có thể được? Nên dưới phá.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Như Lai ở Chỗ Phật Nhiên Đăng Có Pháp Được Vô Thượng Bồ Đề Chăng?

– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn! Như Con Hiểu Nghĩa Phật Nói, Phật ở Chỗ Phật Nhiên Đăng
Không Có Pháp Được Vô Thượng Bồ Đề.

Phật Nói:

– Đúng
Thế! Đúng Thế! Tu Bồ Đề, Thực KhôngPháp Như Lai Được Vô Thượng Bồ Đề. Tu Bồ
Đề
, Nếu Có Pháp Như Lai Được Vô Thượng Bồ Đề Thì Phật Nhiên Đăng Đã Chẳng Thọ
Cho Ta ở Đời Sau Này Sẽ Được Làm Phật, Hiệu Thích Ca Mâu Ni. Vì Thực Không
Có Pháp Được Vô Thượng Bồ Đề Nên Phật Nhiên Đăng Thọ Ký Cho Ta Nói Rằng “Ông Ở Đời
Sau
Sẽ Được Thành Phật Hiệu Thích Ca Mâu Ni”.

Giải:

Đây dạy Bồ Đề
không có đắc, để phá nghi chấp về Phật, Không Sanh nghi Phật ở chỗ Phật Nhiên
Đăng thực có pháp có thể được. Thế Tôn lần lượt theo phá cái nghĩ hư vọng, chính
để hiển thực không có một pháp có thể được.

Nghi:

Pháp Bát Nhã
là nhân chân thật để thành Phật. Nay nói không pháp thì không nhân thì làm sao
được quả Bồ Đề? Dưới đây lấy Pháp thân không thuộc nhân quả để phá.

Chánh
Văn:

– Vì Sao?
Như Lai Là Nghĩa Như Của Các Pháp. Nếu Có Người Nói Như Lai Được Vô Thượng Bồ
Đề
, Này Tu Bồ Đề, Thực Không Có Pháp Phật Được Vô Thượng Bồ Đề. Tu Bồ Đề! Như
Lai
Được Vô Thượng Bồ Đề Ở Trong Đó Không Thực Không Hư. Thế Nên Như Lai Nói:
“Tất Cả Pháp Đều Là Phật Tu Bồ Đề! Nói
Tất Cả Pháp Tức Chẳng Phải
)1(Pháp” Pháp, Ấy Gọi Là Tất Cả Pháp. Tu Bồ Đề! Ví Như
Thân Người To Lớn.

Tu Bồ Đề
Nói:

– Bạch
Thế Tôn! Như Lai Nói Thân Người To Lớn Tức Là Không Phải Thân Lớn, Đó Gọi Là
Thân Lớn.

Giải:

Đây hiển bày
Pháp thân chẳng thuộc nhân quả. Không Sanh chẳng đạt chân thể của Pháp thân nên
không biết đó chẳng thuộc nhân quả, vì thế mới chấp rằng Như Lai có tu có đắc. Do
đó Phật lấy vô sở đắc để phá. Còn e chẳng ngộ nên phải dạy thẳng rằng: Sở dĩ
nói Bồ Đề không chỗ được là vì Như Laikhông sắc tướng, là nghĩa đương thể
như như của các pháp. Lại nữa, các pháp vốn tự như như, há mượn tu rồi chứng
đắc
ư? Nên Ta nói Bồ Đề thật không có pháp cho Phật có thể đắc. Trong Tông môn
có nói “Một đường hướng thượng, chư Phật ba đời chẳng cho dòm đến, dòm đến thì
mắt phải mù”, vì trong đây không chỗ để nắm bắt kiếm tìm. Bồ Đề thật ra không
một chút kỳ đặc gì, chỉ là ở các pháp chẳng khởi cái thấy đoạn thường, điên
đảo
. Do đó nói không thực, không hư. Tất cả pháp đều chẳng phải pháp. Nếu biết
thân
lớn chẳng phải thân, tất biết các pháp chẳng phải pháp.

Nghi:

Vì nghe thực
không
có pháp để cho phát tâm nên nghi rằng “Vì ta có pháp độ sanh mới gọi là
Bồ Tát, đã không có pháp sao gọi là Bồ Tát?” Dưới lấy vô pháp vô ngã để phá.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Bồ Tát Cũng Thế. Nếu Nói Như Vầy: “Ta Sẽ Diệt Độ Vô Lượng Chúng Sanh” Thì
Chẳng Được Gọi Là Bồ Tát. Vì Sao? Tu Bồ Đề! Thực Không Có Pháp Gọi Là Bồ Tát
Nên Phật Nói Tất Cả Pháp Không Ngã, Không Nhân, Không Chúng Sanh, Không Thọ
Giả
. Nếu Bồ Tát Nói: “Ta Sẽ Trang Nghiêm Cõi Phật” Thì Chẳng Gọi Là Bồ Tát. Vì
Sao? Như Lai Nói Trang Nghiêm Cõi Phật Tức Chẳng Phải Trang Nghiêm, Ấy Mới Gọi
Trang Nghiêm. Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát Thông Đạt Pháp Vô Ngã, Như Lai Nói Đó
Thật Là Bồ Tát.

Giải:

Đây dạy Pháp
thân
vô ngã để phá hai chấp vi tế của Bồ Tát. Không Sanh chấp có pháp độ sanh
mới gọi là Bồ tát. Thế Tôn bảo pháp thật chẳng có để trừ chấp pháp. Sợ nghi rằng
“Không pháp độ sanh thì làm sao trang nghiêm cõi Phật”, nên Thế Tôn dạy rằng cõi
Thường Tịch Quang
chẳng mượn trang nghiêm, để trừ tâm trụ, phá ngã chấp. Hai
cái này vô ngã. Nếu chẳng đạt lý thì chẳng phải Bồ Tát thật. Do đó phải thông
đạt
pháp vô ngã, Như Lai mới nói là thật Bồ Tát.

Nghi:

Nếu Bồ Tát
chẳng thấy chúng sanh có thể độ, không thấy cõi nước có thể tịnh, thì Như Lai
cần ngũ nhãn làm gì? Để phá mối nghi này Phật bảo đoán biết được tâm chúng sanh
là mắt, chẳng phải thật có ngũ nhãn.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Ý Ông Nghĩ Sao? Như LaiNhục Nhãn Chăng?

– Đúng Vậy,
Bạch Thế Tôn! Như LaiNhục Nhãn.

– Tu Bồ Đề!
Ý Ông Nghĩ Sao? Như LaiThiên Nhãn Chăng?

– Đúng Vậy,
Bạch Thế Tôn! Như LaiThiên Nhãn.

– Tu Bồ Đề!
Ý Ông Nghĩ Sao? Như LaiHuệ Nhãn Chăng?

– Đúng Vậy,
Bạch Thế Tôn! Như LaiHuệ Nhãn.

– Tu Bồ Đề!
Ý Ông Nghĩ Sao? Như LaiPháp Nhãn Chăng?

– Đúng Vậy,
Bạch Thế Tôn! Như LaiPháp Nhãn.

– Tu Bồ Đề!
Ý Ông Nghĩ Sao? Như LaiPhật Nhãn Chăng?

– Đúng Vậy,
Bạch Thế Tôn! Như LaiPhật Nhãn.

– Tu Bồ Đề!
Ý Ông Nghĩ Sao? Như Số Cát Trong Sông Hằng, Phật Nói Là Cát Chăng?


– Đúng Vậy,
Bạch Thế Tôn! Như Lai Nói Là Cát.

Tu Bồ Đề Ý
Ông Nghĩ Sao? Ví Như Có Số Cát Trong Một Sông Hằng Và Có Số Sông Hằng Bằng Số
Cát Đó, Và Có Số Cát Của Các Sông Hằng Đó, Thế Giới Của Phật Như Thế Có Nhiều
Không?

– Rất Nhiều,
Bạch Thế Tôn!

Phật Bảo Tu
Bồ Đề
:

Chúng Sanh
ở Trong Những Quốc Độ Có Ngần Ấy Thứ Tâm, Như Lai Đều Biết. Vì Cớ Sao? Như Lai
Nói Các Tâm Đều Chẳng Phải Là Tâm. Vì Sao Như Thế? Tu Bồ Đề! Tâm Quá Khứ Chẳng Thể
Được, Tâm Hiện Tại Chẳng Thể Được, Tâm Vị Lai Chẳng Thể Được.

Giải:

Đây dạy tâm,
Phật và chúng sanh, cả ba không sai khác. Ngài Không nên nói có pháp có)1(Sanh nghi Phật có đủ ngũ nhãn thể thấy, và có
thế giới, chúng sanh tương xứng. Thế Tôn bảo đủ ngũ nhãn chẳng phải là mắt, mà
thấy biết tâm chúng sanh mới gọi là mắt. Lại như hằng sa thế giới vô lượng
chúng sanh, với chừng ấy loại tâm, Như Lai đều biết thấy. Vì chúng sanh
chúng sanh trong tự tâm Như Lai, nên chúng sanh hễ động một niệm tức tự tâm Như
Lai
động. Như thế làm sao chẳng biết chẳng thấy? Lại nghi tâm chúng sanh
sanh diệt, vậy tâm Như Lai cũng sanh diệt sao? Do đó Thế Tôn nói chúng sanh
trong đây, tâm vốn tự như như, trọng không sanh diệt, cùng với tâm Như Lai tịch
diệt
bình đẳng, tuyệt không có tướng sanh tử, đến đi. Tâm, Phật và chúng sanh
cả ba không sai khác, nên ba thời cầu tâm trọn không thể được.

Nghi:

Thế Tôn một
lần
phá chấp, nói không có cõi đất có thể trang nghiêm, không có chúng sanh
thể độ. Và sợ Không Sanh nghe mà suy nghĩ loang quanh, cho rằng nếu bảo chúng
sanh
và cõi đất đều không, thì bố thí chẳng có phước, cũng chẳng cần tu. Do đó
Thế Tôn phá nghi, nói cái phước của không phước rất lớn.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Ý Ông Nghĩ Sao? Nếu Có Người Đem Bảy Báu Đầy Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới
Dùng Để Bố Thí, Người Này Do Nhân Duyên Này Được Phước Nhiều Chăng?

– Đúng
Thế, Bạch Thế Tôn! Người Này Do Nhân Duyên Này, Được Phước Nhiều. Tuy Nhiên
Phước Đức Là Không, Như Lai Nói Được Nhiều Phước Đức.

Giải:

Đây dạy cái
phước của vô tướng. Không Sanh vì chấp trước bố thí có tướng nên nói thật không
phước đức. Riêng chẳng biết sáu trần “năng thí” vốn không thì phước đức “sở
đắc” không có. Do đó Thế Tôn lấy “phước đức không, nên phước đức nhiều” để phá.
Chỗ nói là không, chẳng phải tuyệt không, vì tâm lượng như hư không, nên được
phước đức càng lớn.

Nghi:

Không Sanh
nhân
nghe chẳng cho trụ tướng độ sanhtrang nghiêm cõi Phật bèn khởi nghi
rằng: Độ sanhtrang nghiêm cõi Phật là cái nhân thành Phật, cảm cái quả của
sự trang nghiêm nên vạn đức đầy đủ. Nay lại nói không chúng sanh để độ, không
cõi Phật có thể trang nghiêm thì dứt hết không có nhân. Lại nói không Bồ Đề
thể chứng thì không có quả. Nhân quả đều dứt tuyệt thì không có Phật. Nhưng hiện
thấy Như Lai đầy đủ sắc tướng thì từ đâu mà có? Nên Phật dùng “Chẳng nên lấy
sắc tướng đầy đủ mà thấy Như Lai” để phá.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Ý Ông Nghĩ Sao? Phật Có Thể Lấy Thân Sắc Tướng Mà Thấy Chăng?

– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn! Như Lai Chẳng Nên Dùng Sắc Thân Đầy Đủ Để Thấy. Vì Sao?
Như Lai Nói Sắc Thân Đầy Đủ Tức Chẳng Phải Sắc Thân Đầy Đủ, Ấy Gọi Là Sắc Thân Đầy
Đủ.

– Tu Bồ
Đề! Ý Ông Nghĩ Sao? Như Lai Có Thể Dùng Các Tướng Đầy Đủ Để Thấy Chăng?

– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn! Như Lai Chẳng Nên Lấy Các Tướng Đầy Đủ Để Thấy. Vì Sao?
Như Lai Nói Các Tướng Đầy Đủ Tức Chẳng Phải Đầy Đủ, Ấy Gọi Là Các Tướng Đầy Đủ.

Giải:

Đây là phá cái
chấp về sắc tướng của báo thân để hiển bày pháp, báo thân ngầm là một.

* Sắc thân đầy
đủ là báo thân Phật vạn đức trang nghiêm. Vì nhiều kiếp độ sanh trang nghiêm
cõi Phật cảm thành quả báo này để xứng với nhân vậy. Do đó Như Lai nói sắc thân
đầy đủ.

* Vả lại báo
thân
này vốn là pháp thân, nên nói tức chẳng phải sắc thân đầy đủ.

Đây là phá
tướng “được thấy”. Dưới đây phá cái thấy “năng kiến”. Vì báo thân tức pháp thân
nên không tướng có thể thấy. Trí và thể như như nên bệnh thấy tiêu mất. Cảnh và
trí thầm là một nên pháp thân tự hiển lộ. Phàm nói phải, nói trái đều là lời
ngăn chặn sợ rơi vào hang ổ thị phi, nên hai bên ngăn đó, đuổi đó. Vì thế Như
Lai
nói pháp vốn không thể thuyết, chỉ ngăn ngừa tâm bệnh của chúng sanh khiến
chẳng khởi kiến chấp, đuổi trừ tình chấp khiến chẳng trụ trước. Chỉ có như vậy
thôi, người học nên biết.

Nghi:

Không Sanh nghe
nói Phật vốn không tướng có thể thấy bèn nghi: Đã không có tướng thân thì ai
đang thuyết pháp đây? Nên Phật lấy “không thể thuyết” để phá.

Chánh Văn:



– Tu Bồ Đề!
Ông Chớ Nói Như Lai Nghĩ Rằng: Ta Nên Có Chỗ Thuyết Pháp. Chớ Nghĩ Như Thế. Vì
Sao? Nếu Có Người Nói Như Lai Có Chỗ Thuyết Pháp Thì Người Đó Hủy Báng Phật, Chẳng
Hiểu Chỗ Ta Nói. Tu Bồ Đề! Thuyết PhápKhông Pháp Có Thể Thuyết Ấy Gọi Là
Thuyết Pháp.



Giải:

Đây phá cái
nghi báo thân của Như Lai có thể thuyết pháp. Như Lai ra đời vốn không pháp
thể thuyết, chỉ vì tùy theo tình chấp của chúng sanh mà đánh phá, chỉ một chữ
mà thôi. Phàm nói “phi”, nói “không” là cốt dùng lời ngăn che để ngăn chặn vọng
tưởng
của chúng sanh, chính là ý hộ niệm. Cho nên gọi là thuyết pháp.

Nghi:

Không Sanh đã
ngộ lý pháp thân, không nói không dạy, vì pháp này rất sâu, do đó chúng sanh
đời sau chẳng biết có thể tin nhận được chăng. Cho nên mới khởi cái nghi này.
Dưới sẽ lấy “không chúng sanh” để phá.

Chánh
Văn:

Lúc Bấy
Giờ Huệ Mạng Tu Bồ Đề Bạch Phật Rằng:

– Thế
Tôn! Không Biết Chúng Sanh Ở Đời Vị Lai Khi Nghe Thuyết Pháp Có Sanh Lòng Tin
Chăng? Phật Bảo Tu Bồ Đề:

– Đó
Chẳng Phải Chúng Sanh, Chẳng Phải Chẳng Chúng Sanh, Sao Vậy? Tu Bồ Đề! Chúng
Sanh
Chúng Sanh Đó, Như Lai Nói Chẳng Phải Chúng Sanh, Ấy Gọi Là Chúng Sanh.

Giải:

Đây là dạy
chúng sanh và pháp nhất như, để phá cái thấy chấp về chúng sanh. Không Sanh đã
ngộ pháp thân, đã có thể tin, có thể thọ. Tuy nhiên pháp này rất sâu, chẳng
biết ở đời vị lai có thể tin pháp này chăng? Cái thấy sanh diệt của Không Sanh
chưa mất, nên Ngài khởi cái thấy chúng sanh đời vị lai. Thế Tôn đáp:

– Vì chúng sanh
vốn như như, cùng với pháp bình đẳng, thì sao )1(có tướng vị lai được?
Chúng sanh như như, ba thời bình đẳng. Đây thực là cực tắc cứu cánh của Bát
Nhã
. Sáu câu “Đó chẳng phải chúng sanh v.v…”, nghĩa là:

Chúng sanh
vốn tự như như, nên nói: đó chẳng phải chúng sanh.

– Vì chân như
tùy duyên
mà thành các việc, nên nói chẳng phải chẳng chúng sanh

– Rồi lại giải
thích
rằng: chúng sanh tức là chân như tùy duyên, các pháp hòa hợp cùng sanh,
nên nói “chúng sanh giả”.

– Vì tạm gọi là
chúng sanh, nên Như Lai nói chẳng phải thực là chúng sanh.

– Vì chẳng phải
thực có sanh nên gọi là chúng sanh.

Nghi:

Pháp thân
không tướng, không pháp có thể được. Tại sao nói tu tất cả pháp lành thì chứng
được Bồ Đề? Dưới đây lấy “vô đắc bình đẳng” để phá.

Chánh
Văn:

Tu Bồ Đề
Bạch Phật Rằng:

– Thế
Tôn! Phật Được Vô Thượng Bồ ĐềVô Sở Đắc Ư?

Phật Nói:

– Đúng
Thế! Đúng Thế! Tu Bồ Đề, Ta Đối Với Vô Thượng Bồ Đề Cho Đến Không Có Pháp Nhỏ
Nào Có Thể Được, Nên Gọi Là Vô Thượng Bồ Đề. Lại Nữa, Tu Bồ Đề! Pháp Này Bình
Đẳng
, Không Có Cao Thấp, Ấy Gọi Là Vô Thượng Bồ Đề. Vì Không Ngã, Không Nhân,
Không Chúng Sanh, Không Thọ Giả. Tu Tất Cả Pháp Lành Tức Được Vô Thượng Bồ Đề. Tu
Bồ Đề! Chỗ Nói Là Pháp Lành, Như Lai Nói Tức Chẳng Phải Pháp Lành, Ấy Gọi Là
Pháp Lành.

Giải:

Đây là phá cái
thấy về Phật Pháp. Không Sanh đã ngộ pháp thân thanh tịnh, không pháp có thể
được. Tuy nhiên lại nghi Phật nói tu tất cả phá lành được Bồ Đề là có đắc. Há
Bồ Đề của Như Lai thật là không sở đắc ư? Phật nói: Thật không có chỗ đắc vì
chúng sanh và Phật bình đẳng, không hai, không khác, tức là Bồ Đề. Như thế mà
thôi. Há thực có chỗ chứng đắc ư? Chỗ nói tu pháp lành được Bồ Đề chỉ là do lìa
bốn tướng mà tu. Vì tu tức không tu, nên đắc cũng không đắc. Vì không chỗ đắc
ấy gọi là pháp lành chân thật.

Nghi:

Pháp lành đã
không thì pháp nào là hơn? Dưới đây cho “người đạt Bát Nhãthù thắng hơn
hết”.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Nếu Trong Ba Ngàn Đại Thiên Thế Giới, Có Các Núi Chúa Tu Di, Các Bảy Báu Tụ
Nhóm Bằng Như Thế, Có Người Lấy Đem Bố Thí, Và So Với Người Thọ Trì, Đọc Tụng
Bốn Câu Kệ Trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Này, Vì Người Khác Nói, Thì Phước Đức
Của Người Trước Trăm Phần Chẳng Kịp Một, Trăm Ngàn Vạn ức Phần Cho Đến Toán Số
Thí Dụ Đều Không Bì Kịp.

Giải:

Đây là khen
ngợi công đức lìa tướng của Bát Nhãthù thắng bậc nhất. Lại nữa, nếu tu pháp
lành chẳng được Bồ Đề, nếu pháp lành chẳng thù thắng, thì lấy pháp gì làm thù thắng?
Phật nói: Đại Bát Nhã rất là thù thắng. Trong ba ngàn thế giới có trăm ức núi
Tu Di
, dùng bảy báu bằng như thế đem bố thí, phước đức tuy nhiều nhưng chẳng
bằng phước đức đạt bốn câu Bát Nhã. Vì bố thí ấy chấp tướng, tham cầu lợi ích,
còn Bát Nhã lìa tướng nên vượt hơn vô lượng, chẳng có ví dụ nào có thể bì kịp.

Nghi:

Không Sanh
nghe nói chúng sanh và Phật bình đẳng, nhưng đã bình đẳng thì không có chúng
sanh
, sao lại nói Như Lai đang độ chúng sanh, tức là có tướng ngã nhân. Dưới
lấy “ngã nhân đều mất” để phá.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Ý Ông Nghĩ Sao? Các Ông Chớ Nói Như Lai Nghĩ Như Thế Này: “Ta Nên Độ Chúng
Sanh” Tu Bồ Đề! Chớ Nghĩ Như Thế. Vì Cớ Sao? Thật KhôngChúng Sanh Như Lai
Độ. Nếu Có Chúng Sanh Như Lai Độ Thì Như Lai Có Ngã, Nhơn, Chúng Sanh, Thọ Giả,
Tu Bồ Đề! Như Lai Nói Có Ngã, Tức Chẳng Phải Có Ngã, Mà Phàm Phu Cho Là Có Ngã.
Tu Bồ Đề! Như Lai Nói Phàm Phu Tức Chẳng Phải Phàm Phu Ấy Gọi Là Phàm Phu.

Giải:

Đây phá cái
nghi Phật có nhân ngã, hiển bày cái ngã chân thật của Pháp thân. Nói chúng sanh
và Phật bình đẳng, đã bình đẳng thì không Phật và không chúng sanh. Sao lại nói
ta đang độ chúng sanh? Chúng sanh là nhân, ta độ chúng sanh thì có ngã vậy.
Nhân, ngã rõ ràng thì bốn tướng chẳng mất. Đây chính trong tông môn nói: “Đến
được bên pháp thân nhưng chưa thấu được pháp thân hướng thượng”. Nên Thế Tôn dùng
lời khiển trừ đó. Chớ nói Như Lai cho rằng: “Ta có niệm độ sanh”. Vì ta có niệm
này tức là phàm phu. Nhưng Như Lai nói phàm phu còn chẳng phải là phàm phu, há
Như Lai còn giữ ngã kiến ư? Đây là thánh phàm đều hết, một đường bằng phẳng,
huyền chỉ Bát Nhã tới đây là cùng cực.

Nghi:

Pháp thân đã
không có ngã, báo thân chẳng thể dùng tướng thấy, vậy 32 tướng há chẳng phải
Phật ư?

Chánh
văn:

– Tu Bồ
Đề! Ý Ông Nghĩ Sao? Có Thể Dùng 32 Tướng Thấy Như Lai Chăng?

Tu Bồ Đề
Thưa:

– Đúng
Thế! Đúng Thế! Dùng 32 Tướng Thấy Như Lai.

Phật Nói:

– Tu Bồ
Đề! Nếu Lấy Tướng Thấy Như Lai Thì Chuyển Luân Thánh VươngNhư Lai.

Tu Bồ Đề
Bạch Phật Rằng:

– Thế
Tôn! Như Con Hiểu Nghĩa Phật Nói, Chẳng Nên Dùng 32 Tướng Thấy Như Lai.

Lúc Đó
Thế Tôn Thuyết Kệ Rằng:



Nếu Lấy Sắc
Thấy Ta

Lấy Âm Thanh
Cầu Ta

Người Nào
Hành Đạo

Chẳng Thể
Thấy Như Lai.

Giải:

Đây là dạy ứng
hóa thân
chẳng phải là chân thật, để hiển bày pháp thân lìa tướng. Không Sanh
đã ngộ Pháp thân vô ngã, báo thân vô tướng, đó là chân Phật. Bèn nghi hiện thấy
32 tướng là Phật nào? Là có cái thấy về Phật. Thế Tôn gạn hỏi: Quả có thể lấy
32 tướng thấy Như Lai sao? Không Sanh chấp 32 tướng nhất định là Phật. Thế Tôn
lấy Chuyển Luân Thánh Vương để phá, lúc đó Không Sanh bèn ngộ rằng chẳng thể
dùng 32 tướng mà thấy Như Lai. Thế Tôn liền dạy bài kệ lìa tướng:

Nếu
lấy sắc thấy Ta

Lấy âm
thanh
cầu Ta

Người này
hành đạo

Chẳng thể
thấy Như Lai.

Nghi

Không Sanh
nghe nói Pháp thânbáo thân không tướng, ứng hóa thân chẳng phải chân, nên
khởi cái thấy Pháp thân đoạn diệt, vì chẳng đạt chân ngã của Pháp thân, nên
Phật lấy “không đoạn diệt” để phá.

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Ông Nếu Nghĩ Như Vầy: Như Lai Chẳng Do Tướng Đầy Đủ Mà Được Vô Thượng Bồ
Đề
. Tu Bồ Đề, Chớ Nghĩ Rằng Như Lai Chẳng Do Tướng Mà Được Vô Thượng Bồ Đề. Tu
Bồ Đề! Nếu Ông Nghĩ Người Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề Nói Các Pháp Đoạn Diệt, Chớ
Nghĩ Như Thế. Vì Sao? Người Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề Đối Với Pháp Chẳng Nói
Tướng Đoạn Diệt. Tu Bồ Đề, Nếu Bồ Tát Lấy Bảy Báu Trong Thế Giới Bằng Số Cát
Sông Hằng
Đem Bố Thí, Và Nếu Lại Có Người Biết Tất Cả Pháp Vô Ngã, Được Thành Tựu
Vô Sanh Pháp Nhẫn Thì Bồ Tát Này Hơn Công Đức Đã Được Của Bồ Tát Trước. Vì Sao?
Tu Bồ Đề, Vì Các Bồ Tát Chẳng Thọ Phước Đức.

Tu Bồ Đề
Bạch Phật Rằng:

– Bạch
Thế Tôn! Vì Sao Bồ Tát Chẳng Thọ Phước Đức.

Tu Bồ
Đề
, Bồ Tát Tạo Phước Đức Chẳng Nên Tham Đắm. Thế Nên Nói Chẳng Thọ Phước Đức.

Giải:

Đây là phá cái
thấy đoạn diệt. Không Sanh nghe nói nên lìa tướng mà thấy Phật bèn khởi cái
thấy đoạn diệt và nói Như Lai chẳng do tướng đầy đủ mà đắc Bồ Đề. Phật dạy rằng:
Chớ có nghĩ thế. Nếu nghĩ như thế tức là nói các pháp đoạn diệt. Nhưng người
phát tâm Bồ Đề đối với pháp chẳng nói tướng đoạn diệt, chỉ nói các pháp vô ngã
thôi. Nếu lại có người biết tất cả pháp vô ngã được thành tựu vô sanh pháp
nhẫn
, thì Bồ Tát này công đức vượt hẳn công đức bố thí bảy báu đầy khắp các cõi
nước như số cát sông Hằng, vì chẳng thọ phước đức. Nói chẳng thọ phước đức
chẳng phải là không hẳn, chỉ là không tham đắm phước đức mà thôi. Nói không
làm, không tạo, không thọ mà thực sự nghiệp thiện ác chẳng mất. Thế Tôn ra đời
nói pháp 49 năm, chỉ nói một chữ “không” mà thôi. Vì chúng sanh trong chín cõi
đều chấp tất cả pháp có ngã, Như Lai chỉ nói chữ “không” để phá. Đây là chánh
nhãn kim cang, quán thẳng một đường hướng thượng. Cho nên “truyền riêng chỉ
thẳng” của tông môn chỉ từ chỗ này mà vào.

Nghi:

Đã nói
ngã
, không nhận phước đức, mà hiện thấy Như Lai đi, đứng, nằm, ngồi, há chẳng
phải là cái Ngã của Như Lai ư? Đây là cái thấy ba thân là một, hay là khác vẫn
chưa mất nên chưa ngộ pháp thân bình đẳng vậy.

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Nếu Có Người Nói Như Lai Hoặc Đến Hoặc Đi Hoặc Ngồi Hoặc Nằm, Người Này
Chẳng Hiểu Nghĩa Ta Nói. Vì Sao? Vì Như Lai Là Không Từ Đâu Đến, Cũng Không Đi
Về Đâu, Nên Gọi Là Như Lai.

Giải:

Đây là hội về
chân thật của pháp thân. Không Sanh thấy oai nghi động tĩnh, cho đó là Như
Lai
. Đây là đặc biệt thấy có đến, đi. Như Lai há có đến đi ư? Đến đây chấp hết tình
quên, động tĩnh chẳng hai, thật tế như như, đến đó là cực diệu. Nếu cái thấy
một và khác chưa mất thì nghĩa “ba thân một thể” chưa khế hợp. Nên dưới đây lấy
thế giới vi trần để phá.

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn Lấy Ba Ngàn Đại Thiên Thế Giới Nghiền Nát
Thành Bụi, Ý Ông Nghĩ Sao? Những Hạt Bụi Này Có Nhiều Chăng?

Tu Bồ Đề
Thưa:

– Rất
Nhiều, Thưa Thế Tôn! Vì Sao Vì Nếu Những Hạt Bụi Này Thực Có, Phật Ắt Chẳng Nói
Là Những Hạt Bụi. Vì Sao? Phật Nói Những Hạt Bụi Tức Chẳng Phải Những Hạt Bụi,
Đó Gọi Là Những Hạt Bụi. Thế Nên Như Lai Nói Ba Ngàn Đại Thiên Thế Giới Tức
Chẳng Phải Thế Giới Ấy Gọi Là Thế Giới. Vì Sao? Nếu Thế Giới Thực Có. Tức Là Một
Hợp Tướng. Như Lai Nói Một Hợp Tướng Tức Chẳng Phải Một Hợp Tướng ấy Gọi Là Một
Hợp Tướng. Tu Bồ Đề, Một Hợp Tướng Tức Chẳng Thể Nói, Chỉ Vì Phàm Phu Tham Đắm
Việc Này.

Giải:

Đây là phá cái
thấy một và khác. Không Sanh chưa khế hợp ba thân một thể, nên Thế Tôn lấy vi
trần
thế giới chẳng phải một, chẳng phải khác để chỉ dạy. Nói hạt bụi thì chẳng
phải một, thế giới tức chẳng phải khác. Hạt bụi mà nhóm lại thì thành thế giới,
tức khác mà chẳng khác. Thế giới tan ra thì thành hạt bụi, tức một mà chẳng phải
một. Do đây mà quán thì tướng một và khác trọn chẳng thể được. Vì chẳng thể
được nên chẳng thực có. Nếu thực có tướng một và khác, tức là một hợp
tướng. Nhất hợp là cái thấy một bên, vì hợp với một thì chẳng phải khác, hợp
với khác tức chẳng thể là một. Nếu hạt bụi thật có, tức chẳng thể nhóm tụ mà
làm thế giới. Nếu thế giới thực có thù chẳng thể tán ra mà làm hạt bụi. Người
ngu cho đây là một hợp tướng. Như Lai nói: Một hợp tướng thì chẳng đúng, vì lìa
hai bên nên gọi là một hợp. Hai bên đã lìa tức là chẳng thể nói. Phàm phu không
thể xa lìa hai bên có không, một khác, tham đắm việc này, nên chẳng thể đạt ba
thân
một thểlý pháp thân bình đẳng vậy.

Nghi:

Pháp thân đã
bình đẳng thì tất cả đều không, tức không thể thấy. Tại sao Phật lại nói có cái
thấy về bốn tướng? Nên dưới lại phá.

Chánh
Văn:

Tu Bồ
Đề
, Nếu Người Nói Phật Nói Ngã Kiến, Nhân Kiến, Chúng Sanh Kiến, Thọ Giả Kiến.
Tu Bồ Đề, Ý Ông Nghĩ Sao? Người Này Hiểu Nghĩa Ta Nói Chăng?

– Thưa
Không, Bạch Thế Tôn! Người Này Chẳng Hiểu Nghĩa Như Lai Nói. Vì Sao? Thế Tôn
Nói Ngã Kiến, Nhân Kiến, Chúng Sanh Kiến, Thọ Giả Kiến Tức Là “Không” (Vì Cốt
Đuổi Trừ Cái Kiến Của Chúng Sanh) Ngã Kiến, Nhân Kiến, Chúng Sanh Kiến, Thọ Giả
Kiến Ấy Gọi Là Ngã Kiến, Nhân Kiến, Chúng Sanh Kiến, Thọ Giả Kiến. Tu Bồ Đề,
Người Phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề Đối Với Tất Cả Pháp Nên Biết Như Thế, Chẳng Sanh
Pháp
Tướng, Tu Bồ Đề, Như Lai Nói Pháp Tướng Chẳng Phải Là Pháp Tướng, Đó Gọi
Pháp Tướng.

Giải:

Đây phá cái
chấp có cái thấy lìa tướng. Không Sanh đã ngộ lý pháp thân bình đẳng như như,
bèn nghi thể của pháp thân đã không thể dùng tướng thấy, vì sao Thế Tôn lại nói
lìa cái thấy bốn tướng. Phật sợ Không Sanh thầm ôm mối nghi này nên gạn hỏi
rằng: Giả như có người bảo Thế Tôn nói có kiến chấp bốn tướng, ông nói người
hiểu ý ta chăng? Không Sanh bèn ngộ ý Phật, đáp rằng: Người này chẳng hiểu
nghĩa Như Lai nói. Vì sao? Vì Thế Tôn nói có cái thấy bốn tướng chẳng phải là
thực có tướng thấy có thể chỉ ra, mà chỉ vì muốn đuổi trừ tình chấp của người thấy
có tướng nên nói “không”. Chữ “không” này cùng với những chữ “không” khác chẳng
đồng. Những chữ trước nói không đều là nghĩa chẳng phải. Còn chữ không này là lời
dẹp dứt. Nghĩa là đuổi trừ cái thấy tướng trong tâm chúng sanh. Chẳng phải Phật
nói có cái thấy tướng này mà chính là cái thấy tướng của chúng sanh. Nên nói
“đó gọi là”. Hai chữ “thị danh” tức “gọi là” này cũng cùng với những cái nói
trước
chẳng đồng, cần phải xem kỹ. Bởi vì tất cả chúng sanh mê lầm điên đảo
trong cái thấy về tướng. Chỗ chấp bền chặt khó phá nên Phật phải dùng tâm trí
Kim Cang để đuổi phá, khiến cho thấy được bổn trí pháp thân chơn thể. Ban đầu
chấp thấy có thân tâm năm ấm và tướng sáu trần, nên dính mắc nơi tướng, hành bố
thí
để cầu phước đức của Phật. Thế Tôn lấy vô trụ để phá. Kế đó là chấp có
tướng Bồ Đề, Phật lấy “vô sở đắc” để phá. Sau là chấp bố thí có tướng để trang
nghiêm
cõi Phật, Phật lấy “không cõi nước có thể trang nghiêm” để phá. Rồi lại
chấp tướng phước đức để cảm tướng quả báo, Phật lấy “không sắc thân đầy đủ” để
phá. Kế chấp Như Lai nhất định có tướng ba thân, Phật lấy “ứng hóa chẳng phải
thật”, “báo thân lìa tướng” để phá. Rồi chấp nhất định có tướng pháp thân. Phật
lấy, “pháp thân chẳng phải tướng” để phá. Xong chấp pháp thân nhất định
tướng ngã thật, Phật lấy “tất cả vô ngã” để phá. Cuối cùng chấp Như Lai nhất
định
có tướng ba thân, Phật lấy “chẳng phải một, chẳng phải khác” để phá. Lớp
lớp đuổi phá, tất cả tướng đều không, các tướng tiêu mất. Lúc đó một tâm không
nương gá, lý cực tình quên, chỉ thẳng mé thật của pháp thân. Vì cái tướng
vọng
của sở kiến đã không thì cái thấy hư vọng của năng kiến cũng mất. Đây là
cực tắc của cứu cánh Bát Nhã chân thật. Thấu thẳng một đường pháp thân hướng
thượng
. Do đó Phật răn chắc rằng: Người phát tâm Bồ Đề đối với tất cả pháp nên
biết như thế, thấy như thế, tin hiểu như thế, chẳng sanh pháp tướng. Đến đây
mới thật biết, thật thấy, thật tin, thật hiểu thì mãi mãi chẳng khởi tri kiến
về pháp tướng. Đến đây nhân pháp đều quên, thánh phàm đều mất, đường ngôn ngữ
dứt, chỗ tâm hành diệt. Dấy tâm tức lầm, động niệm tức trái. Do đó lại dẹp trừ
và nói: Chỗ nói pháp tướng cũng chẳng phải là pháp tướng mới là pháp tướng chân
thật
, chẳng phải cái thấy hư vọng có thể sánh được. Huyền chỉ của Bát Nhã cực
diệu
ở đó.

Nghi:

Không Sanh đã
ngộ toàn thể pháp thân, lại nghi pháp thân chẳng biết thuyết pháp, người thuyết
pháp
hóa thân. Pháp do hóa thân thuyết chẳng thể đạt cảnh giới pháp thân thì
làm sao trì pháp này được phước đức? Dưới cho rằng “chỗ thuyết của hóa thân tức
pháp thân chân thật”, vì ba thânmột thể.

Chánh
Văn:

– Tu Bồ
Đề! Nếu Có Người Lấy Bảy Báu Đầy Khắp Vô Lượng A Tăng Kỳ Thế Giới Đem Bố Thí
Nếu Có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn Phát Tâm Bồ Đề Trì Kinh Này Cho Đến Bốn Câu
Kệ v.v… Thọ Trì Đọc Tụng, Vì Người Khác Diễn Nói Thì Phước Đức Này Hơn Phước
Đức
Của Người Kia. Vì Sao? Người Vì Người Khác Diễn Nói Thì Chẳng Chấp Giữ Tướng,
Như Như Bất Động.

Giải:

Đây dạy hóa
thân
Phật thuyết pháp như như. Không Sanh nghi hóa thân Phật nói chẳng đến được
cảnh giới pháp thân thì làm sao được phước. Phật nói: Hóa thân thuyết tức pháp thân
thuyết, vì ba thân chẳng khác. Tức người ở nơi pháp này có thể thọ trì đọc tụng
bốn câu, vì người khác diễn nói thì phước này hơn hết, bởi lẽ chẳng chấp giữ nơi
tướng, như như bất động. Đến đây hạt bụi thuyết, cõi nước thuyết, mạnh mẽ
thuyết vậy.

Nghi:

Pháp thân
vắng lặng, tại sao có thể thuyết. Dưới dạy chánh quán, dùng Bát Nhã không tịch,
từ “giả quán” để vào. Từ “giả” vào “không” nên gọi chân không, vì giả tức chân
vậy.

Chánh
Văn:

– Vì Sao?

Tất Cả
Pháp Hữu Vi

Như Mộng
Huyễn
Bọt Bóng

Như Sương
Cũng Như Điện

Nên Quán Như
Thế ấy.

Giải:

Đây là diệu
quán
nhập vào Chân Không Bát Nhã, vì chân không tịch mịch, mượn giả mà quán.
Nếu theo sáu thí dụ mà quán thành thì chân không tự hiện. Một lần lý và thể đều
hiển. Đây chính là dạy pháp quán. Người tu hành nên từ đây mà vào, cảnh giới
chân thật của pháp thân ở đây thật cùng cực.

Chánh
Văn:

Phật Thuyết
Kinh Này Xong, Trưởng Lão Tu Bồ Đề Và Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cận Sự Nam, Cận
Sự Nữ
, Cả Thế Gian, Trời, Người A Tu La Nghe Phật Thuyết Pháp Đều Rất Hoan Hỷ
Tin Nhận Vâng Làm.

Giải:

Đây là quy tắc
thông thường để kết thúc kinh. Phàm người nghe hoan hỷ tất diệu khế nơi tâm,
khế hợp được thì thật tin, tha thiết nhận và vâng làm chẳng dối.

Vi tính / Người gửi bài: Tâm Minh