Học Thuyết Về Nghiệp Của Thế Thân

0
40

HỌC THUYẾT VỀ NGHIỆP
CỦA THẾ THÂNHỆ THỐNG LÝ THUYẾT CHUẨN MỞ RỘNG

Pháp Hiền Cư Sĩ

Sống
hoạt động đời sống u mặc của mình trong lộ trình
trạch diệt, chư Phật hay chư đệ tử của mình tùy theo chu
cảnh của vũ trụnhân loại mà các Ngài đã nhiều lần
tỏ lộ cảnh giới ấy bằng các giai đoạn hiển ngôn. Khi
sự thể nghiệm đã chín muồi như vậy, và được “tuôn”
ra bằng lời nằm bên ngoài chân lý quy ước, cho dù nó vay
mượn toàn diện phạm trù tâm vật, bởi, nếu không như thế,
thì chúng sinh, tức là chúng ta, những con người vừa là người
vừa là hạ nhân loại với những thú hướng bách khoa tâm
– không thể hiểu được và cũng không thể nào dò tìm ra
văn cảnh huyền ngôn. Hiển nghĩa ở một chừng mực nào đó
trong Kinh và trong toàn diện Luận điển có thể xem như
sắc thân, thậm chí như là pháp thân của các Ngài. Và ngôn
ngữ
được xét như là pháp, nó gắn liền cùng lịch sử
giác ngộ, gắn liền cùng với đời sốn
g vô hạn của chính
nó: từ bitrí tuệ.

Người
ta nói rằng, các thiên tài đều hội ngộ trên một vân giao
thoa của đỉnh cao trí tuệ, thì ở đây, ta thấy Noam Chomsky,
trong một ý nghĩa cho phép, đã hội ngộ cùng Thế Thân trên
một quan điểm hiển ngôn về chủ luận tâm và sắc pháp.[2]

Theo
Ed. Conze, triết học là cái mà Âu châu được biết là một
sáng tạo của người Hy-lạp. Nó hoàn toàn xa lạ với truyền
thống
Phật giáo, mà truyền thống này xét đến sự nghiên
cứu
về triết đã đặt trên thực tại trong ý định
thuần túytìm ra hơn nữa ở nó như là sự mai một của
một thời quá vãng mà thôi. Sự toàn giác của đức Phật
nhằm chỉ ra toàn diện lộ trình giải thoát. Còn “triết
học” hay là những lập ngôn chỉ là phó phẩm có thể có
trong các Phật điển của các vị đệ tử Ngài, chúng ta không
thể tìm thấy bất cứ từ vựng rộng rãi nào tương ưng
với thuật ngữ của chúng ta về “triết học” cả.[3]

Tuy
nhiên
, với thái độ khôn ngoan, N. Chomsky cho rằng ngôn ngữ
hay bản chất của nó là thành viên của lý tínhlý tính
này không thể và không thuần túytrách nhiệm luôn đặt
ra các câu hỏi mà nó không thể trả lời, vốn là một số
phận đặc thù như Kant đã nói như vậy trong lời giới thiệu
ấn bản đầu tiên của tác phẩm Phê phán lý tính thuần
túy
của mình.[4] Thật là khôn ngoan khi N. Chomsky cho rằng,
ngôn ngữ là thành viên của lý tính nó nằm bên ngoài các
khoa học hành vi và chủ nghĩa cấu trúc, bởi vì quan niệm
với các định hướng khoa học như thế, theo N. Chomky, cái
gọi là di truyền học tiên thiên của chúng ta như lý thuyết
ấy đã đúc khuôn, không thể nào siêu việt ra được các
phạm trù đó. Chỉ có sự đảo ngược tri nhận theo thuộc
tính đệ quy [the recursive property] có cơ sở, tức là, “Nét
nghĩa khác của cuộc đảo ngược [cách mạng -revolution] tri
nhận có nền tảng đã là sự tri nhận mà có lẽ các thuộc
tính của thế giới tư duy sở định danh sẽ kéo theo những
khả tính vô hạn của một bộ phận hữu hạn định nội
tính, kéo theo việc”sử dụng vô hạn [của] nghĩa hữu hạn”
trong lối ngữ đoạn tính [phrasal] của Wilhelm von Humbold. Học
thuyết
này nhắm vào trung tâm của khái niệm tư duy thuộc
thuyết Décartes. Nó đã cung ứng tiêu chuẩn căn bản để
xử lý cho vấn đề của “các lý tính hay tư duy khác”-để
định rõ có đúng là các tạo vật đã có một lý tính giống
như lý tính của chúng ta hay không. Décartes đã đặt tiêu
chí trên dụng ngôn xét như là sự minh họa rõ ràng nhất”.[5]
Vậy thì, trong tiến trình 12 chi duyên khởi, thay vì bắt đầu
từ già, chết.. N. Chomsky nhắm ngay vào phạm trù danh và sắc,
việc đặt tiêu điểm như vậy, N. Chomsky đã tránh đi cái
lỗi mô tả bản thể như là con đường tất yếu của ngôn
ngữ
, tránh đi cái lỗi cơ cấu lý tánh theo lộ trình của
các khoa học hành vi, tức là nghiên cứu “hiện tượng ngôn
ngữ” qua ứng xử. Chọn con đường thể nghiệm danh sắc
mà theo thuật ngữ được N. Chomky dùng “general clear understanding-trí
năng tỏa sáng phổ quát”, thuật ngữ đúc này tương đương
với giáo chỉ Phổ môn [Samantamukhaparivarta] của chúng ta. “Và
bởi vì lúc bây giờ, nó vốn là chủ đề nghiên cứu theo
tính nội nghiệm năng sinh hưng phấn và vốn là thể tài của
các phân tích theo sở nghiệm của tư duy.[6]”

Để
chứng minh cho sự nội nghiêm này mà có lẽ nó là các giả
thuyết
trên tư duy ưu thắng nhất, rằng, “John đã sơn ngôi
nhà, khi ấy anh ta phủ sơn bên ngoài mặc dù anh ta có
thể sơn bên trong nó,” hoặc là ‘John đã leo lên núi, khi
ấy anh ta đang đi xụống, mặc dù anh ta có thể leo xuống.”
Trong 3 thời thái, quá khứ, hiện tại và khả năng cách của
vị lai qua một trường yếu tính chung, mà cái động thái
xảy ra hầu như chỉ là động thái của sát na sinh diệt,
nó không có nguyên nhân, nó bất đãi nhân [ākasmika], vậy
thì
, cái động thái [gati] ấy là động thái trong sát na, nó
sinh và diệt đồng thời tạo ra một di chuyển của sắc pháp
theo phương hình học có cả 3 thời, cái mà ta thấy trong hành
vi
, trên thực tế chỉ là sự vận hành của ý và dục ý
như Thế Thân đã nêu, do tính sinh diệt đồng thời này, mà
lực dẫn theo phương hình học của cái biểu lộ [vijñapti]
hay thông tin, chỉ là sự khoét sâu của định hướng lý tính
ký ức[7], và một thời điểm thích hợp, chẳng hạn như
đối tượng là sự đã leo núi đã xãy ra và cũng đã xãy
ra trong tâm thức, đã đưa đến các hệ lụy của cái đang
đi xuống núi và khả năng có thể leo xuống, do vậy, cái
động thái niệm khởi của sự đi là vô tánh, nó là sử
tính của mã di truyền [genetic code], do các duyên, nên nó
tính
, theo N. Chomsky, duyên vô tínhdi sản của trí tuệ
loài người. Một tiến trình hơn vận tốc ánh sáng như vậy
của sát na, đã uốn cong ba thời của cách quán sát trên một
trục tròn có tính ly tâm và nó đưa ngôn ngữ vượt ra ngoài
hữu hạn tính của nó. Cách quan sát về các hành tướng ngôn
ngữ
của N. Shomky có thể tương ưng cùng với phẩm Quán hành
phẩm của bồ tát Long Thọ.

Khi
đóng dấu ngoặc đơn hờ cho hệ luận phủ định về hành,
Long Thọ bắt ta mở ra bằng tịch lặng với một kịch bản
câm sau đó. Và, thật vậy, N. Chomsky đã nghiêm túc mở nó
theo lộ trình đảo ngược, mà theo ông cái cách này đã từng
hiển ngôn trong thuật ngữ Phong tục học là [cách đột biến
bất ngờ- umwelt], N.Shomky cho rằng với cách quan sát theo sự
đảo ngược tri nhận như vậy, đã tạo nên điểm giao thoa
cho cả triết học, phân tâm họcvật lý học nữa, và,
trong lộ trình đảo ngược gian nan này, nếu có thể là các
hữu mô hóa[8] hay thông tin nào di chuyển theo bất cứ phương
vị
gì: sự quy hoặch vận hành [thần kinh] chính [motor planning],
chức năng tuần hoàn máu [circulation of blood] v.v… thì nó vẫn
vô biểu hóa [avijñapti]. Thêm nữa, chúng ta không thể tìm
thấy
bất cứ một ý thức nào hay một yếu tố nào cả trong
quá trình di chuyển của sắc pháp như thế, các qúa trình
có thể biểu diện bằng các sở thuộc màu sắc, các biến
thái
hình học, hay các biến tính của hiện tương[9], thật
ra các hiểu biết như vậy, không phải là sở cứ cho lý thuyết
ngôn ngữ tri nhận của ông, theo ông, “trong ý nghĩa này,
các hiệu quả sẽ bén nhọn và lọc ra những phương hướng
theo trình tự [procedural] vận hành trong các cam go nghiêm trọng,
khám phá ra cái gì xuất hiện là các bất toàn cố hữu. Vấn
đề
cơ bản là cái mà ngay cả các yếu tố đơn thuần của
diễn ngôn đều không tìm ra được qua tiến trình phân đoạn
và phân loại. Chúng không buộc phải là cái có được “các
hột trên một chuỗi” do các tiến trình như vậy thao tác
[operate] và chúng luôn không thể bị định vị trong vài bộ
phận đồng nhất của vật lý, ngay cả những tương ứng
với cách biểu đạt nội tư mà các tác tố này thực hiện
chức năng trong đó.[10]

Một
xã hội hướng đến chân lý luôn cần đến các kỷ năng
chuyên môn và các đánh giá tinh tường. Trong trường hợp
này, Phật giáo cần luận và các phán giáo. Nó quan trọng,
bởi vì các hàm ngôn của chư Kinh sẽ được hiển đạt và,
chính trường hợp này, Câu- xá thật thiết yếu để cho ta
biết do đâu “mà phướn động hay gió động.”[11] Sự diệt
của sát na có thể xem như là vụ nổ lớn, chuyển tiếp từ
thời kỳ diệt sang thời kỳ sinh và, ở đây, sự bùng nổ
này kéo theo các mã di truyền các tố chất của tự thân nghiệp,
tức là các chất liệu thông tin được mã hóa từ chu kỳ
thành, trụ, hoại, không trước đó trong khả năng nhận lấy
và được nhận lấy với cách sở tạo sắc của chính sát
na
tâm[12], các hóa học và cả sự duy trì của các lực, nói
chính xác hơn, tức là sự duy trì của nghiệp; và một phản
soi vào cội nguồn đã cho ta biết rằng, đời sống của
trụ
chính là đời sống của chúng ta, bao hàm cả 2 mặt:
cộng và biệt nghiệp, đúng như Duy Thức đã nói. Cộng và
biệt nghiệp; cộng chẳng hạn là biểu ngữ chung của nhân
loại
, biệt là biểu ngữ riêng của từng dân tộc, biểu
ngữ
của cục bộ địa phương hóa.

Sự
đam mê nghiên cứu về sắc pháp và tính cội nguồn về một
bản thể nào đó trên mặt nhất thể đã thành tựu một
di sản khổng lồ cho nhân loại-vô số các học thuyết-tức
ngôn ngữ, nó thành tựu thế giới và tự nó hủy diệt
nó hay cái mà nó đã khai sinh-nó hủy diệt thế giới- chẳng
hạn, chủ nghĩa phát-xit, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa diệt
chủng
và các học thuyết khác. Nietzche nói rằng: “Cái gì
tôi biết được nhờ “triết gia”; [thì cái đó] là chất
nổ kinh hoàng mà mọi sự vật đang giáp mặt trong tầm hiểm
nguy của nó.[13]” Do vậy, ngôn ngữ thật sự không hệ trọng
trong Phật giáo, bởi vì “Triết gia Van Meter Armes đã muốn
nói là lãnh vực triết học vận hành với chất nhạy gây
nổ. Nó nắm trong tay chất liệu nguy hiểm… Và … giữa những
thứ khác, cho biết là tại sao triết học lại là chất liệu
gây nổ, như Armes đã nói.[14] Phật giáo chối từ ngôn ngữ,
không có nghĩa là gạt phăng nó ra ngoài cuộc hội thoại với
chúng ta, tức là sự truy tìm sắc pháp, được thiết lập
trên lộ trình trạch diệt, chỉ khi nào hành giả thật sự
bước chân trên lộ trình này, thì sắc pháp-các hệ thống
lý thuyết, bao hàm nhân sinh quan và vũ trụ quan hoặc các hệ
thống
ngôn ngữ-đã được xử lý rồi qua tâm giớithân
giới
. Một lộ trình song hành như vậy sẽ làm sạch đi chất
liệu gây chiến tranh, và một cách tự nhiên, nó sẽ hiện
ra
chân thật ngữ, hay chân lý tính. Tiếc thay, một số hành
giả
hay các học phái nào đó đã chọn một phương diện
cực đoan vô ngôn trong sự tư duy của mình và vô tình thái
độ
ấy đã trở nên một ngòi nổ khác: đốt sách và trừng
trị
thân tâm hay nói khác hơn là, chỉ có cái như thế này
mới là ưu quyền.[15] Người ta rơi vào một cực đoan khác,
để đặt mình trên một cực đoan y như vậy. Thực hành tôn
giáo
như thế đó được xem như là một phiên giao dịch vào
buổi chiều trên sàn chứng khoán, trước khi cửa tùng khép
lại. Cửa tùng đã khép, tức là khép lại một thư viện
trong tư duy của mình, nó bày ra những kệ rượu[16] trong phòng
của các quan chức và chúng ta không thấy bất cứ kệ sách
nào của họ cả, như nhà văn Nguyên Ngọc đã nói. Cửa tùng
đã khép, tức là khép lại “chút lá trên tay Phật”, cảnh
giới
của một ít hành giả nào đó, giống như thế giới
của các quan chức, đều bị bận rộn bởi hợp, bởi thuyết
giảng
v.v…chẳng hạn, một công trình đồ sộ như công trình
của hòa thượng Trí Quang, mà cho đến giờ ta chưa có một
nghiên cứu nào khả dĩ đưa đến tính phổ quát, chằng hạn
các lớp học đã mở ra ở Già lam, xem chừng như học viên
tham dự rất ít, và càng ít hơn khi các buổi học đang đưa
đến các vùng sâu. Thật ra ngôn ngữ đã đi vào chổ im lặng
của nó rồi và bởi vì, có phải đã đến giờ nghỉ ngơi
của Chúa cũng nên? Vũ trụ mở, bằng lý thuyết chuẩn và
co trở lại để thành tựu lý tính bằng sử tính và các
mả di truyền, mà nhất là ngôn ngữ, bởi vì, “ngôn ngữ
đã đóng một vai trò cốt lõi trong tư duy và tương tác trong
đời
sống tổ chức xã hội.”[17]Và, bằng tiêu điểm đó
thế giới sẽ xích lại gần nhau hơn trên một cộng nghiệp
từ bi vô nhânnhất thể trong biệt nghiệp trí tuệ vậy.
Thuyết chuẩn mở rộng tâm thức [REST] và Thuyết tối giản
[minimalism] của Chomsky đã cọ xát được trạng thái này và
ta quan sát nó trên học lý sát na diệt của Thế Thân trong
chương phân tích về Căn và Nghiệp của ngài.

Việc
đem thuyết hai học thuyết này của Chomsky nhích lại gần
với Phật giáo, chính xác là thuyết sát na diệt của bồ
tát Thế Thân
, là một việc làm nguy hiểm, bởi vì, tiến
trình “trạch diệt vô vi”, là thủ tiêu danh và sắc, hoặc
là sự thủ tiêu thọ và tưởng, mà danh sắc được cấu
trúc bằng thọ và tưởng-thọ và tưởng là chất liệu làm
nên ngôn ngữ;[18] càng nguy hiểm hơn khi trong diễn trình sắc
pháp
người ta đòi hỏi thêm nữa, một trạng thái siêu vật
. Tuy nhiên, công việc của một nhà nghiên cứu sẽ không
dừng ở chổ “phướn động hay gió động?” Bằng sự rời
rạc và bất toàn của tri thức, nó có quyền yêu cầu hơn
nữa những khía cạnh khác, và nó sẵn sàng tham gia bất cứ
lộ trình nào mà nó cho là khả hữu và hơn thế, từ khả
năng bẩm sinh di truyền, nhà nghiên cứu hỏi là do đâu mà
đức Lục Tổ có khả năng đoạn ngôn như thế và bằng cách
nào Ngài thể hội yếu tính bất động của sát na tâm, nó
tự có hoại lực khiến cho sắc pháp hoạt động như là biểu
thể của chính nó và một trì lực thật sự nào khiến cho
vật chất cân bằng trên không gian, qua nhãn kiến của mỗi
một cá thể; và người ta đã cảm thụ như thế nào nhờ
vào sự tương tác của ngữ khí hay hành vi, trong khi trạng
ấy chưa từng diễn ra bằng lời.

Như
đã nêu, ngôn ngữ thật sự không quan trọng đối với Phật
giáo
và các hành giả Phật giáo, nói chung, các đức tin tôn
giáo
hay các tôn giáo khác, bởi vì nó nằm trong phạm trù
vô thường, và bản chất của nó không gì khác hơn là danh
và sắc, trừ phi nó là của Chúa và đời sốngđời sống
của Ngôi và Lời. Tuy vậy, khi người ta “rớt xuống một
vũng lầy” thì cái cách để cứu chữa duy nhất là nhảy
vào nơi đó với một vài kinh nghiệm thế tục của mình,
trong trường hợp này, đức Phật đã đưa cánh tay Pháp của
mình ra để vớt lấy chúng sinh[19]-bàn tay đó là bàn tay ngôn
ngữ
và ta được quyền nắm lấy bàn tay ấy trong cái hữu
hạn của mình. Nét đặc trưng của ngôn ngữ tạo sinh, chính
là cái cách hữu hạn của nó, không thể sánh như đức Phật
và các phương tiện thiện xảo của Ngài, và bởi vì bản
chất
bất toàn của nó, nên nó từ khước các hệ thống
tín ngưỡng và nắm lấy bản chất bất toàn của mình
như là một phương tiện hữu hạn dành cho trí tuệ của nhân
loại
. Ngôn ngữ tạo sinh, cũng từ khước hệ thống khoa học,
bởi vì các hệ thống này đã đặt lý tính con người trong
các mô thức và những ảo tưởng về các lực, từ đó chúng
chế tác các phản luận ứng xử và tiến hành xử lý các
sản phẩm của chính ngôn ngữ, và tiên thiên di truyền đã
không còn có bất cứ cơ may nào để vượt thoát khỏi vòng
tù hãm ấy-sự sáng tạo và những cống hiến của ngôn ngữ.
Cái cách từ khước này, sẽ thật tương đồng với Thế
Thân-tuệ và các tùy hành[20]-khi mà một thể nghiêm sâu xa
được bật lên từ chính cái vũng lầy của tự thân nó-ngôn
ngữ theo biến trình đệ quy cho cả sự tự tri nhân và tri
nhận về, như một hệ thống y báochánh báo của nó.

Thật
bất ngờ, chính sự bất toàn của tri thức, sự tham gia từng
mảng rời của nó trong tư biện, đã làm bật ra cái tiên
thiên
di truyền của nhân loại và ở đây, người ta có thề
tìm thấy một cái chung của nhân loại, đó là kho tàng tri
thức
của mình, nó giao thoa vừa cả triết học lẫn phân
tâm họcvật lý học, xét như là cơ cấu tổng thể của
con người. Văn pháp tạo sinh hay ngôn ngữ đắc thể[21] của
hệ thống lý thuyết của Chomsky được hiểu như vậy. Công
việc của nhà nghiên cứu, cho dù ở bất cứ lĩnh vực nào,
sẽ không dừng ở nơi “chút đất trên ngón tay Phật” hoặc
ít “lá cây trong tay Ngài”, tạo vật mà Phật minh dụ, hàm
ngôn mà Phật chưa tỏ lộ và các căn sở tri nhận những
gì ở bên dưới sự minh dụ ấy của bậc trí tuệ, nhà nghiên
cứu
cần phải khám phá ra, ta không thể nói rằng “tôi đã
nghe như vậy” rồi thôi.

Loại
trừ đi quan niệm thần khải hay khoa học hành vi, nghĩa là
các hệ thống tri thức và các tín ngưỡng, các hệ thống
thần khải nghiên cứu hành vi con người như là sự thể hiện
của Thượng đế[22] và bản chất của ngôn ngữ, trên thượng
nguồn của nó là Thượng đế, rằng ta sẽ tìm thấy trên
nó là cuộc sống, là thể tánh của đấng tạo sinh và trong
trường hợp mà thi nhân muốn đạp đổ thành Olumpian, thì
người ấy bị xem là kẻ phá hoại.[23] Nó không nghiên cứu
về hành vi và các sản phẩm của nó, nó chọn cho mình một
lộ trình cá biệt. Thật vậy, Chomsky loại trừ 2 học thuyết:
Thương đế và khoa học hành vi. Trên quan điểm này, Shomky
đã nhích lại gần với Phật giáo, và gần hơn nữa khi ông
cho rằng bản chất của ngôn ngữ phải là một tấm “gương
tâm” với sự tư biện chính xác.

Ngay
chương mở đầu trong phẩm thứ 4 của Câu-xá, [24] bằng nhân
sinh
quan và vũ trụ quan của Phật giáo, Thế Thân nhấn mạnh:

“Do
ai mà tính đa dạng của thế gian thuộc về chúng hữu tình
khí thế gian được tạo ra, như những gì đã nêu ra trong
chương trước đây. Hẳn là không phải do một đấng nào
đó được ý niệm tiền dẫn [đấng Đại Tự Tại thiên]
tạo ra [vì mục đích của mình]. Vậy thì, chúng sinh hiện
hữu
bằng cách nào?

Tính đa dạng
của thế gian do nghiệp sinh

Nếu
như chúng sinh do nghiệp sinh,[25] vậy, do nghiệp gì mà các
thứ như hoa Uất kim hương, gỗ Chiên đàn v.v… được tạo
ra đáng yêu thích hơn, và tại sao mà các trạng thái đáng
yêu âý lại không luôn là có tác dụng cho các bộ phận này?
Cái được nghiệp tạo ra như vậy, chính là các chủng loại
tạp loạn [thiện và bất thiện], chẳng hạn các thân thể
nào có các mụn nhọt thì cái đối tượng thụ dụng của
thân thể ấy được sinh ra để trở thành là cái đối nghịch
lại chúng. Tuy nhiên trạng thái khoái lạc mà chư thiên sở
tạo thuần trong hai chủng loại tuyệt hảo [thân và đối
tượng thụ dụng của họ đều bình đẳng] Vả lại, nghiệp
là gì?[26]

Với
đoạn luận trên, Thế Thân cho ta biết rằng, cái thế giới
vận động với vô số các loại hình đa dạng này là do nghiệp
của chúng sinh mà nghiệp là cách thể hiện của sát na tâm.
Và thật ra, tất cả là do ý [cetana] và cái được ý tạo
sinh [cetayitvā]. Như vậy thì, nguồn gốc của ngôn ngữ
ý, nó vận hành trên lãnh vực sắc pháp. Ngôn ngữ được
xem như là lời “tỏ tình” ban sơ của nhân loại.[27]

Trong
đoạn luận này, ta thấy một vài nét nghĩa như sau: nếu như
vũ trụvạn hữu do Thượng Đế tác tạo, thì chúng không
có có từng cặp nhị nguyên trong tự thân của chúng và, không
có sự dị biệt nào đối với y và chánh báo của chúng;
cho dầu, vạn hữu là do Thượng Đế sở tạo, thì Thượng
Đế
cũng khởi sự cho công việc làm của mình bằng tư và
tư tâm sở vậy. Tuy nhiên, y báochánh báo của bất cứ
vị trời nào cũng đều tuyệt hảo cả.[28]

CỘI NGUỒN
NGÔN NGỮ


Hệ thống
sắc pháptâm pháp

1.
Hệ thống sắc pháp

Như
đoạn văn đầy tính lãng mạn của Otto Jespersen, đã được
George Yule dẫn ra làm đề cương cho tác phẩm nghiên cứu ngôn
ngữ
[29] của mình. Lời tỏ tình [courting] mà Otto Jespersen
nói, tức là “tình thức có tiềm năng biểu lộ”, và thật
thế, ý có một tiềm năng lưu xuất: kṣanika, [sát na], ngoài
nghĩa là một thời gian cực nhanh còn có nghĩa là cái năng
tạo sáng.[30] Và lời tõ tình chính là ý và cái được ý tạo [31]mà ta đã được thụ dụng trong luận bản Câu Xá
của Thế Thân. Như vậy, ý và cái được ý tạo là cội
nguồn của ngôn ngữ, thông qua hệ thống não bộ, chủ yếu
là các khu vực: Vùng Broca[32]; Vùng Wernicke; vỏ não vận động
chính [motor cortex], chùm thần kinh loan khúc [arcuate fasciculus],
thị quan khoanh vùng hay thị quan khu vực hóa [tức là khu vực
lưu giữ chất liệu của thị quan làm chu cảnh cho ý thức
nhận biết và lập ngôn về tính và tướng sai biệt của
đối tượng-localization view], các chức năng thị quan khác,
các hệ thống sai và ngọng âm [tongue tips and slips], loạn phối
hợp
từ của [vùng Broca] [Broca’aphasia], loạn phối hợp từ
của Wernicke [Wernicke’aphasia], loạn phối hợp từ về dẫn
xuất tính [conduction aphasia], cơ chế song nhỉ văn [dichotic
listening-sự nghe bằng 2 tai], trường cú phê phán [critical period],
vùng linh ứng [Genie].[33]

Các
bộ phận não bộ


đây, bản văn sẽ trình bày hệ thống vật lý của não bộ,
và các hình vị [morphology][34], mà phạm trù ban đầu trong
phẩm thứ tư về nghiệp của Thế Thân với phạm trù: Sở
y
[āśraya]; đây là một trong 3 phạm trù cơ bản của chương
này: sở y, tự tánhđẳng lưu. Luận bản nói: “Đó là
tư và cái được tư tạo nên-Tư và tư dĩ nghiệp.”[35] Kinh
dạy rằng, “có 2 loại nghiệp, đó là tư và cái được
tư tạo nên rồi [tư nghiệp và tư dĩ nghiệp].” Do 2 nghiệp
này mà 3 nghiệp trở thành [hiện hữu]. 3 nghiệp này là, thân
nghiệp
, ngữ nghiệpý nghiệp. Các nghiệp ấy được thiết
lập
như thế nào? Có phải là do y chỉ [hệ quả của sự
tiếp cận], do bản chất, hay là do đẳng khởi [đồng loạt
khởi]? Nếu người ta xét theo y chỉ [sở y], thì chỉ có một
thân [biểu] nghiệp mà thôi. Bởi vì, tất cả nghiệp đều
dựa trên thân. Nếu người ta xét theo bản chất [tự thể],
thì chỉ có một ngữ nghiệp mà thôi. Bởi vì, bản chất
của nghiệp là cái được phát ra bằng âm thanh [phát biểu
bằng lời] Nếu người ta xét theo đẳng khởi, thì chỉ có
ý nghiệp mà thôi. Bởi vì, tất cả nghiệp đều do ý tập
khởi
hay nguyên động lực đồng loạt khởi. Các luận sư
Tỳ-bà-sa cho rằng, 3 nghiệp này là do 3 nhóm trên: Y chỉ,
bản chất, và đẳng khởi làm tác nhân theo tính cách tuần
tự
.”[36]

Từ
thời kỳ Phineas người ta đã khám phá ra một số lượng
lớn về các vùng đặc biệt trong não bộ được liên quan
đến
các hàm năng ngôn ngữ. Để nói về điều này với
những chi tiết rõ ràng nhất, ta cần quan sát một cách nghiêm
mật hơn với một vài khu vực có chất xám [grey matter]…..qua
việc giải phẩu của Geschwind cho ta biết rằng, các liên hệ
của 2 vùng bán cầu não phải và trái gắn chặc với hệthần kinh trung ương được kéo dài xuống cột sống là các
dây thần kinh và gian noãn thể [một băng rộng các mô thần
kinh
nối kết 2 bán cầu não khoảng 300 triệu sợi] giữ nhiệm
vụ
trung gian giữa 3 khu vực đặc biệt, nó chạy băng qua
hệ thống thần kinh gói trong cột sống, và nối liền các
vùng có chất xám thuộc về địa hạt của ngôn ngữ trong
não bộ. Sự nối kết của 4 nhóm này xét như là một quan
hệ hữu cơ mà tủy sống và các vùng ngôn ngữ như là một
hệ tuần hoàn mang yếu tính thông tuệ. Vào khoảng tháng 2
năm 2007, hội khoa học Hoàng Gia Anh công bố, những ai biết
được một hay nhiều ngoại ngữ, hoặc thường xuyên hoạt
động
tích cực trong các lãnh vực tinh thần thì người ấy
sẽ có các môi trường may mắnthọ mạng cao hơn so với
các người khác. Trong các chủng viện, người ta luôn đào
tạo
các chủng sinh phải biết nhiều loại ngoại ngữ và
các hệ thống tri thức toàn cầu, bởi vì việc này sẽ giúp
cho các chủng sinh hiểu thêm về Chúa, và bởi vì ngôn ngữ
là của Chúa tạo nên[37], chẳng hạn, bài giảng sau đây:“Này
các học sinh thân yêu, chúng ta đã viết lên tất cả những
tác phẩm nhỏ bé này dành cho chúng ta. Thường thì, sau nỗ
lực
hằng ngày của mình, ta còn một ít thời gian và tự
hỏi là cách nào ta sử dụng nó. Chúng ta mong rằng, trong
lúc mà chúng ta đã trải qua thời gian ấy để trau giồi tri
thức
của mình thì thật là dễ chịu và chính vì điều đó
mà ta nêu ra câu chuyện nhỏ bé này. Ta sẽ là những bậc
thầy tuyệt hảochúng ta đang chờ đợi các kế hoặch
cũng như những ao ước của phần đông các học trò
mình với lại các sinh viên của mình nữa. Các bạn nên gọt
bớt lòng đố kỵ để học tập tất cả ngoại ngữ nếu
có thể
, bởi vì những gì sau chót đã đặt ra từ các tác
phẩm
về sự tưởng tượng theo nét quyến rũ nhất nhấn
mạnh
hoàn toàn đến nền văn học Latinh. Chính lỗ hổng này
mà đức Chúa cha đã ban cho ta các sức mạnh, ta cần lấp
đầy nó. Chắc chắn là ta sẽ không hoàn thành, thế nhưng
niềm vui chúng ta sẽ vĩ đại, nếu như điều đó hiện hữu,
chúng ta dùng nó theo một vài thích thú và nó được kéo theo
bằng hương vị của công cuộc nghiên cứu tiếng Latinh. Nhờ
vào kinh nghiệm này mà ta ứng dụng cho nhiều học trò mình,
những người không có hương vị ấy, những người không
ghi nhớ được do sự khó khăn của nó từ hình thái từ ngữ
quá nghiêm nhặt. Vậy thì hãy can đảm lên: hãy đọc câu
chuyên nhỏ bé này, … ngay cả bằng cách ham thích mà nó trao
cho ta những gì mà nó viết trong đó.”[38] Kết quả là ta
có một hệ thống tri thức toàn cầu, cho dầu các hệ thống
này đã đi ngược lại cái mà họ được đào tạo. Tuy nhiên,
điều mà ta quan tâm chính là sự sáng tạo và cơ sở đào
tạo
hạ tầng của nhà thờ, thật sự ta chưa bằng họ.

Trở
lại
, bằng các cứ liệu đã cho, như vậy, việc trì chú,
tụng kinh hay bất cứ hoạt động nào thuộc thiện ngôn hay
thiện hạnh sẽ cung cấp nhiều hơn các chất xám, từ tiến
trình hạ nhân loại dẫn đến một tiến trình thượng nhân
loại thông qua hoạt động của ngôn ngữ và các biểu thể
từ các cấu trúc thâm diện của ngôn ngữ; và các hoạt động
nào liên quan đến việc nói không đúng sự thật, nói không
kiểm soát và thậm chí các luận thuyết đưa đến những
tác hại… sẽ làm cho các căn này nhòe đi chất màu xám và
làm hư hoại chúng dẫn đến tình trạng cuồng ngôn loạn
ngữ; hoặc là các chất liệu sở tạo từ các hột giống
do tư và tâm sở tư nhuận trạch sẽ lộ diện trên sắc thân:
da xanh, mắt láo liên, thần khí hôn trầmTóm lại, tâm thức
với vô vàn chủng loại như vậy, hoặc hướng đến các trạng
thái
tích cực, thì sắc pháp cũng trở nên tươi đẹp, thuần
khiết
, còn với khuynh hướng tiêu cực, thì các căn, và cảnh
giới
sắc pháp trở nên ảm đạm mù tối. Thế thì các cảnh
giới
phi vật chất, cảnh giới cao cấp có thể hiểu qua tiến
trình “sở tạo ngôn dụng” hay cảnh quan truyền khí ngữ
này trong các hạn chế của tri thức, và “như ý sanh thân”
được hiểu theo 2 diễn trình: hướng hạ hoặc hướng thượng
theo cách với các con tem đặc hiệu của chúng dán vào như
Chomsky đã nói rằng, xét như là thực hữu. Tất nhiên, các
cứ liệu cho phép như thế, mở cho ta một chân trời, các
nghiên cứu về tư thế thiền định, trì chú, niệm Phật,
quán Phật, cấu trúc maṇḍala của Mật giáo, tức là một
“khoa học” về tôn giáo, nhất là Phật giáo, cần được
nghiên cứu trên bình diện rộng của vật lý, triết học
và cả phân tâm học, như Chomsky đã nêu trong bài thuyết trình
thứ 6 của mình cho các cử tọa thuần triết gia. Và cũng
từ trong ngôn cảnh này, ta có thể xét đến phạm trù Giới
luật
của Phật giáo đã hữu ích và có tác dụng như thế
nào đối với cá nhân thực hiện, nghĩa là nó “kích thích
và ảnh hưởng” như thế nào đối với toàn cộng đồng
và ngay cả ý nghĩa của Tăng đoàn nữa. Cũng do cứ liệu
này, có lẽ ta sẽ không cần đánh bóng Phật giáo bằng tất
cả các hạn từ tuyệt đẹp nào, một thời kỳ phổ kiến
của Tam Bảo sẽ không còn xa lắm. Và, “một niệm bao hàm
cả 3 cõi” sẽ không phải là một cái gì đó quá trừu tượng
đối với chúng ta.[39] Theo hạ nghị sỹ Charles G. Rose”giới
luật nhà Phật là trạng thái tự tri và nước Mỹ cần phải
học tập điều này hơn là những gì họ đã biết; và ông
đã đề nghị các đồng nghiệp của mình ghi vào luật pháp
nước Mỹ cho phép Phật giáo hoạt động.[40]

Các
vùng màu xám trong đồ họa của Geschwind chỉ cho các vị trí
chung về chức năng ngôn ngữ và nó cho ta biết là những ai
mất khả năng ngôn ngữ là do các căn tri nhận ngôn ngữ hay
các vùng đặc biệt này bị tổn hoại hay bị phai màu.

Thật
vậy, sự chuyển biến [cải biến] hay phiên dịch của thức,
là kiến trúc ngôn ngữthế giớithế giới của kiến
trúc ấy, thông qua- Căn, trần và xúc và 3 phạm trù này là
sở dụng cảnh của thức, thế nên Kinh dạy: duy tâm sở tác
là vậy-nó mang [2] đặc tính: tự tri nhận và tri nhận về.
Tính tự tri nhận, theo Chomsky, là cấu trúc tiềm thể [deep
construction] và tri nhận về, là quy cho cấu trúc biểu thể
[surfact cons truction]. Trong trường hợp biểu thể, nó cho phép
ta phát triển vô hạn cú nghĩa, trong khi chủ thể và hành
vi
được giữ nguyên [chủ từ và vị ngữ]-đặc tính chung
con người hay dục giới, đặc tính riêng là cảnh giới
thụ dụng theo con tem đã dán lên bằng dị thục hay phân loại
tạo sinh [genetic classification]-một tiêu chuẩn được định
hình theo nghiệp tạo sinh hay y báochánh báo. Chẳng hạn:

Cái
đang là đang nói sự thật

Cái
đang là như vậy đang nói sự thật

Cái
đang là như thế hôm qua đang nói sự thật về pháp Phật

Cái
đang là như thế hôm qua vào buổi chiều đang nói về pháp
Phật cho các cư sỹ tại khuôn viên chùa G.L.

Cái
đang là như thế bây giờ đang nói sự thật về các pháp
của hôm qua trong chánh điện chùa G.L., v.v…

Một
loạt câu khai triển đến vô hạn như vậy, cho phép ta đối
diện
với môi trường ngôn cảnh của Kim Cang, mà ở đó thủ
thuật ngữ đoạn tính [phrasal][41] của “văn pháp tạo sinh
hay ngôn cảnh phổ quát” của bậc đại trí đã đưa ta vào
huyền cảnh của vô ngôn phi thuyết chuẩn mở rộng, nghĩa
là với trường hợp này: y báo đồng nhất với chánh báo.
“Cái sự thật đang nói là sự thật, cái sự thật đang
nói là không hai lời, cái sự thật đang nói là chân thật
ngữ.” Do vậy, kinh Đại Bảo Tích dạy rằng, sở dĩ các
bậc Thanh Văn đáng tôn quý, bởi vì họ đã tu chứng trên
“tạng ngữ Như Lai”.

Trong
cấu trúc biểu diện, Căn, chính là hình vị của khu vực
đã cho thấy qua vị trí não bộ, hay hệ thống vật lý
các giới của chúng, và sự hoạt động của tư có thể được
hiểu bằng chính các thực thể này.

Trong
một trường hợp nữa, cách quan sát sự vật, giữa các dân
tộc, đều có vài khía cạnh di truyền và nội cảnh khác
biệt, chẳng hạn:

V.N:
tôi thấy trời xanh

Pháp:
je vois le ciel bleu tôi thấy trời xanh

Anh:
I saw the blue sky tôi thấy xanh trời

Đức:
Ich sehe blaue Himmel tôi thấy xanh trời

Hoa:
ngã kiến thanh thiên tôi thấy xanh trời 我見青天

Phạn:
ākāśanīlaṃ paśyāmi trời xanh thấytôi

Hy
lạp: μπλεν ουρανον βλεπω xanh trời thấytôi

Latin:
vǐdo cælum cærulum thấytôi trời xanh.


tính cách phổ quát, Việt Nam và Pháp thấy bản thể trước
và các phẩm tính thấy sau[42]=S+V+O+[A]; còn hệ thống tri nhận
của Mỹ, Đức, Hoa, phẩm tính thấy trước, bản thể thấy
sau=S+V+[A] +O; Hy Lạp thấy phẩm tính trước, thấy bản thể
sau=[A]+O+VS. Về mặt chủ thể nhận thức, theo hệ thống V.N,
Anh, Pháp, Đức, Hoa; chủ thể và vị ngữ tách rời nhau, còn
hệ thống [căn] tri nhận Phạn: bản thể trước, rồi các
phẩm tính và chủ thể được gắn chặc vào vị ngữ [căn
tri nhận] sau hết. Latin, vị ngữ đi trước, chủ thể, đối
tượng và phẩm tính=V+S+O+[A] [Phạn, Hy Lạp, Latin vị ngữ
gắn liền với chủ ngữ hay chủ thể gắn liền với hành
động, chủ ngữ luôn nằm sau vị ngữ, tức là hành vi
cái được trình hiện do tôi, [2] không bị tách ra như các
hệ thống ngôn ngữ vừa nêu], có một điểm đặc biệt
ở Phạn văn trong một câu đơn, đối tượng và chủ thể
gắn liền nhau hoặc là qua các biến cách cho một câu phức
ta có thể tìm thấy các phẩm từ giống nhau trên một biến
cách, thật không gì rõ nghĩa hơn qua 3 loại cổ ngữ trên:
tính luôn đi liền với tướng]. Như vậy, Việt Nam và các
hệ thống ngữ biểu của Tây Âu, không chịu “trách nhiệm”
về hành vi của mình, còn 3 hệ thống cổ ngữ đã cho, hoàn
toàn
nhận lấy trách nhiệm hành vi của mình, nói cách khác,
chủ thể và hành vinhất thể, do vậy, khi cần chứng
nghĩa
cho các vấn đề về ngữ nghĩa học, [và Trung Hoa là
một trường hợp cá biệt vì các thiên tài Phật giáo hầu
như sinh ra quá nhiều ở đây, có thể nói, chính các bậc
tài hoa đó đã đưa ngôn ngữ Trung Hoa thành một Thánh ngữ,
sánh ngang tầm cùng 3 cổ ngữ trên] các học giả luôn trích
một trong ba [3] ngôn ngữ ấy để chứng minh. Hơn thế, Phạn
ngữ
có thể xem nhưngôn ngữ cơ bản cho toàn nhân loại,
bởi vì, theo Hans Raj Aggarwal, thì loại ngôn ngữ này là cái
nôi văn minh của nhân loại, mà ngay cả 2 nền văn hóa của
Latin và Hy lạp có cộng lại vẫn chưa sánh bằng chất và
lượng của nền văn hóa ấy; Hans Raj Aggarwal đề nghị là
ta nên nghiên cứu nó[43]. Các thể tài như thế nói lên rằng,
qua biểu thể của ngôn ngữ tạo sinh, ta có thể nghiên cứu
hàng loạt các vấn đề về triết học, di truyền học, dân
tộc học, tâm sinh lývật lý v.v…Và tất cả các vấn
đề
như vậy sẽ được đề cập đến qua chương 4, 5, 6
của Chomsky cũng như vài tác phẩm khác dùng làm giáo trình
cho hệ ngoài đại học của Mỹ và các nước Âu Châu khác.
Thuyết chuẩn mở rộng của Chomsky đã làm dấy lên phong trào
nghiên cứu hầu hết trên các lãnh vực như đã nêu, đưa
đến thời kỳ bùng nổ về thuyết mô tả mà cách nay hàng
ngàn năm chính Thế Thân đã diễn giải một cách tinh tường,
trong đó, ngoài phạm vi giáo thuyết còn có cả các hệ thống
hóa học, sinh vật, thuyết truyền nhiệt, động lực học,
y khoa…, ta có thể đọc trực tiếp về những sự kiện này
qua chú giải của Yasomistra về 2 phẩm phân tích Căn và Cảnh
của Thế Thân trong Câu Xá. Ngoài luận án tiến sỹ của giáo
học giả Lê mạnh Thát và các gợi ý qua khối lượng
tác phẩm đồ sộ của H.T Thích Trí Quang mà ở đó các chi
tiết
xét như là tiềm thể cho một hiển nghĩa của thời
kỳ
tương lai, và của thầy Tuệ Sỹ ra, khi mà toàn bộ kinh
A-Hàm của thầy được công bố như là một chuẩn bản, thì
hầu như, trên mặt tổng thể, ta chưa thấy một “công trình”
nào về khía cạnh này, hơn 40 năm, ngoài các thiên tài như
vậy, Phật giáo đã dừng lại trên “trí tuệ bất khả thuyết”,
ta có thể sai lầm ở một định hướng, tuy nhiên trí tuệ
thì có thể nói được để tri nhận cho một cống hiến nhân
loại
chung – như An Huệ đã vạch ra trong luận giải của mình
về Duy Thức[44]-bằng một cách nào đó.

Vùng
Broca

Thuật
ngữ
này chỉ cho bác sỹ Broca, một bác sỹ giải phẩu người
Pháp, vào khoảng thập kỷ 80 ông ta đã báo cáo là, sự tổn
hoại cho các thành phần đặc biệt của não bộ có tương
quan đến việc khó khăn nghiêm trọng trong cách phát ngôn.
Ông đã lưu ý cho ta biết là, sự tổn hại tới vùng liên
quan
trên não bộ phải, thì không có các hiệu quả như vậy.
Sự phát hiện ấy lần đầu tiên đã được dùng để tranh
luận
là khả năng ngôn ngữ cần được định vị là ở
não bộ trái, kết quả sau đó là nó đã được thừa nhận
là bản phát đồ đặc biệt nhất, mà vùng Broca được làm
tác nhân cho ngôn xuất qua các chỉ lệnh của lý tính.

Vùng
Wernicker

Như
đã trình bày [khu vực số 2] của đồ họa, vùng Wernicker
là vùng vỏ não có chứa [chất liệu] lời nói ở phần hậu
diện [posterior speech cortex-hậu ngữ vỏ não]. Wernicker là một
bác sỹ người Đức, vào thập kỷ 80, đã công bố sự tổn
hại
của bộ phận não bộ này và nó được phát hiện
qua các bệnh nhân đã từng nói khó hiểu, nghĩa là các bệnh
nhân đó được phát hiện là hư bộ phận ấy. Sự khám phá
như vậy đã khẳng định là khu vực bán cầu não trái thuộc
về khả năng lời nói và nó đưa đến quan điểm rằng, vùng
Wernicker là bộ phận não chủ yếu chứa đựng tri thức về
lời nói hay sự hiểu biết về ngôn ngữ.

Vỏ
não vận động chính [the motor cortex]

Như
đã trình bày, khu vực số 3, là khu vực vỏ não vận
động
chính, nói chung nó nhận chỉ lệnh của tư duy
và các tư này kiểm soát sự cử động của các cơ bắp [chẳng
hạn sự cử động của tay, chân]. Gắn kết với cùng Broca
là bộ phận của vỏ não vận động chính, nó kiểm soát
các cơ bắp cấu tạo của khuôn mặt, quai hàm, lưỡi và thanh
quản. Các cơ cấu ấy, chứng minh rằng, vùng này được
thật sự bao hàm trong cấu tạo vật lý về lời nói phát
thành từ ngữ và các phát hiện như vậy được 2 nhà giải
phẩu học tìm ra vào thập kỷ 50; các nghiên cứu này cho biết
rằng, bằng cách ứng dụng các số lượng nhỏ của giòng
điện cho các vùng đặc biệt này của não mà ở đó sự
kích thích của dòng điện sẽ gây ra sự chế tác lời nói
thông thường

Chùm
thần kinh loan khúc [arcuate fasciculus]

Như
vị trí số 4 đã cho, chùm này là một bó của các dây thần
kinh
được gọi là chùm thần kinh loan khúc. Đây cũng là một
trong các khám phá của Wernicke và nó định hình cho một tương
ưng
cốt lõi giữa vùng Wernicker và vùng Broca.

Thị
quan
khu vực hóa [the localization view]

Sau
khi đã định dạng được 4 thành tố này, tất nhiên là ta
có thể tạm thời đi đến kết luận là, các bình diện đặc
thù của khả tính ngôn ngữ có thể được thừa nhận
[hình thành] ở nơi các địa phương của não bộ. Và, người
ta đề nghị rằng, sự hoạt động của não bộ lồng trong
nó khả tính nghe một từ, khả tính nhận thức từ ấy và
rồi nó ứng xử từ này và tất cả sẽ đi theo một dạng
hữu hạn định nào đó. Ngôn từ được nghe và hiểu băng
qua vùng Wernicker. Khi ấy thức diễn dịch cung cấp các ký
hiệu theo các tem đã dán với thông số tỷ lượng và được
chuyển giao qua các hệ thần kinh loan khúc của vùng Broca và
ở đây các tỷ lượng được tạo ra thành quá trình chế
tác ngôn ngữ. Một loại ký hiệu[45] từ quá trình chế tác
này sẽ được gởi đi liền sau đó vào vùng vận động chính
cho hệ cấu tạo vật lý từ ngữ.

Tiếc
thay, một tiến trình đồ sộ như vậy, lại là một dịch
bản đơn giản hóa cho một cái gì đó mà nó có thể tạo
nên và cũng tiếc thay, một diễn dịch như vậy, đôi khi lại
thành “ái hà” cho 3 cõi nữa. Trên thực tế, vấn đề là,
trong nỗ lực để khảo sát thuyết cơ giới phức hợp của
não bộ nhân loại liên quan đến chủng tính của “các địa
phương hóa” ngôn ngữ này, thật sự là chúng ta đã bị
bối rối để nêu lên các tương tác nội tại thông qua hệ
thống
thần kinh trung tâm, chúng ta cũng đã thật sự bối
rối
để nêu lên nguyên lý phức hợp của chế độ cung cấp
máu cho não và bản chất tuyệt đối độc lập của hầu
hết chức năng não và, theo Chomsky, sự chi phối của lý tính
và quyền hành của nó là không thể nghi ngờ-xét như là hiện
thể tính.[46]

[còn
tiếp]

P.H.

(Theo
TSNC Phật học Pháp luân 03)

[1]REST=
Revised Extended Standard Theory [Chomsky. Aspects of the Theory of Syntax.
1965. Cambridge University press.].

[2]
Bài viết sở y trên 6 chương về ngôn ngữ học của Noam Shomky
trong tác phẩm Language and mind và 2 chương Phân biệt
Căn và Nghiệp trong phẩm thứ nhì và thứ tư của Bồ tát
Thế Thân
.

[3]
La philosophie, tell que nous la comprenons en Europe, est la création
des Grees. Elle est inconnue de la tradition Bouddhique, qui regardait
l’enquête portant sur la réalité, dans le seul dessein d’être mieux
renseigné sur la elle, comme la perte d’un temps précieux. L’enseignement
du Buddha s’occupe exclusivement de montrer la voie du salut. La «philosophie»
que peuvent contenir les ˆuvres d’auteurs Bouddhiques est tout accesoire;
dans le vaste vocabulaire du bouddhisme nous ne trouvons pas de mot qui
corresponde à notre terme de «philosophie». [André Bareau chuyển
dịch. Payot. Paris.]

[4]
Die menschliche Vernunft hat das besodere Schicksal in einer Gattung ihrer
Erkenntnisse; dass sie durch Fragen belästigt wirt, die sie nich abweisen
kann, denn sie sind ihr durch die Natur der Vernunft selbst auf gegeben,
die sie aber auch nicht beantworten kann, denn sie übersteigen alles Vermörgen
der men schlichen Vernunft [Immanuel Kant. Kritik der reinen Vernunft.
Hauptwerke der grossen Denker.]

[5]
Another significant feature of the original cognitive revolution was the
cognition that properies of the world termed mental may involve unbouded
capacities of a limited finite organ. the “infinite use of finite means,”
in Wilhelm von Humbold’s phrasal. The doctrine was at the heart of the
Cartesian concept of mind. It provided the basic criterion to deal with
the problem of “other minds”-to determine whether some creature has
a mind like ours. (Preface to the third edition/ N.Schomky.)

[6]
and, by now, the topic of intriguing empirical research and conceptual
analysis.

[7]
bản biên tập Abhidharmakośa của Rahula: Biện trung biên luận,
nói rằng:”Ý đào sâu thành ức niệm [sở ức niệm xứ],
và nó cũng được cho là tư vậy.” “tatra yaccetanety uktaṃ
karma tanmanasaṃ smṛta”-Madhyamakāvatare.

[8]
Hữu mô hóa. “Skt: Vijñapti= information. Lat. Forma, có nghĩa
là cơ cấu sắc, hữu mô hóa [ex aliquo comperire (io, is,
peri, pertum) được thông tri bằng dấu hiệu cho một sự kiên
nào đó. M.Edon]. R. W. Emerson, trong tác phẩm «Tự dựa nương-Self-Reliance»,
giải thích information là “mặt nổi của đồng tiền», tức
là “sự đệ trình bằng lời”, “sự phục tùng hay phụng
hành-obedience”. Mặt khác của từ này, có nghĩa là “sự
biểu thực hay chứng thực [conFORMation]”. FORM, là một hạn
từ đa nghĩa, ở dạng danh từ, nó chỉ cho thân thể, dung
mạo
, cơ chế, cơ thể vật lý, hoặc thuật giải phẩu và
cũng có nghĩa là chủng loại, SẮC LOẠI. ‘Theo NTS’Dic. Latin
and Greek origins.

[9]
Hetur eva ca vināśakaḥ syāt ∣Kathaṃ kṛtvā ∣ghāsā (dhāsā)
dyagnisaṃbandhā guṇāḥ pākajā utpannāstata eva tādṛśādvāḥ
punaḥ pakvatara tamotpattau teṣāṃ vināśa iti hetur eva teṣāṃ
vināśakaḥ syād dhetvaviśiṣṭo vā ∣Na ca yuktaṃ yata eva tādṛśadvā
teṣāṃ bhāvastata eva tādṛśācca taṣāṃ punar abhāva iti∣Jvālāntareṣu
tāvaddhetu bhedakalpanāṃ parikalpeyuḥ∣ Kṣārahimaśuktasūryodaka-bhūmisaṃbandhāttu
pākajaviśeṣot-pattau kāṃ kalpanāṃ kalpayeyuḥ∣ yattarhy āpaḥ
kvathyaṃmānāḥ kṣīyante kiṃ tatrāgnisaṃyogāḥ kurvanti (Và
cái năng diệt chính là nhân, tại sao vậy? Các sản phẩm
được nun nấu là như nhau do diễn trình vật được nấu kết hợp giữa các củi v.v..và lửa, lại nữa, sản phẩm
hình thành trong nguồn cơ bản trên tính sai biệt này mà sự
diệt của chúng [các quá trình truyền nhiệt từ sơ, trung
và cao đối với các thành phẩm] chính là nhân, vậy, nhân
diệt của chúng là đồng nhất, là không khác với nhân sinh.
Không nên dựa vào hình thái giống như vậy của các phẩm
tính lộ ra và cho là đồng nhất với cái vô thể [hình thành]chúng.
Trong sự sai biệt của ngọn lửa, người ta có thể cấu trúc
thành [ngôn ngữ] vọng tưởng về sự hoại diệt của nhân,
người ta có thể cấu thành các suy diễn của mình về những
gì có trong nguồn cơ bản [dữ liệu] đặc sắc làm nên sản
phẩm do liên hệ đến các nhân tố như vị chua của
đất, tính chất ăn mòn của ánh sáng mặt trời đối với
băng tuyết. Trong trường hợp như thế, các sự kiện liên
hệ
đến lửa tạo nên cái gì? Khi mà thủy bị cạn kiệt
trong quá trình đun nóng.)

HTr.:
又若薪等滅火合為因。

T29n1558_p0068a14(02)║於熟變生中有下中上。應生因體即成滅因。

T29n1558_p0068a15(01)║所以者何。謂由火合能令薪等有熟變生。

T29n1558_p0068a16(01)║中上熟生下中熟滅。

T29n1558_p0068a17(10)║或即或似生上中因即能為因滅下中熟則生因體應 即滅因。

T29n1558_p0068a18(02)║或滅生因應相無別。

T29n1558_p0068a19(09)║不應由即此或似此彼有。彼復由即此或似此非有。

T29n1558_p0068a20(05)║設於火焰差別生中容計能生能滅因異。

T29n1558_p0068a21(05)║於灰雪酢日水地合。能令薪等熟變生中。

T29n1558_p0068a22(05)║如何計度生滅因異。若爾現見煎水減盡.

Tuệ
Sỹ: Lại nữa sự biến mật của củi… lấy sự kết hợp
với lửa làm nhân, nên chính cái yếu tố sinh nhân phải là
nguyên nhân của sự diệt Vì sao? Nghĩa là do kết hợp
với lửa khiến cơm, gạo… trở thành sản phẩm phát
sinh trong quá trình đốt cháy [thục biến sinh]. Sản phẩm
chín ở mức độ cao nhất của bực trung khác với sản phẩm
chín ở bậc dưới. Hoặc là chính cái nhân đó hoặc là chính
cái tương tợ với cái nhân, cái nhân làm phát sinh ra cái
sản phẩm ở mức cao nhất. Chính nó làm nhân diệt cho cái
sản phẩm ở bậc dưới. Như vậy yếu tố của nhân làm
phát sinh cũng là cũng chính là nguyên nhân làm cho diệt. Hoặc
diệt nhân và nhân sinh, hình thái không thể khác nhau được,
cho nên không thể nói rằng chính do cái này hoặc tương tợ
cái này mà có cái kia, hoặc do chính cái này tương tợ với
cái kia. Giả sử trong sự phát sinh sai biệt của ngọn lửa
[ngọn lửa có thể dài, ngắn], có thể chủ trương rằng,
nhân sinh nhân diệt khác nhau, như trong trường hợp khói, tuyết,
vị chua , ánh nắng, nước và đất bùn, kết hợp lại, như
củi kết hợp với lửa và sản phẩm bị biến đổi. Trong
trường hợp đó, làm sao phân biệt được sinh nhân, nhân
diệt? Nếu nói vậy, lúc nấu nước thấy nước cạn dần,
trong trường hợp kết hợp với lửa như thế, lửa có tác
dụng
gì?

[10]
They do not have the required “beads on a string”.

[11]
Dalai Lama. Mọi cấu trúc đều có cái chủng tử hoại diệt
trong chính tự thân nó, còn các điều kiện là không đáng
kể
, nó tự hoại vô nhân. [Essence of the Heart Sutra. Wisdom Publications.
Boston.]

[12]
Tâm [citta] của Phật giáo phải hiểu là: chủng tử sắc tâm,
mới đúng. Tuệ Sỹ.

[13]
The power of Ideas [B. N. Moore]

[14]
The power of Ideas [B. N. Moore]

[15]
Kinh Lăng Già: sarvabhāvavikalpābhād indriyāṇāmanagataviṣayoparamācca
Mahāmate nirvāṇaṃ vikalpayanti na pratyātma gativijñānālayaṃ
parāvṛttipūrvakaṃ Mahāmate. [Buddhist Sankrit Texts-No. 3. Published
by The Mithila Institute.]

[16]
Hớp rượu tri thức: “… from the thimbleful of knowlege that has
been attained in careful experimental work and rigorous da-ta processing,
to issues of much wider significance and of great socical concern.”

[17]
Language and Mind [N. Chomsky. Cambridge University press.]

[18]
Lớp LĂNG GIÀ do TT. Nguyên Giác dạy.

[19]
Phẩm Phân biệt giới: “đức Thế Tôn tùy trường hợp thích
ứng
, bằng sự diễn giải chánh pháp, giống như chìa ra bàn
tay để cứu vớt.” Tuệ Sỹ [A-tỳ-đạt-ma-câu-xá Luận.
Ban tu thư Phật học]

[20]
Phân biệt giới [Tuệ sỹ, A-tỳ-đạt-ma-câu-xá Luận. Ban
tu thư Phật học].

[21]
ātmalabha. HTr.: Đắc thể 得體. Poussin [fren.]: acquis=acquisition.
Prudent [Eng] acquisition. Đây là một thuật ngữ quan trọng trong
ngôn ngữ học, không có nghĩa thuần túy là: thụ dụng hay
sở đắc theo cách hiểu thông thường, mà nó có nghĩa là
” đắc tự thể, thụ dụng tự tính. Ví dụ, trúng số độc
đắc
. Đắc còn có nghĩa là lợi dưỡng, lợi đắc. Đắc
gồm có hoặch và thành tựu [cái đi theo]. Đắc là cái trước
đây chưa có mà nay có, cái mật đi nay tìm được (như trẻ
em đắc thể ngôn ngữ theo giòng kinh nghiệm của mình, mà
chưa qua xử lý, tức là học và nói theo cái đã học. Chomsky).
ātma là tự ngã, khi pháp hình thành nên một tự ngã thì gọi
là hữu sát na. Thành tự ngã theo nghĩa rộng bao hàm hữu tình
và vô tình. Ātma đắc tự thể trong một sát na. Từ điểm
đầu cho đến điểm kết thúc tạo nên một tự thể. Tuệ
sỹ.

Nghĩa
này phải được hiểu theo văn cảnh của Chomsky, Vật trì
tự tánh, quỷ sinh vật giải.

[22]
“ΤΟ ΚΑΤΑ ΙΩΑΝΝΗΝ ΑΓΙΟΝ ΕΥΑΕΑΙΟΝ: Εn árxí
ín ó lógos, kai lógos ínprós tòn théon, kaì Theòs ìn lógos.
oy èn árxì pròs tòn theón. pánta dí aýtoý égéneto oýdè én
d gégonen, én aýtó zoh hn, kai…. “ [SÁCH PHÚC ÂM THEO THÁNH
JOHN. Introduction to Greek. Oxford]

[23]
”Musae quac pedibus magnum pulsatis Olympum” [Q. ENNIVS. Anthologie
de la poésie Latin. Editions stock Paris]

[24]
Tất cả phần chú thích của TT. Tuệ Sỹ được thầy Nhuận
Phổ ghi lại thành văn qua các buổi giảng của TT.

[25]
Nghiệp là cái có thực thể [cái gì có thực thì có tác dụng],
do vậy, khi trình bày về nghiệp, người ta cần xác định
bản chất hay tự tính của nó. Chẳng hạn, nghiệp hay
hành động giết hại hoặc nhân nào gây ra quả. Cái cần
lý giải là, sát na [tâm], khi đã đi qua, nhưng vẫn còn lưu
lại, đến sát-na thứ 2 nó tương tác với sát na đầu, tạo
nên nguyên động lực thúc đẩy thân ta hoạt động và, sự
hoạt động này, văn bản gọi là Biểu nghiệp. Vậy, biểu
nghiệp là gì? Người phương Tây dịch là information-thông
tin- nói cách khác biểu nghiệp là một loại thông tin nào
đó kinh qua hoạt động của thân , tức là có thể mô tả
được, để người ta hiểu được một hoạt động siêu
tầng nào đó thuộc về lãnh vực tâm. Hữu bộ quan niệm
biểu nghiệp thuộc về hình sắc, di chuyển theo phương hình
học. Tự thể của nghiệp tạo tác động không phải là sự
di chuyển. T.S.

Skrt:
Vijñapti= information. Lat. Forma, có nghĩa là cơ cấu sắc, hữu mô hóa [ex aliquo comperire (io, is, peri, pertum) được thông
tri
bằng dấu hiệu cho một sự kiên nào đó. M.Edon]. R. W.
Emerson, trong tác phẩm «Tự dựa nương-Self-Reliance», giải
thích
information là “mặt nổi của đồng tiền», tức là
“sự đệ trình bằng lời”, “sự phục tùng hay phụng
hành-obedience”. Mặt khác của từ này, có nghĩa là “sự
biểu thực hay chứng thực [conFORMation]”. FORM, là một hạn
từ đa nghĩa, ở dạng danh từ, nó chỉ cho thân thể, dung
mạo
, cơ chế, cơ thể vật lý, hoặc thuật giải phẩu và
cũng có nghĩa là chủng loại, SẮC LOẠI. ‘Theo NTS’Dic. Latin
and Greek origins. N.D.

1.
Theo LAMOTTE, giáo chỉ về nghiệp hầu như được diễn đạt
rất đơn thuần bằng một vài từ ngữ như sau:

1.
l’acte est pensée, volition [Nghiệp là tư duy, là ý chí]. Cách
hiểu này hoàn toàn ngược lại với những gì đã được
tuyên bố từ thời nguyên thủy, hoặc cũng như Kỳ na giáo;
nghiệp không phải là một thực thể vật chất hay là chất
có thật để tạo nên vật thể. Thế thì, tội lổi không
phải là một thần thị khách quan, một cơn bệnh hoạn nào
đó mà người ta phải “tẩy sạch” bằng các việc tắm
rửa đức hạnh trong giòng sông linh thánh , hay nghiệp là cái
“ngoài da-vỏ bọc” bằng khổ hạnh hay nhịn ăn. Điều
cốt yếu là, Nghiệp đã được tư duy , nó là sự cố ý
un đúc hay dục ý và, cũng do căn cứ theo phẩm chất đạo
đức
[thiện nghiệpác nghiệp] nữa. Trong bản kinh [Aṅguttarannikāya,
ⅲ, 415,] đức Đạo Sư dạy: :» cetanāhaṃ bhikkhave kammaṃ
vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā. Này chư
Tỳ-kheo! Ta nói, nghiệp là [do] tư; sau khi đã cố muốn, người
ta thực hiện sự hoạt động [nghiệp] này bằng các bộ phận
hay các thân, bằng lời nói, và bằng ý..» Như vậy, người
ta chia ra 2 hoặc 3 loại nghiệp. 1/ 2 loại nghiệp: ý nghiệp
[cetanākarma-tư nghiệp], tư dĩ nghiệp [cetayitvā karma]. 2/ 3
loại nghiệp: Ý nghiệp [manaḥ karma], thân nghiệp [kāyakarma],
khẩu nghiệp [vākkar̀ma], Cả 3 loại nghiệp này đều thuộc
về Tư dĩ nghiệp. [∮ⅰ, n. 3]

2.
Nghiệp sinh ra quả dị thục [vipākaphala] phải ở trong đời
này hoặc đời sau. Đức Phật minh định rằng: :» Chư nghiệp
vô diệt, ngay cả hàng trăm triệu thời kỳ của những thời
kỳ
vũ trụ. Nếu như chúng gặp phải đúng thời tiết nhân
duyên
thuận lợi, chúng sẽ thành thục cho tác giả của chúng.:»
[∮15, n. 48]. Điều này muốn nói rằng, quả dị thục của
nghiệp là tuyệt không nghi ngờ.

3.
Nghiệp thành thục cho chính tác giả hay người tạo ra nó
[tác giảthọ giả]. Nói chính xác hơn, nghiệp
được thành tựu ở nơi mà nó được tạo ra. Nghiệp là
cái được thành thục, trong một vài hạn từ quen dùng khác.
[Theo LAMOTTE- Traité de l’acte Vasubandhu: karmasiddhiprakaraṇa].
Le dogme canonique. “Ce dogme très simple tient en peu de mots:

1/
L’acte est pensée, volition .-Contrairement à ce que les primitifs,
ou même Jaina ont cru, l’acte n’est pas une substance matérielle;
le péché n’est pas un fluide, une maladie qu’il faut “laver”
par des pains virtuels dans les rivìères sacrées, ou “cuire” par
la pénitence ou le jeȗne. L’acte est essentielement pensé, volontaire,
conscient et par suite moralement qualifiable (bon et mauvais). On dit
dans l’Aṅguttaranikāya,

ⅲ,
415: cetanāhaṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti
kāyena vācāya manasā.:”Moins, je dis que l’acte est volition; après
avoir voulu, on accomplit l’acte par corps , la voix, et l’esprit”.
On distinguera donc deux ou trois sortes d’acte: 1. deux actes: l’acta
volition, l’acte corporel (kāyakarma) et l’acte vocal (vākkarma)
qui sont l’acte-après-voulu [∮ⅰ, n. 3].

2/
l’acte produit un fruit de rétribution (vipākaphala) soit dans cette
vie, soit dans une vie postérieure. La Buddha est catolorique:

na praṇaśyanti karmāṇi kalpakoṭisatair api

sāmagrīṃ prāpya kālaṃ ca phalanti khalu dehinām.

«les
actes ne périssent pas, même après des centaines de millions de périodes
cosmiques. Rencontrant le complexe [des conditions] et le temps [favorable],
ils fructifient pour luer auteur » [∮15, n. 48]. Ceci veut dire que
la rétribution de l’acte est certaine.

3/
L’acte fructifie pour son auteur, plus exactement, là ou il a éte accompli.
En d’autres terms, il y aune entité rétribuée.

[26]
“Athaṃ yad etat sattvabhājanalokasya bahudhā vaicitrayam uktaṃ
tat kena kṛtam. Na khalu kenacid budhhipurvakaṃ. Kiṃ tarhi, sattvanāṃ.
Karmajaṃ lokavaicitrayaṃ

Yadi
karmajaṃ kasmānsattvānāṃ karmabhiḥ kuṅkumacandanādayo ramyatarā
jāyante na teṣāṃ śarīrāṇi. Karmaṇy eva tāny evaṃ jātīyāni.
Vyamiśrakāriṇāṃ sattvānāṃ yad āśrayāśca vraṇabhūtā jayante
bhogaśca ramyātatpratīkārabhutāḥ. Avyāmiśrakariṇāṃ tu devānām
ubhaye’pi ramyāḥ. Kiṃ punas tat karmetyāha.”

[27]
Cội nguồn ngôn ngữ. “Cội nguồn của ngôn ngữ không chỉ
được tìm thấy trong sự dung tục tầm thường, mà nó còn
được tìm thấy trong khuôn mặt nên thơ của cuộc sống.
Cội nguồn của lời nói, không chỉ là tính nghiêm trọng
bi quan mà nó còn là cách ứng xử vui tươi và rộn ràng tươi
trẻ…Trong lời ban sơ tôi nghe tiếng hò reo cười cợt của
niềm hoan hỷ khi các em gái trai đã giành nhau để chiêu vời
sự chú ý của người khác phái, khi mọi người hát lên niềm
vui nhất và đã nhảy rộn lên theo lòng quả cảm để
khêu gợi đôi mắt nhìn hâm mộ dõi theo hướng mình. Ngôn
ngữ
được sinh ra trong những ngày tỏ tình của loài người
như vậy đó. (Otto Jespersen. 1921)”

[28]
Thế Thân: “Avyāmiśrakariṇāṃ tu devānām ubhaye’pi ramyāḥ.”

[29]
“The genesis of language is not to be sought in the prosaic, but in the
poetic side of life; the source of speech is not gloomy seriousness, but
merry play and youthful hilarity…In primitive speech I hear the lauhing
cries of exultation when lads and lassies vied with one another to attract
the attention of the other sex, when everybody sang his merriest and danced
his bravest to lure a pair of eyes to thow admiring glances in direction.
Language was born in the courting days of mankind. ”Xem “the study
of language”, Cambridge University press.

[30]
Dic. Otto Böhtlingk.

[31]
HTr.: T29n1558_p0067b18(05) 心所思 思所作 [tâm sở tư và tư
sở tác]. CĐ.: 0225a28║意業。故意所造業 [ ý nghiệp
cố ý sở tạo nghiệp].

[32]
Vùng vỏ não vận độngnhiệm vụ khởi động ngôn ngữ,
vùng này ở thùy trán trái [in the left frontal lobe] trong hầu
hết [nhưng không phải tất cả] của những người thuận
tay mặt, trong các vùng 44 và 2 55 của miền Brodman [các vùng
có ghi số 1 47, trong đó một bản đồ phân chia vỏ não có
thể được thực hiện để thuận tiện cho việc mô tả,
căn cứ trên việc sắp xếp các nơrôn thấy dưới kính hiển
vi khi quan sát các mẫu cắt. Chẳng hạn, trên bản đồ vùng
4
tương ưng với vỏ não vận động chính, trong khi vỏ não
thị giác chính ở vùng 14. Theo Tự điển thuật ngữ y khoa
/ nxb Tổng hợp T. P. H. C. M.]

[33]
Theo George Yule [the study of language. Cambridge University press.]

[34]
Những từ vựng hay thuật ngữ tương đối mới được dùng
ở đây, đều dựa trên The Penguin Dictionary Of Language [David
Crystal], index của Andrew Radford [Syntax a minimalist introduction.
Cambridge university press] và Từ Điển Thuật Ngữ Ngôn Ngữ
Học Đối Chiếu của Cao Xuân Hạo-Hoàng Dũng [Nxb Khoa Học
Xã Hội.]. Phần kết thúc của bài viết sẽ có phần mục
từ đối chiếu Anh-Phạn để bạn đọc tham khảo.

[35]
Nghiệp là cái có thực thể, có tác dụng, do vậy khi trình
bày về nghiệp phải xác định cái tự thể của nó. Chẳng
hạn hành động sát hại, hành động nào gây ra hậu quả.
Biểu nghiệp sát na đầu đi qua nhưng nó vẫn lưu lại, đến
sát na thứ 2 nó phát tác trở lại, khiến cho chân tay chúng
ta
hoạt động. Thể biểu nghiệp là gì? Tức là tính chất
của nghiệp được biểu lộ ra mà người ta có thể thấy
được, Hữu bộ cho rằng, nghiệp là hình sắc. Thân nghiệp
là sự di chuyển của thân theo phương hình học. Tự thể
của nghiệp gây ra tác động không phải là sự di chuyển.
– Tuệ Sỹ.

[36]
Cetanā tatkṛtaṃ ca tat.

Sūtra
uktaṃ: Dve karmaṇī cetana karma cetayitvā ce” ti. Yat taccetayitvā
cetanākṛtaṃ ca tat. Te ete dve karmaṇī trīṇi bhavanti. Kāyavāṅmanaskarmāṇi.
Kayam eṣāṃ karmaṇāṃ vyavasthānam. Kim āśrayataḥ āhosvit
svabhāvataḥ samutthānatoḥ vā. Āśrayataśced ekaṃ kāyakarma
prāpnoti. Sarveṣāṃ kāyāśritatvāt svabhāvataśced vākkarmaikaṃ
prāpnoti.Vacasaḥkarmasvabhāvatvāt. Samusthānataścenmanaskarmaikaṃ
prāpnoti. Sarveṣāṃ manaḥ samuthitatvāt. Yathākraṃ tribhiḥ
kāranaistrayāṇām iti vaibhāsikāḥ. Tatra punaḥ.

HTr.:
T29n1558_p0067b18(05)║謂心所思及思所作。故契經說。有二種業。一者思業。

T29n1558_p0067b19(01)║二思已業。思已業者謂思所作。

T29n1558_p0067b20(06)║如是二業分別為三。謂即有情身語意業。

T29n1558_p0067b21(06)║如何建立此三業耶。為約所依。為據自性。為就等起。

T29n1558_p0067b22(01)║縱爾何違。若約所依應唯一業。

T29n1558_p0067b23(05)║以一切業並依身故。若據自性應唯語是業。

T29n1558_p0067b24(04)║以三種中唯語即業故。

Tuệ
Sỹ: “Đó gọi là tâm sở tư và tư sở tác, do vậy Kinh
nói: có 2 loại nghiệp, đó là tư nghiệp và tư dĩ nghiệp.
Tư dĩ nghiệp là nghiệp do ý tác tạo. 2 nghiệp như vậy được
chia ra thành 3, tức là thân, ngữ và ý nghiệp của hữu tình
chúng sinh. 3 nghiệp này được thiết lập như thế nào? Đó
sở y, tự tínhđẳng khởi. Xét về sở y thì tất
cả nghiệp đều dựa trên thân; xét về tự tính thì chỉ
duy nhất là một nghiệp….”

Pousin:
“1 b. Đấy là tư và cái được tư tác thành [tư dĩ nghiệp].
Kinh dạy rằng:” có 2 loại nghiệp, đó là, tư nghiệp và
tư dĩ nghiệp [ý nghiệp và nghiệp sau khi cố ý thực hiện-cetāna,
ceyitvā]. Tư dĩ nghiệp [cetayitvā], là cái mà được luận
thư chỉ ra như sau: “Tư dĩ nghiệp do tư sinh-[tức là sản
phẩm của tư].” Hai nghiệp đó tác thành 3 loại nghiệp:
thân, khẩu và ý nghiệp.

Chúng
ta
thiết lập như thế nào về sự phân biệt này? Có phải
chúng ta tuần tự căn cứ vào sự y chỉ [āśraya], rồi căn
cứ vào
bản chất [svabhāva], và sau đó là căn cứ vào đẳng
khởi
[samuthāna]? Và như vậy, vấn đề này dẫn đến cái
gì? Nếu người ta xét theo [đạt tới] sự y chỉ, thì sự
y chỉ này chỉ có [một] nghiệp mà thôi. Bởi, tất cả nghiệp
đều y trên thân. Nếu người ta xét theo bản chất, thì chỉ
có một khẩu nghiệp mà thôi. Bởi, 3 nghiệp thân, khẩu và
ý [manas], mà âm thanh duy nhất là nghiệp dựa trên bản chất
của nó. Nếu người ta xét theo đẳng khởi, thì người ta
chỉ sở hữu ý nghiệp mà thôi. Bởi, mọi nghiệp đều có
nguồn gốc từ tâm thức [Bản tiếng Pháp của Louis De la vallée
Poussin. L’abhidharmakośa de Vasubandhu. Paris, Pual Geuthner Louvain,
J-B, Istas, Imprimeur.]

[37]
Nghiên cứu về ngôn ngữ. [The study of Language. George Yule. Cambridge.]

[38]
Ad disopulos nuncupatio: Vobis o carissimi disipuli, hoc brevissimum opusoulum
scoripsimus. Saepevobis, post cotidianamcuram, aliquod tempus superest
et dubitatis quomono id consumatis. Velimus ut eo tempore junde utamini
ad mentem exolendam, ideoque hano fictam gabellam vobis proponimus. Veteres
enim profesores sumus, et saepe complurium discipulorum, tam studiosorum
quam vos estis, querelas et votaaudivimus. Invidebant condiscipulis suis,
qui vel Auglorum, vel Germanorum, vel Italerum, vel Hispanerum linguam
discunt, quia ii opera ficta magnae delectationis possident, quae literis
Latinis omnino desunt. Hanc nos lacunam, ut fieri poterat pro viribus nostris,
explere voluimus. Profecto non effeccimus absolutum opus, sed magna erit
lactitia nostra, si, qualecumque est, ex hoc opuculo vos et studium trxeritis
voluptatem discendae Latinae linguae. Nam experientia nos docuit nimis
multos discipulos ab eo studio abhorrere non tam propter ejus difficultatem
quam propter severitatam. Estote igitur hono animo, legite hanc fabellam.
Utinam Corocottae facinora legentibus vobis tantam afferant oblectationem
quatam nobis scibentibus attulerunt. Valete. [Ficta fabella. Corocotta.
Cours de Latin. Librairie a hatier, PARIS]

[39]
Te śukla dharmam upacitāḥ kaśalairūpaitāḥ Paryupāsitāḥsugatmaitrakṛpānukūlā
1/adhimukty udāra kuśalā śayaśuddha bhāvāḥCittaṃ jarneti (janeti)
atulaṃ jinajñāna hetoḥ. 2/ sarvajñaBuddhabala śodhanavairyasthānā
(-ne / mā) Jinadharma (-maṃ) niṣpa (andi /nti ?) jagatparitrāyaṇārthaḥ(āḥ)
Māhākṛpdharma-cakraṃ. Jinakṣetraśodhamupapadyaticittaśreṣṭhaṃ
3/ trayadhvaika (lakṣa) vikṣaṇa vi-Buddha na nir-vikalpāNānāvidhe
(vidha) jagati kāla viśodhārtha. Saṃkṣepa sarvaguṇa eṣitu nāyakānaṃ.
Ākāśatulya samudeti (samudreti) udāracittaṃ”. Daśabhūmiśvaro
nāma mahāyānasūtraṃ / Ryūko kondo.

[40]
Diễn từ chào đón đức Dalai Lama thứ 14 “Kindness, Clarity,
and Insight. Dalai Lama 14.”

[41]
The Penguin Dictionary of Language. David Crystal.

[42]
Tuệ Sỹ [khóa Câu Xá / mùa Hạ / 2007].

[43]
Xem A Short History of Sankrit Literature [Munshi Ram Manohar Lal]

[44]
An Huệ [Triṃśikāvijñapti des vasubandhu mit bhāsya des ācārya
Sthiramati. Ubersetzt Von Hermann Jacobi. Verlag Von W. Kohlhammer Stuttgart
1932.]

[45]
A Cultural History of Numbers [Karl Menninger] [M.I.T press-Massachusetts
Institute of Technology Press.] và The Study of Language by George Yule
[Cambridge Press.]

[46]
Language and problems of Knowledge [Chomsky. Cambridge. Press.]t