Hãy Chân Thật

0
32

HÃY CHÂN THẬT
MICHAEL CARROLL
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch

tinhthuctrongcongviec2tinhthuctrongcongviec2Theo
huyền thoại cao quý của hai ngàn năm trăm năm trước, vị thái tử Ấn Độ trẻ và đầy
ưu tư Siddhartha (Tất-Đạt-Đa) từ bỏ quyền lực vương triều, dục lạc thế gian
gia đình. Thái tử cắt tóc, vận y của người khất thực, và tìm kiếm sự giải thoát
khỏi những khổ đau của cuộc đời và để đạt được “giác ngộ”. Qua nhiều năm, Ngài
trải nghiệm vô số nguyên tắc du-già (yoga) và thiền định. Ngài nhịn ăn đến
mức kiệt sức – sắp chết – ăn chỉ một hạt dầu mỗi ngày. Ngài chịu đựng nỗi cô đơn
khủng khiếp và chinh phục mọi thứ cám dỗ với nỗ lực làm sáng tỏ nỗi đau khổ của
nhân loại. Tuy nhiên dù có lòng nhiệt thành với những cố gắng không mệt mỏi, Ngài
vẫn bất an và chưa thỏa nguyện.

Thế
rồi, sau tám năm khổ luyện, thái tử Siddhartha quyết định từ bỏ cách tu đó. Tuy
nhiên
, Ngài không bỏ cuộc, trái lại, cuối cùng Ngài quyết định buông xả tất cả,
kể cả ước muốn thoát khổ và đạt được giác ngộ. Vì thế Ngài chỉ ngồi xuống tọa
thiền
dưới gốc cây, không lay động.

Ngài
nguyện chỉ có mặt trong hiện tại và để vũ trụ tự phơi bày theo cách riêng của nó.
Ngài nguyện ngồi tĩnh tọa trên mặt đất như thế mãi. Nếu sự giác ngộ xuất hiện,
thì nó cứ xuất hiện. Nếu cái chết đến, thì cứ để nó đến. Bất cứ điều gì xảy ra,
cứ mặc kệ nó. Siddhartha ngồi trong tư thế của một vị
Phật tương lai, trong bóng mát của cây bồ-đề xum sê. Dần dần trong tư thế tĩnh
tọa
này, Ngài đối diện với những nỗi sợ hãiước vọng sâu kín nhất của mình.
Vị khách thường đến với Ngài là: Ma Vương (Thần Dục lạc), cùng với các cô con gái
đầy quyến rũ của hắn – Tanha, Raga, và Arati – và cả một đội quân ma quỷ.

Ma
Vương
luôn canh chừng sự tiến bộ đến bờ giác ngộ của Siddhartha, nên hắn luôn
quyến rũ, nịnh hót, và chê bai các cố gắng của Ngài. Nhưng cuối cùng Ma Vương
nhận thấy rằng Siddhartha đang tiến gần đến mục đích của Ngài, nên Ma Vương cố
hướng nỗ lực của Siddhartha lệch sang hướng khác. Thông minh và xảo quyệt, Ma Vương
và các cô gái cố gắng dỗ dành, thuyết phục Siddhartha, lập luận rằng Ngài chưa
chuẩn bị cho sự giác ngộ, nhưng không có kết quả. Siddhartha vẫn bất động: Chuẩn
bị hay chưa, hãy cứ để nó đến. Đoàn ma quân tàn khốc, dữ tợn, tạo ra bao ảo ảnh
để khiến tâm Ngài rối loạn, nhưng cũng không làm được. Sid­dhartha vẫn ngồi bất
động
: Ảo ảnh hay không, hãy để nó như thế. Do vậy, cuối cùng Siddhartha giải tán
tất cả ma quân của Ma Vươngchinh phục tất cả mọi cám dỗ của Ma Vương, trừ một
điều. Và khi sự giác ngộ của Siddhartha dần xuất hiện, Ma Vương cố gắng lần cuối.
Bây giờ, một mình không còn vũ khí hay ma quân, Ma Vương chỉ hỏi thái tử
Siddhar­tha một câu đơn giản: “Vậy thì, nếu như Ngài giác ngộ, ai sẽ nói như
vậy? Ai sẽ chứng thực được lời tuyên bố của Ngài? Hãy chỉ ra nhân chứng, như vậy
tôi và Ngài có thể đồng ý, và rồi tôi sẽ không quấy phá Ngài nữa. Vậy thì,
Siddhartha, ai sẽ là nhân chứng cho Ngài
?”.

Đáp
lại
, Siddhartha thủ ấn, một cử chỉý nghĩa nguyên sơ – cử chỉ cuối cùng, trọn
vẹn
đã chinh phục Ma Vương mãi mãiđánh dấu sự giác ngộ của vị cựu hoàng tử
như một vị Phật
Giác Ngộ: Ngài đã chạm tay xuống mặt đất. Đức Phật không đưa ra pháp lệnh của một
vị vương đế hoặc vương hậu nào để chứng minh cho sự tỉnh thức của Ngài. Ngài cũng
không chỉ vào bia đá có tên Ngài trên đó. Ngài không nhờ đến các vị du-sĩ đạo hữu
của Ngài để họ kể về những hành động từ bi, những đạo hạnh cao cả của Ngài.
Sidhhar­tha nhận biết rằng không có bất cứ điều kiện gì – không có Thượng đế,
không thiện tri thức, không bản nhạc ca ngợi, không bia kỷ niệm, không pháp lệnh
nào – không có gì có thể khẳng định hoặc chối bỏ cảm nhận cơ bản của Ngài về sự
tự tại. Bằng cách chạm tay xuống mặt đất, Siddhartha cuối cùng đã đạt Phật quả,
vị hoàn toàn chánh giác. Bằng cách chạm tay xuống mặt đất, Ngài đã tuyên bố Ngài
chứng thực là ai – trạng thái chứng thực quá căn bản, quá hữu cơ, và do đó hoàn
toàn
vượt ra ngoài khả năng xác nhận hoặc chối bỏ rằng đó là việc chủ định để
thay đổi lịch sử. Hành vi biểu lộ sự chứng thực này được ngưỡng mộ qua hằng bao
thế kỷ với những hình ảnh miêu tả Thủ Ấn Mặt-Đất-Làm-Chứng -biểu tượng tối cao
của tự tại.

Chúng
ta
có thể nghĩ rằng những gì đức Phật đã làm chỉ là một truyền thuyết cũ xưa, một
hành động tuyệt vời được thể hiện bởi một người phi thường cách đây hai ngàn năm
trăm năm trước. Tư thế đức Phật tĩnh tọa dưới cội cây bồ đề và nét mặt thể hiện
sự chứng thực Giác ngộ của Ngài, đối với đa số chúng ta, dường như không thể
bao giờ đạt đến được. Chúng ta có thể chạm mặt đất, kể cả lăn tròn dưới đất, cả
ngàn lần cũng vẫn không đạt được Giác ngộ. Đạt được sự tỉnh giác, một sự tự tại
điều kiện, hoàn toàn xác thực, là trạng thái dành cho các vị Phật, các vị Lạt-ma,
các vị thiền sư (roshis), chắc chắn là không dành cho những người tầm thường
như chúng ta.

Phật giáo có rất nhiều tên cho sự chứng thực này: Bồ đề tâm (bodhichitta),
tâm tỉnh thức, tâm Thiền định, như lai tàng (tathagatagarbha), tâm tỉnh
giác
, tâm nguyên sơ, bản chất kim cương (vajra). Nhưng sự chứng thực không
cần phải xa lạ như những tên gọi này. Khả năng để trải nghiệm tâm tỉnh giác của
chúng ta không xa vời như truyền thuyết hai ngàn năm trăm năm. Thực ra, đức Phật
đã dạy rằng sự chứng thực của ta là trực tiếp – rất riêng tư và sâu kín – rằng
nó có thể được tất cả chúng sinh trải nghiệm bằng cách thực hành như Ngài đã làm
dưới cội bồ đề. Đức Phật chỉ rõ rằng chỉ cần lắng động và quán sát sự phát khởi
của giây phút hiện tại, chúng ta sẽ có thể khám phá ra tâm tỉnh giác, bản chất
chân thật cơ bản của con người, ngay tại đó.

Sự
tỉnh giác trở về với bản chất chân thật của Siddhar­tha cũng giống như sự thử
thách
để vượt qua nỗi lo lắng về những khó khăn trong công việc và khám phá trở
lại
cảm giác tự tại và tự tin sẵn có của chúng ta. Đức Phật không thể dựa vào điều
gì bên ngoài Ngài – khi Ma Vương yêu cầu Ngài chứng thực lời tuyên bố Giác ngộ
của Ngài – để minh chứng cho bản chất chân thật của Ngài. Cũng thế, không có gì
ở bên ngoài chúng ta có thể mang đến cho ta sự an bình thực sự trong công việc
– đúng hơn, cả trong cuộc sống của chúng ta. Không phải tiền lương, tiền hưu trí,
việc thăng chức, hay một ông chủ tử tế – không có gì có thể cho chúng ta sự tự
tin và bình anchúng ta tìm kiếm. Như Ma Vương đã cám dỗ đức Phật, chúng ta
cũng có thể bị cám dỗ để góp nhặt những sự khẳng định như vậy để mang lại cho
chúng ta cảm giác an toàn. Chúng ta có thể có các cổ phần, chứng khoán hoặc tiền
trợ cấp xã hội để giữ kỹ. Chúng ta có thể có các bằng cấp như MBA (Thạc sĩ Quản
Trị Kinh Doanh) từ trường đại học danh tiếng nhất hay một chức vị vinh dự như Trưởng Phòng hay Phó Giám Đốc Điều Hành. Hoặc chúng ta có thể mặc
bộ đồng phục bệ vệ hay tên của chúng ta được khắc trên bảng hoặc ghi trên các bìa
sách. Chúng ta cũng có thể là giám đốc một công ty, với tất cả những uy tín
quyền lợi đi kèm. Dầu các nỗ lực để đạt được những điều này không có gì sai trái,
nhưng dựa vào chúng để khẳng định chúng ta là ai là một sai lầm. Xét cho cùng,
chúng chẳng thể khẳng định hoặc chối bỏ con người thật của chúng ta.

Theo
Phật giáo, nhận thức được bản chất chân thật này, là điều không thể được khẳng định
hay chối bỏ, mà là một vấn đề rất thực tế; không phải chỉ là mộng tưởng. Nó không
phải là cái mà chúng ta có thể tưởng tượng hay chế biến ra. Cảm giác an vui thực
sự không chỉ đơn giản là khái niệm buộc rằng chúng ta “phải” chân thật. Nếu đúng
vậy thì Phật giáo, suy cho cùng, chẳng khác gì hơn là chủ nghĩa duy tâm đơn điệu,
sáo mòn. Chúng ta cũng không thể thâu thập được bản tánh chân thật thực sự chỉ
bằng cách dự các lớp hay khoá học để trở thành công dân tốt. Tính cách văn
minh
, lịch sự cũng là mục tiêu xứng đáng, tốt đẹp để ta học tập, nhưng nếu bản
tánh
chân thật chỉ có vậy, thì chỉ cần một số quy luật là đủ. Theo Phật giáo,
nhận diện được bản tánh chân thật của chúng ta là một trải nghiệm cụ thể, mạnh
mẽ, và tức thời.

Tự
điển Oxford English định nghĩa tính chân thật là cái làm cho điều gì đó được toàn
diện
và đúng như nó là. Điều gì đó xác thực, chân chính là bởi vì nó có thể dựa
vào
thẩm quyền cố hữu của nó để khiến cho nó đúng như nó là, không nghi ngờ
cả, nó không phải là đồ giả hoặc đồ bắt chước. Thí dụ, nếu chúng ta mua một bức
tranh
của Rembrandt hoặc một con ngựa thuần chủng Ái Nhĩ Lan, thì việc xét xem
chúng ta có mua đúng đồ thật không là hành động thiết thực và đáng phải làm. Chúng
ta
có thể mời một nhà khảo cổ tranh xem xét bức tranh hoặc kiểm tra nét vẽ để đánh giá đó có
phải là một bức tranh gốc – rằng bức họa thực sự là của Rembrandt. Hoặc chúng
ta
có thể thăm viếng trại nuôi ngựa nơi con ngựa vô địch này được nuôi nấng để
kiểm tra hồ sơ sức khỏe, giấy chứng nhận giống nòi cao quý của nó. Kế đó chúng
ta
kiểm tra vóc dáng ngựa – chiều cao, bề dầy của ngực và vòng thân. Chúng ta cũng
có thể xem xét ảnh quang tuyến để kiểm tra khả năng chịu đựng của phổi. Chúng
ta
sẽ xét xem nếu ta có thể nhận ra được nguồn gốc của ngựa. Chúng ta thực sự có
thể phân biệt được con ngựa của chúng ta là giống tốt vô địch – giống gốc của
ngựa chiến Kentucky Derby.

Tương
tự
, Phật giáo cũng cho rằng sự tìm kiếm chân tánh của con người là một việc làm
thiết thực và đáng làm, qua đó ta trải nghiệm trực tiếp nguồn gốc nguyên sơ từ đó
ta xuất hiện. Con đường theo Phật giáo tìm kiếm để khám phá nguồn gốc, để tự mình
xác định quyền lực nguyên sơ, quyền lực cho ta có sức mạnh với sự tự tại không
gì lay chuyển và cho ta sự tự tin nơi bản thân dầu ta là ai, ở nơi đâu, mà không
cần thêm bất cứ sự xác nhận nào từ bên ngoài. Theo truyền thống Phật giáo, phương
cách
giúp ta tìm ra nguồn cội và khám phá được chân tánh của mình là tọa thiền,
đó chính là điều đức Phật đã hành nơi gốc cây bồ đề.

Thiền
chánh niệm được đức Phật đầu tiên truyền dạy cho các đệ tử của mình dễ bị xem là
quá đơn giản. Trên căn bản, phương pháp này chỉ đòi hỏi chúng ta phải ngồi thẳng
lưng, cặp mắt vẫn mở, và có mặt trong từng giây phút hiện tại càng lâu càng tốt.

Cái
khó nằm ở chỗ “càng lâu càng tốt.” Tâm ta lúc nào cũng đi lang thang và ta chợt
nhận ra mình đang suy nghĩ. Chúng ta có thể nhớ đến bữa ăn sáng, nó ngon làm
sao, những quả dâu đỏ và cà phê. Hoặc chúng ta có thể đang sửa soạn những lời giận dữ dành cho ông chủ vô ơn của mình. Hoặc chúng ta
có thể nghĩ đến người yêu, con cái hay cha mẹ, và tình thương yêu ta dành cho họ.
Việc tọa thiền hiển bày cho chúng ta rất nhiều điều, nhưng trước hết nó giúp ta
nhận ra rằng ta mất quá nhiều thời gian trong suy tưởng, chứ không có mặt ngay
trong giây phút hiện tại. Ta khám phá ra rằng ta sống cuộc sống của mình giống
như sự diễn tập sau tấm màn của tư duy, diễn tập những điều mà đáng lý ta có thể
đã làm khác hơn và những gì ta sẽ làm khác hơn trong tương lai.

Theo
truyền thống Phật giáo, sống chân thực đòi hỏi chúng ta phải bước ra khỏi buổi
diễn tập và dấn thân vào cuộc sống đầy bất trắc, đầy hỗn loạn, nhưng cũng đầy
niềm vui một cách trực tiếp. Sống chân thực là dừng lại việc bắt chước người mà
chúng ta muốn trở thànhtrở về với bản thể nguyên sơ của chúng ta ngay tại đây,
ngay lúc này, một cách vẹn toàn, hoàn hảo, và nhận biết chúng ta đã là ai rồi.

Ngồi
trong vòng mười lăm phút, một tiếng, mỗi ngày, hoặc có thể cả tháng, hoán chuyển
giữa cuộc đối thoại nội tâm với việc chỉ có mặt trong hiện tại là một phương cách
chẳng hấp dẫn gì. Nhưng thật đáng ngạc nhiên, đó lại là cách hữu dụng nhất để
chúng ta trở thành bạn của mình, và để chúng ta khám phá ra chân tánh của mình.
Giống như khi ta chà nhám một mảnh gỗ anh đào để chuẩn bị cho nước sơn cuối cùng,
việc hành thiền cũng dần dà thanh lọc tâm trí, mài dũa các uế nhiễm và tôn tạo
hạt giống độc đáo nguyên sơ của ta – cái đẹp của cảm giác an bình tự nhiên. Tọa
thiền
là một hành động rất mực nhẹ nhàng qua đó chúng ta cho phép bản thân chỉ đơn
giản
là như thế. Pháp hành này đòi hỏi sự chính xác, sức mạnh và sự dũng cảm của
cá nhân. Nhưng sự nỗ lực như thế tự hòa quyện vào nhận thức tinh tế rằng chúng
ta
chỉ cần ngồi – chỉ cần có mặt. Chúng ta sẽ khám phá ra rằng thân và tâm của ta có thể thư giãn và hoà nhập vào sự nhạy
bén sống động của các giác quan và giây phút hiện tại. Chúng ta tập buông bỏ những
toan tính – sự lo lắng phải thất bại, những khả năng không thể tiên liệu và hy
vọng
được thành công và được an toàn – và trong giây phút ấy “không cần biết”
việc gì sẽ xảy ra. Chỉ trong giây phút đó chúng ta có mặt với thế giới xung
quanh
mà không có những định kiếnthành kiến. Chúng ta trở nên nhẹ nhàng với
bản thân, làm chậm lại tính nôn nóng muốn sửa đổi hoàn cảnh của mình, và trở nên
tò mò về thế giới của chúng ta hơn là cảm thấy bị nó đe dọa. Chúng ta thoáng nhận
ra
rằng chỉ đơn giản là chính mình, có mặt ngay tại đây là điều không thể tránh,
chân thật, tự tại; chúng ta khám phá ra căn nguyên, chân tánh của ta. Sự khám
phá
chân tánh qua việc hành thiền cung cấp cho ta dụng cụ cốt lõi để phát triển
thái độ tự tại, chân thật trong công việc.

Nếu
quán sát kinh nghiệm hành thiền của mình một cách thấu đáo, chúng ta sẽ khám phá
ra rằng ta đang hiển lộ cái đã từng bị quên lãng. Khi chúng ta buông bỏ những
suy nghĩ và đem sự chú tâm vào trong giây phút hiện tại, nếu quán sát kỹ lưỡng,
chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta đang tin tưởng bản thân một cách toàn vẹn. Buông
bỏ
khi tĩnh tọa, lúc đầu, chỉ là một bước nhỏ, giống như trẻ em học lội ở biển.
Chúng ta buông bỏ những toan tính trong chốc lát, để bước vào trong giây phút
hiện tại, rồi trở nên ngại ngùng, nên nhanh chóng chạy tránh những ngọn sóng biển
lạnh lùng, để trở về với sự thoải mái của những suy tưởng nội tâm. Với thời
gian
chúng ta có thể tin tưởng bản thân để lội xa hơn vào trong cuộc sống, có mặt
trong giây phút hiện tại lâu hơn, đối diện dũng cảm với những ngọn sóng ba đào
và biển cả dâng cao.

Với
cách này, buông bỏ những suy nghĩ và dấn thân vào cuộc sống một cách trực tiếp
trong tất cả những sự nguyên sơ và sức mạnh của nó, chúng ta thực sự thể hiện lòng tự tin không
thể bị chối bỏ hoặc xác định của chúng ta. Không có gì bảo đảm trong cuộc sống.
Không có gì bảo đảm cho cảm xúc. Không có ai theo sát bên để khen ta tọa thiền
giỏi. Chúng ta chỉ dựa vào những khả năng và nguồn lực bẩm sinh của mình.

Với
thời gian niềm tự tin này phát triển xa hơn chiếc gối thiền, tới nơi ta tập vượt
qua
đầu sóng, và hòa mình vào trong đại dương bao la của cuộc sống đời thường.
Chúng ta khám phá ra rằng ta có thể hoàn toàn tin tưởng vào bản thân; ta có thể
chân thật sống với những cảnh đời, nhất là trong công việc làm. Chúng ta khám
phá
ra rằng không có vị thần chứng khoán, không có ca khúc ngợi khen từ ông chủ,
không có đề nghị thăng chức, không có lương tháng hay tiền thưởng, không có việc
làm
hay dự án mới, không có quyền lực chính trị nào – không có gì có thể thay
thế lòng tự tin cơ bản trong quyền lực ban sơ của ta. Một niềm tin như thế không
thể lay chuyển được vì không có gì có thể xác định hay chối bỏ nó.

Sự
chân thực trong công việc cũng không khác gì. Nó không buộc ta phải gấp rút chạy
vào phòng xếp để trút hết nỗi lòng, rồi vứt bỏ việc làm qua cửa sổ. Nó cũng không
đòi hỏi chúng ta phải vùng lên, bỏ việc và trở thành điều mà ta luôn mong muốn:
Nghệ sĩ chơi đàn banjo hay người may mền. Đúng hơn, sống chân thực không đòi hỏi
gì cả, nó chỉ là dựa vào chính cảm giác tự tại tự nhiên của ta. Lòng tự tin đó
cho phép chúng ta có mặt trong thế giới công việc của mình, hoàn toàn đắm mình
trong công việc. Khi chúng ta buông bỏ sự diễn tập, thân và tâm ta ngày càng trở
nên đồng bộ hơn, ta có mặt ngay trong hiện tại, sẵn sàng trong công việc của mình,
đầy hứng khởi với những điều tỉ mỉ và phương cách làm việc. Chúng ta không chấp
vào những thói quen hay nỗi sợ hãiđịnh kiến trong công việc. Chúng ta trở nên tự do để dấn
thân vào thế giới một cách không sợ hãi và đầy khéo léo, vừa học hỏi vừa khám
phá
trên đường đi.

Buông bỏ phạm
trù
cá nhân để dựa vào cảm giác chân thật bẩm sinh không phải là điều đặc biệt
nghiêm trọng gì, nhưng nó tế nhị, mạnh mẽ, quyết liệt, đồng thời cởi mở. “Hãy
chân thật” là một tuyên ngôn cơ bản về việc chúng ta là ai, chúng ta có mặt ở đâu,
phát khởi từ quyền lực nguyên thủy. Thứ quyền lực giúp ta chân chánh, thông
minh
hiểu biết sâu sắc.

Trích từ:

MICHAEL CARROLL
TỈNH THỨC
TRONG CÔNG VIỆC

ĐỐI MẶT VỚI NHỮNG THỬ THÁCH
TRONG CUỘC ĐỜI, TRONG CÔNG VIỆC

Awake At Work Facing The Challenges of Life On The Job
Chuyển ngữ
Diệu Liên Lý Thu Linh
Diệu Ngộ Mỹ Thanh
Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG – 2012