Hai Bài Thuyết Giảng Đầu Tiên Của Đức Phật

0
38

HAI BÀI THUYẾT GIẢNG ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC PHẬT
và Sự hình thành của Phật giáo

Hoang Phong

haibaiphapdautien-2haibaiphapdautien-2Sáu
tu sĩ khổ hạnh quấn trên người những chiếc áo bạc màu bụi đường cùng nhau “tiến sâu vào lãnh thổ của xứ Ma-kiệt-đà”
(Magadha) trong thung lũng sông Hằng (Phổ
Diệu kinh
Lalitavistara). Họ đi
xuyên ngang các thôn xóm và những cánh đồng xanh mướt. Chung quanh cảnh vật êm ả
và lòng họ thật thanh thản. Họ là những người quyết tâm từ bỏ gia đình để chọn
một lối sống khắc khổ, không màng tiện nghi vật chất mà chỉ biết dồn tất cả nghị
lực
để đi tìm bản chất của thế gian này và nguyên nhân đưa đến sự hiện hữu của
chính họ.

Khi đoàn người băng ngang cánh rừng
hoang cạnh một thôn nhỏ gọi là Ưu-lâu-tần-loa (Uruvela) cách thị trấn Giác Thành
(Gaya) độ 10 cây số, thì trước mặt họ hiện ra một con sông nhỏ với dòng nước trong
veo. Trong toán người có một vị tên là Tất-đạt-đa Cồ-đàm bỗng cảm thấy yêu thích
quang cảnh nơi đây. “Trong lòng sông
Ni-liên-thiền (Nairanjana) nhẹ trôi một dòng nước tinh khiếttrong vắt, đây đó
hai bên bờ những chòm cây rợp bóng, bờ sông thoai thoải dẫn xuống tận dòng nước,
xa xa một vài thôn xóm nhỏ. […] Trước cảnh thiên nhiên xinh đẹp, vị Bồ-tát Tất-đạt-đa
cất lời với năm vị đồng hành như sau : Thật không còn chốn nào thuận tiện hơn nơi
đây, cảnh vật xinh tươi lại thuận tiện cho việc ẩn cư.[…] Tôi muốn lưu lại
nơi này”
(Trung A Hàm, Majjhima-nikaya, 36).

Năm vị đồng hành là Trần Như (Konda),
Bạt Đề (Bhaddiya), Sư Ba (Vappa), Ma Ha Nam (Mahanama) và A Thuyết Thị (Assaji)
cũng cảm thấy yêu thích quang cảnh của khu rừng này và đều đồng ý. Tất-đạt-đa tự
tay dựng lên một túp lều bằng cành lá cây rừng, các vị đồng hành thì mỗi người
cũng tự tìm lấy một góc cho mình. Họ vừa khất thực vừa giúp đỡ lẫn nhau để sinh
sống và lo việc tu tập, tuy nhiên chỉ có Tất-đạt-đa là chuyên cần và hăng say hơn
cả. Cách tu tập thì họ vẫn giữ nguyên các phép du già đã học được trước kia.

Tất-đạt-đa khởi sự luyện tập cách
nín thở : “Phải cắn răng thật chặt,
đưa lưỡi dán sát lên vòm miệng, phải chú tâm chận đứng không cho một tư duy nào
có thể phát sinh, phải khắc phục tư duyhoàn toàn nghiền nát chúng”

(Trung A Hàm, 36). Tuy nhiên sau một
thời gian tu luyện vô cùng nghiệt ngã trong cảnh cô quạnh thì Tất-đạt-đa cũng cảm
thấy
trong lòng gợn chút hoang mang và nghi ngờ đối với phương pháp du-già
khổ hạnh mà mình đang tập : “Sự
cô quạnh của khu rừng thật nặng nề, quả khó để tìm thấy sự bình thản trong đơn
độc
. Phải tu tập trong đêm khuya và giữa cảnh vật như thế này thì thật là ái ngại,
nhất là khi có một con thú vụt chạy ngang hay một con công làm gẫy một cành
cây, hoặc trong những lúc gió rít qua cành lá. Trong bối cảnh như thế này thì
thật là dễ sinh ra sự hốt hoảng và khiếp sợ”
(Trung A Hàm, 4).

Tuy nhiên sau một thời gian ngắn Tất-đạt-đa
không những đã dễ dàng khắc phục được mọi nỗi sợ hãi mà lại còn “phát huy được sự tập trung và nhất
quán”
trong tâm thức dù cho bất cứ gì xảy ra chung quanh (Trung A Hàm, 36). Vị tu sĩ trẻ tuổi
tập luyện thật chuyên cần“hoàn
toàn đình chỉ được hơi thở, dù đấy là hơi thở vào hay hơi thở ra, dù bằng hai lỗtai, bằng miệng hay bằng mũi”
(Trung
A Hàm
, 36). Mặc dầu luyện tập nghiệt ngã như thế nhưng vị tu sĩ vẫn không đạt
được
một kết quả khả quan nào mà lại còn bị nhức đầu như búa bổ, bụng quặn đau
toàn thân thì nóng sốt liên miên

Tất-đạt-đa bèn ngưng cách luyện tập nín
thở và chuyển sang nhịn đói, khởi đầu ăn uống giảm dần và sau đó thì không còn
cần đến một chút thực phẩm nào nữa. Chỉ vài tháng sau thì thân xác người tu
hành
trẻ tuổi trở nên vô cùng tiều tụy : “Xương
sườn giống như những chiếc kèo mục nát của một túp lều sắp sụp đổ, chỉ chực rơi
xuống và gãy vụn, đấy là vì nhịn đói mà ra. Hai tròng thụt sâu trong hố mắt,
con ngươi tròn xoe và lấp lánh như mặt nước dưới đáy giếng thật sâu, đấy là vì nhịn
đói mà ra. Da đầu teo quắt lại và chai cứng như vỏ quả khổ qua phơi ra gió hanh
và nắng bỏng, đấy là vì nhịn đói mà ra. Thật vậy, tôi nghĩ rằng nếu muốn nắm lấy
cột xương sống thì “tôi chi cần sờ vào da bụng”, và khi sờ vào da bụng
thì “tôi cũng sẽ nắm được cột xương sống”, bởi vì tôi đã luyện tập đến
mức độ mà da bụng của tôi dán vào xương sống, đấy là vì nhịn đói mà ra,
(Trung A Hàm, 36).

Phổ
Diệu kinh
ghi chép rằng vị khổ hạnh trẻ tuổi chịu đựng như thế cho đến một
hôm thì ngất xỉu. Tin đồn về sức khoẻ suy sụp của Tất-đạt-đa lan truyền đến tận
kinh đô Ca-tì-la-vệ, tuy nhiên vua cha là Tịnh Phạn (Suddhodana) không nao núng
chút nào mà vẫn vững tin là con mình sẽ thành Phật đúng như lời tiên tri của vị
đạo
sĩ A-tư-đà (Asita) lúc Tất-đạt-đa vừa sinh ra đời. Trong khi đó thì nơi khu
rừng Ưu-lâu-tần-loa Tất-đạt-đa lại bắt đầu lo âu, không phải vì sức khoẻ sa sút,
thân xác đau đớnrã rời “không
còn cử động được nữa giống như một xác chết”
(Phổ Diệu kinh), mà vì nhận thấy việc tu tập của mình không mang lại
một chút kết quả cụ thể nào cả. Vị tu sĩ trẻ tuỗi bỗng dưng nhớ lại ngày còn trẻ
vào một hôm khi đang tham dự một buổi lễhoàng cung thì vụt đạt được thể dạng
đệ nhất thiền. Thời bấy giờ thì lúc nào mình cũng được nuông chiều, nào có cần
đến sự đày đọa thân xác như thế này đâu. Thế rồi vị tu sĩ trẻ tuổi chợt nhận thấy
rằng những năm tu học vừa qua quả thậtvô ích, và con đường khổ hạnh nhất định
là một con đường sai lầm và nguy hại.

“Sau
đó thì Tất-đạt-đa quyết định bỏ hẳn việc tu tập bằng cách nhịn đói quá khắc
nghiệt, bắt đầu húp được một ít cháo lỏng và sau đó thì ăn được một ít cơm để hồi
phục
sức khoẻ. Thế nhưng khi năm vị đồng hành nhận thấy Tất-đạt-đa không còn cố
gắng
tập nhịn đói nữa thì họ vô cùng thất vọng và xì xầm với nhau rằng :
“Vị khổ hạnh Cồ-đàm thật quả là người điên rồ và ngu ngốc, đánh mất cả con
Đường
Đạo mà mình đã chọn”
. Sau đó thì họ quyết định xa lánh Tất-đạt-đa
và ra đi nơi khác, (Tứ phần luật của Đàm-vô-đứcDharmaguptaka-vinaya, trích từ sách của
André Bareau : “En suivant le
Bouddha”,”Theo vết chân Phật”
).

Năm vị khổ hạnh rời bỏ Ưu-lâu-tần-loa
lên đường đi về hướng thị trấn Ca-thi (Kashi), ngày nay là Ba-la-nại (Bénares –
Varanasi). Riêng Tất-đạt-đa thì vẫn lưu lại một mình trong khu rừng cạnh thôn Ưu-lâu-tần-loa,
tuy tay chân bủn rủn nhưng vẫn cố gắng đứng lên để tìm đường vào thôn xóm khất
thực
. Trên đường đi vị tu sĩ trẻ tuổi nhìn thấy một tấm vải liệm người chết vứt
bỏ
bên vệ đường bèn nhặt lấy và lần xuống bờ sông Ni-liên-thiền để giặt. Từ lâu
người tu hành trẻ tuổi không có quần áo để thay và trên người chỉ còn lại vài mảnh
vải đã mục nát. Tất-đạt-đa quấn tấm vải liệm sạch sẽ lên người sẵn sàng đi vào
thôn xóm nhưng chỉ đi được vài bước thì đã kiệt lực, đành phải ngồi phệt xuống đất
và tựa lưng vào một gốc cây. Kỳ diệu thay đấy lại chính là một sự kiện đã mang
lại một cơ duyên thật mầu nhiệm.

Vào buổi sáng hôm ấy trong ngôi làng
Senani cạnh khu rừng có một người thiếu phụ còn trẻ tên là Tu-già-đa (Sujata) con
gái của vị xã trưởng trong làng, vừa hạ sinh được một đứa bé trai. Trước đây người
thiếu phụ vẫn thường cầu khẩn các vị thần linh trong rừng xin cho mình sinh con
trai, và khi thấy lời ước nguyện trở thành sự thật bèn sai đứa tớ gái mang một
bát cơm thật đầy vào rừng tìm đến một gốc cây to để lạy tạ. Khi vào rừng thì người
tớ gái lại bất ngờ gặp Tất-đạt-đa đang tựa lưng vào một gốc cây và ngỡ rằng đấy
chính là vị thần linh đang chờ đợi bèn quỳ xuống và hiến dâng bát cơm. Cái bát
cơm ấy chính là cơ duyên đã giúp cho Tất-đạt-đa đủ sức gượng đứng lên bằng đôi
chân của chính mình.

Trước đây Tất-đạt-đa từ bỏ vợ con
cuộc sống vương giả để quyết tâm đi tìm con Đường Đạo thì giờ đây lại một lần nữa
đành phải từ bỏ lối tu tập hành xác. Cuộc sống vương giả và việc hành xác chỉ là
hai cực đoan mang lại toàn là thất vọng cho Tất-đạt-đa mà thôi. Nếu hai vị Thầy
trước đây không hội đủ khả năng đã làm cho Tất-đạt-đa thất vọng thì hôm nay đây
năm vị đồng tu lại giã từ mình và rời bỏ khu rừng này. Tuy nhiên vị Bồ-tát trẻ
tuổi vẫn không hề nhụt chí, vẫn quyết tâmvững lòng : “Chẳng lẽ lại không có một
Con Đường nào mang lại sự Giác ngộ hay sao ?”
(Tứ phần luật của Di-sa-tắcMahicasaka-vinaya).

Từ khi rời bỏ hoàng thành lẻn ra khỏi
kinh đô Ca-tì-la-vệ đến nay đã tròn sáu năm mà Tất-đạt-đa chỉ thấy toàn là thất
vọng
và cũng không ngờ rằng trước mặt mục đích đã gần kề. Sự Giác ngộ sắp hiển hiện
với người Bồ-tát khi vừa bước vào cái tuổi ba mươi lăm trong kiếp nhân sinh cuối
cùng
này. Vào buổi chiều mùa xuân hôm ấy, khi Tất-đạt-đa tiến sâu vào một góc rừng
gồm toàn cây sa-la thì bỗng nhiên cảnh vật chung quanh vụt trở nên rạng rỡ một
cách khác thường. Vị Bồ-tát đi đến đâu thì cây rừng nghiêng xuống một cách kính
cẩn, “khi đi ngang hai cây dừa thì bỗng nhiên hiện lên một ao nước thật
trong, đáy ao toàn là cát vàng óng ánh, mặt ao hoa sen đủ màu đang nở rộ, nào
là sen biếc, sen vàng, sen đỏ, sen trắng… Nào là két, cưỡng, thiên nga,
công…, muôn chim bay đến hót vang”
(Phổ Diệu kinh). Tuy nhiên Tất-đạt-đa vẫn không tỏ ra một chút dao động
tiếp tục bước một cách thật bình thản, dù rằng vào đêm hôm trước năm điềm mộng
liên tiếp báo cho vị Bồ-tát biết là mình sắp đạt được Giác ngộ.

Mặt trời sắp lặn, Tất-đạt-đa bỗng
nhiên nhìn thấy một cội cây thật to hiện lên sừng sững trước mặt, một vài tia nắng
chiều thật thấp xuyên ngang tàn cây và lấp lánh trên cành lá. Cây này là một loài
sung cổ thụ, thường mọc đơn độc trong rừng, lá hình tim, đầu lá nhọn và dài, rễ
phụ từ các cành lớn thòng xuống và ăn sâu vào lòng đất. Người dân địa phương gọi
cây này là cây Bo hay cây Pipal…, tiếng Phạn gọi là cây Asvattha có nghĩa là
Tịch diệt, Sau này người ta còn gọi cây ấy
là cây Bồ-đề, âm từ tiếng Phạn là Bodhi có nghĩa là Giác ngộ.

Vị Bồ-tát trẻ tuổi bỗng có linh cảm
là cội cây Asvattha đang chờ đợi mình trước mặt và nghĩ rằng đây là lúc mà mình
phải nhất quyết tìm cho ra “Con đường
mang lại sự Giác ngộ”,
bèn chắp tay vái chào gốc cây rồi đi chung
quanh bảy lần và ngồi xuống cạnh gốc cây, hai chân tréo vào nhau theo tư thế
hoa sen, mặt quay về hướng đông…

Vị Bồ-tát nghĩ rằng mặt đất thường được
xem như“người mẹ của tất cả
chúng sinh”
(Phổ Diệu kinh)
nên đã dùng tay phải chạm nhẹ vào mặt đất và thệ nguyện như sau : “Dù cho da ta có khô, thịt ta có héo,
xương ta có mục, máu huyết và thân xác này có hư rữa thì ta cũng không hề quản ngại
! Khi nào ta chưa đạt được trí tuệ tối thượng và tột cùng thì ta nhất định sẽ
không rời khỏi nơi này”
(Bản Sinh
kinh
Jataka, 1)…

Thần linh từ khắp nơi kéo về bao quanh
cội cây, vừa âu lo lại vừa khấn nguyện cầu mong cho người Bồ-tát được thành
công
viên mãn. Vị Bồ-tát vừa khởi đầu thiền định thì Ma Vương (Mara) hiện lên dẫn
theo các đoàn ma quân đông đảo để quấy nhiễu, tìm đủ mọi cách ngăn chận không
cho vị Bồ-tát phá tan cái thế giới Ta-bà này của chúng. “Ma vương xua đám ma quân “nửa người nửa quái vật kinh khiếp
đến dựng tóc gáy”, chúng bao quanh gốc cây để bắn tên, ném đá và lao đủ mọi
thứ khí giới, nào kiếm, lao, giáo, mác…vào người vị Bồ-tát”
(Bản Sinh kinh). Nhưng lạ lùng thay, tất
cả những thứ khí giới ấy khi phóng ra đều hóa thành những cánh hoa và rơi xuống
chung quanh chỗ ngồi của Tất-đạt-đa. Ma vương thất bại, liền bày ra kế khác, hắn dẫn đến một đám
ma
nữ thật xinh đẹp, “khêu gợi và
phơi bày ba mươi hai thứ quyến rũ của người đàn bà”
(Phổ Diệu kinh). Bọn ma nữ miệng thì ăn nói
dâm ô tay chân thì múa may mời mọc, thế nhưng vị Bồ-tát vẫn an nhiên tự tạiMột
lần
nữa Ma Vương lại thất bại, hắn bèn vận dụng và tung ra những sức mạnh thiên
nhiên
thật khiếp đảm như cuồng phong, bão táp, sấm chớp… để giáng lên đầu vị
Bồ-tát trẻ tuổi. Các vị thần linh nhìn thấy cũng phải khiếp sợ và bỏ trốn. Tuy
nhiên
vị Bồ-tát vẫn an nhiên tự tại không một mảy may xao xuyến và cội Bồ-đề thì
vẫn sừng sững, cành lá vẫn tỏa rộng để che cho vị Bồ-tát. Ma Vương thấy thế đành
phải chịu thua và than rằng : “Giống
như một con quạ tấn công một khối đá, ta đã hoài công với vị Cồ-đàm này”

(Bản Sinh kinh, 1), dứt lời thì Ma Vương
ra hiệu cho đám ma quân cùng nhau rút lui và quay về ẩn nấp trong những nơi tăm
tối và u mê của thế gian này.

Các vị thần linh khắp nơi lại kéo đến
chung quanh cội Bồ-đề để hân hoan đón chờ giây phút Tỉnh thức gần kề của vị Bồ-tát.
Quá trình của sự Giác ngộ tiếp diễn trong tâm thức của Tất-đạt-đa suốt trong “ba canh”. Trong
“canh một” thì Tất-đạt-đa đạt được ba cấp bậc thiền định, loại bỏ được
tất cả mọi thứ đam mêdục vọng, làm lắng xuống mọi lý luận và suy tư, vượt lên
trên hân hoanthích thú kể cả đớn đau và buồn phiền. Cái thế giới phát sinh
từ giác cảm này đã hoàn toàn biến mất trong tâm thức của vị Bồ-tát, tâm thức đó
đã biến thành một “thể dạng hoàn
toàn
tinh khiết, an bìnhtự tại, sự chú tâm trở nên cực mạnh nhưng vẫn an nhiên,
không khổ nhọc cũng không hân hoan
” (Trung A Hàm, 36). “Sang ‘canh hai’, Tất-đạt-đa lần lượt hội nhập vào tất
cả sáu cõi chúng sinh trong thế giới ta-bà, quán thấy thật chi tiết các kiếp sống
của chính mình trong quá khứđồng thời cũng nhìn thấy trước hoàn cảnh sẽ tái
sinh
của từng chúng sinh một trong tương lai, dù đấy là các chúng sinh tầm thường
hay
lừng danh, xinh đẹp hay xấu xí, dù các chúng sinh ấy sẽ tái sinh trong một
kiếp sống thuận lợi hay khó khăn
” (Trung
A Hàm
, 36). Sang “canh ba” thì Tất-đạt-đa bắt đầu thiền định về bản
chất
của sự sống trong cõi ta-bà và từ đó suy ra được các quy luật chi phối các
nguyên nhân mang lại khổ đau và sự hiện hữu trói buộc của con người trong các chu
kỳ bất tận của sự tái sinh. “Khi quán nhận được các quy luật ấy thì
Tất-đạt-đa cũng đạt được sự “Giác ngộ tối thượng và hoàn hảo”
(Phổ Diệu kinh).

Đêm rằm tháng tư hôm nay khi Tất-đạt-đa
đạt được Giác Ngộ cũng tương tợ như một đêm rằm tháng tư ba mươi lăm năm về trước
khi Tất-đạt-đa vừa sinh ra đời, giữa bầu trời lấm tấm sao đêm hiện lên một vầng
trăng thật tròn và rạng rỡ. Dưới ánh trăng vằng vặc trong khu rừng sa-la êm ả,
bên cạnh thôn Âu-lưu-tần-loa nơi thung lũng sông Hằng, dưới cội Bồ-đề một Vị Phật hiển hiện thay vào chỗ của vị Bồ-tát
Tất-đạt-đa
. Từ giây phút này dưới cội Bồ-đề chỉ còn lại một vị Phật, Tất-đạt-đa
không còn nữa. Khi thân xác đã được tinh
khiết
hóa và tâm thức đã loại bỏ được mọi dục vọng thì Tất-đạt-đa cũng không còn,
tương tợ như một ngọn lửa tắt lịm khi đã hết nhiên liệu. Những gì mà Tất-đạt-đa đã lưu lại cho chúng ta hôm nay là Tâm thức Giác
ngộ
Siêu nhiên của một Vị Phật
.

Khi bình minh vừa ló dạng thì Đức Phật
đứng lên và cất lời như sau : “Kiếp
nhân sinh thánh thiện này đã mang lại kết quả ! Những gì cần phải thực hiện đã
được thực hiện, đây là lần tái sinh cuối cùng của Ta, sẽ không còn gì để quay lại
nữa !”
(Trung Bộ kinh, 26). Pháp Cú kinh thì cho rằng Đức Phật tuyên
bố
như sau : “Tuy rằng [trước đây]
phải trải qua chu kỳ của nhiều kiếp tái
sinh
nhưng Ta chưa khám phá ra được kẻ sáng tạo ra căn nhà này, một căn nhà chất
chứa
đầy khổ đau của sự tái sinh bất tận. Giờ đây thì ngươi đã bị Ta đâm thủng
rồi, này kẻ kiến tạo ra ngôi nhà này, mi sẽ không còn một cơ hội nào nữa để xây
thêm những căn nhà mới..
..
Dầu sao thì Phổ Diệu kinh cũng vẫn là
bộ kinh mô tả tuyệt vời nhất “Biến cố
Diệu kỳ”
đã biến Tất-đạt-đa thành một Vị Phật. Sự Giác Ngộ của Đấng Thế
Tôn
làm rung chuyển cả mặt đất, muôn ngàn hiện tượng kỳ diệu hiển hiện khắp nơi,
chư Phật và các vị Bồ-tát kéo đến “hàng
vạn”
chung quanh cội Bồ-đề để tôn vinh và đảnh lễ Đấng Thế Tôn.

Tuy đã đạt được Giác Ngộ nhưng Đức
Phật
vẫn tiếp tục lưu lại thêm bảy tuần lễ nữa bên cội Bồ-đề để thiền định. Kinh Phạm Võng (Mahavagga) thì lại cho rằng thời gian này chỉ có “bốn lần bảy ngày”. Trong số các
kinh sách thuật lại sự tích Đức Phật thì Phổ
Diệu kinh
bộ kinh mô tả chi tiết nhất về những gì xảy ra trong khoảng thời
gian
trên đây. Kinh thuật lại là sau khi đạt được Giác Ngộ thì Đức Phật đứng lên
và bước mười bốn bước về phía đông bắc rồi xoay người ngồi xuống để tham thiền,
mặt hướng vào cội Bồ-đề không chớp mắt suốt trong bảy ngày.

Sau đó thì Đức Phật rời chỗ ngồi để
tản bộ trong một khu vườn do các vị Thần linh thiết kế tại hướng tây bắc của cội
Bồ-đề và được trang trí toàn bằng vàng và đủ mọi loại đá quý. Sau đó thì Đức Phật
bước vào một tòa nhà cũng được trang trí toàn bằng ngọc và ngồi xuống để tiếp tục
thiền định. Phổ Diệu kinh còn cho biết
thêm là trong thời gian lưu lại bên cội Bồ-đề “Đức Phật cũng đã lướt
đi từ đại dương phía đông sang đến đại dương phía tây”.

Sang tuần lễ thứ năm thì Đức Phật
thiền định tại phía tây của cội Bồ-đề. Lại một lần nữa Ma Vương xua bọn ma nữ kéo
đến để giở trò quấy nhiễu, nhưng rốt lại cũng chỉ rước thêm thất bại. Chẳng những
Đức Phật không hề dao động mà còn “biến
bọn ma nữ thành những bà già lọm khọm”
(Phổ Diệu kinh).

Sang tuần lễ thứ sáu thì Đức Phật
thiền định dưới một gốc cây bên cạnh bờ hồ Mucalinda tại phía nam của cội Bồ-đề.
Tiết trời thay đổi báo hiệu mùa mưa đã gần kề, trong lúc Đức Phật đang thiền định
thì một cơn dông thật khủng khiếp kéo đến, trời đen kịt và mưa tuôn như thác đổ.
Bất thần từ đáy hồ ngoi lên một con rắn khổng lồ thật uy nghi, đó là loài Long xà
(Naga). Con Long xà trườn lên khỏi mặt nước và bò đến chỗ Đức Phật đang tham thiền
rồi nhẹ nhàng quấn quanh người Đức Phật bảy vòng, sau đó thì phùng hai mang thật
rộng che cho Đức Phật. Khi cơn dông vừa dứt thì Long xà vụt biến thành một thiếu
niên
thanh tú và quỳ xuống để lạy đấng Thế Tôn.

Sang tuần lễ thứ bảy Đức Phật vẫn còn
lưu lại trong vùng phía nam của cội Bồ đềngồi thiền định dưới một cội cây gọi
là Rajayatana, có nghĩa là “Nơi thường trú của các bậc đế vương”. Vào
ngày cuối cùng của tuần lễ thứ bảy thì có hai anh em thương gia tên là Tapussa
và Bhalika hướng dẫn “một đoàn năm
trăm xe hàng hóa”
(Phổ Diệu kinh)
từ miền bắc nước Ấn sắp đi ngang vùng này thì có một vị thần linh báo cho họ biết
là có một bậc siêu phàm đang hiện diện trong một khu rừng gần thôn Âu-lưu-tần-loa.
Hai anh em Tapussa và Bhalika dò tìm và gặp được Đấng Thế Tôn, họ bèn quỳ lạy và
dâng lên một ổ bánh làm bằng cơm nấu với mật. Đó là bữa ăn đầu tiên của Đức Phật
sau một thời gian dài không ẩm thực gì cả.

Tuy đã đạt được sự hiểu biết toàn năng
nhưng Đức Phật cũng cảm thấy do dự và nghĩ rằng : “Sự hiểu biết mà Ta đã đạt được thật vô cùng sâu xa, rất khó để có
thể thấu triệt, đem ra ứng dụng sự hiểu biết ấy lại còn khó khăn hơn nhiều
,
[đấy là những gì] thật an bình, tinh tế, mà
chỉ có những người thông thái mới nắm vững được. Thế nhưng con người thuộc thế hệ
này thì lại chỉ biết chạy theo những lạc thú của sự bám víu, họ bị kích động bởi
sự bám víuthụ hưởng những gì do sự bám víu mang lại
(Trung A Hàm, 26). Đấng Thế Tôn càng suy nghĩ lại càng do dự trước ý
định
mang Đạo Pháp để thuyết giảng cho những người đương thời : “Nếu Ta đem con đường Đạo Pháp ra để
thuyết giảng mà chẳng có ai hiểu được thì [việc ấy] chỉ mang lại thất vọng
nhọc nhằn cho Ta..
. (Trung A Hàm). Thật vậy, “những ai chỉ biết tìm lạc thú trong dục
vọng
, nấp mình sau tấm màn của u mê thì sẽ không thể nào quán thấy được Sự thực”

(Trung A Hàm).

Vị trời Phạm Thiên (Brahma) thấu hiểu
được sự đắn đo ấy của Đấng Thế Tôn bèn hiện lên để cố thuyết phục : “Xin Vị Thầy Tối thượng chớ nên phiền
muộn
, hãy nhìn vào chúng sinh đang phải gánh chịu đau buồn và khổ ải [vì vướng
mắc
] trong sự hình thành và già nua. Hỡi Vị Tối thắng trong cuộc chiến, hãy đứng
lên! Hỡi Vị Thầy Tối thượng, hãy hy sinh tất cả để bước vào cái thế giới này. Cứ
đem Giáo lý ra thuyết giảng, rồi đây cũng sẽ có người hiểu được”
(Trung A Hàm).

Đấng Giác Ngộ lại tự hỏi thế thì trước
hết phải mang Giáo lý này để thuyết giảng cho ai bây giờ ? Ngài nghĩ rằng có lẽ
nên tìm đến vị thầy thứ nhất của mình là Alakara Kalama, nhưng các Thiên nhân
Thần linh lại cho biết là vị này đã qua đời cách nay chưa đầy bảy ngày. Đấng Giác
Ngộ
bèn nghĩ đến vị thầy thứ hai là Rudraka Ramaputra, nhưng vị này cũng lại vừa
qua đời vào tối hôm trước … Đấng Giác Ngộ bèn nghĩ đến năm vị đồng hành trước
đây : “Họ đã từng giúp đỡ Ta, cả năm
người đã từng lo cho Ta trong lúc tu tập khổ hạnh. Có lẽ cũng nên đem Giáo lý
này ra để thuyết giảng cho họ xem sao. Tiếp theo đó Đấng Giác Ngộ lại tự hỏi thế
nhưng họ đang ở đâu bây giờ ? Nhờ vào sự quán thấy tinh khiếtsiêu nhiên, Đấng
Giác Ngộ
biết ngay là họ đang trú ngụ trong khu rừng Lộc Uyển (Sarnath) nơi thị
trấn Ca-thi”
(Trung A Hàm).

Sáng sớm hôm sau Đấng Giác Ngộ lên
đường
đi Ca-thi (Kashi), một nơi nằm bên bờ sông Hằng cách Âu-lưu-tần-loa khoảng
250 cây số về phía tây. Rời khu rừng sa-la, Đấng Giác Ngộ đã chánh thức chấm dứt
giai đoạn tầm Đạo và mở ra một giai đoạn mới là giai đoạn giảng huấn kéo dài suốt
bốn mươi lăm năm sau đó.

Đấng Thế Tôn theo hướng mặt trời lặn
tiến bước và một hôm trên đường cái Ngài gặp một người sa-môn (shramana) trẻ tuổi.
Người này xưng tên là Upaka và cho biết mình là đệ tử của vị Thầy Đại Cần Dũng
(Mahavira) giáo chủ của đạo Ja-in. Vị sa-môn cất lời hỏi Đấng Thế Tônmôn đệ
của vị Thầy nào và tu tập theo giáo lý nào. Sở dĩ vị sa-môn tỏ ý thắc mắc là vì
anh ta vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy trên đầu Đấng Thế Tôn tỏa rộng một vầng
hào quang
rạng rỡ. Từ khi đạt được Giác ngộ đến nay đây là lần đầu tiên có người
hỏi Đấng Thế Tôn như thế và có lẽ Ngài cũng nghĩ rằng đây là một dịp để nêu lên
Con Đường tu tập mà mình đã tìm thấy, do đó đã cất lời giải thích cho vị sa-môn
như sau :

“Chiến
thắng được tất cả,

Hiểu
biết
được tất cả.

[Và]
đối với mọi sự vật,

Thì
không bám víu vào bất cứ một thứ gì,

Ấy
chính là Ta.

Từ
bỏ
tất cả,

Tự
giải thoát cho mình bằng cách loại bỏ sự thèm khát bất tận,

Tự
mình hiểu được một cách trọn vẹn,

Vậy
thì
Ta phải gọi ai là thầy bây giờ ?

Ta
chẳng có ai là thầy cả,


cũng chẳng có ai tìm thấy một người giống như Ta.

Trong cảnh giới của Thiên nhân,

Chẳng có ai để cho Ta so sánh.

Trong thế gian này Ta là người [duy nhất] đã được giải
thoát
.

Vì thế Ta là một Vị Thầy không giống với một vị thầy
nào khác.

Ta
đã tự tìm thấy sự Giác Ngộ đích thực cho chính mình.

Tất
cả đã lắng xuống và xả bỏ trong Ta,

Giúp
cho Ta chuyển động bánh xe của Đạo Pháp (Dhamma).

Ta
đang trên đường đi đến thị trấn Ca-thi,

Để
bước vào một thế giới mù quáng,


để gióng lên hồi trống của sự Bất-Tử”
.

(Trung
A Hàm
,
26).

Vị sa-môn Upaka vô cùng sửng sốt
không hiểu gì cả về câu trả lời của Đấng Thế Tôn mà chỉ biết kính cẩn nép sang
một bên để nhường bước. Phật giáo không phải là một tín ngưỡng hướng vào một sức
mạnh
bên ngoài để cầu xin mà đúng hơn là một tín ngưỡng dùng để tu tập, rèn luyện
biến cải lấy chính mình. Đức Phật giải thích cho vị sa-môn biết rằng mình là
một vị Chiến thắng. Thật vậy, chiến
thắng là kết quả của một sự phấn đấu và tượng trưng cho những gì tích cực và cam
go. Chiến thắng trong Phật giáo không có nghĩa là khắc phục ngoại cảnh hay chiến
thắng một sức mạnh bên ngoài mà đúng hơn là chiến thắng chính mình, chiến thắng
sự u mêsai lầm của mình, chiến thắng bản năng thú tính và những xúc cảm bấn
loạn luôn tìm cách kích động và điều khiển mình, chiến thắng tất cả những thứ ấy
để mang lại cho mình trí tuệ và sự an bình trong tâm thức.

Sau khi từ giã vị sa-môn thì Đấng Thế
Tôn
đi đến một nơi có con sông Hằng chắn ngang, dưới bến có một con đò tuy đã đầy
người nhưng vẫn còn nấn ná để chờ thêm khách. Đấng Thế Tôn tỏ ý muốn sang sông nhưng
người lái đò đòi phải trả tiền trước. Ngài cho biết là không có tiền và ngay
sau đó đã mượn “con đường trên không
trung”
để vượt sang bờ bên kia (Phổ
Diệu kinh
). Người lái đò sửng sốtkinh hoàng trước phép thần thông của
nhà tu hànhcảm thấy vô cùng hối hận về hành động của mình. Phép mầu kỳ diệu
đó được đồn đại khắp nơi và sau cùng lan truyền đến tận kinh đô Vương Xá
(Rajagrha) của xứ Ma-kiệt-đà và đến tai nhà vua là Tần-bà-xa-la (Bimbisara). Nhà
vua tức thời cho triệu người lái đò vào triều để hỏi cho ra lẽ. Khi nghe xong câu
chuyện
thì vua Tần-bà-xa-la vừa kinh ngạc lại vừa thán phục bèn tức thời ra lệnh
là từ nay không ai được phép thu tiền đò hay tiền qua cổng của bất cứ một người
tu hành nào.

Đấng Thế Tôn đến thị trấn Ca-thi sau
nhiều ngày đường, nơi này còn gọi là Ba-la-nại là một thành phố cổ xưa, rất phồn
thịnh
và cũng là thánh địa của đạo Bà-la-môn. Trong kinh Vệ-đà có một câu như
sau : “Ca-Thi thắp sáng và chiếu rọi
cả vũ trụ này”
… Đền thờ nhiều vô kể, tín đồ tấp nập khắp nơi, các vị
giáo sĩ thì bận rộn lo việc chủ tế các buổi lễ cầu nguyện và hiến sinh. Người
già và bệnh tật khắp nơi kéo về đây để được chết và hỏa táng tại thánh địa, tro
đem đổ xuống sông Hằng. Ngày nay Ca-thi mang tên là Varanasi và trở thành một
trong những thánh địa quan trọng nhất của Ấn giáo, các nghi thức lễ bái và các
tập tục từ nhiều ngàn năm vẫn còn lưu lại, việc hỏa táng vẫn tiếp tục như hàng
nghìn năm về trước. Đấng Giác Ngộ đến Ca-Thi nhưng không lưu lại nơi này vì các
vị tu sĩ “ngoại đạo” như Ngài không có chỗ đứng trong thành phố của những
người Bà-la-môn. Do đó Ngài đã rời Ca-thi và tìm đến một khu rừng nằm trệch vào
phía bắc của thành phố tên là “Rừng Hươu” (Mrigadava) mà người dân địa
phương còn gọi là “Nơi trú ngụ của các bậc hiền nhân” (Richipatana) vì
nơi này thường dùng làm nơi tá túc cho các vị khất sĩ, sa-môn, các vị tu hành
khổ hạnh
bên ngoài đạo Bà-la-môn… Đấng Thế Tôn tìm đến nơi này là cốt ý gặp lại
năm vị đồng tu trước kia.

Trong khu rừng Lộc Uyển khi năm vị đồng
hành
nhận ra Tất-đạt-đa Cồ-đàm đang tiến về phía họ thì tất cả đồng lòng bảo
nhau cứ giả ngơ như không nhìn thấy. Dưới mắt họ Tất-đạt-đa chỉ là một con người
quá đỗi tầm thường, một con người yếu đuối, “một
kẻ đã bỏ cuộc, tham ăn, bị mê hoặc bởi sự ham muốn”
(Phổ Diệu kinh). Năm vị khổ hạnh ngồi
thành một vòng tròn và đưa lưng ra ngoài. Tuy trong lòng khinh ghét nhưng họ vẫn
cứ liếc xem thái độphản ứng của Tất-đạt-đa ra sao. Thế nhưng khi Đức Phật
tiến đến gần hơn thì bỗng dưng họ cảm thấy bàng hoàngvô cùng kinh ngạc : Đức
Phật
hiện ra thật uy nghi, thanh thảntinh khiết… Một sự chấn động sâu xa
làm rung chuyển tâm thức họ, tất cả năm vị bỗng nhiên đều đồng loạt đứng bật dậy
để đảnh lễ Đấng Thế Tôn.

Họ lay hoay trải chiếu cho “người bạn Cồ-đàm” ngồi, rót
nước vào bình bát để mời, mang một tấm đất sét nung đặt xuống đất để “người bạn Cồ-đàm” chùi chân…
Sau khi ngồi vào chiếu thì Đấng Thế Tôn khoan thai và từ tốn ngỏ lời với các vị
đồng hành của mình trước đây như sau :

“Này
các bạn tu sĩ khổ hạnh,[từ nay] không nên gọi Con người Toàn Thiện bằng tên của
người ấy nữa và cũng không nên xem người ấy là một người bạn [giống như những
người bạn khác]. Này các bạn tu sĩ khổ hạnh, Con người Toàn Thiện là một Thánh
nhân
, đã hoàn toàn Giác ngộ. Các bạn hãy lắng nghe : Sự Giải thoát ra khỏi cái
chết đã được tìm thấy. Ta sẽ đem ra thuyết giảng [về sự Giải thoát ấy] cho các
bạn. Ta sẽ giảng dạy cho các bạn về Giáo lý gọi là Đạo Pháp (Dhamma). Nếu các bạn
thực thi đúng những lời giáo huấn ấy thì sau này các bạn cũng sẽ nhanh chóng đạt
được
mục đích tối thượng của một kiếp sống thánh thiện, cái mục đích đó sẽ giúp
cho những người cao cả biết rời bỏ thế tục để chọn một cuộc sống rày đây mai đó
: tại nơi này và ngay trong lúc này các bạn đều có thể tự mình chứng nghiệm được
thực hiện được sự thực đó”
(Trung A Hàm, 26).

Tuy thế cả năm vị đồng hành vẫn còn
hoài nghi và nêu lên đủ mọi điều thắc mắc, họ muốn biết vị khổ hạnh Cồ-Đàmlý do nào lại bỏ phép tập luyện hành xác, không
chịu nhịn đói…, theo họ thì làm thế nào có thể đạt được sự Giác ngộ tối thượng
trong sự đầy đủ. Đấng Thế Tôn kiên nhẫn giải đáp minh bạch từng câu hỏi của họ
và sau cùng thì phát biểu như thế này : “Các
bạn cố nhớ lại xem, từ khi chúng ta quen biết nhau và trong suốt những năm sống
bên cạnh nhau, các bạn có thấy lần nào Ta thốt lên những lời như thế này chưa
?”
(kinh Phạm Võng, 1).

Sau khi nghe lời nói chân tình trên đây
thì cả năm vị khổ hạnh là Trần Như, Bạt Đề, Sư Ba, Ma Ha NamA Thuyết Thị đều
nhận thấy những sai lầm của mình, bèn phủ phục dưới chân Đấng Toàn Năng để xin
làm đệ tử. Đấng Thế Tôn gọi họ là những vị tỳ kheo, và cũng nhân dịp này và kể
cả về sau Đấng Thế Tôn tự xưng mình là Như Lai (Tathagatha). Nếu hiểu theo cách
từ chương thì chữ này có nghĩa là “đến
[nơi này] như thế”
(Như Lai), hay là “Người đã trở thành như thế” (có nghĩa là đã tỉnh thức
giác ngộ). Trong các kinh sách sau này Đức Phật giải thích chữ Tathagatha có nghĩa là “Không từ đâu đến và cũng không đi về đâu
cả”
, chỉ là “Như Thế”,
có nghĩa là tính cách nhị nguyên
đối nghịch của mọi sự diễn đạt đã bị loại bỏ khỏi tâm thức của Ngài. Nếu dựa theo
ý nghĩa đó thì Tathagatha cũng có thể
hiểu là “Hiện thực Như
thế”
(tiếng Phạn Tathata có thể dịch là Ainsité, Suchness). Đức Phật đã
tự xưng mình một cách thật khiêm tốn nhưng cũng thật cao siêu và tinh tế, nói lên
sự Giác ngộ sâu xaphản ảnh cốt tủy của toàn thể Đạo Pháp, trái hẳn với các
danh xưng mang tính cách sùng kínhthần thánh hóa mà người ta thường gán cho
Ngài.

Sau
khi năm vị đồng hành xin được làm đệ tử của Đức Phật thì ngay vào buổi tối hôm ấy,
trong khu rừng lộc uyển dưới ánh sáng rạng rỡ của con trăng tròn thứ tám trong
năm, tức ngày rằm tháng tám âm lịch và còn gọi là ngày asalha, Đấng Thế Tôn ngồi xuống theo tư thế hoa senthiền định một
lúc thật lâu trước khi cất lời thuyết giảng cho năm vị đệ tử. Các vị này chia
ra ngồi thành hai hàng bên cạnh Đức Phật, họ cũng giữ yên lặng và tập trung
tinh thần để chờ đợi những lời giáo huấn.

Giữa cảnh vắng lặng của khu rừng Lộc
Uyển
, Đấng Thế Tôn cất lời thuyết giảng và những lời giảng ấy đã khởi động Bánh
xe của Đạo Pháp lần đầu tiên. Từ đêm rằm asalha
hôm ấy cho đến nay đã hơn hai ngàn năm trăm năm nhưng Bánh xe Đạo Pháp vẫn còn
tiếp tục lăn đều trên khắp nẻo đường của hành tinh này. Đấng Thế Tôn cất lời giảng
như sau :

“Này
các tỳ kheo, có hai thái cực mà người tu hành phải tránh. Hai thái cực ấy là
gì?
[Thái cực thứ nhất] là tự buông
thả theo các thú vui của giác cảm, đấy là những gì thật thấp hèn, tầm thường,
trần tục, ghê tởm và chỉ mang lại những hậu quả tai hại mà thôi, [thái cực thứ
hai] là tự mình hành xác, đấy là những gì thật khổ sở, ghê tởm và cũng chỉ mang
lại những hậu quả tai hại. Không vướng mắc vào hai thái cực đó, này các tỳ
kheo
, Như Lai đã khám phá ra Con Đường Trung Đạo, mang lại sự quán thấy, đưa đến
sự hiểu biết, tạo ra sự tĩnh lặng, trí tuệ, Giác ngộ và mang lại sự Giải thoát.

“Này
các tỳ kheo, vậy Con Đường Trung ĐạoNhư Lai đã khám phá ra, mang lại sự
quán
thấy, đưa đến sự hiểu biết, tạo ra sự tĩnh lặng, trí tuệ, sự Giác ngộGiải
thoát
con đường như thế nào? Đấy chỉ có thể là Con Đường Cao quý của Tám sự Đúng
đắn
(Bát Chánh Đạo),
đấy là : quán thấy đúng, tư duy đúng, ngôn từ đúng,
hành động đúng, phương tiện sinh sống đúng, cố gắng đúng, chú tâm đúng, tập
trung [tâm thức] đúng. Này các tỳ kheo, đấy gọi là Con Đường Trung ĐạoNhư
Lai
đã khám phá ra để mang lại sự quán thấy, đưa đến sự hiểu biết, tạo ra sự
tĩnh lặng, trí tuệ, Giác ngộ và mang lại sự Giải thoát.

“Này
các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là
khổ đau (dukka) : Sinh là khổ đau, già là khổ đau, bệnh tật là khổ đau, chết là khổ đau, phải kết hợp với những gì mình không thích
là khổ đau
, phải xa lìa những gì mình
yêu quý là khổ đau
, không đạt được những
gì mình thèm muốn
khổ đau. Tóm lại, năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) của sự
bám víu
khổ đau.

“Này
các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là
nguyên nhân của khổ đau :
Đấy là sự ”thèm khát” mang lại sự
tái-hiện-hữu
và sự tái-hình-thành,
sự thèm khát ấy phát sinh từ sự ham muốn
quá độ và sự thèm khát thì sẽ luôn chạy theo những thụ hưởng mới, lúc thì nơi
này lúc thì nơi khác, đấy là sự thèm khát các lạc thú của giác cảm, đấy là sự
thèm khát [được] hiện hữu và hình thành, đấy là sự thèm khát không
[muốn được] hình thành (trái với sự mong muốn của mình).

“Này
các tỳ kheo, đây là Sự thực Cao quý gọi là
chấm dứt khổ đau : Đấy là sự chấm dứt hoàn toàn của sự
“thèm khát”
, dứt bỏ được nó,
từ bỏ được nó, tự giải thoát ra khỏi nó, cởi bỏ được nó.

“Này
các tỳ kheo, đây là con đường đưa đến sự
chấm dứt khổ đau
: Đấy là Con Đường
Cao quý của Tám sự Đúng đắn
, đấy là :
quán thấy đúng, tư duy đúng, ngôn từ đúng, hành động đúng, phương tiện sinh sống
đúng, cố gắng đúng, chú tâm đúng và tập trung
[tâm thức] đúng.

“Này
các tỳ kheo, chỉ khi nào đã hiểu được “Đây chính là Sự thực Cao quý gọi là khổ đau
, và đấy cũng là những gì mà trước đây chưa hề
có ai thuyết giảng
, thì khi đó mới hiện
lên
với mình sự quán thấy, mới hiện lên với mình sự hiểu biết, mới hiện lên với
mình trí tuệ, mới hiện lên với mình sự thông suốt, mới hiện lên với mình ánh
sáng
.

“Này
các tỳ kheo, chỉ khi nào đã hiểu được “Đây chính là sự thực Cao quý gọi là ý thức được khổ đau một cách thấu
đáo
, và đó cũng là những gì
từ mà trước đây chưa hề có ai thuyết giảng, thì khi đó mới hiện lên với mình sự
quán
thấy, mới hiện lên với mình sự hiểu biết, […]

“Này
các tỳ kheo, chỉ khi nào đã hiểu được “Đây chính là Sự thực Cao quý gọi là nguyên nhân của khổ đau“,
và đó cũng là những gì mà trước đây chưa hề có ai thuyết giảng, thì khi đó mới hiện
lên
với mình sự quán thấy, mới hiện lên với mình sự hiểu biết,[…]

“Này
các tỳ kheo, chỉ khi nào hiểu được “Đây
chính là Sự thực Cao quý gọi là nguyên nhân của khổ đau cần phải bị hủy diệt
“,
và đó cũng là những gì mà trước đây chưa hề có ai thuyết giảng, thì khi đó mới hiện
lên
với mình sự quán thấy, mới hiện lên với mình sự hiểu biết,[…]

“Này
các tỳ kheo, chỉ khi nào hiểu được “Đây
chính là Sự thực Cao quý gọi là nguyên nhân của khổ đau đã bị hủy diệt
“,
và đó cũng là những gì mà từ trước đây chưa hề có ai thuyết giảng, thì khi đó mới
hiện lên với mình sự quán thấy, mới hiện lên với mình sự hiểu biết,[…]

“Này
các tỳ kheo, chỉ khi nào hiểu được “Đây
chính là sự thực Cao quý gọi là sự chấm dứt khổ đau
“, và đó cũng là những
gì mà trước đây chưa hề có ai thuyết giảng, thì khi đó mới hiện lên với mình sự
quán
thấy, mới hiện lên với mình sự hiểu biết,[…]

“Này
các tỳ kheo, khi nào hiểu được “Đây
chính là Sự thực Cao quý gọi là sự chấm dứt khổ đau cần phải đạt được
“,
và đó là những gì mà trước đây chưa hề có ai thuyết giảng, thì chỉ khi đó mới hiện
lên
với mình sự quán thấy, mới hiện lên với mình sự hiểu biết, […]

“Này
các tỳ kheo, chỉ khi nào hiểu được “Đây
chính là Sự thực Cao quý gọi là sự chấm dứt khổ đau đã đạt được
“, và
đó cũng là những gì mà trước đây chưa hề có ai thuyết giảng, thì khi đó mới hiện
lên
với mình sự quán thấy, mới hiện lên với mình sự hiểu biết,[…]

“Này
các tỳ kheo, chỉ khi nào hiểu được “Đây
chính là Sự thực Cao quý gọi là con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau cần phải được
đem ra thực hiện
“, và đó cũng là những gì mà trước đây chưa hề có ai
thuyết giảng, thì khi đó mới hiện lên với mình sự quán thấy, mới hiện lên với
mình sự hiểu biết,[…]

“Này
các tỳ kheo, chỉ khi nào hiểu được “Đây
chính là Sự thực Cao quý gọi là con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau đã được thực
hiện
“, và đó là những gì mà trước đây chưa hề có ai thuyết giảng, thì khi
đó mới hiện lên với mình sự quán thấy, mới hiện lên với mình sự hiểu biết,
[…]

“Này
các tỳ kheo, chỉ khi nào hiểu được “Đây
chính là Sự thực Cao quý gọi là con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau
“,
và đó là những gì mà trước đây chưa hề có ai thuyết giảng, thì khi đó mới hiện
lên
với mình sự quán thấy, mới hiện lên với mình sự hiểu biết, mới hiện lên với
mình trí tuệ, mới hiện lên với mình sự thông suốt, mới hiện lên với mình ánh
sáng
.

“Này
các tỳ kheo, cho đến khi nào mà sự quán thấy và hiểu biết đích thực về Bốn Sự
thực Cao quý dưới ba thể dạng gồm mười hai dạng thức khác nhau chưa được hiểu một
cách hoàn toàn sáng tỏ, thì khi đó ta vẫn
chưa có thể tuyên bố với các Thiên nhân, các Ma vương (Mara), các Phạm thiên
(Brahma), các tập thể những người tu hànhgiáo sĩ, các chúng sinh thánh thiện
và cả các chúng sinh dưới thể dạng con người trong thế gian này…, rằng ta đã
đạt được sự hiểu biết vô songtối thượng. Tuy nhiên, này các tỳ kheo, chỉ khi
nào mà sự quán thấy và hiểu biết thật sự về Bốn Sự thực Cao quý dưới ba thể dạng
gồm mười hai dạng thức khác nhau đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ đối với ta, thì
khi đó ta mới có thể tuyên bố với các Thiên nhân, các Ma vương, các Phạm thiên,
các tập thể những người tu hànhgiáo sĩ, các chúng sinh thánh thiện và cả các
chúng sinh dưới thể dạng con người trong thế gian này…, rằng ta đã đạt được sự
hiểu biết vô songtối thượng. Và rồi sự hiểu biết sâu xa sẽ hiện lên với ta
: “Tư duy của ta sẽ được giải thoát, không có gì có thể lay chuyển được,
đây là lần tái sinh cuối cùng của ta,
sẽ
không còn một sự hiện hữu nào khác nữa”
.

Đấng
Thế Tôn
thuyết giảng như trên đây. Năm vị tỳ kheo rất thỏa dạvô cùng hân
hoan
trước những lời thuyết giảng ấy
. (Tương
Ưng Bộ kinh
– Samyutta-nikaya
, ấn bản PTS, 1892-1938, V, 420-424; cf. Luật tạng – Vinaya-pitaka, I, 110-112, theo
bản dịch tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna).

Trên đây là bản kinh nổi tiếng gọi là
Tứ
Diệu Đế
(tiếng Pa-li : Dhamma-Cakkappavattana-sutta), và cũng là bản kinh đầu tiên trình bày Giáo lý của Đức Phật.
Bản kinh tóm lược toàn bộ các nét chính trong Đạo Pháp, và đồng thời cũng tượng
trưng
cho sự khởi động của Bánh xe Đạo Pháp trong thế gian này. Trong suốt bốn
mươi lăm năm hoằng Pháp sau này, Đức Phật chỉ khai triển thêm và xây dựng toàn
bộ
Giáo lý của Ngài chung quanh bài Pháp thứ nhất trên đây.

Về phương diện hình thức thì bản
kinh
Tứ Diệu Đế được trình bày bằng cách lập đi lập lại các câu giảng, mỗi câu
khi lập lại chỉ thay đổi một vài chữ căn bản. Đấy cũng là cách trình bày chung
của tất cả các kinh sách xưa giúp cho dễ nhớ và dễ học thuộc lòng, vì câu sau
giống với câu trước chỉ khác nhau một vài chữ mà thôi. Suốt nhiều trăm năm Giáo
của Đức Phật được phổ biếnlưu truyền bằng cách học thuộc lòngtruyền
khẩu
như thế trước khi được ghi chép bằng chữ viếttồn tại cho đến nay.

Phần cốt yếu của bản kinhBốn Sự thực Cao quý, vậy chữ Cao quý (tiếng Pa-li ariya, tiếng Phạn arya) mang ý nghĩa như thế nào ? Tại sao lại gọi là Cao quý ? Có rất nhiều sự thực mà chúng
ta
có thể xem là đúng và tin tưởng được, tuy nhiên những sự thực ấy không có gì
là cao quý cả. Chẳng hạn như sự kiện địa cầu quay chung quanh mặt trời là một sự
thực, sự thực đó có thể quan sát được và khoa học kiểm chứng được, tuy nhiên cái
sự thực đó không có gì Cao quý cả. Hãy
nêu ra thêm một thí dụ khác, chẳng hạn có một người nào đó tuyên bố là mình rất
hạnh phúc, được đầy đủ và không hề biết khổ đau là gì, điều đó có thể đúng và có
thể là một sự thực, tuy nhiên sự thực đó không có gì gọi là Cao quý cả. Trái lại Bốn sự thực của Tứ
Diệu Đế
là bốn sự thực giải thích được bản chất sâu kín của Hiện thực, quán nhận
được các quy luật mang tính cách toàn cầu của mọi hiện tượng, mang lại sự hiểu
biết
trí tuệ trong mục đích giải thoát cho con người. Chính vì thế mà bốn sự
thực ấy gọi là Cao quý.

Tuy là bản kinh giảng về Tứ Diệu Đế nhưng
Đức Phật không giải thích ngay thế nào là Tứ Diệu Đế mà nêu lên trước hết “Con Đường Trung Đạo” và tiếp sau
đó là “Con Đường Cao quý của Tám sự
đúng đắn”
mà kinh sách tiếng Hán gọi là “Bát Chánh Đạo”. Con
đường Trung đạo
nền móng để xây dựng một cuộc sống dung hòa, Bát Chánh Đạo gồm có sự quán thấy đúng, tư duy đúng, ngôn từ đúng,
hành động đúng, phương tiện sinh sống đúng, cố
gắng
đúng
, chú tâm đúngtập trung tâm thức đúng là những gì tối cần
thiết
để có thể hiểu được Đạo Pháp là gì. Vì thế mà Đức Phật đã nêu lên những điều
kiện tiên quyết
trên đây trước khi thuyết giảng về Tứ Diệu Đế. Điều đó cũng gián
tiếp
cho thấy Phật giáo là một tôn giáo đòi hỏi một cuộc sống đạo hạnh, một sự
tu tập kiên trì trong mục đích đạt được sự hiểu biết tối thượng mang lại sự Giải
thoát
. Phật giáo không phải mà một tín ngưỡng được hình thành từ sự cầu xin
những lời hứa hẹn, và cũng không thể trao tặng cho bất cứ ai một món quà có sẵn.

Vậy con đường Bát chánh là gì ? Con
đường
đó khởi đầu bằng cách tập nhìn các hiện tượng đúng như thế (quán thấy đúng), tức là không thêm bớt,
không bám víu, không diễn đạt xuyên qua những xúc cảm bấn loạn trong tâm thức
mình. Quán thấy đúng sẽ giúp suy nghĩ đúng (
duy
đúng
) và để nói lên những lời chân thật (ngôn từ đúng). Khi nào đã nhìn thấy đúng, suy nghĩ đúng, nói lên những
lời nhân từ, bên trong không che dấu sự lừa lọc thì khi đó mới có thể thực thi
được những hành động đúng, tức là những
hành động không hung bạo, không làm tổn thương người khác và không tước đoạt những
gì của người khác, dù là vô tình hay cố ý. Ngoài những điều kiện đó còn phải cần
có những phương tiện sinh sống đạo đứclương thiện (phương tiện sinh sống đúng), không gây ra thiệt hại cho môi trường
và sự sống nói chung.

Khi nào thực hiện được các điều kiện
căn bản trên đây thì khi đó người tu tập mới có đủ khả năng chú tâm đúng, tức là quan tâm đến những
hệ trọng và hữu ích hầu biến cải tâm thức của chính mình. Chú tâm đúng là một
sức mạnh cần thiết để bước vào Con Đường tu tập một cách thật sự và đúng nghĩa
của nó. Tập trung tâm thức đúng
giai đoạn cuối cùng và tinh tế hơn hết và cũng là giai đoạn quan trọng nhất tức
là sự luyện tập thiền định để mang lại
trí tuệ. Chỉ có trí tuệ mới giúp quán thấy được bản chất đích thực của mọi hiện
tượng
nguyên nhân của sự hiện hữu của chính mình.

Kinh sách thường tượng trưng tám sự
đúng đắn với tám nan hoa của một chiếc bánh xe làm biểu tượng cho Đạo Pháp, điều
đó chứng tỏ một cách hùng hồn tầm quan trọng của con đường Bát Chánh. Thật ra
thì cũng không nên phân tích và tìm hiểu tám
sự đúng đắn riêng rẽ với nhau, vì thực
tế
chúng liên liên kết và hổ tương với nhau thật chặt chẽ để mang lại một cuộc
sống tinh khiết, đạo hạnhtinh tấn.

Vào
thời đại của Đức Phật tín ngưỡng bộc phát rất mạnh tại Ấn độ, nhiều trào lưu
tôn giáotriết học xuất hiện khắp nơi. Kinh Vệ-đà của đạo Bà-la-môn xuất
phát
vào khoảng thế kỷ thứ XII trước Tây lịch chỉ mang tính cách cầu khẩnca
tụng
thần linh, đã trở nên hoàn toàn lỗi thời. Nhiều bản kinh mới gọi là
Upanisad được trước tác thay cho Kinh Vệ-đà và cũng từ đó đã làm phát sinh ra nhiều
“tông phái cải tiến”. Trong bối cảnh phức tạp đó, Đức Phật ngay trong
bài thuyết giảng đầu tiên đã nhấn mạnh đến tính cách mới mẻ và duy nhất của Giáo
do Ngài khám phá ra. Giáo lý của Đức Phật không phải là một loại kinh Vệ-đà
cải tiến thuộc phong trào cải cách ồ ạt của đạo Bà-la-môn vào thời bấy giờ. Trong
bản kinh Tứ Diệu Đế người ta thấy câu sau đây được nhấn mạnh và lập đi lập lại: “đó là những gì mà trước đây chưa hề
có ai thuyết giảng”
. Có lẽ đấy là điều mà Đức Phật muốn nhắc nhở những
người đương thời hơn là nhắc nhở chúng ta vì ngày nay tính cách độc đáo và duy
nhất
của tín ngưỡng Phật giáo là những gì đã trở nên thật hiển nhiên trong nền
tư tưởng của nhân loại.

Trong bản kinh Tứ Diệu Đế và trong
đoạn định nghĩa thế nào là khổ đau có một câu như sau : “Tóm lại, năm thứ cấu hợp của sự bám víu là khổ đau”. Câu
này nêu lên năm thành phần cấu hợp của cá thể con người gồm có : thành phần cấu
hợp vật chất tức là thân xác và bốn thành phần cấu hợp còn lại thuộc tâm thức.
Đây cũng là một cách báo trước một khái niệm thật căn bản trong Đạo Pháp gọi là
Ngũ uẩn. Nắm vững được khái niệm này mới
có thể hiểu được một khái niệm then chốt và đặc thù khác là khái niệm Vô ngãĐức Phật sẽ giảng trong bài
Pháp thứ hai.

Sau khi Đấng Thê Tôn giảng xong bài
Pháp về Tứ Diệu Đế thì “người đệ tử
lớn tuổi nhất là Kiều Trần Như lĩnh hội được ngay và xin Đấng Thế Tôn thụ phong
cho mình”
(Luật Tạng, I,12). Đấng Thế Tôn và năm đệ tử tiếp
tục
lưu lại thêm vài ngày trong khu rừng Lộc Uyển, và trong thời gian này các đệ
tử
cũng xin Đấng Thế Tôn giải thích thêm cho họ một số thắc mắc. Trong lúc nghe
giảng thì có hai đệ tử là Sư Ba và Bạt Đề vụt chứng ngộ được Giáo lý bèn xin Đấng
Thế Tôn
thụ phong cho mình. Sau đó đến lượt hai đệ tử khác là Ma Ha NamA
Thuyết Thị
cũng hiểu được Giáo lý một cách thấu đáo và cũng xin được thụ phong.
Thế là năm vị đồng hành trước đây đều chính thức trở thành môn đệ của Đấng Thế
Tôn
.

Thấy thế Đấng Thế Tôn bảo họ hãy ngồi
xuống để lắng nghe Ngài giảng về một chủ đề vô cùng quan trọng khác, đó là bài
giảng về giáo lý “Vô ngã”. Đây là bản kinh thứ hai được Đức Phật thuyết
giảng
chỉ vài ngày sau bản kinh thứ nhất. Đấng Thế Tôn cất lời với các đệ tử như
sau :

Này các tỳ kheo, hình tướng (thân xác) không phải là cái Ngã (theo định nghĩa thông thường thì cái ‘ngã’ hay ‘atman’ có thể hiểu như là
linh hồn). Nếu như hình tướng đúng thật là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì hình tướng
đâu phải gánh chịu bệnh tật
(thân xác phải gánh chịu bệnh tật và cái ngã thì lại được định nghĩa như một thứ gì
bất biếntrường tồn), và đối với thân
xác thì người ta có thể bảo rằng : “Đối với tôi thì thân xác của tôi [chỉ
có thể] như thế này mà không thể như thế khác được”
(nếu thân xác đúng
là cái ngã thì nó không thể biến đổi để trở thành khác hơn). Trong khi đó, bởi vì thân xác không phải là cái Ngã [cho nên] thân
xác phải gánh chịu bệnh tật
(vô thường)
và người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : “Đối với tôi thì thân xác của
tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được”
.

“Này
các tỳ kheo, giác cảm không phải là cái Ngã. Nếu như giác cảm đúng là cái Ngã, này
các tỳ kheo, thì giác cảm đâu có phải gánh chịu bệnh tật
(tức là các giác cảm
làm phát sinh sự đau đớn, thích thú hay trung hòa), và [như thế] đối với giác cảm người ta sẽ có thể bảo rằng
: “Đối với tôi thì giác cảm của tôi
[chỉ có thể] như thế này mà không
thể như là thế khác được”. Trong khi đó, bởi vì giác cảm không phải là cái
Ngã
[cho nên] giác cảm phải gánh chịu bệnh tật và người ta
sẽ không thể nào có thể bảo rằng : “Đối với tôi thì giác cảm của tôi [chỉ
có thể]
như thế này mà không thể là
như thế khác được
“.

“Này
các tỳ kheo, sự nhận thức không phải là cái Ngã. Nếu như sự nhận thức, này các
tỳ kheo, đúng là cái Ngã thì sự nhận thức đâu có phải gánh chịu bệnh tật
(sự
lầm lẫn), và [như thế] đối với sự nhận thức
người ta sẽ có thể bảo rằng
: “Đối
với tôi thì sự nhận thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế
khác được”
. Trong khi đó, bởi vì
sự nhận thức không phải là cái Ngã
[cho
nên]
sự nhận thức phải gánh chịu bệnh
tật và đối với sự nhận thức thì người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng
:
“Đối với tôi thì sự nhận thức của
tôi [chỉ có thể]
như thế này mà không
thể là như thế khác được”
.

“Này
các tỳ kheo, thói quen thường nhật không phải là cái Ngã
. Nếu như thói quen thường nhật, này các tỳ
kheo
, đúng là cái Ngã thì thói quen thường nhật đâu phải gánh chịu mọi thứ bệnh
tật
(tức là sự bám víu biểu hiện của vô minhsai lầm), và [như
thế]
đối với thói quen thường nhật người
ta sẽ có thể bảo rằng : “Đối với tôi thì thói quen thường nhật của tôi

[chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được”. Trong khi đó, bởi vì thói quen thường nhật không
phải là cái Ngã
[cho nên] thói quen thường nhật phải gánh chịu bệnh tật,
và đối với thói quen thường nhật thì người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng

: “Đối với tôi thì thói quen thường
nhật của tôi
[chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được”.

“Này
các tỳ kheo, tri thức không phải là cái Ngã
. Nếu như tri thức đúng là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì tri thức đâu có
phải gánh chịu bệnh tật
(những sự diễn đạt sai lầm), và [như thế] đối với tri thức
người ta sẽ có thể bảo rằng :
“Đối
với tôi thì tri thức của tôi
[chỉ có
thể]
như thế này mà không thể như thế
khác được”
. Trong khi đó, bởi vì
tri thức không phải là cái Ngã
[cho nên]
tri thức phải gánh chịu bệnh tật và đối với
tri thức người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : “Đối với tôi thì tri
thức
của tôi
[chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được”.


Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Hình tướng
trường tồn hay vô thường?


Bạch Thế tôn, hình tướngvô thường.


Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những
gì khổ đau hay hạnh phúc?


Bạch Thế tôn, là những gì khổ đau.


Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ
đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng
: “Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi” hay
không ?


Bạch Thế Tôn, nhất định là không.

 


Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Giác cảm
trường tồn hay vô thường?


Bạch Thế Tôn, giác cảm là vô thường.


Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những
gì khổ đau hay hạnh phúc?


Bạch thế tôn, là những gì khổ đau.


Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ
đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng
: “Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi” hay
không ?

– Bạch Thế Tôn, nhất định là không.

 

– Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Sự nhận thức trường
tồn
hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, sự nhận thứcvô thường.

– Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay
hạnh phúc?

– Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.


Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ
đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng
: “Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi” hay
không ?

– Bạch Thế Tôn, nhất định là không.

 

– Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Thói quen thường nhật
trường tồn hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, thói quen thường nhật là vô thường.

– Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay
hạnh phúc ?

– Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.

Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh
chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng : “Đấy
là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi” hay không ?

– Bạch Thế Tôn, nhất định là không.

 

– Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Tri thức trường tồn
hay vô thường ?

– Bạch Thế Tôn, tri thứcvô thường.

– Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay
hạnh phúc ?

– Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.

Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh
chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng : “Đấy
là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi” hay không ?

– Bạch Thế Tôn, nhất định là không.

 

“Tóm
lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ những gì là thân xác, dù thuộc vào quá khứ,
tương lai hay hiện tại, thuộc nội tâm hay bên ngoài, thô thiển hay tinh tế, tầm
thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh
, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự
nhủ rằng
: “Đấy không phải là của
tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi”.

“Tóm
lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ những gì là giác cảm, dù thuộc vào quá khứ,
tương lai hay hiện tại, thuộc nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm
thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng
cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : “Đấy không phải là của tôi, tôi
không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi”.

“Tóm
lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ gì thuộc vào sự nhận thức, dù thuộc vào quá
khứ
, tương lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm
thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng
cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : “Đấy không phải là của tôi, tôi
không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi”.

“Tóm
lại, này các tỳ kheo, bất cứ những gì là thói quen thường nhật, dù thuộc vào quá
khứ
, tương lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm
thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng
cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : “Đấy không phải là của tôi, tôi
không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi”.

“Tóm
lại, này các tỳ kheo, bất cứ những gì là tri thức, dù thuộc vào quá khứ, tương
lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay
tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí
tuệ
không sai lầm để tự nhủ rằng : “Đấy không phải là của tôi, tôi không
phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi”.

“Này
các tỳ kheo, nếu biết nhìn mọi sự vật bằng cách như thế thì một người đệ tử hiểu
biết
sẽ không còn bám víu vào thân xác, không con bám víu vào giác cảm, không còn
bám víu vào sự nhận thức, không còn bám víu vào thói quen thường nhật, không còn
bám víu vào tri thức. Khi loại bỏ được chúng thì sẽ không còn tham vọng nữa. Khi
nào không còn bám víu nữa thì người đệ tử ấy cũng sẽ tự giải thoát cho mình khỏi
mọi dục vọng. Khi đã tự giải thoát khỏi mọi dục vọng thì người đệ tử ấy cũng sẽ
chợt nhận ra rằng :
“[Thế ra]
sự giải thoát cũng chính là như thế đấy !”,
và người đệ tử ấy
cũng sẽ hiểu được
là : “Tất cả mọi sự tái sinh đã bị hủy diệt, chỉ có Con đường Đạo hạnh tinh
khiết
tồn tại, những gì phải chấm dứt đã chấm dứt, không còn bất cứ gì lưu lại
để chờ đợi được thực hiện, không còn lại gì nữa để mà hình thành”
.

Đấng
Thế Tôn
thuyết giảng như trên đây. Năm vị tỳ kheo đều thỏa dạhân hoan đón
nhận những lời giáo huấn của Ngài. Hơn thế nữa ngay trong khi mà họ còn đang nghe
giảng thì mọi ô nhiễm trong tâm thức đã lần lượt được tẩy uế.
Vào
thời điểm ấy hiển hiện lên trong thế gian này sáu vị A-la-hán
. (Kinh về Giáo lý Vô ngãAnattalakkhana-sutta, trích từ Luật tạngVinaya-Pitaka, ấn bản PTS, 1879-1883, I, 13, cf. S, III, 66, theo bản
tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna).

Trong bối cảnh mà hầu hết các tín
ngưỡng
thời bấy giờ đều chủ trương một cái ngã
(atman) hay một cái ta, cái tôi trường tồnbất biến thì Đức Phật
lại thuyết giảng về Vô ngã. Bất cứ một
hiện tượng nào dù thuộc lãnh vực vật chất hay tâm thần đều không hề lệ thuộc vào
một “sở hữu chủ” hay một thứ “chủ nhân ông nào” cả, điều ấy
có nghĩa là không có một “chủ thể” nào trường tồnbất biến dù là
“bên ngoài” hay “bên trong” thân xác và tâm thức đứng ra “làm
chủ” để ra lệnh và điều khiển các hiện tượng biến động và đổi thay liên tục
từ trong tâm thức cho đến thân xác và ngoại cảnh. Tất cả mọi hiện tượng đều tự
lôi kéo nhau mà biến động thuận theo quy luật của nhân duyênhậu quả.

Ngoài ra bản kinh trên đây được chấm
dứt
bằng một câu mang thật nhiều ý nghĩa : “Vào thời điểm ấy hiển hiện lên trong
thế gian này sáu vị A-la-hán”
. Trước hết câu ấy có nghĩa là Tăng đoàn đã được hình thành, gồm có Đức
Phật
và năm đệ tử đầu tiên. Điều đáng chú ý thứ hai trong câu này là năm đệ tử
Đức Phật cũng đều là những vị A-la-hán, cùng mang một trọng tráchsứ mạng hoằng
Pháp
như nhau. Đức Phật chọn một cuộc sống khất thực và tha phương, ấy là cách vừa
làm gương cho Tăng đoàn lại vừa tạo dịp để hoằng Pháp. Ngài thuyết giảng liên tục
trong suốt bốn mươi lăm năm còn lại trong kiếp nhân sinh cuối cùng này của Ngài
cho đến một hôm thì Ngài kiệt lực phải dừng lại trong một khu rừng và nằm xuống
đất giữa hai gốc cây sa-la. Thật vậy, nếu có Đạo Pháp mà không có Tăng đoàn thì
Đạo Pháp cũng sẽ mai một mà thôi. Các vị A-la-hán và Bồ-tát trong Tăng đoàn ngày
nay có khi nào nhìn lại tấm gương đó hay chăng ?

Trong
một đêm rằm mùa xuân, nơi khu rừng Ưu-lâu-tần-loa dưới cội Bồ-đề hiện ra một Vị Phật thay vào chỗ của vị Bồ-tát Tất-đạt-đa.
Và sau đó trong khu rừng Lộc Uyển nơi thị trấn Ba-la-nại thì Vị Phật ấy và cả Tăng
đoàn
của Ngài cũng lại lùi lại để nhường
chỗ cho
Bánh xe Đạo Pháp vận hành.
Nếu hai ngàn năm trăm năm trước Tăng đoàn khởi đầu gồm có sáu vị A-la-hán thì
ngày nay Tăng đoàn đã trở nên đông đảo
hơn nhiều để mang Đạo Pháp đến khắp nẻo trong thế gian này. Tam bảo gồm Phật,
Pháp, Tăng được thành lập và đó cũng là sự hình thành của Phật giáo.

Bures-Sur-Yvette,
08.10.10

Hoang Phong