Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán

0
38

Giới thiệu tóm tắt về
BỘ TRUNG QUÁN
trong Tạng luận
theo Đại tạng kinh Đại chính tân tu

Nhân bài viết của Huỳnh Ngọc Chiến viết về Trung quán tông và ánh sáng tâm linh, chúng tôi
xin giới thiệu tóm tắt về Bộ Trung quán trong Tạng luận
theo Đại tạng kinh Đại chính tân tu (ĐTK/ĐCTT), gọi là góp thêm tư liệu nhằm
giúp người đọc có những hiểu biết bước đầu về tông Trung quán.

Bộ Trung quán là 1 trong 5 bộ thuộc Tạng luận theo sự phân
loại của ĐTK/ĐCTT. Năm bộ thuộc Tạng luận gồm:

1. Bộ Thích
kinh luận
2. Bộ A-Tỳ-đàm
3. Bộ Trung
quán
4. Bộ Du già
5. Bộ luận tập.

Chữ bộ được
ĐTK/ĐCTT dùng để phân loại nơi Tạng kinh (phân làm 9 bộ, chưa kể Mật
giáo
) và Tạng luận (phân làm 5 bộ), căn cứ theo nội dung thì gồm 3 loại:

* Loại 1:
Bộ là sự tập hợp các kinh luận chính, tiêu biểu cùng với những kinh luận
biệt hành, liên hệ, cùng hệ, đồng dạng. Loại này chiếm đa số: Bộ A-hàm, Bộ
Bát-nhã, Bộ Pháp hoa, Bộ Hoa nghiêm, Bộ Bảo tích, Bộ Niết-bàn, Bộ Đại tập
(Tạng
kinh
), Bộ Trung quán, Bộ Du-già (Tạng luận).

* Loại 2:
Bộ là sự tập hợp các kinh luận dài ngắn, có nội dung quy về một chủ đề.
Đó là các bộ: Bộ Bản duyên (tạng kinh), Bộ Thích kinh luận, Bộ
A-tỳ-đàm
(Tạng luận). Bộ Bản duyên là tập hợp các kinh dài,
ngắn, vừa, có chung chủ đề là viết về lịch sử Đức Phật, tiền thân Phật, Bồ-tát,
Pháp cú v.v… Bộ Thích kinh luận là tập hợp các luận dài ngắn,… có chung
chủ đềgiải thích, luận giảng về kinh (tác giả là chư vị Bồ-tát, Luận sư của
Phật giáo Ấn Độ, tác phẩm đã được Hán dịch. Nếu các tác phẩm giải thích, luận
giảng về kinh luận do các Đại sư, học giả của Phật giáo Trung Hoa viết thì được
tập hợp ở phần sớ giải). Bộ A-tỳ-đàm thì tập hợp các luận dài ngắn vừa
thuộc mảng A-tỳ-đàm của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ, phần lớn do Pháp sư
Huyền Trang dịch ra Hán ngữ (dịch lại hoặc dịch mới). Như các luận A-tỳ-đạt-ma
lục túc
, luận A-tỳ-đạt-ma phát trí, luận A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa,
luận A-tỳ-đạt-ma câu-xá

* Loại 3:
Các kinh, luận còn lại không thể sắp vào các bộ trên thì sắp vào Bộ Kinh
tập
(Tạng kinh), Bộ Luận tập (Tạng luận).

Như vậy, Bộ
Trung quán
thuộc về loại 1. Chúng tôi xin dựa theo nghĩa ấy để giới thiệu
tóm tắt.

Luận chính

Luận chính của
Bộ Trung quán
Trung luận (Mādhyamaka – Sāstra) hoặc Luận
Trung quán
, còn có tên là Luận Đại thừa Trung quán, Luận Bát-nhã đàng.
Tác giả là Bồ-tát Long Thọ (Nā gārjuna, Thế kỷ II – III TL), người đã có những
đóng góp rất lớn vào quá trình hình thành cùng phát triển của Phật giáo Đại
thừa
, Phật giáo Bắc truyền, cũng là người mở đầu cho công việc giải thích kinh,
luận thuộc Phật giáo Bắc truyền.

Trung luận được viết theo thể kệ, gồm 27 phẩm, 446 kệ. Bản Hán
dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập gồm 446 kệ, mỗi kệ gồm 4 câu – 5
chữ, với 27 phẩm như sau:

Phẩm thứ 1:
Quán về nhân duyên (16 kệ)

Phẩm thứ 2:
Quán về khứ lai (25 kệ)

Phẩm thứ 3:
Quán về sáu tình (sáu căn – 8 kệ)

Phẩm thứ 4:
Quán về năm ấm (năm uẩn – 9 kệ)

Phẩm thứ 5:
Quán về sáu chủng (8 kệ)

Phẩm thứ 6:
Quán về nhiễm, người nhiễm (10 kệ)

Phẩm thứ 7:
Quán về ba tướng (35 kệ)

Phẩm thứ 8:
Quán về tác – Tác giả (12 kệ)

Phẩm thứ 9:
Quán về bản trụ (12 kệ)

Phẩm thứ 10:
Quán về đốt cháy, bị đốt cháy (16 kệ)

Phẩm thứ 11:
Quán về bản tế (8 kệ)

Phẩm thứ 12:
Quán về khổ (10 kệ)

Phẩm thứ 13:
Quán về hành (9 kệ)

Phẩm thứ 14:
Quán về hợp (8 kệ)

Phẩm thứ 15:
Quán về có – không (11 kệ)

Phẩm thứ 16:
Quán về buộc – mở (10 kệ)

Phẩm thứ 17:
Quán về nghiệp (33 kệ)

Phẩm thứ 18:
Quán về pháp (12 kệ)

Phẩm thứ 19:
Quán về thời (6 kệ)

Phẩm thứ 20:
Quán về nhân quả (24 kệ)

Phẩm thứ 21:
Quán về thành – hoại (20 kệ)

Phẩm thứ 22:
Quán về Như lai (16 kệ)

Phẩm thứ 23:
Quán về điên đảo (24 kệ)

Phẩm thứ 24:
Quán về bốn đế (40 kệ)

Phẩm thứ 25:
Quán về Niết-bàn (24 kệ)

Phẩm thứ 26:
Quán về 12 nhân duyên (9 kệ)

Phẩm thứ 27:
Quán về tà kiến (31 kệ)

Nếu như nơi
Tạng kinh, Bộ Pháp hoa và kinh Pháp hoa có số lượng trang ít
nhất
, thì nơi Tạng luận, Bộ Trung quánTrung luận cũng vậy,
tức cũng có số lượng trang ít nhất. Kinh Pháp hoa, theo bản Hán dịch của
Pháp sư Cưu Ma La Thập, chỉ hơn 60 trang Hán tạng, và Bộ Pháp hoa
chỉ gồm hơn 385 trang, tức non ½ tập 9 ĐTK/ĐCTT. Trung luận,
vì được viết theo thể kệ nên độ dày lại càng ít. Bản chú giải Trung
luận
của Phạm Chí Thanh Mục – là bản được biết đến nhiều nhất – chỉ hơn 38
trang Hán tạng, và Bộ Trung quán chỉ gồm không đến 280 trang, tức
non 1/3 tập 30 ĐTK/ĐCTT, trong khi Bộ A-tỳ-đàm chẳng hạn gồm hơn 3.500
trang. Tuy nhiên, vì nội hàm cùng ngoại trương của Trung luận (cũng như
kinh Pháp hoa)(1) là cực lớn. Nói cách khác, những vấn đề
được Trung luận nêu lên, đặt ra là hết sức hàm súc, hết sức quan trọng,
nên tác động cũng như ảnh hưởng của luận phải nói là vô lượng vô biên. Thế nên
ĐTK/ĐCTT đã dùng Trung luận và các luận liên hệ (cũng như đối với kinh
Pháp hoa
và các kinh cùng hệ đã lập Bộ Pháp hoa) để lập riêng Bộ
Trung quán
hoàn toàn hợp lý.

Chúng tôi xin
nêu dẫn một số kệ thuộc loại tiêu biểu trong Trung luận:

Kệ thứ 1, thứ
2, nơi phẩm thứ 1: Quán về nhân duyên:

Bất sinh diệc
bất diệt
Bất thường diệc
bất đoạn
Bất nhất diệc
bất dị
Bất lai diệc
bất xuất.
Năng thuyết thị
nhân duyên
Thiện diệt chư
hý luận
Ngã khể thủ lễ
Phật
Chư thuyết trung đệ nhất.
(ĐTK/ĐCTT, tập 30, trang 1C)
(Chẳng sinh
cũng chẳng diệt
Chẳng thường
cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng
chẳng khác
Chẳng đến cũng
chẳng đi
Nói pháp nhân
duyên
ấy
Khéo trừ các
luận
Con cúi đầu lễ
Phật
Bậc thuyết pháp
đệ nhất).
Kệ thứ 9 nơi
phẩm thứ 13 – Quán về hành:
Đại thánh
thuyết không pháp
Vi ly chư kiến
cố
Nhược phục kiến
hữu không
Chư Phật sử bất
hóa.
(ĐTK/ĐCTT, tập 30, trang 18C)
(Đại thánh nói
pháp không
Để lìa các kiến
chấp
Nếu lại chấp có
không
Chư Phật không
thể độ).
Kệ thứ 10 nơi
phẩm thứ 16 – Quán về buộc mở:
Bất ly ư sinh
tử
Nhi biệt hữu
Niết-bàn
Thật tướng
nghĩa như thị
Vân hà hữu phân
biệt
.
(ĐTK/ĐCTT, tập 30, trang 21B)
(Không lìa nơi
sinh
tử
Mà có riêng
Niết-bàn
Nghĩa thật
tướng
như thế
Làm sao có phân
biệt?).
2 kệ thứ 6 và
thứ 7 nơi phẩm thứ 18: Quán về Pháp
Chư Phật hoặc
thuyết ngã
Hoặc thuyết ư
vô ngã
Chư pháp thật tướng trung
Vô ngã vô phi
ngã.
Chư pháp thật tướng giả
Tâm hành ngôn
ngữ
đoạn
Vô sinh diệc vô
diệt
Tịch diệt như
Niết-bàn.
(ĐTK/ĐCTT, tập 30, trang 24A)
(Chư Phật hoặc
nói ngã
Hoặc nói về
ngã
Trong thật
tướng
các pháp
Không ngã không
vô ngã
Thật tướng của
các pháp
Tâm hành ngôn
ngữ
dứt
Không sinh cũng
không diệt
Tịch diệt nhưNiết-bàn).
2 kệ thứ 18,
thứ 19 nơi phẩm thứ 24: Quán về bốn đế
Chúng nhân
duyên
sinh pháp
Ngã thuyết tức
thị vô
Diệc vi thị giả
danh
Diệc thị Trung
đạo
nghĩa
Vị tằng hữu
nhất pháp
Bất tùng nhân
duyên
sinh
Thị cố nhất
thiết pháp
Vô bất thị
không giả.
(ĐTK/ĐCTT, tập 30, trang 33B)
(Nhân duyên
sinh các pháp
Tôi nói tức là
không
Cũng gọi là giả
danh
Cũng là nghĩa
Trung
đạo
Chưa từng có
một pháp
Không từ nhân
duyên
sinh
Vì thế tất cả
pháp
Chúng thảy đều
là không).

Nguyễn Lang, trong Việt Nam Phật giáo sử
luận I
, phần viết về Tuệ Trung Thượng Sĩ, đã ghi nhận về Bát bất Trung
đạo
của Bồ-tát Long Thọ như sau: “Long Thọ (Nāgārjuna) ở Ấn Độ vào khoảng
thế kỷ thứ II đã phân tích và lý luận trên nguyên tắc nhân duyên sinh rằng thực
tại
vượt ra ngoài những phạm trù sanh diệt, thường đoạn, đến đi, nhất nguyên
đa nguyên (Trung quán luận). Ông kết luận rằng những phạm trù kia chỉ là những
tạo tác của khái niệm nhận thức – đem ra phân tích thì chúng không phù hợp với
thực tại. Ví dụ về sinh và diệt: Trên thực tế không có gì có thể từ không
trở thành có, không có gì đang có mà trở thành không, bởi vì mọi hiện tượng tồn
tại
trên đã chuyển biến và trở thành… Thế giới nhìn qua nhận thức sinh diệt
thế giới phân biệt nhị kiến, không phải là thế giới thực tại, trong đó vạn pháp
tồn tại trong một tương quan hòa điệu vi mật không thể cắt xén bằng khái niệm.
Thế giới bất sinh bất diệt bất thường bất đoạn, không tới không đi không nhất
nguyên
không đa nguyên ấy là Niết-bàn, là giải thoát, là giác ngộ, là cảnh giới
của thánh trí. Người học đạo phải đặt bản thân và sự sống của mình trong thế
giới
thực tại đó mới thể nhập được nó…” (Việt Nam Phật giáo sử luận I,
bản in 1992, trang 321-322).

Bốn bản Trung
luận
hiện có nơi Bộ Trung quán đều là những bản luận thích mang số
hiệu 1564, 1565, 1566, 1567, thuộc tập 30 ĐTK/ĐCTT.

* Bản 1:
Mang tên Trung luận. Phạm Chí Thanh Mục giải thích, Pháp sư Cưu Ma
La Thập
(344-413) dịch Hán vào đời Hậu Tần (384-417), gồm 4 quyển, Đại
Tăng Duệ viết tựa, có ghi rõ số lượng kệ nơi mỗi phẩm. (No 1564. ĐTK/ĐCTT, tập 30, trang
1-39B).

* Bản 2:
Mang tên là Thuận trung luận nghĩa… Bồ-tát Vô Trước giải thích, Đại sư
Cù Đàm Bát Nhã Lưu Chi (thế kỷ V đến thế kỷ VI TL) dịch ra Hán ngữ vào đời
Nguyên Ngụy (339-534), gồm 2 quyển. (No
1565, ĐTK/ĐCTT, tập 30, trang 39C-50B).

* Bản 3:
Mang tên là Bát-nhã đăng luận thích. Luận sư Phân Biệt Minh (Thanh Biện)
giải thích, Hán dịch là Đại sư Ba-la-phả-mật-đa-la (565-633), dịch vào
đầu đời Đường (618-906), gồm 15 quyển, Đại sư Tuệ Trách viết tựa (No 1566, ĐTK/ĐCTT, tập 30, trang
50C-135).

* Bản 4:
Mang tên là Đại thừa Trung quán thích luận. Luận sư An Tuệ giải thích,
Đại sư Duy Tịnh (thế kỷ XI TL) dịch ra Hán ngữ vào đời Triệu Tống (960-1276),
gồm 9 quyển (No 1567, ĐTK/ĐCTT
tập 30, trang 136-158).

* Bản 1
là bản phổ biến nhất. Các bản Việt dịch hiện có đều dịch theo bản Hán dịch này(2).
Nơi lời tựa, Đại sư Tăng Duệ đã cố gắng thâu tóm để nêu bật những nét
chính của tác phẩm: “Dùng Trung làm tên gọi là nhằm soi chiếu về nẻo
thật. Dùng Luận để nêu là nhằm đạt tới chốn cùng tột nơi ngôn từ. Nẻo
thật không tên gọi thì không tỏ ngộ, nên nhờ nơi Trung để tuyên thuyết.
Ngôn từ không giải thích thì không tận cùng nên mượn Luận để làm sáng
tỏ…” (ĐTK/ĐCTT tập 30, No 1564
trang 1A). Theo nhiều nhà nghiên cứu học cận đại thì Phạm Chí Thanh Mục là một
biệt danh của Bồ-tát Đề Bà (Deva, thế kỷ III TL), tác giả Bách Luận, đệ
tử
của Bồ-tát Long Thọ. Điều ấy có thể đúng, vì nơi bản 1 này, người đọc có cảm
tưởng
là người giải thíchtác giả Trung luận hầu như là một. Tức
Bồ-tát Long Thọ hẳn đã có những khơi gợi, những hướng dẫn v.v… để cho đệ tử của
mình làm công việc giải thích, tranh biện trong khi các bản giải thích kia, cụ
thể
là 2 bản 3,4 đều đã giải thích theo hướng hoàn toàn khác.

* Bản 2:
Tên gọi đầy đủ là: Thuận Trung luận nghĩa nhập đại Bát-nhã-ba-la-mật kinh sơ
phẩm pháp môn
(Thuận theo nghĩa của Trung luận, hội nhập pháp môn nơi phẩm
đầu của kinh Đại Bát-nhã-ba-la-mật). Và như thế thì đấy không phải là
tác phẩm Giải thích Trung luận như 3 bản kia. Đại từ điển Phật Quang
(trang1034B – 1035A) phần nói về tác phẩm Trung luận, đã có lý khi không
xem Thuận Trung luận nghĩa… của Bồ-tát Vô Trước thuộc loại “chú thích
Trung luận”, mà chỉ nói: “Ngoài ra, còn có tác phẩm Thuận Trung luận nghĩa… của
Bồ-tát Vô Trước”.

Thuận Trung luận nghĩa… hầu như không có bố cục, tác giả chỉ nêu dẫn 2
kệ đầu(3) nơi phẩm thứ 1 của Trung luận, tạo sự nối kết với
một số điểm nơi phẩm thứ nhất của kinh Đại Bát-nhã, theo đấy để biện
giải
, quảng diễn. Đoạn cuối quyển hạ, tác giả có dẫn thêm vài kệ nữa (thuộc
phẩm thứ 2 và thứ 4 của Trung luận) cũng là chỉ để đối chiếu nhằm biện biệt.

Nhưng dù sao
thì Bồ-tát Vô Trước cũng đã biện giải ít nhiều về Trung luận, mà những
biện giải ấy không phải là không có giá trị. Do đấy cũng có thể sắp Thuận
Trung luận
nghĩa
… vào đây.

Hai bản 3,4
giải thích theo hướng căn cứ vào nghĩa hiện có của các kệ để biện giải, quảng
diễn. Bản 3 là bản có số trang nhiều nhất (hơn 84 trang, bản 1: hơn 38 trang),
nhưng phần giải thích nhiều đoạn văn nghĩa không rõ, khó lãnh hội. Bản 4 gồm 9
quyển, mới giải thích hết phẩm thứ 13 (Phẩm Quán về hành. ĐTĐ Phật Quang
(trang 1.035A) phần nói về tác phẩm Đại thừa Trung quán thích luận của
Luận sư An Tuệ, Hán dịch là Đại sư Duy Tịnh, đã ghi: gồm 18 quyển. Rồi
nơi trang 2.406B Thích luận: 9 quyển. Như vậy, tác phẩm này gồm 18 quyển, giải
thích
quảng diễn đủ 27 phẩm nơi Trung luận, hay chỉ có 9 quyển, chỉ giải
thích
13 phẩm:

Phần luận liên hệ

Phần luận liên
hệ
của Bộ Trung quán gồm các tác phẩm của Bồ-tát Long Thọ (Luận Thập nhị
môn, 4 luận ngắn), các tác phẩm của Bồ-tát Đề Bà (Bách luận, Bách tự luận,
Quảng bách luận, Luận đại trượng phu), và tác phẩm của Luận sư Thanh Biện (Luận
Đại thừa chưởng trân).

 1- Tác phẩm của Bồ-tát Long Thọ:

* Luận Thập nhị môn (Dvādasamukha – sāstra): Hán dịch là Pháp sư Cưu
Ma La Thập
, dịch vào đời Hậu Tần (384-417), 1 quyển (ĐTK/ĐCTT, tập 30, No 1.568, trang 159-167C). Đây là sự
nối tiếp của Trung luận “Dùng 12 môn để hội nhập nơi nghĩa không”.

* Bốn luận
ngắn:
Đó là các luận: luận Nhất-thâu-lư-ca, luận Đại thừa phá
hữu
,
luận Lục thập tụng như lý, luận Đại thừa nhị thập tụng
(No 1573, 1574, 1575, 1576.
ĐTK/ĐCTT, tập 30, trang 253-256C). Luận No
1573 do Đại sư Cù Đàm Bát Nhã Lưu Chi dịch ra Hán ngữ vào đời Nguyên Ngụy
(339-534). 3 luận còn lại do Đại sư Thi Hộ (Hậu bán thế kỷ 10 – đầu thế kỷ XI
TL) dịch ra Hán ngữ vào đời Triệu Tống (960-1276). Có thể xem đây là những phác
thảo để dẫn đến Bát bất trung đạo của Trung luận(4).

2- Tác phẩm của Bồ-tát Đề Bà:

* Bách luận (Satāsāstra): Khai sĩ Bà Tẩu
giải thích, Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch Hán, 2 quyển (ĐTK/ĐCTT, No 1569, tập 30, trang 167C-182A).
Theo Đại sư Tăng Triệu, nơi Lời tựa của bản Hán dịch, thì Bách luận
20 phẩm, mỗi phẩm có 5 kệ, nhưng bản Hán dịch chỉ dịch 10 phẩm của phần đầu, 10
phẩm của phần sau chưa dịch. Tuy nhiên, bản giải thích của Khai sĩ Bà Tẩu ở đây
có nêu 10 phẩm (phẩm 1-10) nhưng không thấy nêu dẫn kệ, chỉ dùng lối hỏi – đáp
(ngoại nêu – nội nói) để tranh biện, quảng diễn, nhằm bác bỏ những tà kiến của
ngoại đạo.

* Bách tự
luận
:
No 1572, 1 quyển, Hán
dịch là Đại sư Bồ Đề Lưu Chi (thế kỷ VI TL), dịch vào đời Hậu Ngụy (339-534),
được xem là một tóm lược của Bách luận (ĐTK/ĐCTT, tập 30, trang
250B-252).

* Quảng bách luận bản: No1570, 1 quyển, 200 kệ (4 câu 5
chữ), Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602-664), dịch vào đời Đường (618-906).
Bồ-tát Đề Bà còn có tác phẩm Tứ bách luận (Catuhsataka, gồm 16 phẩm, 400
kệ), có thể xem là sự khai triển từ Bách luận. Tác phẩm này đã được Pháp
Huyền Tráng dịch ra Hán ngữ. Nhưng Pháp sư chỉ dịch nửa sau của luận gồm 8
phẩm, 200 kệ (4 câu 5 chữ), lấy tên là Quảng bách luận bản (ĐTK/ĐCTT,
No1570, trang 182A-186).

Quảng bách
luận bản
đã được Luận sư Hộ Pháp giải thích, luận giảng và cũng được Pháp
Huyền Tráng dịch ra Hán ngữ: Đại thừa quảng bách luận thích luận (No 1571, 10 quyển. ĐTK/ĐCTT, tập 30,
trang 187-250B).

* Luận Đại trượng phu: No
1577, 2 quyển, Hán dịch là Đại sư Đạo Thái (hậu bán thế kỷ IV – đầu thế kỷ V
TL), dịch vào đời Bắc Lương (397-439) (ĐTK/ĐCTT, tập 30, trang 256C – 268A).
ĐTK/ĐCTT ghi tác giả Luận Đại trượng phu là Bồ-tát Đề-bà-la. ĐTĐ Phật
Quang
(trang 1198A – B), mục Ngũ luận sư đã viết về Bồ-tát Đề Bà: Là
đệ tử của Bồ-tát Long Thọ, tác giả Bách luận, Luận Đại trượng phu…
Như vậy, Bồ-tát Đề-bà-la và Bồ-tát Đề Bà là một. Luận Đại trượng phu gồm
29 phẩm ngắn. Hai phẩm đầu là kệ, các phẩm còn lại phần nhiều là văn xuôi. Nội
dung của luận là bàn về những tư lương của Bồ-tát trong quá trình hành hóa độ
sinh
như hành thể, hành xả, phát tâm bồ-đề, hiện bày tâm bi v.v… Đáng lẽ nên
sắp vào Bộ Du-già, thuộc hệ về Địa Bồ-tát của Luận du-già, nhưng vì là
tác phẩm của Bồ-tát Đề Bà nên sắp ở phần này.

3- Tác
phẩm
của Luận sư Thanh Biện

* Luận Đại
thừa
chưởng trân
: No1578, 2
quyển, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602-664), dịch vào đời Đường (ĐTK/ĐCTT,
tập 30, trang 268A-278B). Nội dung của luận là “dùng luận pháp của nhân minh,
luận phá các kiến chấp sai lầm của ngoại đạo, Tiểu thừa, Đại thừa Hữu tông,
nhằm chứng đắc thật nghĩa của Đại thừa không tông, ra sức đề xướng việc dùng
không trí để xa lìa các thứ phân biệt về có không, hoàn thành 8 chánh đạo, 6
ba-la-mật(5).

Tam luận tông là một trong 13 tông phái Phật giáo đã được hình thành và phát triển
tại Trung Hoa. Tông này còn được gọi bằng nhiều tên như: Không tông, Vô tướng
tông
, Trung quán tông, Long Thọ tông, Đề Bà tông, Bát Nhã tông Tam luận
tông
đã hình thành và phát triển rộng ở Trung Hoa từ đầu thế kỷ thứ V TL, sau
khi Pháp sư Cưu Ma La Thập (344-413) dịch ra Hán ngữ Trung luận, Thập nhị
môn luận
của Bồ-tát Long ThọBách luận của Bồ-tát Đề Bà. Tam luận
tông
dùng 3 bộ luận trên làm căn bản, tuyên dương các nghĩa lý Không, Vô tướng,
Bát bất trung đạo, hiển bày tánh không của các pháp. Môn hạ của Pháp sư Cưu Ma
La Thập
tiêu biểu như chư vị Đại sư Tăng Triệu, Tăng Duệ, Đạo Sinh, Đạo Dung,
Đàm Ảnh… hoặc trước thuật, hoặc giảng thuyết, đều dốc sức hoằng dương tông môn,
sau đấy thì có Đại sư Đàm Tế (411-475). Vào thế kỷ thứ 6 TL, Tam luận tông được
Đại sư Tăng Lãng (thế kỷ VI TL) xiển dương. Ông được xem là sơ tổ của học phái
Tân tam luận tông. Nối tiếp thì có Tăng Thuyên (Thế kỷ VI TL), Pháp Lãng
(507-581), và nhất là Cát Tạng (549-623). Các trước tác của Đại sư Cát Tạng gồm
: Tam luận huyền nghĩa, 1 quyển; Đại thừa huyền luận, 5 quyển; Nhị
đế
nghĩa
, 3 quyển (ĐTK/ĐCTT, tập 45, No
1852/1, 1852/5, 1853/3). Ông sớ giải rất nhiều kinh, nhất là sớ giải 3 bộ luận:
Trung luận (Trung Quán luận sớ, 20 quyển, ĐTK/ĐCTT, tập 42, No 1824), Thập nhị môn luận
(Thập nhị môn luận sớ, 6 quyển, ĐTK/ĐCTT, tập 42, No 1825), và Bách luận (Bách luận sớ, 9 quyển,
ĐTK/ĐCTT, tập 42, No 1827)(6).

Trên đây là
những tóm tắt về Bộ Trung quánTrung quán tông. Mấy bộ còn lại
của Tạng luận như Bộ A-tỳ-đàm, Bộ Du-già cũng nên được giới thiệu

 Chú thích

(1) Về kinh Pháp
hoa
, cứ xem các tác phẩm sớ giải về bộ kinh ấy do các Đại sư vào loại hàng
đầu của Phật học Trung Hoa viết (Pháp Vân, Trí Khải, Cát Tạng, Trạm Nhiên, Quán
Đỉnh
, Khuy Cơ…), nhất là sự xuất hiện của Thiên Thai tông… cũng đủ thấy bộ kinh
ấy vĩ đại như thế nào.

(2) Có vị chỉ dịch phần
kệ, không dịch phần giải thích của Phạm Chí Thanh Mục; có vị dịch hết phần kệ
và phần giải thích, nhưng các kệ thì diễn ra văn xuôi. Theo chúng tôi nên dịch
hết cả phần kệ cùng phần giải thích, nhưng phần kệ nên Việt dịch theo thể kệ (4
câu – 5 chữ), vì các kệ đã được giải thích tương đối đầy đủ, mà thể kệ vẫn có
giá trị văn học tiêu biểu.

(3) Kệ đầu nơi Trung
luận
, Đại sư Cù Đàm Bát Nhã Lưu Chi (trong Thuận trung luận nghĩa…)
đã dịch Hán:

Bất diệt diệc bất sinh
Bất đoạn diệc bất thường
Bất nhất bất dị nghĩa
Bất lai diệc bất khứ.
Phật dĩ thuyết nhân duyên
Đoạn chư hý luận pháp
Cố ngã khể thủ lễ
Thuyết pháp sư trung thắng.
(ĐTK/DDCTT, T30, tr.39C)
(Chẳng diệt cũng chẳng sinh
Chẳng đoạn cũng chẳng thường
Nghĩa chẳng một chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Phật đã nói nhân duyên
Dứt các pháp hý luận
Nên con cúi đầu lễ
thuyết pháp hơn hết).
Tham khảo trong Bát-nhã đăng luận thích, Đại sư Ba-la-phả-mật-đa-la đã dịch
Hán:
Bất diệt diệc bất sinh
Bất đoạn diệc bất thường
Phi nhất phi chủng chủng
Bất lai diệc bất khứ
Duyên khởi hý luận tứa
Thuyết giả thiện diệt cố
Lễ bỉ Bà-già-bà
Chư thuyết trung tối thượng.
(ĐTK/ĐCTT, T30, tr.51C)
(Chẳng diệt cũng chẳng sinh
Chẳng đoạn cũng chẳng thường
Không một không vô số
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Duyên khởi hý luận dứt
Người thuyết khéo diệt trừ
Kính lễ Bà-già-bà
Tối thượng trong các thuyết).

(4) Xem thêm bài viết
của Đào Nguyên: Giới thiệu chùm luận ngắn của Bồ-tát Long Thọ, Nguyệt
san Giác Ngộ số 124 tháng 7-2006.

(5) Ghi nhận như thế là
chúng tôi đã dựa theo ĐTĐ Phật Quang (tr.4957A) vì thật sự là Luận Đại
thừa
chưởng trân
rất khó đọc (trừ đoạn cuối) dù Hán dịch là Pháp sư Huyền
Tráng. Nơi đoạn cuối của luận, tác giả đã khẳng định các tính chất siêu việt
nơi pháp thân của Như Lai cùng nói đến sáu Ba-la-mật, tám Chánh đạo… Nhưng
trong toàn luận đâu có chỗ nào bàn về các pháp này? Lại, như trước đã nêu, Bát-nhã
đăng luận thích
, No1566, 15
quyển, cũng của Luận sư Thanh Biện (Phân Biệt Minh) cũng có nhiều phần, nhiều
đoạn rất khó đọc.

(6) Xem thêm: Tinh hoa triết học Phật giáo của
Junjino Takakusu, Tuệ Sỹ Việt dịch, NXB.Phương Đông 2008, tr.147-163.

Đào Nguyên
(Nguyệt San Giác Ngộ)


a