Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 61)

0
26

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 61)



Pháp Sư Tịnh Không


 


PHẨM 5


CHÍ TÂM TINH TẤN


Kinh văn: “Đệ ngũ: Chí tâm tinh
tấn”.


Ở phẩm trước, chúng ta xem thấy Di Đà Như Lainhân địa
phát đại thệ nguyện, tôi đã giảng nói qua tường tận với các vị rồi. Sau khi
phát nguyện thì nhất định phải có hành. Nếu như không có hành thì nguyện này
gọi là hư nguyện, chúng ta gọi là không nguyện, vĩnh viễn không thể hiện thực,
đương nhiên bất cứ thành tựu gì đều không cần phải nói. Cho nên nghĩ lại, tại
sao chính mình tu học cũng dùng thời gian rất dài mà không có được thành
tựu? Nguyên nhân chính là có nguyện nhưng không có hành, có giải nhưng không có
chứng, cho nên vẫn là dùng tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi. Đây là tâm bệnh
của chúng ta. Tâm bệnh này không nhẹ, đó là bệnh nặng, chúng ta vạn nhất không
nên xem thường. Chúng ta xem thấy Bồ Tát tu hành có thể thành Phật then chốt
chính là ở giải hành tương ưng, giải giúp cho hành, hành giúp cho giải thì mới
có thể thành tựu. Chúng ta học Phật, ở giải môn ít nhiều đều có một ít nền
tảng, nghe kinh thời gian nhiều rồi, đương nhiên càng nghe càng tốt.


Thế Tôn đã làm ra tấm gương tu học tốt nhất cho chúng ta
xem, nhất là tấm gương tốt cho người xuất gia. Cùng thời đại với Thế Tôn, cư sĩ
Duy Ma thị hiện tấm gương tốt cho người tu hành tại gia. Chúng ta học Phật,
tổng hợp lại chính là hai người xuất giatại gia này. Ngài Duy Ma hiện ra
thân cư sĩ, ở trên kinh Phật tường tận nói với chúng ta, đó là Phật tại gia.
Thích Ca Mâu Ni Phậtthị hiện Phật xuất gia, giảng kinh nói pháp không hề
gián đoạn. Không chỉ Thế Tôn giảng kinh nói pháp không hề gián đoạn, cư sĩ Duy
Ma
cũng giảng kinh nói pháp có gián đoạn bao giờ đâu? Đối với tất cả chúng
sanh
, không chỉ là ngôn giáo, mà quan trọng hơn là thân giáo. Ngài đã làm được
chân thật là “vì người diễn nói”, Ngài làm được viên mãn, làm được cứu cánh.
Cho nên phẩm này tựa đề đã nói “chí tâm tinh tấn”, chí thành đến cùng tột, dùng
lời hiện tại của chúng ta để nói là vô số tâm hành chí thành vô thượng. Điều
này chúng ta cần phải học tập. Trên kinh Phật thường nói: “Nhập đạo yếu môn,
phát tâm vi thủ, tu hành cấp vụ, lập nguyện cư tiên”
. Có nguyện sau đó dùng
hành thực tiễn đại nguyện của bạn, cho nên phẩm này tiếp theo.


Kinh văn ở đoạn thứ nhất: “Pháp Tạng thỉnh pháp”.
Khoa đề này chúng ta không cần phải nói, mọi người xem rồi đều rất tường tận.


Kinh văn: “Pháp Tạng Tỳ Kheo, thuyết thử kệ dĩ, nhi bạch
Phật
ngôn, ngã kim vi Bồ Tát đạo, dĩ phát vô thượng chánh giác chi tâm, thủ
nguyện tác Phật tất linh như Phật
”.


Câu phía trước là văn tổng kết, “thuyết thử kệ dĩ
chính là nói mười câu kệ phía trước. Sau khi nói xong mười bài kệ, hướng đến
Phật thỉnh pháp, bạn xem thử người ta dùng tâm trạng như thế nào? “Ngã
kim vi Bồ Tát đạo
”, không phải vì chính mình. Câu này chính là Thiện Tài
Đồng Tử
53 lần tham trên kinh Hoa Nghiêm. Thiện Tài mỗi lần tham phỏng thiện tri
thức
, trước tiênhành lễ chí kính, sau khi chí kính xong thì là tán thán.
Đây đều là thuộc về lễ tiết, hiển thị ra người là thiện tri thức đối với chính
mình, tôn trọng đối với pháp, người Trung Quốc chúng ta gọi là “tôn sư trọng
đạo”, biểu hiện trong nghi thức thỉnh pháp. Nghi thức này rất quan trọng, đối
phương xem thấy cử chỉ của bạn, lời nói của bạn, liền biết được bạn có thành ý
tu học hay không. Nếu như bạn có thành ý tu học, họ nhất định sẽ nỗ lực giúp đỡ
bạn. Nếu như thái độ của bạn biểu thị ngạo mạn, lời nói khéo léo không thật,
ngôn ngữ ngôn từ rất đẹp, nói ra thì rất dễ nghe, thế nhưng người ta vừa nhìn
thì biết bạn tuyệt nhiên không có thành ý. Vị thiện tri thức này đối với bạn
cũng rất là khách sáo, rất lễ tiết, rất tán thán bạn nhưng không dạy bạn. Tại
sao vậy? Dạy cũng là uổng phí, bạn không có thành ý học, cho nên người ta
không dạy. Do đó, nghi thức lễ kính hoàn toàn biểu thị tâm trạng cầu pháp của
mình. Bạn nói xem, quan trọng cỡ nào! Có lẽ cũng có người hỏi, cái thứ này tôi
chưa có học qua, tôi không biết. Không cần phải học, “thành ư trung”, trong tự
nhiên
“hành ư ngoại”. Người không có đi học, không có tri thức, lão ông lão bà
dưới quê cả đời chưa đi ra bên ngoài, nhưng tâm thành kính của họ lưu lộ ở bên
ngoài, vấn đề là bạn có tâm thành kính hay không? Thế gian người có học vấn,
người có kiến thức vừa nhìn liền biết rõ, không cần phải hỏi. Người có đức hạnh
của thế gian đều có thể thấy ra được, huống hồ Phật Bồ Tát, bạn làm sao có thể
giấu được họ?


Thiện Tài sau khi lễ kính, câu nói thứ nhất liền trần thuật
nguyện vọng của chính mình. Ngài nói, con đã phát tâm Bồ Đề, không biết phải
làm thế nào tu Bồ Tát đạo, học Bồ Tát hạnh? Đó mới là thỉnh cầu thiện tri thức
từ bi khai thị. Việc thứ nhất bạn phải phát tâm. Tâm bạn không phát thì chính
là bạn không có chí, tu học của bạn không có phương hướng, không có mục tiêu,
không có tông chỉ, vậy người ta nói với bạn cái gì? Nhất địnhtrước tiên
trần thuật chính mình đã phát tâm đại Bồ Đề. Mười bài kệ phía trước của Tỳ kheo
Pháp Tạng chính là tường thuật Ngài đã phát tâm vô thượng Bồ Đề, chính mình tu
hành
đã có thành tựu rồi. Vì sao vậy? Vì Bồ Tát đạo. Đạo Bồ Tát là chỉ độ chúng
sanh
, không vì chính mình, vì Phật pháp cửu trụ thế gian, vì thay thế chư Phật
Như Lai
phổ độ chúng sanh, đây chính là vì Bồ Tát đạo. Chỗ này là then chốt tu
học
thành bại của chúng ta.


Chúng ta cũng tu hành không chỉ ở đời này, kiếp này. Đồng tu
học
Phật đều có thể tiếp nhận là người có đời quá khứ, có đời vị lai, quá khứ
vô thỉ, chúng ta chọn lời trên kinh Phật là “lũy kiếp tu hành”. Lũy kiếp tu
hành
đến ngày nay vẫn là như thế này, nguyên nhân này do đâu? Ngay trong đời
quá khứ có rất nhiều bạn cùng tu học với chúng ta, bạn cùng chí hướng, họ đều
đã thành Phật, đều làm Bồ Tát, đều siêu việt mười pháp giới, chúng ta vẫn đang
luân hồi sáu cõi là tại vì sao? Điều này chúng ta không thể không biết. Chúng
ta
thực tếmê hoặc điên đảo, khởi tâm động niệm là tự tư tự lợi, đều làm
những việc tổn người mà không lợi mình. Chúng ta lầm tưởng rằng tổn người là có
thể lợi mình, làm gì biết được tổn người quyết định không lợi mình, lợi người
mới là lợi mình. Có mấy người hiểu được đạo lý này? Chư Phật Bồ Tát, tổ sư đại
đức
hết lời khuyên bảo dạy dỗ chúng ta, chúng ta nghe không lọt lỗ tai, không
hề nghe hiểu, đương nhiên từ trước đến giờ chưa có khi nào y giáo phụng hành,
vẫn là tùy thuận phiền não tập khí của chính mình. Đây chính là tuy đã lũy kiếp
tu hành mà vẫn cứ phải luân hồi sáu cõi, không thể ra khỏi.


Chúng ta ở chỗ này xem thấy Pháp Tạngdĩ phát vô thượng
chánh giác chi tâm
”. “Phát” chính là phát nguyện. Mục đích của người ta là
một lòng một dạ phải làm Phật, “thủ nguyện tác Phật”, đây chính là thành tựu
phát tâm vô thượng. Chúng ta không có chí khí này. Ở Trung Quốc, trong các đại
đức
về trước, chúng ta chỉ xem thấy ở trong Đàn Kinh, Ngài Đại sư Huệ Năng đến
Hoàng Mai tham phỏng, Ngũ tổ hỏi Ngài: “Ông đến đây làm gì?”. Ngài nói:
Con đến làm Phật”, cho nên Ngài liền thành Phật, như nguyện để thưởng.
Ngày nay chúng ta đến đạo tràng này để làm cái gì? Từ trước đến giờ chưa từng
nghe có người nói qua là chúng tôi đến đạo tràng này để làm Phật, cho nên không
làm được. Bạn không có ý làm Phật, bạn không có nguyện vọng làm Phật. Vì vậy cổ
đức
mới nói “tu hành cấp vụ”, tu hành việc cần gấp phải làm chính là lập
nguyện, phải phát nguyện. Cho nên chúng ta vừa xem thấy trong kinh văn, vừa mở
đầu chính là Tứ Hoằng Thệ Nguyện, phía sau trong khoa đề nhỏ là “học pháp môn,
đoạn phiền não, thành Phật đạo, độ chúng sanh”. Chúng ta đổi một câu dễ hiểu
hơn để nói, bạn phải phát tâm thương yêu tất cả chúng sanh, tận tâm tận lực vô
điều kiện giúp đỡ tất cả chúng sanh, đây chính là tâm vô thượng chánh giác. Nếu
như khởi tâm động niệm vẫn vì chính mình, ta cũng vì người khác nhưng vẫn chưa
quên đi chính mình là bạn trong giác vẫn còn mê, bạn vẫn chưa hoàn toàn giác
ngộ
, bạn không phải chánh giác. Chân thật giác ngộ phải đem mê tình đoạn tận
mới được.


Cái gì là mê tình? Ngã, tự tư, đó là mê tình. Ngã không có,
tư tâm không có, khởi tâm động niệm vì tất cả chúng sanh thì tâm của bạn mới
xem là giác ngộ. Giác ngộ mới có thể được độ. Cái được độ này chính là nói bạn
mới có thể cứu độ chính mình, bạn mới có thể giúp đỡ người khác. Cái gì nói cứu
chính mình? Không còn luân hồi nữa. Công phu đó nếu cao hơn một tầng thì không còn
ở mười pháp giới, đó là vọng tưởng, phân biệt của bạn đã đoạn tận. Sau khi đoạn
tận, chúng ta muốn hỏi là còn có phân biệt, còn có chấp trước hay không? Cái
thân thể này của chúng ta vẫn chưa rời khỏi thế gian này, còn cùng sống chung
với đại chúng ở một nơi, cùng qua lại với mọi người, làm sao có thể không phân
biệt
, làm sao có thể không chấp trước? Nếu bạn quả nhiên không phân biệt, không
chấp
trước, thì còn có thể xem là một người hay sao? Người ta hỏi bạn “anh là
ai” mà bạn không biết thì thành ra thứ gì chứ? Bạn tên gọi là gì mà cũng không
hề biết thì không được. Không biết cũng là một chấp trước, cũng là phân biệt,
bạn còn có thể lìa khỏi phân biệt chấp trước hay sao? Phải như Đại sư Vĩnh Gia
đã nói, sau khi giác ngộ thì “phân biệt diệc phi ý”, vậy thì đúng. Bạn nói Phật
phân biệt hay không? Nếu Phật không phân biệt thì làm sao có thể giảng kinh
cho bạn nghe? Không phân biệt thì không thể giảng kinh, không chấp trước thì
không thể giảng giới, cho nên Phật cũng phân biệt, Bồ Tát cũng chấp trước, thế
nhưng các Ngài phân biệt không phải là ý. “Không phải là ý” nghĩa là gì? Không
phải chính mình phân biệt, chấp trước. Không phải chính mình phân biệt, chấp
trước
thì làm sao mà phân biệt chấp trước? Người khác họ phân biệt chấp trước,
ta tùy thuận phân biệt chấp trước của họ, trong lòng của chính ta đích thực là
không có phân biệt chấp trước, như vậy thì đúng rồi. Đây là người Trung Quốc
chúng ta gọi là “hòa quang hồng trần”, Thế Tôn nói trong Tứ Nhiếp Pháp là “đồng
sự nhiếp”, chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này. Chính mình đích thực khôngphân
biệt
, không có chấp trước.


Chúng ta muốn học Bồ Tát, cái phân biệt chấp trước đó là
“hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Đạo lý này phải hiểu. Đặc biệt là ở
vào thời đại này, chúng ta chính mình cần phải đem đời sống vật chất chính mình
điều chỉnh đến mực độ thấp nhất. Cái gọi là ba bữa cơm được no, quần áo mặc
được ấm, có một cái phòng nhỏ có thể che được mưa nắng là đủ rồi. Hưởng thụ
trên vật chất phải hạ xuống đến mức thấp nhất, đời sống tinh thần nâng lên cao.
Đời sống tinh thần có thể nâng lên giống như chư Phật Bồ Tát, đây chính là
người giác ngộ. Người thế gian không giác ngộ, họ hoàn toàn tương phản, đời
sống vật chất
của họ không ngừng nâng lên cao, trải qua xa xỉ hào hoa, nhưng
đời sống tinh thần thì hoàn toàn trống rỗng. Nhiều nhất là dùng ca vũ để điều
tiết
, đó là những liều thuốc mê, là chất độc, không hề có đời sống tinh thần.
Chỗ này trong kinh Phật thường gọi là “kẻ đáng thương”, loại người này rất đáng
thương, sau khi thọ mạng hết rồi thì đi vào ác đạo. Khi còn ở đời không có trí
tuệ
, không biết tu phước, tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp, sau khi chết đọa
vào ba đường ác, như vậy ý nghĩa Phật gọi là kẻ đáng thương ở trên kinh chúng
ta
mới có thể thể hội được, chân thật là đáng thương. Chỉ có chân thật giác ngộ
mới chịu đoạn ác tu thiện, mới chịu tích công bồi đức, vĩnh thoát luân hồi,
liễu thoát sanh tử. Người thông minh, người giác ngộ thì lấy Phật làm tiêu
chuẩn
tu học của chính mình, hướng đến Phật học tập, hướng đến Bồ Tát học tập.
Phải học được cho giống. Phía sau này nói “tất linh như Phật” chính là học được
rất giống, mọi thứ đều giống như Phật, khởi tâm động niệm giống như Phật, lời
nói
giống như Phật, đời sống giống như Phật, làm việc giống như Phật, đối nhân
xử thế tiếp vật mọi thứ đều giống như Phật. Học Phật mà học không giống như
Phật thì học sai rồi, như vậy thì không phải đang học Phật.


Phật từ bi. Từ bi, dùng lời hiện đại mà nói chính là lòng
yêu thương. Phật có lòng yêu thương, yêu tất cả chúng sanh, vĩ đại hơn thần
nhiều. Bạn xem tôn giáo bên ngoài nói rằng “thần ái thế nhân”, động vật thì
không có yêu, thực vật cũng không có yêu, họ chỉ có yêu người, cho nên phá hoại
hết hoàn cảnh sinh thái tự nhiên của địa cầu. Bạn xem, Phật vĩ đại dường nào!
Phật từ bi tất cả, thương yêu tất cả chúng sanh. Chỗ này chúng ta cần phải học.
Xem những ghi chép trong kinh điển, hành trì cả đời của Thế Tôn, đối nhân xử
thế tiếp vật, không chỉ thương yêu đối với tất cả động vậtthực vật cũng
thương yêu. Trên giới kinh Phật giảng cho chúng ta là “Tỳ Kheo thanh tịnh không
đạp lên cỏ non”. Bạn thấy cỏ mọc lên rất là xanh tốt, bạn nhẫn tâm dùng chân mà
đạp lên trên đầu chúng đi qua hay sao? Thế nhưng có khai duyên, không có đường
khác để đi, không đi qua đó thì không được thì có thể đi qua. Nếu có đường đi
thì bạn nhất định phải men theo đường mà đi, bạn không được đạp lên cỏ non. Đây
là nói rõ đối với thực vật, khoáng vật có sự thương yêu bình đẳng. Sau khi có
tâm yêu thương thì bạn mới có thể giúp đỡ tất cả chúng sanh, thành thục chúng
sanh
, đó mới gọi là học Phật.


Học Phật phải có trí tuệ. Trí tuệ từ do đâu mà có? Ở trong
giai đoạn hiện tiền này của chúng ta, nguồn gốc của trí tuệ chỉ có một biện
pháp
là nghe kinh, niệm Phật. Nghe kinh mà không niệm Phật thì khai trí tuệ rất
chậm, niệm Phật mà không nghe kinh thì khai trí tuệ cũng chậm. Nghe kinh cùng
niệm Phật hợp lại thì khai trí tuệ liền nhanh. Thí dụ nói, bạn không làm theo
như
vậy thì bạn khai mở trí tuệ phải mười năm, nghe kinh khai trí tuệ cũng phải
mười năm, niệm Phật khai trí tuệ cũng phải mười năm, nhưng một mặt nghe kinh
lại một mặt niệm Phật thì năm năm khai trí tuệ, khai trí tuệ sớm hơn. Các vị
phải nên biết, niệm Phậttu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh liền được chư
Phật Bồ Tát gia trì, tâm thanh tịnh liền được Tam Bảo gia trì, làm sao mà bạn
không khai trí tuệ? Người không có trí tuệ luôn luôn là chính mình làm sai sự
việc mà chính mình không biết, còn cho là mình làm việc tốt, còn cho là mình
làm được rất nhiều công đức, làm gì biết chính mình đang tạo nghiệp. Đây chính
ngu si.


Ý nghĩa của ngu si là không thể phân biệt được chân vọng,
đem cái thật làm thành giả, đem cái giả làm thành thật; không thể phân biệt
chánh
, đem tà pháp xem thành chánh pháp, chánh pháp xem thành tà pháp, thiện ác
điên đảo, lợi hại điên đảo. Đối với thị phi thiện ác, lợi hại không thể phân
biệt
, loại người này rất nhiều. Sợ nhất là cái gì? Chính mình ngu si, chính
mình không có cái năng lực để phân biệt này. Có mấy người chính mình có thể rất
bình lặng mà phản tỉnh suy xét? Thế xuất thế pháp, chân vọng, tà chánh, phải
quấy
, thiện ác, lợi hại, chính ta có năng lực phân biệt được hay không? Nếu như
chính mình không có năng lực phân biệt thì đi tìm Phật. Phật ở đâu vậy? Phật ở
trong kinh điển, đi tìm Phật là đọc kinh, xem thử Phật làm như thế nào, Phật
nghĩ như thế nào? Chúng ta tỉ mỉ mà quán sát, tỉ mỉ mà thể hội, buông bỏ đi
vọng tưởng, phân biệt của chính mình, tùy thuận theo giáo huấn của Phật. Đó là
trước khi chúng ta chưa khai trí tuệ, chưa phân biệt tà chánh phải quấy, để
tránh khỏi tạo tác tất cả ác nghiệp, tích công bồi đức thì chỉ có một phương
pháp
này. Cho nên người xưa thường nói: “Kinh không thể không đọc, pháp không
thể không học”, đạo lý chính ngay chỗ này.


Kinh văn: “Nguyện Phật vi ngã, quảng tuyên kinh pháp, ngã
đương phụng trì, như pháp tu hành
”.


Chúng ta phải học, Pháp Tạng thị hiện để cho chúng ta xem.
Chúng ta cũng có nguyện muốn làm Phật, chúng ta cũng có nguyện hy vọng mọi thứ
chúng ta đều có thể giống như Phật thì đến chỗ nào để học? Nhất định phải thân
cận thiện tri thức. Tỳ kheo Pháp Tạng vận may rất tốt, gặp được một thiện tri
thức
tốt là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai. Vận khí của Ngài tốt, vận khí của
chúng ta cũng không tệ. Chúng ta ở chỗ này nghe Thế Gian Tự Tại Vương nói pháp
với Ngài, chúng ta nghe Thế Gian Tự Tại Vương vì Ngài nói pháp cũng chính là vì
ta nói pháp, có gì khác nhau đâu? Bạn có thể từ ngay chỗ này thể hội thông rồi,
bạn liền biết được duyên của Ngài thù thắng, chúng ta gặp duyên cũng thù thắng
giống y như Ngài, quyết không thua kém với Ngài. Cho nên việc cầu này là cầu
pháp
, cầu Phật vì Ngài “quảng tuyên kinh pháp”. “Tuyên” chính là tuyên giảng.


Hai câu phía sau rất quan trọng: “Ngã đương phụng trì,
như pháp tu hành
”. Nếu như không có tâm trạng cầu pháp như vậy, Phật có nói
pháp cho bạn nghe thì cũng không có ích gì, bạn không có được lợi ích. Chúng ta
muốn hỏi, không có được lợi ích thì Phật có giảng hay không? Thực tế mà nói,
bạn gặp được Khổng Lão Phu Tử thì Ngài cũng không giảng cho bạn nghe. Chúng ta
đọc được trong Luận Ngữ, Khổng Lão Phu Tử dạy học, học trò phải thông minh,
không được quá ngu, người ngu quá thì ông không dạy, “cử nhất ngộ, bất dĩ tam
ngộ phản”, Khổng Lão Phu Tử liền không có hứng thú với người đó rồi. Thế nhưng
Phật từ bi hơn nhiều so với Khổng Lão Phu Tử, bạn không có thái độ tu học này,
Phật vẫn nói. Phật vì sao giảng nói vậy? Trồng vào A Lại Da thức của bạn, nghe
không hiểu cũng giảng cho bạn nghe, làm không được cũng nói cho bạn nghe. Phật
từ bi đến cùng tột, thánh nhân thế gian không thể so sánh. Đó gọi là chân từ,
bình đẳng từ bi. “Cử nhất ngộ, bất dĩ tam ngộ phản”, đó là từ bi không bình
đẳng
. Cho nên Phật dạy chúng sanh, chúng ta phải thể hội được, chúng ta phải
học tập, người không có thiện căn thì trồng thiện căn cho họ, người đã có thiện
căn
thì giúp cho họ thêm lớn, người đã tăng trưởng rồi thì giúp họ chín muồi.
Phật nói pháp khôngphân biệt, không chọn trí ngu, chân thật làm đến được
giáo dục không phân biệt, mười pháp giới tất cả chúng sanh đều được giáo huấn
của Phật. Như vậy chúng ta mới biết được sự vĩ đại của Phật, Phật Đà khiến
người tôn kính là có đạo lý. Chỗ này chúng ta cần phải học tập, hơn nữa chúng
ta
càng cần phải nên học tập tinh thần Pháp Tạng cầu Phật, đó chính là phụng
trì, như pháp tu hành.


Bồ Tát Phổ Hiền giảng cúng dường, trong cúng dường điều thứ
nhất là “như pháp tu hành cúng dường”. Cái ý này chính là Phật dạy như thế nào
thì chúng ta phải làm thế ấy, quyết định không trái phạm, thành thật trung thực
phụng hành, bảo trì không mất. Không phải làm một ngày, hai ngày thì giải đãi,
thì phóng dật, mà mãi mãi có thể giữ gìn thì làm gì mà không có thành tựu chứ?
Đó mới là học trò chân thật. Một vị thầy giáo tốt, gặp được học trò như vậy
phải xem như là bảo bối, nhà Phật nói “pháp khí”. Đây là pháp khí chân thật, vị
thầy giáo này có được của báu rồi, đạo có người truyền thừa, có thể truyền tiếp
nối
rồi. Lấy hoằng pháp lợi sanh mà nói, quan trọng nhất cũng không ngoài “tiếp
nối huệ mạng Phật, đời sau có người”. Việc này là quan trọng nhất, còn quan
trọng hơn giảng kinh nhiều. Bạn giảng kinh được rất hay, nhưng sau khi chết rồi
không có người tiếp nối, cho nên giáo học còn quan trọng hơn so với giảng kinh
nhiều. Làm cho Phật pháp đời đời nối nhau, không ngừng phát triển, quảng lợi
chúng sanh, việc này quan trọng hơn chính mình giảng kinh rất nhiều. Vậy thì
ngay trong quá trình giảng này, thực tế mà nói là giáo học tiếp nối, vẫn cứ là
đang cầu học, nên gọi là sư chất đạo hợp, giúp nhau thành tựu. Đến khi chính
mình có được thành tựu rồi, Phật pháp chúng ta gọi là tu hành chứng quả, ở
trong Giáo Hạ gọi là đại khai viên giải, ở trong Tông mônminh tâm kiến
tánh
, vào lúc này truyền pháp quan trọng hơn hoằng pháp. Chúng ta lấy một đời
mà nói, ngay đời này giai đoạn thứ nhất là cầu pháp, giai đoạn thứ hai là hoằng
pháp
, giai đoạn thứ ba là truyền pháp, như vậy công đức mới viên mãn. Cho nên,
ngay chỗ này “như pháp tu hành” rất là quan trọng. Chúng ta ngay đời này có thể
thành tựu hay không, then chốt ở câu này.


Như pháp gì vậy? Y theo trên bộ kinh này đã nói thì là đủ
rồi. Trên bộ kinh này, từ đầu đến cuối mỗi câu mỗi chữ bạn đều tường tận, bạn
đều có thể thực tiễn, đều có thể làm đến được, đó chính là “như pháp tu hành”.
Không những có thể làm được, mà còn thường hay gìn giữ không mất, cũng dùng
những lời này khuyên bảo người khác, đây chính là tự lợi lợi tha, thì bạn đang
hành Bồ Tát đạo rồi. Khi bạn nói pháp là hành Bồ Tát đạo, khi không nói pháp
cũng là hành Bồ Tát đạo. Nói, im lặng, động, tịnh đều không lìa khỏi Bồ Tát
đạo
, đây gọi là “phụng trì”.


Câu kinh văn phía sau: “Bạt chư cần khổ sanh tử căn bản”.
Câu này là đoạn phiền não, phía trước là học pháp môn. Học pháp môn, chúng ta
đều có ý nguyện, đều rất là ngưỡng vọng, thế nhưng đoạn phiền não thì vấn đề
liền xảy ra, không những không độ được phiền não mà còn bị phiền não độ đi. Chỗ
này nói được rất hay, phiền não là cái gì? “Cần khổ sanh tử căn bản”. Đối với
căn bản sanh tử bạn rất phấn đấu, bạn rất nỗ lực, bạn mỗi niệm đều không quên.
Cái gì là “sanh tử căn bản”? Tự tư tự lợi, tham-sân-si-mạn, bạn lúc nào thì
quên hết được nó? Có phải là bạn mỗi ngày đều rất nỗ lực, rất phấn đấu mà tu
tham-sân-si-mạn, tu phải quấy nhân ngã không? Vậy thì bạn có cách nào không?
Những thứ này là gốc khổ, là căn bản sanh tử sáu cõi luân hồi. Bồ Tát ở chỗ này
dạy chúng ta “bạt”, phải nhổ tận gốc cội rễ của sanh tử, phải giác ngộ quyết
định
không thể nào còn làm nữa. Nếu chân thật chịu nhổ sạch các gốc khổ sanh tử
thì bạn chân thật giác ngộ rồi. Nếu như bạn còn tùy thuận theo phiền não, còn
tùy thuận theo tập khí, thì bạn vẫn là mê hoặc điên đảo, bạn chưa có giác ngộ.
Cho nên chính chúng ta mỗi ngày phải phản tỉnh. Khổng Tử nhà Nho dạy học đều
chú trọng mỗi ngày phải nên có ba lần phản tỉnh, ông nói là ba việc. Nhà Phật
thì sám hối chính là phản tỉnh. Cho nên Tịnh Tông chúng ta chọn thời khóa buổi
tối là đọc kinh văn quyển kinh này là từ phẩm 32 đến phẩm 37. Đoạn kinh văn này
là nói cái gì? Chính là năm giới mười thiện, giúp chúng ta bạt trừ cội gốc
phiền não. Nếu bạn muốn bạt trừ, trước tiên bạn phải nhận biết nó. Ngày nay
chúng ta vẫn cứ tùy thuận phiền não, hay nói cách khác, chúng ta vẫn chưa nhận
biết
rõ ràng đối với bản chất của phiền não, vẫn còn xem nó là bạn tốt, vẫn còn
mỗi niệm không chịu rời xa nó, không biết được nó là một người xấu, không biết
được nó đã tổn hại rất lớn đối với chúng ta. Phía trước đã nói qua với các vị,
không có năng lực phân biệt thiện ác, không có năng lực phân biệt tà chánh,
không có năng lực phân biệt phải quấy, không có năng lực phân biệt lợi hại thì
chúng ta chính là ngu si.


Đến
lúc nào bạn chân thật giác ngộ rồi, chân thật tường tận những thứ này có hại
đối với chúng ta, biết được nó là hư vọng, không phải chân thật, nó là tà pháp,
không phải chánh pháp, nó là ác pháp, không phải thiện pháp, nó có hại, không
có lợi cho ta; bạn thật đã biết rõ ràng, thật đã tường tận tính chất của phải
quấy
nhân ngã tham-sân-si-mạn thì tự nhiên bạn liền không dám làm. Người học
Phật chúng tathế gian này, không luận ở trường hợp nào, không luận qua lại
với người nào, cũng đều một mảng chân thành. Không thể nói ta muốn đi gặp một
người nào đó, họ là thân phận gì, địa vị thế nào, ta nghĩ làm thế nào để gặp
họ, phải nên nói chuyện với họ như thế nào. Mệt chết người. Chúng ta không có
như vậy, mà luôn là một mảng thẳng thắn. Không luận gặp bất cứ người nào, không
luận ở trường hợp nào, thấy Phật Bồ Tát cũng tốt, thấy yêu ma qủy quái cũng
tốt, cũng đều một mảng chân thành, như vậy thì đúng. Đây gọi là học Phật.


Phật
Bồ Tát là dùng tâm chân thành, thanh tịnh, từ bi đối nhân xử thế tiếp vật,
quyết định không có chút hư giả, mỗi niệm vì chúng sanh, không hề vì chính
mình. Việc tốt có thành tựuchúng sanh có phước, không có thành tựuchúng
sanh
không có phước, với chính mình không có chút lợi hại nào. Nói lời thành
thật
, chúng sanh có phước thì chúng ta chính mình khổ cực, phải bôn ba lao nhọc
vì họ; chúng sanh không có phước thì chúng ta chính mình nhàn hạ tự tại, không
việc làm. Đây đều là đạo lý chân thật, cho nên bạn phải giác ngộ, bạn phải
biết “bạt chư”. Chư là rất nhiều. “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Những thứ
phiền não này đều là sanh tử căn bản, cho nên ngay trong Phật pháp thường nói,
kiến tư phiền não đoạn rồi thì bạn liền siêu việt sáu cõi luân hồi, trần sa
phiền não đoạn rồi thì bạn liền siêu việt mười pháp giới, như vậy bạn mới biết
được tính nghiêm trọng của kiến tư phiền não.


Kiến
, dùng lời hiện tại để nói, kiến là kiến giải sai lầm, tư là tư tưởng sai
lầm
, cũng chính là cái thấy của bạn sai lầm, cách nghĩ của bạn sai lầm, cách
nghĩ cách nhìn này đều rơi vào trong phân biệt, chấp trước. Người mê, người
không giác ngộ
đều sẽ nói cách nghĩ của tôi, cách nhìn của tôi. Họ không biết
cách nghĩ của họ sai, cách nhìn của họ cũng sai. Thích Ca Mâu Ni Phật ở trên
kinh nói với chúng ta, trước khi bạn chưa chứng được A La Hán quả thì không thể
tin tưởng cách nhìn của bạn, không thể tin tưởng cách nghĩ của bạn. Vì sao vậy?
Vì bạn mê hoặc điên đảo, không có giác ngộ. A La Hán mới là chánh giác, Bồ Tát
chánh đẳng chánh giác, Phật là vô thượng chánh đẳng chánh giác (chánh chính
là không tà, chánh là không có sai lầm), họ có thể tin tưởng cách nhìn cách
nghĩ của chính mình. Vậy thì các vị thử nghĩ xem, điều kiện chánh giác của A La
Hán
là gì? Là đã đoạn kiếnphiền não rồi, nếu dùng lời của kinh Kim Cang
nói là đã phá được bốn tướng.


Ngày
trước chúng ta đọc kinh chưa thâm nhập, lơ là qua loa, luôn cho rằng Tiểu thừa
nhất định phải đến A La Hán mới xem là thành tựu, Tu Đà Hoàn không để ở trong
mắt. Kinh Kim Cang mọi người đều đọc rất quen thuộc, nhưng mọi người cũng xem
thường
đi sự việc này. Chúng ta đọc được ở trong kinh Kim Cang, người chứng
được quả Tu Đà Hoàn không còn tưởng Tu Đà Hoàn, họ chính mình không có nói “tôi
chứng được quả Tu Đà Hoàn”. Nếu họ có cách nghĩ này, Thế Tôn liền không nói họ
đã chứng quả Tu Đà Hoàn. Như vậy chúng ta mới hiểu rõ, quả Tu Đà Hoàn không dễ
dàng gì chứng được. Tại vì sao vậy? Cũng phải lìa bốn tướng, tức là vô ngã
tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng thì bạn mới có thể
chứng được quả Tu Đà Hoàn. Cho nên phá được bốn tướng, công phu có cạn sâu rộng
hẹp khác nhau. Công phu của Tu Đà Hoàn thì nhỏ hẹp, là cạn, nhưng cũng lìa khỏi
bốn tướng. Chỗ này đáng được chúng ta chú ý. Chúng ta bình thường chính mình
đọc kinh, giảng kinh đều là xem thường đi sự việc này, đều chú trọng ở giải
thích
danh tướng, không hề thể hội được tinh nghĩa tinh hoa trong đó, không thể
hội được nghĩa lý, cho nên không được thọ dụng.


Phía
trước đã báo cáo qua với các vị, vào đạo lối đi quan trọng nhất là phát nguyện.
Phát tâm là đầu, cho nên học pháp môn, tu hành quan trọng nhất là trước tiên
lập nguyện đoạn phiền não, nhất định phải lập đại nguyện này, phải “bạt chư
cần khổ sanh tử căn bổn”
. Chỗ này là nguyện thứ ba trong tứ hoằng thệ.
“Thành Phật đạo”, “tốc thành vô thượng chánh đẳng chánh giác”, chỗ này nói
chứng quả. Nhất định phải chứng quả, không chứng quả quyết định sẽ thoái
chuyển
. Phật trong Đại Tiểu thừa đều nói với chúng ta, Bồ Tát đến địa vị nào
mới không thoái chuyển? Bát địa. Bát địa gọi là bất động địa. Do đây có thể
biết, Bồ Tát thất địa vẫn sẽ thoái chuyển.



trên kinh điển nói qua với chúng ta, thoái chuyển cũng có mức thấp nhất. Như
trong trường học, bạn không học tốt bài khóa thì sẽ ở lại lớp. Ở lại lớp chính
thoái chuyển, người khác đều nâng cấp, bạn thì lưu cấp, có khi còn bị giáng
cấp, bạn là năm thứ ba, đem bạn giáng xuống năm thứ hai, giáng xuống năm thứ
nhất, vậy càng kém hơn. Thế nhưng sẽ không khai trừ, năm thứ nhất là thấp nhất,
bắt đầu học lại từ đầu, không hề khai trừ bạn đi. Cho nên Tiểu thừa thoái
chuyển
Tu Đà Hoàn. Bồ Tát Đại thừa chúng ta thường gọi là tam bất thoái, Bồ
Tát
thấp nhất không thể thoái chuyển đến Thanh văn, gọi là hành bất thoái. Đại
Bồ Tát
thoái chuyển không thể thoái chuyển đến sơ địa. Sơ địa là mức thấp nhất
của họ, gọi là niệm bất thoái.


Tại
sao họ có mức độ thấp nhất không còn thoái chuyển đọa lạc? Kiến giải của họ
chính xác, cũng chính là nói tư tưởng kiến giải của họ chính xác. Tại vì sao có
thể thoái chuyển? Tập khí phiền não rất nặng, bên ngoài mê hoặc quá nhiều, họ
không chịu nổi, thoái chuyển rồi. Thế nhưng tri kiến của họ không thể thoái
chuyển
, nhận biết của họ không thể thoái chuyển. Không thể tránh khỏi mê hoặc
của phiền não nên thoái chuyển, biết rõ mà cố phạm; phàm phutình hình này,
Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát cũng có tình hình này.


Trong
kinh Phật có thí dụ, Sư Tử Giác, Vô Trước, Thiên Thân Bồ Tát ba huynh đệ, câu
chuyện
này có rất nhiều người biết. Trong huynh đệ của họ, Sư Tử Giác là huynh
trưởng, là huynh mấy tôi không nhớ rõ ràng, công phu không tệ, sanh lên trời
Đâu Suất
. Họ cùng nhau hẹn ước, sau khi anh lên trời Đâu Suất rồi phải quay trở
lại
báo tin. Thế nhưng sau khi Sư Tử Giác đi rồi, rất nhiều năm không có tin
tức
. Bồ Tát Vô Trước vãng sanh là sanh Đâu Suất nội viện. Bồ Tát Vô Trước sau
khi vãng sanh ba năm thì trở lại nói với Thiên Thân (Thiên Thân là tiểu đệ)
tình hình vãng sanh đến trời Đâu Suất. Bồ Tát Thiên Thân nói với Ngài: “Huynh
đi vì sao mà lâu đến như vậy mới trở lại?
”. Ngài nói: “Đâu có lâu, ta
chỉ có đi một vòng cung trời Đâu Suất thì lập tức quay về
”. Trời Đâu Suất
một năm là nhân gian chúng ta bốn trăm năm, Ngài vừa đến nơi đó là vội vàng trở
lại
báo tin thì đã ba năm ở nhân gian. Thiên Thân liền hỏi Ngài: “Sư Tử Giác
thì sao?
”. Ngài nói: “Sư Tử Giác mê hoặc rồi”. Trời Đâu Suất là ở
nội viện. Ngoại viện hưởng thọ năm dục sáu trần, phàm phu không thể so sánh,
trời Đao Lợi cũng không thể so sánh, trời Dạ Ma cũng không thể so sánh, ông đã
bị những thiên nữ mê hoặc rồi, chưa hề đi đến nội viện. Đây không phải là Bồ
Tát
thoái chuyển hay sao? Nếu bạn hỏi Bồ Tát vì sao mà có thể thoái chuyển? Bồ
Tát
chính là như thế mà thoái chuyển. Bồ Tát còn thoái chuyển, vậy thì Thanh
văn
càng không cần phải nói, Thanh văn càng dễ dàng thoái chuyển. Đây chính là
chúng ta thường nói không ngăn nổi mê hoặc của vật chất.


Phàm
phu
chúng ta tu hành, một điều khổ nạn lớn nhất là quá xem trọng cái sinh mạng
của chính mình thì sẽ thoái chuyển. Đầu óc của bạn sẽ nghĩ làm thế nào để bảo
dưỡng thân thể của chính mình, tâm của bạn không còn ở đạo. Người chân thật
công phu, người có thành tựu, cái sinh mạng này hoàn toàn không hề gì, quyết
không phải vì sinh mạng mà lo nghĩ. Thân thể tất cả tùy duyên, mỗi niệm cầu
sanh Tịnh Độ, mỗi niệm ở vô thượng đạo, làm thế nào vì thân thân thể này mà lo
nghĩ? Ăn uống đi đứng tất cả tùy duyên. Phật năm xưa khất thực, người ta cho
cái gì thì ăn thứ đó. Phật không có thông báo với họ là ngày mai tôi đến nhà
anh khất thực, các vị cho thứ gì thì ăn thứ đó. Hơn nữa người giàu có thế gian
này ít, người nghèo khó nhiều, Phật khất thực không hề chọn nhà nào có tiền để
khất thực. Ngài bình đẳng, nhà nào cũng khất thực, bình đẳng khất thực. Người
nghèo khổ nhiều, những cơm thức ăn đó chúng ta không cần nghĩ cũng biết, làm gì
có chú trọng đến dinh dưỡng? Cho nên người có địa vị trong xã hội này, người có
tiền của chú trọng bảo dưỡng thân này quá mức, kết quả bảo dưỡng ra một thân
bệnh hoạn.


Lần
này tôi đến thăm viếng Bắc Kinh, nơi ngoại ô của Bắc Kinh, tôi đi xem qua thử,
người sống thọ rất nhiều. Lão nông ở trong thôn, đời sống của họ rất đơn giản,
vì sao có thể trường thọ? Chính là đời sống đơn giản, đầu óc cũng đơn giản, họ
không hề nghĩ đến việc gì, không có tâm sự, mỗi ngày ăn no rồi thì thôi, tâm an
lý đắc, trường thọ. Mỗi người đều trường thọ, người tám mươi, chín mươi tuổi
đến đâu cũng gặp, cho nên chúng ta xem ra nhân khẩu bị lão hóa, thế nhưng thân
thể
của họ rất là khỏe mạnh, tụ họp lại với nhau cười nói vui đùa. Những người
già đó nói với tôi, lần sau pháp sư đến chúng ta sẽ tìm rất nhiều người già
cùng đến tụ hội với ông. Đều là tám mươi, chín mươi tuổi, rất khó được. Những
người giàu có thế gian, đầu óc của họ nghĩ quá nhiều, phiền não quá nhiều, lo
lắng
quá nhiều, vì vậy họ dùng những bổ phẩm trong đời sống đều là khởi lên tác
dụng
phụ, không những không bảo dưỡng tốt sức khỏe của họ mà còn mang lại cho
thân thể rất nhiều tật bệnh. Bệnh từ miệng vào, đạo lý chính ngay chỗ này.
Chúng ta học Phật, đời sống của Phật là tùy duyên, quyết không phan duyên.


Hiện
tại
chúng ta xuất gia rồi, các vị cưtại gia cũng vậy, hiện tạităng đoàn,
Cư Sĩ Lâm mỗi ngày cúng trai, họ là trai chủ, chúng ta đến để khất thực, đến để
ứng cúng, ứng cúng không dám nói, đến khất thực, đến xin ăn. Chúng ta đến để
khất thực, họ là trai chủ, họ làm thứ gì thì mình ăn thứ đó. Thế nhưng trai chủ
này không tệ, mỗi ngày làm mười món đến hai chục món thức ăn, chúng ta còn có
thể chọn lựa. Đó là đại trai chủ, không phải là trai chủ nhỏ. Bình thường trong
nhà người ta ăn cơm chỉ có hai ba món thôi, chỗ này xem là rất tuyệt. Ở nông
thôn đại lục Trung Quốc thì chỉ có một món thôi, làm gì có được nhiều món đến
như vậy. Ở đây chúng ta mười mấy hai chục món ăn, do bạn chính mình chọn lấy.
Đây là đại trai chủ, trai chủ thông thường không làm được. Phải biết được chúng
ta
đến nơi đây là để khất thực thôi.


Các
vị ở trên đời sống có thể “thường tác như thị quán” thì các vị sẽ giác ngộ, sẽ
khai ngộ, cho nên quyết định phải có thành tựu. Tiêu chuẩn của thành tựu này
quyết định phải thoát khỏi sáu cõi luân hồi. Thoát khỏi sáu cõi luân hồi
thành tựu nhỏ, vì sao vậy? Bạn vẫn chưa thoát khỏi mười pháp giới, hay nói cách
khác, cơ hội bạn thoái chuyển rất nhiều vì phiền não tập khí của bạn từ vô
lượng
kiếp đến nay rất nặng. Chúng ta không thể không biết được cái lợi hại
này. Nếu muốn ở ngay trong một đời tốc thành vô thượng chánh đẳng chánh giác,
ngoài niệm Phật vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc ra, vào thời đại hiện đại
này, cũng giống như lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã nói, tu học bất cứ pháp môn nào
cũng đều không thể. Việc thứ nhất là căn cơ của người hiện đại kém, không bằng
với người thời xưa, căn khí thấp kém. Thứ hai hoàn cảnh hiện đại ác liệt hơn
thời xưa nhiều, cũng chính là nói mê hoặc của năm dục sáu trần mạnh hơn thời
xưa
gấp trăm lần ngàn lần cũng chưa vừa, bạn có năng lực gì có thể vượt qua
được hay không? Ở trong tình huống này, chân thật thành tựu chỉ có đới nghiệp
vãng sanh.


Đới
nghiệp vãng sanh, vẫn là như đại sư Thiện Đạo đã nói là “do gặp duyên khác
nhau”. Duyên thù thắng quá khó! Duyên phận ở Singapore này chân thậthy hữu
khó gặp. Đạo tràng tuy là ở đô thị, ở khu náo nhiệt, khó được ở chỗ là trong
động mà có tịnh. Bạn chân thật muốn thành tựu thì thành thật trung thựcđạo
tràng
này tu học, không nên đi ra ngoài. Ra ngoài cửa lớn, bên ngoài là lò ô
nhiễm
, bạn lại bị ô nhiễm. Bạn phải làm cho tâm định lại. Bạn ở trong đây, sáu
căn tiếp xúc được đều là Phật pháp, đều là chánh pháp. Thường trụ chăm sóc đối
với đại chúng nghĩ lại cũng rất chu đáo, trang nghiêm đạo tràng, không ngừng
đang cải tiến, để sáu căn của bạn tiếp xúc được đều là Phật pháp. Điều này đáng
được chúng ta cảm kích, chúng ta phải tri ân báo ân. Làm sao để báo ân? Thành
thật
niệm Phật, như pháp tu hành đó là chân thật báo ân.


Cúng
trai của Cư Sĩ Lâm chúng ta phải hiểu rõ ràng, Cư Sĩ Lâm chưa từng mua gạo,
chưa từng mua dầu, cũng chưa từng mua rau. Những thứ như gạo, dầu, muối ai đưa
đến vậy? Xin nói với các vị, chư Phật Bồ Tát đến cúng trai. Năm xưa, câu chuyện
tại chùa Quốc Thanh có rất nhiều người biết, Văn Thù, Phổ Hiền làm công quả
trong nhà bếp, A Di Đà Phật giã gạo ở trong nhà kho, Phật Bồ Tát đến cúng trai.
Đạo tràng này của chúng ta cũng không ngoại lệ, chư Phật Bồ Tát đến cúng dường.
Mọi người vạn nhất không nên đắc tội những người làm công quả trong nhà bếp của
chúng ta, vị nào là Phật Bồ Tát tái lai chúng ta đều không biết, họ cũng không
chịu nói, chúng ta duy nhất một việc chính là dùng tâm chân thành cung kính để
đối đãi với họ, vạn nhất không nên đắc tội. Bạn đắc tội có thể là với A Di Đà
Phật
đang ở đó đốt lửa, đang ở nơi đó xào rau, bạn đắc tội với Ngài rồi, đắc
tội
ngay trước mặt Phật mà còn muốn vãng sanh đến thế giới Cực Lạc hay sao? Tôi
nói với mọi người đây là lời chân thật, rất là có thể, nhất là mạt pháp, đạo
tràng
hy hữu khó gặp. Cho nên, nhất định phải phát tâm, phải vãng sanh Tịnh Độ.


Vậy
thử hỏi chúng ta có nắm chắc phần vãng sanh hay chưa? Có nắm chắc hay không,
điều này không phải ở người khác, mà ở chính mình. Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay,
có thể vãng sanh hay không quyết địnhtín nguyện có hay không, phẩm vị cao
hay thấp là do công phu niệm Phật của bạn sâu hay cạn, không hề nói niệm Phật
nhiều hay ít. Công phu niệm Phật sâu, cạn là như thế nào? Câu Phật hiệu này của
bạn chân thật có thể hàng phục được phiền não thì công phu sâu, Phật hiệu của
bạn niệm không khống chế được phiền não thì công phu của bạn cạn. Các vị vừa dự
xong Phật thất, người công phu sâu thì nhờ câu Phật hiệu này bảy ngày không
sanh phiền não. Công phu cạn thì hoặc giả là có một ngày, hai ngày không khởi
phiền não, ngoài ra còn xen tạp phiền não ở ngay trong đó. Phẩm vị cao thấp là
công phu sâu cạn, có thể vãng sanh hay không quyết địnhtín nguyện có hay
không.


Tín
tâm
vô cùng quan trọng. Ngày ngày nghe kinh thì tăng thêm tín tâm, tăng thêm
nguyện tâm. Ngày ngày niệm Phật thì tăng cao phẩm vị. Cái thế gian này là giả,
danh vọng lợi dưỡng công danh phú quý là một mảng không, đến sau cùng không
mang theo được thứ gì, thế nhưng bạn niệm Phật công phu sâu cạn thì quyết định
có thể mang đi. Ngày nay thế gian này chúng ta gọi là tranh thủ thêm một hơi.
Tranh cái gì? Tranh phẩm vị của thế giới Tây Phương Cực Lạc, đó được xem là bạn
không làm sai. Bạn vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc phẩm vị cao hơn người
khác, đó là bạn chân thật thành tựu, đó là thật có trí tuệ, thật thông minh, là
huệ chân. Tuy là cùng vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc nhưng người ta
phẩm vị cao hơn ta, đương nhiên chỉ cần có thể vãng sanh thì xem là không tệ
rồi, cũng rất khó được rồi, vì sao chúng ta không nâng cao phẩm vị vãng sanh
chứ? Chúng ta như pháp tu hành, đoạn phiền não thành Phật đạo là vì cái gì? Vì
là để độ chúng sanh, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, vì sự việc này, không
vì thứ khác. Do đó, chúng ta như pháp tu hành là vì chúng sanh. Nếu ta không
như pháp tu hành thì ta có lỗi với chúng sanh. Ta sớm một ngày có thành tựu thì
chúng sanh liền sớm một ngày lìa khổ được vui, ta trễ một ngày thành tựu thì
chúng sanh phải thêm một ngày khổ đau, bạn có ý thức đến vấn đề này hay không?
Quả nhiên có thể ý thức đến sự việc này thì làm sao bạn có thể không nỗ lực,
bạn làm sao có thể không tinh tấn? Vì chính mình thì giải đãi lười nhát không
hề gì, sớm một ngày thành tựu, trễ một ngày thành tựu cũng không hề gì, bạn
phải biết được bao nhiêu chúng sanh khổ nạn ở nơi đó đang chờ bạn đến để giúp
đỡ cho họ. Vấn đề này nghiêm trọng, chúng ta không thể không nỗ lực, không dám
không tinh tấn, người hiện tại gọi là sứ mạng cảm, trách nhiệm cảm. Chúng ta
sứ mạng giúp đỡ chúng sanh, có nghĩa vụ giúp đỡ tất cả chúng sanh. Nếu chúng ta
muốn làm tốt sự việc này thì nhất định phải vận dụng trí tuệ, năng lực của
chính mình. Không có trí tuệ, không có năng lực thì không giúp được người, làm
không được việc. Cho nên như pháp tu hành, đoạn phiền não, thành Phật đạo đều
là vì giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn.


Trong
kinh đã nói là A Di Đà Phật viên mãn thành tựu ở trên quả địa. Hiện tại chúng
ta
nhân địa, hơn nữa còn là ở giai đoạn sơ học của nhân địa, thế nhưng những
sự việc này chúng ta phải học, chúng ta không thể nào xem đây là trên quả địa
Như Lai nên hiện tại ta làm không được thì lơ là, vậy thì chúng ta sai rồi. Trên
Như Lai quả địa, người sơ học chúng ta cũng có thể học. Bạn thấy trên kinh Hoa
Nghiêm
đã nói, 41 vị Pháp Thân Đại Sĩ của kinh Hoa Nghiêm mỗi vị hộ nhiếp nhau,
Bồ Tát sơ địa học pháp môn của Bồ Tát Đẳng Giác, Bồ Tát Đẳng Giác cũng không bỏ
pháp môn của Bồ Tát sơ địa, nên gọi là “nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức
nhất”. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này. Đức hạnh của Như Lai quả địa hiện tại
chúng ta học thì hiện tại liền dùng ngay trong cuộc sống.


Kinh
văn: “Dục linh ngã tác Phật thời, trí tuệ quang minh, sở cư quốc độ, giáo
thọ
danh tự, giai văn thập phương
”.


Pháp
Tạng
thành Phật rồi. Phật phán khoa này chúng ta phân làm hai khoa. Đoạn phía
trước là “nguyện phổ văn”. Phổ vănvì lợi ích chúng sanh, không phải chính
mình háo danh, muốn làm nổi tên tuổi của chính mình, vậy thì sai rồi, đó chính
là tâm luân hồi làm việc luân hồi. Tại vì sao phải “phổ văn”? Phổ văn mới có
thể nhiếp thọ tất cả chúng sanh, mới có thể lợi ích tất cả chúng sanh. Thế
nhưng phổ văn này nhất định phải là danh xứng với thực, bạn phải chân thật
đức hạnh thì bạn mới có thể giúp đỡ tất cả chúng sanh, không phải là hư danh.
Bạn có trí tuệ chân thật, “quang minh” là đức dụng của trí tuệ, quang minh phổ
chiếu
, trí tuệ của bạn có thể lợi ích tất cả chúng sanh. Ý nghĩa trong đây rất
sâu rất rộng, vào ngày nay chính là truyền bá Phật pháp. Phật pháptrí tuệ,
dùng phương pháp gì để giúp đỡ tất cả chúng sanh nhận biết Phật pháp, lý giải
Phật pháp, tu học Phật pháp, đây là dụng ý chân thật của “nguyện phổ văn”.


Ngày
nay người ưa thích xây đạo tràng rất nhiều, ở mỗi khu vực chúng ta đều xem thấy
đều nghe thấy pháp sư, cư sĩ đều rất chăm chỉ nỗ lực xây đạo tràng. Sau khi đạo
tràng
xây xong, vấn đề là có đạo hay không? Đạo tràng thì luôn phải có đạo,
thực tế mà nói “đạo” là tuyệt đối phải có, có Phật đạo, có Bồ Tát đạo, cũng có
ngạ quỷ đạo, địa ngục đạo, luôn là có đạo nhưng cái đạo nào thì không biết
được, rất là khó nói. Ở trong cái tràng đó rốt cuộc là đạo nào thì rất khó nói,
chúng ta phải có năng lực để phân biệt.


Thích
Ca Mâu Ni Phật
không có xây đạo tràng, giảng kinh nói pháp là ngồi dưới gốc
cây
, đại chúng đều là ngồi trên cỏ, xoay quanh một vòng, hai vòng, Phật liền
giảng kinh nói pháp, đó gọi là đạo tràng. Cái đạo tràng đó tốt, không có tranh
chấp
. Hiện tại chúng ta xây đạo trànghình thức, xây được hoa lệ trang
nghiêm
, xây dựng hình thức cung điện, cực kỳ hào hoa xa xỉ. Từ trước, lão cư sĩ
Lý Bĩnh Nam nói, khi chưa xây xong thì mỗi người đều là Bồ Tát, ra tiền ra sức
đến khắp nơi hóa duyên; sau khi xây rồi thì mỗi người đều là La sát, tranh
quyền đoạt lợi. Thế Tôn biết được, cho nên không xây đạo trànghình thức để
mọi người đều làm Bồ Tát. Nếu như Thích Ca Mâu Ni Phật cũng xây dựng hình thức
giống hoàng cung thì e rằng những Bồ Tát ở dưới Ngài cũng đều biến thành La Sát
rồi. Cho nên bạn nghĩ xem, hành trì của Phật Đà rất có đạo lý, không xây đạo
tràng
hình thức, chân thật muốn giảng kinh nói pháp, giáo hóa chúng sanh thì
nơi chốn cũng rất nhiều. Hiện tại, thông thường phẩm chất đời sống của chúng ta
đều nâng cao, cho nên mỗi một nơi địa phương, chính phủ đều chú trọng xanh hóa
hoàn cảnh, đều xây công viên. Công viên chính là đạo tràng chúng ta giảng kinh
nói pháp. Đồng tu tụ họp lại nơi đó, không chỉ có đồng tu đang nghe kinh, còn
có một số người ở bên cạnh tình cờ đến nơi đó, họ cũng nghe được, đây là cơ hội
để giáo dục. Đạo tràng đó thật là thù thắng, thật viên mãn. Nơi nơi đều là đạo
tràng
, hà tất nhất định phải xây một kiến trúc rất to làm gì, để mọi người
nơi đó đấu đá lẫn nhau, ngày ngày cãi nhau, tạo tội nghiệp A Tỳ địa ngục. Đó
cũng là đạo tràng nhưng là đạo tràng địa ngục, không xây thì tốt hơn.



những tài lực này dùng để làm gì? Dùng để truyền bá Phật pháp. Ngày nay chúng
ta
in kinh, in tạo tượng Phật, làm những đĩa VCD, CD miễn phí cúng dường tặng
cho tất cả đồng tu cần đến, đó là “quang minh”. Hiện tại chúng ta lợi dụng
đường truyền, tương lai có thể có cơ duyên thì lợi dụng truyền hình vệ tinh. Đó
là phóng đại quang minh, “trí tuệ quang minh”. Chúng ta phải từ chỗ này mà nhắm
đến, từ ngay chỗ này mà cấu tưởng.


Hôm
qua tôi có xem Luận Ngữ do cư sĩ Giang Vật Tử ở Đài Trung vẽ, mang đến một bộ
cho tôi xem. Tôi xem thấy rất hoan hỉ. Tôi nói với thầy Ngộ Nhẫn, các vị đi tìm
vài đồng tu, đem bức họa này, mỗi một tờ dùng máy chụp chụp lại. Ông có văn tự,
chúng ta chiếu theo văn tự, dùng tiếng phổ thông chuẩn xác để mọi người đọc. Tờ
này đọc xong thì chúng ta lại xem tiếp tờ thứ hai, tương lai đem cái ghi hình
này làm thành đĩa VCD, lưu thông phổ biến, vậy thì người ưa thích. Sách đến năm
quyển, dày đến như vầy, nặng như đá, mệt chết người. Bạn làm thành đĩa ghi
hình, mọi người xem rồi lại hoan hỉ, không chỉ một người mà rất nhiều người có
thể cùng nhau xem, lưu thông rộng khắp. Tương lai có duyên phận này, đài truyền
hình có thể phát sóng, có thể lấy làm giáo trình. Đây là trí tuệ lưu bố mười
phương
, chân thật là phóng đại quang minh. Tôi để đồng tu làm trước mấy tờ để
xem thử hiệu quả. Giang Vật Tử cũng giác ngộ, không cần bản quyền, gọi điện
thoại cho tôi. Muốn bản quyền tôi nhất định cự tuyệt, tôi không cần cái thứ này,
tôi lấy rồi cũng không dùng, thêm nhiều rác rưỡi. Bạn không cần bản quyền thì
tôi sẽ nghĩ cách giúp bạn lưu thông, rộng lợi chúng sanh. Khi tuổi tác ngày một
cao, ông giác ngộ rồi, hy vọng chân thậtxã hộichúng sanh làm một chút
việc tốt. Đây là việc tốt.


Câu
phía sau: “Sở cư quốc độ”. Đây chính là Thôn Di Đà. Thôn Di Đà này chúng
ta
đã nghĩ tưởng đến mười mấy năm rồi. Lần đầu có khái niệm này là năm 1983, đã
nghĩ đến hơn mười năm. Hiện tại cư sĩ Lý Mộc Nguyên phát tâm thực hiện nó. Thế
xuất thế gian pháp đều như nhau, việc tốt nhiều dày vò, vấn đềchúng ta chân
thật
quyết tâm, có nghị lực, vì chúng sanh, không vì chính mình thì mới có
cảm ứng, ma không thể có được thuận lợi. Nếu như trong đây có lòng tư riêng,
chính mình nghĩ ở nơi đây có chỗ tốt thì ma liền chướng ngại. Việc tốt nhiều
dày vò, vì sao vậy? Ma đố kỵ bạn. Vậy thì do đây có thể biết, tâm đố kỵ, tâm
sân hận chính là ma, tham-sân-si đều là ma. Ma đến nhiễu loạn, ma đến chướng
ngại
, thế xuất thế gian pháp đều không thể tránh khỏi. Tâm của bạn phải thuần
thiện, vì chúng sanh, vì Phật pháp, quyết không vì chính mình. Thôn Di Đà sau
khi xây xong, chúng ta ở trong đó làm cái gì? Làm công quả, không phải ở trong
đó hưởng thọ quyền lợi. Ở trong đó làm công quả thì Tam Bảo liền sẽ gia trì, ma
cũng dần dần thoái tránh, sự việc này liền có thể viên mãn thành tựu.


Lần
này tôi đến Trung Quốc có một số đồng tu nói với tôi, bên phía Thượng Hải nghe
nói tôi qua rất là hoan hỉ, tháng sau chính phủ thành phố Thượng Hải muốn mời
tôi cùng cư sĩ Lý đi một chuyến. Đi làm cái gì? Nói đến việc của Thôn Di Đà. Họ
nghe nói đến Thôn Di Đà thì rất có hứng thú, bởi vì hiện tại người già dần dần
nhiều hơn, làm thế nào trải qua cuối đời hạnh phúc mỹ mãn? Họ hy vọng chúng ta
đem cấu tưởng của Thôn Di Đà giới thiệu cho họ. Cho nên, vì sự việc này nên
phải đến Thượng Hải thăm viếng. Chính phủ thành phố họ tiếp đãi là việc tốt.


Dưỡng
lão
là một đại sự nghiệp từ xưa đến nay. Chúng ta từ trong sách cổ, trong Lễ Ký
Nghi Lễ đã nói rất nhiều, có rất nhiều những nội dung cụ thể này. Ngày nay
người phương Tây chăm sóc đối với người già (chúng ta gọi là phước lợi người
già) vẫn chỉ là chăm sóc ở trên mặt đời sống vật chất, không có đời sống tinh
thần
. Tuy là có một số viện dưỡng lão cũng có một số tiết mục ca vũ, một tuần lễ
một lần biểu diễn ca vũ, người già đều sẽ tham gia nhưng thực tế mà nói đó
là quá ít. Chúng ta đến tham quan viện dưỡng lão, người già ở trên đời sống
tinh thần rất là thống khổ. Chúng ta phải làm thế nào để giúp đỡ họ? Người tuổi
già
về hưu, không còn làm việc nữa, con cái cũng đều độc lập, không cần phải
chăm sóc, có thể đem toàn bộ thời gian tinh thần để tu học Phật pháp, để xúc
tiến
chính mình. Ngày trước chúng ta thường hay nghe được, viện dưỡng lão
công trình không còn hy vọng, viện cô nhi thì có hy vọng, trẻ nhỏ có hy vọng,
người già thì không có hy vọng, cho nên tôi phải làm Thôn Di Đà. Tôi nói, Thôn
Di Đàcông trình rất có hy vọng, vì sao vậy? Họ phải siêu phàm nhập thánh,
họ phải thành Phật làm Tổ thì làm sao là không có hy vọng chứ? Còn thiết thực,
còn thù thắng, còn viên mãn hơn hy vọng của người trẻ tuổi nhiều. Cho nên chúng
ta
hy vọng viện dưỡng lão của mỗi một tôn giáo đều phải xúc tiến hoạt động giáo
dục
tôn giáo của họ, giúp cho họ đạt đến mục tiêu cao nhất của tôn giáo.


Mục
tiêu
của Thôn Di Đà chúng ta là giúp cho mọi người lý giải thế giới Tây Phương
Cực Lạc
, phải giảng cho họ nghe rõ ràng, tường tận. Họ nhận biết thế giới Tây
Phương Cực Lạc
, ngưỡng vọng thế giới Cực Lạc, ngưỡng mộ thế giới Cực Lạc thì họ
mới chịu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Cho nên ở ngay trong hoàn cảnh này, mười
phương
tất cả chư Phật thế giới đều giới thiệu cho họ, để cho họ có sự so sánh.
Giáo dục tôn giáo rất là quan trọng, như viện dưỡng lão của Ki Tô giáo, bạn
cũng phải giúp đỡ những người già này chân thật đến được thiên đường. Nếu họ
không thể đến được thiên đường, bạn thành lập viện dưỡng lão này sẽ không có ý
nghĩa
gì. Cho nên chúng ta chú trọng ở trên tầng thứ này. Thông thường phối hợp
ca vũ, điều tiết tâm tình của họ, khiến cho đời sống của họ an vui, thế nhưng
quan trọng nhất vẫn là phải tiếp nhận giáo dục. Cái giáo dục này là giáo dục
siêu phàm nhập thánh. Khi họ còn trẻ họ không được học, bây giờ tuổi già tiếp
nhận
giáo dục siêu phàm nhập thánh. Cho nên, “sở cư quốc độ” là Thôn Di Đà.
Ngày nay mọi người có thể ra tiền ra sức thành tựu Thôn Di Đà, thành tựu “sở cư
quốc độ” chúng ta.


“Giáo thọ danh tự”, ở trong đây có người, có pháp. Tên tuổi của người chính là
ngày nay chúng ta gọi là Tây Phương Tam Thánh: A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ
Tát
, Đại Thế Chí Bồ Tát. Đây là chỉ người. Pháp đích chỉ Tịnh Độ ba kinh là
kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh, Phật Thuyết A Di Đà kinh. Ở
Trung Quốc, tổ sư đại đức đời sau lại đem Hạnh Nguyện Phẩm cùng Đại Thế Chí Bồ
Tát
Niệm Phật Viên Thông Chương để vào phía sau ba kinh, cho nên hiện tại chúng
ta
đều biết rõ là Tịnh Độ năm kinh. Lại thêm vào Vãng Sanh Luận của Bồ Tát
Thiên
Thân. Đây là Bồ Tát Thiên Thân báo cáo tâm đắc tu học Tịnh Độ, không luận
lý luận, phương pháp, cảnh giới đều rất đáng được chúng ta làm tham khảo.
Đây là toàn bộ kinh điển Tịnh Tông hiện tại, gồm năm kinh một luận.


Nguyện
của Pháp Tạng Tỳ kheo không thể nghĩ bàn. Quốc độthế giới Cực Lạc, vào hiện
tại
chúng ta là Thôn Di Đà. Chúng ta phải đem khái niệm của Thôn Di Đà hoằng
dương đến toàn thế giới, từ Thôn Di Đà tiếp dẫn thông vãng thế giới Tây Phương
Cực Lạc
. Cho nên “quốc độ, giáo thọ danh tự”, “giai văn thập phương”, đây là
nguyện vọng của Pháp Tạng. “Nguyện phổ văn”, ở trong phán khoa nói rất rõ ràng,
“chánh báo diệu”, “y báo diệu”, “danh hiệu diệu”. Ý nghĩa của diệu rất sâu,
chân thật là diệu đến không thể nghĩ bàn. Nếu như không thể thâm nhập kinh
tạng
, thâm giải nghĩa thú thì không thể nào biết được ba chỗ diệu này. Ba thân
của A Di Đà Phậtpháp thân, báo thân, ứng hóa thân, không chỉ là giai văn
thập phương, thực tếbiến chiếu mười phương, không nơi nào không có, đây là
chánh báo diệu. Sở cư quốc độthế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc liền nhiếp
thọ
mười phương ba đời tất cả thế giới chư Phật. Đây là Thế Tôn ở ngay không
Phật phápchúng ta giới thiệu mười phương cõi nước chư Phật không thể thấy
được, chỉ riêng có Di Đà Tịnh Độ thù thắng. Mười phương thế giới tất cả chúng
sanh
dựa vào cái gì để vãng sanh thế giới Cực Lạc? Chỉ nhờ vào câu Phật hiệu
này. Đại đức xưa vì chúng ta giảng dạy trong 48 nguyện, nguyện nào là thù thắng
nhất? Cổ đức đều khẳng định nguyện thứ 18. Nguyện thứ 18 là nói cái gì? Công
đức
danh hiệu không thể nghĩ bàn, khi lâm chung một niệm, mười niệm đều được
vãng sanh. Do đó ở Nhật Bản có “bổn nguyện niệm Phật”, ý nghĩa không sai, có
thể vãng sanh hay không? Tôi thấy chưa chắc. Do nguyên nhân gì? Họ không hề
tương ưng với bổn nguyện của Phật A Di Đà, mà là tâm lý may mắn, đầu cơ, thủ
đoạn
. Các vị đều rất muốn dụng công tu hành, họ không cần tu hành, họ là bổn
nguyện niệm Phật, cũng không cần phải ăn chay, cũng không cần trì giới, cái gì
cũng không cần, chỉ cần nắm lấy cái nguyện này tương lai liền được vãng sanh,
tạo thành hiểu lầm rất lớn. Lâm chung một niệm, mười niệm là loại người nào
vậy? Ngay trong một đời đều không gặp được pháp môn Tịnh Độ, khi lâm chung mới
nghe được thiện tri thức khuyên dạy, họ bỗng chốc liền tỉnh ngộ ra, vậy mới
được. Loại người đó chân thật gọi là quay đầu là bờ, cho dù cả đời tạo tác ác
nghiệp.


Vào
thời xưa, Trương Thiện Hòa là một thí dụ rất tốt. Ông là người thời nhà Đường.
Chúng ta phải nên biết, ông là một đồ tể giết bò để sống. Đến khi lâm chung,
ông thấy rất nhiều người đầu bò đến đòi mạng ông. Vào lúc này, rất may thần trí
ông rõ ràng, ông không mê hoặc, ông liền kêu lên “cứu mạng”. Ông gặp được duyên
tốt, ngay khi kêu cứu mạng thì có một người xuất gia đi ngang qua cửa của ông,
nghe được bên trong kêu cứu mạng, người xuất gia này liền vào bên trong xem thử
đã xảy ra việc gì. Trương Thiện Hòa nói với người xuất gia là có rất nhiều
người đầu bò đến đòi mạng ông. Người xuất gia này đốt một bó hương đưa cho ông,
bảo ông lớn tiếng niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Ông liền làm theo. Niệm
được mấy danh hiệu, ông nói không thấy người đầu bò nữa, A Di Đà Phật đến tiếp
dẫn
ông, ông liền đi vãng sanh. Người này nhiều đời nhiều kiếp thiện căn phước
đức
nhân duyên ngay trong một sát na chín muồi, vậy mới có khả năng. Bạn thử
nghĩ xem, khi bạn lâm chung có thể gặp được cơ hội này hay không? Nếu như không
gặp được thì bạn vẫn phải đọa ba đường. Cho nên các vị đồng tu phải nên biết,
bổn nguyện niệm Phật về lý luận có thể nói được thông nhưng trên thực tế quá
khó, đó là giữ lấy tâm lý may mắn. Nhân không chánh thì quả không tròn đầy. Nếu
như đó là một phương pháp tu học rất tốt, Phật pháp truyền đến Trung Quốc 2000
năm, tổ sư đại đức nhiều đời sớm đã dạy cho chúng ta rồi, làm sao có thể đợi
đến sau khi Phật pháp truyền đến Nhật Bản, người Nhật Bản phát hiện rồi truyền
ngược trở lại, làm gì có cái đạo lý này? Cho nên chúng ta phải tường tận, nhất
định
phải “trung thực niệm Phật”. Đặc biệt ở vào thời đại này, thời đại này khổ
nạn
quá nhiều, là một thời đại khác thường, cũng là một thời đại rất không bình
thường
, tất cả chúng sanh tâm lý không bình thường, đời sống không bình thường,
hành vi không bình thường, chúng ta phải dùng một pháp môn như thế nào mới có
thể độ được?



Hạ Liên Cư thị hiệnnhân gian chính là bởi vì sự việc này mà đến, Ngài cho
chúng ta một bổn hội tập kinh Vô Lượng Thọ tốt nhất. Chúng ta cần phải y theo
bổn kinh sách này, phải thâm giải nghĩa thú, phải y giáo phụng hành, chúng ta
ngay một đời này mới có thể được độ. Chỗ này ổn định hơn, đáng tin hơn nhiều so
với bổn nguyện niệm Phật. Các đồng tu cần phải ghi nhớ, vạn nhất không nên ham
thích
tiện lợi, không có thứ nào có thể tiện lợi hơn. Nếu như có tâm lý may mắn
đầu cơ thủ xảo, tâm này chính là vọng tâm, làm sao có thể được sanh Tịnh Độ?
Bạn thử tưởng tượng xem, trong kinh vãng sanh Phật nói với chúng ta, phàm hễ là
người đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là những người “chư thiện thượng
nhân”, chúng ta không chịu tu thiện, vẫn còn muốn tạo ác, đến khi lâm chung nắm
lấy một câu Phật hiệu này vẫn có thể vãng sanh, làm gì có việc dễ dàng đến như
vậy?


Tịnh
tông
tuy là nói đới nghiệp vãng sanh, nhưng tổ sư đại đức giảng nói rất tường
tận cho chúng ta nghe là chỉ mang nghiệp cũ, không mang nghiệp mới. Cái gì là
nghiệp cũ? Trước khi nghe được Phật pháp tạo ra nghiệp, hoặc giả là trước khi
chưa chân thật nhận thức đối với Phật pháp tạo ra nghiệp, cái nghiệp này có thể
mang. Không thể nói hiện tại bạn một mặt học Phật, một mặt niệm Phật, một mặt
tạo nghiệp thì đều có thể mang đi. Bạn đi tra hết kinh luận, Phật không hề có
cách nói này, tổ sư đại đức không có cách nói này, vạn nhất không nên hiểu lầm.
Nếu hiểu lầm thì thật là tai hại. Vô lượng kiếp đến nay một cơ hội hi hữu khó
gặp, hiện tại chúng ta gặp được nhưng do bởi hiểu lầm này mà để cho cơ hội này
bị lỡ qua, bạn nghĩ xem có đáng tiếc không! Sáng sớm hôm nay, tôi khuyến khích
các đồng tu, nhất định phải chân thật phát tâm y giáo phụng hành. Tổ sư đại đức
xưa nay dạy chúng ta TRÌ GIỚI NIỆM PHẬT thì vãng sanh mới nắm được phần. Phật ở
trong kinh này rất là xem trọng đối với trì giới niệm Phật. Bạn xem kinh này từ
phẩm 32 đến phẩm 37, văn tự nhiều đến như vậy đều dạy chúng ta trì giới niệm
Phật
. Phẩm 32 đến phẩm 37, nội dung chính là nói năm giới mười thiện. Bạn thấy
Phật đích thực rất từ bi, đem tiêu chuẩn tu học của chúng ta giáng xuống đến
mức thấp nhất, năm giới mười thiện. Các vị phải nên biết, năm giới mười thiện
đều không thể thọ trì, thì trong sáu cõi đời sau muốn có lại được thân người
cũng không có được, bạn làm sao có thể đến được thế giới Tây Phương Cực Lạc để
làm Phật? Làm gì có cái đạo lý này?


Năm
giới
mười thiện tại sao không làm được?


Thứ nhất là chính mình từ vô thỉ kiếp đến nay phiền não tập
khí quá nặng.

Bạn phải giác ngộ, phải đem những phiền não tập khí này bỏ hết. Niệm Phật đường
niệm Phật, mỗi niệm phải hoán tỉnh tự tánh, mỗi niệm phải cầu A Di Đà Phật
chư Phật Như Lai gia trì, giúp chúng ta thức tỉnh từ trong tập khí phiền não,
đưa ra một quyết tâm, lập đại chí, từ nay về sau vĩnh ly phiền não. Bạn phải
thật làm. Trong thuận cảnh không khởi tâm tham, trong nghịch cảnh không khởi
sân hận, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần rõ ràng tường tận, thông suốt
thấu đáo. Cái cảnh giới này như thế nào vậy? Phật ở trên kinh Kim Cang nói với
chúng ta: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Bài kệ sau cùng trong
kinh Kim Cang, chúng ta là người Tịnh Độ cũng không thể nào xả bỏ. Phải thường
hay
nhớ lấy câu: “Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc
như điện, ưng tác như thị quán
”, thì bạn mới có thể hàng phục được phiền
não
. Nếu như tùy thuận phiền não thì chính là tùy thuận ba đường ác, chính là
tùy thuận luân hồi, vậy thì làm sao được? Tùy thuận giáo huấn của Phật liền có
thể vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Cơ hội này không dễ gì gặp được,
Bàng Tế Thanh nói: “Nhân duyên hi hữu khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”.
Chúng ta rất may mắn ngay trong đời này gặp được, nếu không thể nắm lấy, chẳng
phải là luống qua hay sao? Sau khi luống qua, lần sau gặp lại được thì phải đến
vô lượng kiếp sau. Chỗ này nói rõ cơ hội này rất là khó được, gặp được cơ duyên
này thì chính là vĩnh thoát luân hồi, ngay trong một đời này có thể có cơ hội
viên mãn Bồ Đề, bạn nói xem, cơ hội này đến nơi đâu mà tìm? Thật là hi hữu! Tại
sao bạn có thể thoái tâm? Tại vì sao bạn có thể đọa lạc? Bạn không nhận biết
rõ ràng đối với cơ duyên này, cho rằng loại cơ duyên này là rất bình thường,
không gì hiếm lạ, bạn không biết trân trọng, lỗi chính ngay chỗ này.


Thứ hai là cảnh giới bên ngoài mê hoặc, sức mê hoặc của nó
quá to lớn, so với thời xưa nhiều hơn đến gấp trăm ngàn lần.
Chúng tasức mạnh gì có thể
kháng cự lại với những mê hoặc này? Đại đức xưa ở vào xã hội ngày trước thuần
phác, thậm chí đến vào thời đại của Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật ở trên kinh giáo
dạy bảo người tu hành phải chọn lấy một hoàn cảnh thanh tịnh, “xa lánh ồn náo”,
phải cách xa những nơi náo nhiệt, nhà Phật gọi là “ở nơi A Lan Nhã”. A Lan Nhã
là ý gì vậy? Nơi không có ồn náo xen tạp gọi là A Lan Nhã. Vào thời xưa, ở
trong nông thôn, làm ruộng đều phải nhờ vào sức trâu để giúp đỡ. Âm thanh của
trâu kêu rất to. Nơi người tu hành cư ngụ là nơi mà tiếng trâu kêu ở nông thôn
cũng không nghe được, lấy cái này để làm tiêu chuẩn. Cho nên, khi Phật giáo
truyền đến Trung Quốc (sau khi Phật diệt độ đến 1000 năm thì thánh giáo mới
truyền đến Trung Quốc), những thiện tri thức Trung Quốc cổ đại, các tổ sư đại
đức
đã xây dựng đạo tràng, tự miếu, am đường đều là ở trong sơn lâm, cự ly cách
nông thôn gần nhất chí ít cũng phải có đến ba dặm đường, đạo tràng lớn đều là
xây dựng ở trong núi sâu. Đạo lý gì vậy? Tận khả năng né tránh các loại mê hoặc
của xã hội, để phàm phu chúng ta có thể giữ được tâm thanh tịnh lâu dài, đạo lý
chính ngay chỗ này. Hiện tại thì khó, thông tin phát triển, giao thông thuận
tiện
, gần như không còn cách nào tránh khỏi hoàn cảnh mê hoặc. Chúng ta phải
nên làm thế nào để có thể giữ gìn chính mình? Chúng ta chính mình ngay một đời
này có thể thành tựu hay không then chốt chính ngay chỗ này. Nhất là hiện tại
vi tính rất phát triển, các đồng tu tại gia, rất nhiều gia đình hiện tại đều có
vi tính. Trong tương lai, một thế kỷ sau thì vi tính là nhu cầu cần thiết trong
đời
sống của mỗi một người. Bạn còn có thể mang theo bên mình, mỗi giờ mỗi lúc
đều ở bên cạnh bạn, nó có thể hiển hiện cho bạn toàn bộ tin tức trên toàn thế
giới
. Nội dung của những tin tức này mê hoặc bạn, đại khái chiếm 99,9% để bạn
xem thấy sanh tham-sân-si-mạn. Vi tính có phải là thứ tốt không? Tôi thấy không
phải là thứ tốt, tôi thấy vi tính là yêu ma quỷ quái. Bạn còn phải kết giao bạn
bè với nó, bạn mỗi giờ mỗi phút không rời xa nó, không luận là đến nơi nào, chỉ
cần bạn mở ra thì bạn liền bị mê hoặc, bạn nói xem có phiền não hay không?


Ngày
nay chúng ta giảng kinh như vậy, chút tin tức này cũng để ở trên mạng internet,
đó là 0,0001% (không phẩy không không không một phần trăm), thật là quá ít. Thế
nhưng cũng có những người có thiện căn, thỉnh thoảng phát hiện ra, gặp được. Họ
phải có thiện căn, cái điểm nhỏ này cũng có thể giúp cho họ giác ngộ, giúp cho
họ quay đầu. Các vị phải nên biết, thế gian ngày nay có tai nạn lớn. Nếu bạn
muốn hỏi tai nạn đến từ chỗ nào? Đương nhiên, tai nạn là do tất cả chúng sanh
tạo ác nghiệp đã tích lũy từ vô lượng kiếp mà ra. Tích lũy là nhân, nhân nếu
không
gặp được duyên thì không thể hiện được quả báo. Vậy chúng ta muốn hỏi,
duyên là gì vậy? Duyên là truyền hình, vi tính, là ác duyên.


Vừa
rồi có một cư sĩ ôm một đứa bé đến thăm tôi, đứa bé vẫn còn rất nhỏ. Ông hỏi
tôi, làm thế nào có thể làm cho trẻ nhỏ minh tâm kiến tánh? Vậy thì quá khó!
Nếu bạn biết được trẻ nhỏ hiện tại, chúng chỉ cần mở truyền hình ra (chúng tự
mình biết mở), ngày ngày xem tiết mục của truyền hình, hai ba tuổi liền bị những
tiết mục trong truyền hình ô nhiễm rồi thì chúng làm sao có thể khai ngộ được?
Tôi thường hay gặp rất nhiều cha mẹ trong gia đình hiện tại rất là cảm thán,
con cái không nghe lời cha mẹ, học trò không nghe lời thầy. Tại vì sao ngày
trước con cái nghe lời cha mẹ, học trò nghe lời thầy cô giáo? Tại vì sao hiện
tại
không nghe? Đều là bị truyền hình dạy hư. Cơ hội chúng tiếp xúc giáo dục
của truyền hình vượt qua giáo dục của cha mẹ. Tiết mục trong truyền hình diễn
ra là cái gì? Yêu ma quỷ quái. Chúng ta phải tìm ra những nhân tố này. Nếu hiện
tại
ở trong nhà bạn không có truyền hình có được không? Bạn không có truyền
hình, trẻ con của bạn liền chạy sang nhà hàng xóm, chạy đến nhà khác để xem,
liền đi ra ngoài rồi, không còn ở nhà. Bạn nghĩ xem, việc này có phiền phức hay
không?



mấy người chân thật giác ngộ, người chân thật biết quay đầu, người chân thật
thể khống chế được phiền não tập khí của chính mình? Loại người này hiếm có,
loại người này vào ngày nay mà nói, đó chính là người tái sanh, không phải người
phàm, họ chân thật là đến để cứu độ thế gian kiếp nạn. Chính họ nhất định y
theo
Phật pháp tu học, nhất định y theo kinh Vô Lượng Thọ. Đây không phải chúng
ta
riêng khen kinh Vô Lượng Thọ, mà vì cảnh giới trong các kinh luận khác đều
quá cao, mức độ yêu cầu quá cao, người hiện tại đích thực không làm được. Kinh
Vô Lượng Thọ
mức độ yêu cầu chúng ta thì rất thấp, không có đâu thấp hơn so với
đây. Bạn xem, trên hành trì chỉ cần yêu cầu chúng ta năm giới mười thiện, đạt
đến
mứt độ thấp nhất.


Trung
thực
niệm Phật, bổn kinh ba bậc vãng sanh có một câu quan trọng nhất là “phát
Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật”
. Cái gì gọi là phát tâm Bồ
Đề? Chúng ta khởi tâm động niệm đều có thể tương ưng với giáo huấn của kinh
này, tâm này chính là tâm vô thượng Bồ Đề. Ở trên kinh Phật dạy chúng ta làm
thế nào thì chúng ta làm như thế đó, chúng ta trung thực thành thật mà làm; dạy
chúng ta không được làm, chúng ta quyết định không phạm cái lỗi lầm này. Đây
gọi là y giáo phụng hành, gọi là phát tâm Bồ Đề. Cho nên tâm Bồ Đề ở quyển kinh
này giảng rất là cụ thể, tất cả chúng sanh ở vào thời đại này của chúng ta,
người người đều có thể tiếp nhận, đều có thể làm đến được. A Di Đà Phật
chúng ta làm tăng thượng duyên, mười phương tất cả chư Phật Như Lai cũng vì
chúng ta làm tăng thượng duyên, không có một vị Phật nào không khuyên người
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thân cận A Di Đà Phật
là nguyện vọng của mười phương tất cả chư Phật Như Lai. Chúng ta xem thấy trong
quyển kinh này, trong tiểu bổn kinh A Di Đà nói càng rõ ràng hơn. Đoạn này là
nguyện phổ văn.


Kinh
văn: “Chư thiên nhân dân, cập quyên nhu loại”


Câu
này là nói A Di Đà Phật bình đẳng phổ biến tiếp thọ tất cả chúng sanh. Câu này
viên mãn đầy đủ bao gồm chúng sanh sáu cõi. Trong chúng sanh sáu cõi, các vị
đồng tu nhất định phải ghi nhớ, không bao gồm Vô Sắc Giới. Vì sao vậy? Trong
cõi trời Vô Sắc Giới không có Phật nói pháp. Nhà Phật thường nói “tam đồ bát
nạn”, trời Vô Sắc Giới là nạn thứ nhất trong tám nạn. Trời trường thọ, ở đây
không có Phật Bồ Tát ứng hóa đến. Chúng ta không thể không biết, thọ mạng của
họ tuy là dài nhưng không nghe được Phật pháp, khi thọ mạng đến rồi vẫn là phải
tiếp tục đọa vào sáu cõi luân hồi. Chư Phật Bồ Tát ứng hóa từ chỗ nào? Từ nơi
trời tứ thiền đến địa ngục A Tỳ, trời Sắc Giới, trời Dục Giới. Trong sáu cõi
này đều có chư Phật Bồ Tát thường ứng hiện ở trong đó.


Hai
câu phía sau này thật là cừ khôi, xem thấy hai câu này mới biết được Tịnh Độ
siêu thắng, mười phương cõi nước chư Phật đều không thể so sánh.


Kinh
văn: “Lai sanh ngã quốc, tất tác Bồ Tát”.



đề kinh chúng tôi đã giới thiệu qua với các vị, kinh này là dạy chúng ta bình
đẳng
thành Phật. A Di Đà Phật truyền thọ cho chúng tapháp môn bình đẳng,
đều là niệm A Di Đà Phật để vãng sanh. Bồ Tát cũng là niệm A Di Đà Phật để vãng
sanh
, phàm phu cũng là niệm A Di Đà Phật để vãng sanh, thiên nhân là niệm A Di
Đà Phật
vãng sanh, chúng sanh ba đường ác cũng là niệm A Di Đà Phật để vãng
sanh
. Mỗi người thiện ác nghiệp tập không như nhau, niệm A Di Đà Phật không hề
khác nhau, cho nên sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc được quả báo cũng là
bình đẳng. Việc này không thể nghĩ bàn!


“Tất tác Bồ Tát”, “tất” là hoàn toàn, thảy đều có hết, không hề có ngoại lệ,
chỉ cần bạn sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, hạ hạ phẩm vãng sanh cũng là
Bồ Tát, vãng sanh biên địa cũng là Bồ Tát. “Tất tác Bồ Tát”, ở chỗ này Ngài
không có nói vãng sanh biên địa là ngoại lệ. Làm Bồ Tát gì vậy? Phía sau chúng
ta
vừa đọc, càng đọc càng thù thắng, càng nghe càng không thể nghĩ bàn: “Giai
tác A Duy Việt Chí Bồ Tát
”. Không phải là Bồ Tát phổ thông, Bồ Tát phổ
thông
không hiếm lạ, là A Duy Việt Chí Bồ Tát. A Duy Việt Chí là tiếng Phạn, ý
nghĩa
của nó là không thoái chuyển. Phật ở trong đại kinh nói với chúng ta, Bồ
Tát
thất địa vẫn thoái chuyển, bát địa thì không thoái chuyển, hay nói cách
khác, A Duy Việt Chí là Bồ Tát bát địa. Chúng taphàm phu, phiền não tập khí
chưa đoạn, chỉ cần trí tuệ và sức định của bạn, câu Phật hiệu của bạn chân thật
sức mạnh, làm cho phiền não, tập khí, vọng tưởng của bạn bị đè xuống.


Cách
hàng phục thế nào? Chúng ta gọi là biết niệm Phật. Ngay khi tâm phiền não của
bạn mới vừa động thì phải mau niệm “A Di Đà Phật” chuyển đổi tâm niệm của bạn
lại, như vậy gọi là biết niệm Phật, là biết dụng công. Bạn gặp được người
thiện, thuận cảnh, trong lòng khởi lên tâm tham ái thì “A Di Đà Phật” đánh bạt
đi cái tâm tham ái đó. Phải mau niệm Phật, niệm hết đi phiền não, đây gọi là
công phu có lực, phiền não không khởi hiện hành. Gặp được người ác, gặp phải
nghịch cảnh, tâm sân hận sanh khởi lên cũng phải mau niệm A Di Đà Phật làm cho
nó bình lặng. Công phu niệm Phật có lực hay không có lực chính ngay chỗ này.
Nếu như vọng tưởng tập khí của bạn rất nặng, Phật hiệu không thể hàng phục được
thì lớn tiếng niệm. Nhất định phải hàng phục được nó.
Một ngày từ sáng đến
tối, đầu năm đến cuối năm làm những việc gì? Chính là làm một việc này, mỗi giờ
mỗi phút chiếu theo phiền não tập khí của chính mình, chỉ cần tâm vừa động thì
vội vàng niệm Phật để hàng phục nó. Đây gọi là niệm Phật, gọi là công phu. Tất
cả thời, tất cả nơi, trong tất cả thuận, nghịch duyên, luôn là giữ gìn tâm địa
của chính mình thanh tịnh, bình đẳng. Tâm thanh tịnh, bình đẳng sanh trí tuệ.
Trí tuệ sanh khởi rồi thì bạn liền sẽ nhìn thấu thế giới, thế giới này nghiệp
nhân
quả báo hình sắc bạn đều rõ ràng, lý sự tánh tướng bạn đều rõ ràng, đều
tường tận. Tường tận gọi là nhìn thấu, tâm địa của bạn quyết định sẽ không tiêm
nhiễm
nó, tùy duyên mà không phan duyên, công phu của bạn liền đắc lực. Công
phu
có lực thì liễu sanh tử, ra khỏi ba cõi, vãng sanh mới nắm chắc được phần,
có như vậy ngay trong đời này bạn mới không để lỡ mất cơ hội tốt để làm A Duy
Việt
Chí Bồ Tát.


A
Duy Việt Chí Bồ Tát không đơn giản. Trong đại kinh Phật thường nói, thông
thường tu học pháp môn này trước tiên phải đoạn kiếnphiền não. Chúng ta
thấy thật là vô cùng khó, với chúng ta mà nói, chân thật là sự việc không thể
nào làm được. Kiến tư phiền não đoạn rồi là địa vị gì vậy? Kinh này là Đại thừa
Viên giáo, Đại thừa Viên giáo trong kinh Hoa Nghiêm đã nói, kiến tư phiền não
thảy đều đoạn tận thì là Bồ Tát Thất Tín Vị, trong 51 giai đoạn của Bồ Tát, bạn
mới là Bồ Tát cấp thứ bảy. Trần sa phiền não đoạn tận, bạn mới là Bồ Tát cấp
mười. Sau đó phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, đó mới là Bồ Tát
cấp thứ mười một, là Bồ Tát sơ trụ, có thể gọi là Pháp Thân Đại Sĩ. Từ sơ địa
chúng ta liền biết được, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, ba mươi ngôi thứ.
Lại từ sơ địa đến thất địa là bảy ngôi thứ. Tổng cộng ngay đến thập tín vị phía
trước là bốn mươi bảy vị thứ. Đến cấp bốn mươi tám mới gọi là A Duy Việt Chí Bồ
Tát
. Trên kinh Hoa Nghiêm nói với chúng ta, sau khi chứng được quả vị sơ trụ,
để tu đến A Duy Việt Chí thì cần phải trải qua hai A Tăng Kỳ kiếp. Trong hai A
Tăng Kỳ kiếp
, A Tăng Kỳ kiếp thứ nhất tu mãn tam hiền vị; A Tăng Kỳ kiếp thứ
hai tu bảy vị thứ, từ sơ địa đến thất địa; A Tăng Kỳ kiếp thứ ba tu bát địa,
cửu địa, thập địa, ba vị thứ. Bạn mới biết được chứng được A Duy Việt Chí là
thật khó, thật không dễ.


Thế
nhưng pháp môn Tịnh Độ thì dễ dàng, pháp môn này gọi là “khó tin mà dễ hành”.
Không dễ tin tưởng nhưng nếu bạn chân thật tin tưởng, không hoài nghi thì rất
dễ dàng thành tựu. Thế nhưng nhất định phải thọ trì đọc tụng, y giáo phụng
hành
, bạn mới có thể thành tựu. Bạn muốn nói bạn niệm Phật, nhưng tâm của bạn,
hành vi đời sống của bạn trái ngược với kinh giáo thì không thể tin tưởng, ngay
đời này bạn không nắm được phần vãng sanh. Bạn niệm Phật, khởi tâm động niệm,
tất cả hành vi của bạn đều tương ưng với kinh giáo, cũng chính là nói trên kinh
dạy chúng ta làm như vậy thì chúng ta liền làm theo, dạy chúng ta không nên làm
thì chúng ta nhất định không làm, vậy bạn mới nắm chắc. Cho nên phụng khuyến
các vị, cơ hội này thật khó được, ngay trong một đời liền làm A Duy Việt Chí Bồ
Tát
. Cho nên, đại đức xưa mới giảng là trong khoảng một niệm liền siêu việt ba
A Tăng Kỳ kiếp. Bạn muốn nói pháp môn nhanh chóng thì có pháp môn nào có thể so
sánh? Thiền tông không thể sánh, Mật tông cũng không thể sánh, Thiền cùng Mật
ngay trong một đời làm sao có thể đạt đến địa vị của A Duy Việt Chí? Thiền tông
minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật cũng chỉ là địa vị của Bồ Tát sơ trụ.
Chỗ này chúng ta cần phải rõ ràng, phải tường tận.



một loại người không thể tiếp nhận, nói thế giới Tây Phương Cực Lạc đó là Thích
Ca Mâu Ni Phật
nói ra để an ủi các ông bà cụ, an ủi một số người không tri
thức
, không thông minh. Ý nghĩa của Thích Ca Mâu Ni Phật họ đều hiểu được, nêu
ra địa cầu là tròn, Tây Phương ở chỗ nào? Chúng ta ngồi phi cơ hướng về hướng
Tây
mà bay, bay mấy giờ thì quay trở, Tây Phương rốt cuộc ở chỗ nào? Có rất
nhiều vấn đề kỳ lạ cổ quái. Chỉ có người thành thật thì được độ, chỉ có người
chân thật mới có được lợi ích. Phật nói Tây Phương, chúng ta liền chiếu theo
hướng Tâyquán tưởng, mà tu học. Thực tế mà nói, Phật giáo hóa chúng sanh,
bao gồm pháp môn Tịnh Độ, không có pháp nào không phải là phương tiện. Pháp môn
này đặc biệt được tất cả chư Phật Như Lai quan tâm.


Khi
lâm chung quyết định không được hoài nghi Tây Phương ở chỗ nào. Vừa hoài nghi
thì cho dù vãng sanh cũng là rơi vào ở biên thành. Nhất định không hoài nghi.
Tây Phương ở chỗ nào không hề gì, Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, bạn hà tất phải
tìm phương hướng? Chúng ta đi đến một nơi xa lạ, người ta lái xe đến tiếp ta,
chúng ta tuyệt đối không cần hỏi đi qua con đường nào, ở phương hướng nào, căn
bản
là không cần hỏi, ngồi trên xe của họ thì sẽ đến. Pháp môn này, khi lâm
chung
A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, cho nên bạn không cần phải hỏi phương hướng,
đi với A Di Đà Phật chốc lát thì liền đến. Phật nói Tây Phươngbảo cái tâm
phàm phu của ta luôn phải an trụ ở một phương hướng, an trụ một mục tiêu. Nếu
không
mà nói, họ sẽ cảm thấy không có chỗ nương tựa, quá trống rỗng. Cho nên
Phật nói ra phương hướng này, người xưa cũng có nói, Tây Phương này không phải
hướng Tây của địa cầu của chúng ta, mà là hướng Tây của thế giới Ta Bà của
chúng ta. Cách nói này cũng phải chọn lựa. Hướng Tây của thế giới Ta Bà, pháp
vận của Thích Ca Mâu Ni Phật mười hai ngàn năm, mười hai ngàn năm đại thế giới
vẫn đang động, cũng đang xoay chuyển, thế nhưng góc độ xoay chuyển rất ít,
phương hướng tuyệt đối không có thay đổi. Không cần nói quá lớn, nói đến hệ
ngân hà, hướng Tây của hệ ngân hà vào ba ngàn năm trước và ba ngàn năm sau vẫn
phương hướng đó, không hề có thay đổi lớn, di động của nó chỉ một độ hai độ
mà thôi. Hướng Tây là nói hướng Tây của thế giới Ta Bà, không phải nói hướng Tây
của địa cầu. Cho nên chúng ta quyết định không nên hoài nghi, hoài nghi
nghiệp chướng tập khí sâu nặng của chính chúng ta. Phải nên trân trọng cơ hội
này, tin tưởng sâu sắc Phật không vọng ngữ. Y theo lời nói của Phật mà làm,
chúng ta nhất định được điều tốt.


Kinh
văn: “Ngã lập thị nguyện, đô thắng vô số, chư Phật quốc giả, ninh khả đắc
phủ
”.


Câu
nói này chúng ta nhất định không nên xem thường. Ban đầu khi tôi đọc đến câu
kinh này cảm thấy rất kinh ngạc, đối với tôi mà nói là bị chấn động rất lớn. Tôi
học Phật, xem bộ kinh đầu tiên là Lục Tổ Đàn Kinh. Tôi rất là bội phục đối với
Lục Tổ, Ngài đích thực là khác người. Ngài đến Hoàng Mai đảnh lễ Ngũ Tổ, Ngũ Tổ
hỏi Ngài: “Ông đến để làm gì?”. Ngài nói: “Con đến để làm Phật”.
Câu nói này làm cho tôi giật mình. Bạn thấy, thông thường chúng ta đến chùa
miếu lạy Phật là để làm gì? Tôi đến cầu thăng quan, cầu phát tài, cầu tiêu tai
khỏi nạn, trước giờ chưa từng nghe nói, cũng không thấy qua có một người nào
muốn đến để làm Phật, cho nên được nghe Lục Tổ nói thì biết Ngài không giống
như người khác. Ngài muốn đến làm Phật, vì sao chúng ta lại không biết? Khi xem
đến đoạn kinh văn này thì thấy Lục Tổ lại không bằng Ngài Pháp Tạng. Lục Tổ chỉ
nói làm Phật, Ngài không dám nói siêu vượt chư Phật, Pháp Tạng Tỳ kheo nói Ngài
muốn làm Phật và còn siêu vượt tất cả chư Phật.


Con
người
không thể không có nguyện, có nguyện ắt thành. Lục Tổ muốn làm Phật, chân
thật
mãn nguyện của Ngài, Ngài đã làm Phật. Pháp Tạng muốn làm Phật, muốn siêu
thắng tất cả chư Phật, Ngài cũng đã mãn nguyện, Ngài chân thật đã siêu vượt.
Chánh báo của mười phương ba đời tất cả chư Phật không thể sánh được với Phật A
Di Đà
, y báo cũng không thể sánh được với Phật A Di Đà, giáo thọ danh tự cũng
không thể sánh được với Phật A Di Đà, ba loại trang nghiêm “đều siêu thắng
số
cõi nước chư Phật”. Ngài thật đã làm được rồi. Ở ngay chỗ này, Ngài chỉ là
phát nguyện.


Chúng
ta
muốn hỏi, ngày nay chúng ta tu hành tại vì sao thường hay thoái chuyển, tại
sao công lực của chính mình yếu kém đến như thế này? Bên ngoài không thể
kháng lại mê hoặc, bên trong không thể hàng phục phiền não tập khí, nguyên nhân
này do đâu? Bạn lập nguyện quá nhỏ, cho nên không khởi được tác dụng. Nếu như
ngày nay bạn lập nguyện, bạn xuất gia học Phật làm cái gì? Ta muốn độ chúng sanh
khổ nạn thế gian này. Bạn phải thật có cái nguyện này thì nguyện này sanh ra
sức mạnh, nhất định trong thì có thể phục được phiền não, bên ngoài có thể
kháng cự được mê hoặc. Nguyện quá nhỏ, tâm nguyện không thiết thì nguyện đó sẽ
bị dao động, gặp được cảnh giới nguyện liền thoái chuyển, vậy làm sao được?
Chúng ta xem thấy tổ sư đại đức, chư Phật Bồ Tát có những nguyện kiên định
không thay đổi, vĩnh viễn không thay đổi, cho nên các Ngài có thành tựu. Nguyện
chính là các Ngài có phương hướng, có mục tiêu để nỗ lực, không đạt đến mục
tiêu
quyết không ngơi nghỉ. Bạn phát nguyện giúp đỡ tất cả chúng sanh, vì tất
cả chúng sanh phục vụ, thì bạn phải thành tựu học vấn đức hạnh của chính bạn;
trong tứ hoằng thệ nguyện là đoạn phiền não, học pháp môn, thì bạn nguyện độ
chúng sanh mới có thể thực hiện. Nếu chỉ riêng có “chúng sanh vô biên thệ
nguyện
độ”, chính mình không chịu đoạn phiền não, không chịu học pháp môn, thì
nguyện đó là không nguyện, không thể nào thực tiễn. Đây chính là nói nguyện đó
của bạn không tha thiết, nguyện đó của bạn không thật, bạn ở ngay trong một đời
này không luận tu học hay là làm việc, bạn vẫn là mờ mịt, không có phương
hướng
, không có mục tiêu, đến sau cùng không có thành tựu, không có kết quả.
Cho nên chúng ta xem thấy Pháp Tạng Ngài thị hiện ra cho chúng ta một tấm gương
tốt
nhất.


Học
Phật, ngày nay chúng ta học tập với ai? Học tập với A Di Đà Phật. Ngày nay
chúng tanhân địa, nhân địa thì học Pháp Tạng, nhân quả không khác, ở nhân
địa
cũng học với A Di Đà Phật. Đó là tổng kết đại nguyện của Ngài, sau cùng cầu
Phật khai thị cho Ngài.


Kinh
văn: “Thế Gian Tự Tại Vương Phật, tức vi Pháp Tạng, nhi thuyết kinh ngôn:
“Thí như đại hải, nhất nhân đấu lượng, kinh lịch kiếp số, thượng khả cùng để.
Nhân hữu chí tâm cầu đạo, tinh tấn bất chỉ, hội đương khắc quả, hà nguyện bất
đắc””
.


Cái
ý này rất hay. Phật chứng minh cho Ngài. Phật chứng minh cho Ngài, thực tế
nói, cũng chính là làm chứng minh cho chúng ta. Chúng ta phát nguyện, chính
mình thường hay hoài nghi là nguyện của ta đã phát ngay trong một đời này ta có
thể làm được hay không? Bạn xem thấy khai thị của Thế Gian Tự Tại Vương cũng
sanh ra tín tâm đối với chúng ta. Phật trước dùng thí dụ để nói. Thí dụ đại
hải
, một người dùng đấu để lường, biển quá lớn, đấu thì quá nhỏ, bạn có thể đem
nước của biển lớn lường hết hay không? Trên lý luận là có thể. “Kinh lịch kiếp
số”, nếu như bạn thật có tuổi thọ dài đến như vậy, tuổi thọ của bạn là vô lượng
kiếp
, bạn ngày ngày đi lường, nhất định sẽ có một ngày lường hết nước biển. Thí
dụ
này hay, trong thí dụ ám thị chúng ta phải có nghị lực, phải có quyết tâm,
vĩnh hằng bất biến, bạn liền có thể thành công.


Phía
sau này là chánh thuyết: “Nhân hữu chí tâm cầu đạo”, then chốt ở “chí
tâm”. Chí tâmchân tâm, không phải vọng tâm. Chân tâmtrí tuệ, vọng tâm
tình thức, ngày nay chúng ta gọi là dùng cảm tình để làm việc. Cảm tình mà làm
việc thì không đáng tin, cảm tình làm việc quyết định không thể dài lâu. Trong
ngạn ngữ thường nói: “Nhân vô thiên nhật hảo, hoa vô bách nhật hương”,
một người ngày ngày cùng nhau, người có ân ái hơn, mỗi ngày cùng thấy mặt nhau,
nhìn thấy đến một ngàn ngày thì không có gì tốt để nhìn nữa, không muốn nhìn
nữa. Không muốn nhìn thì sao? Muốn đổi cái mới, ghét cũ thích mới, tâm liền
biến đổi. Đó là phàm tình, cho nên thường tình của con người, phàm tình chính
là như vậy. Phật có trí tuệ, Phật thấy được rõ ràng. Phật nói với chúng ta
những thứ này là gì? Hư tình giả ý, vạn nhất không nên nhận là thật. Nhận là
thật thì bạn sẽ bị lỗ, thì bạn sẽ bị thiệt thòi. Bạn biết được thảy đều là giả,
họ ưa thích bạn là giả, quyết không phải là thật, cho nên đến khi chia tay thì
rất dễ dàng, không có chút đau lòng nào, vì là giả mà! Họ đến gây phiền phức
cho bạn, chọc cho bạn sân si cũng là giả thì bạn sẽ không bị thiệt thòi, bạn
cũng sẽ không khởi lên tức giận. “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, không
có thứ nào là thật. Phật có trí tuệ. Bạn phải từ chân tâm, chân tâmvĩnh
viễn
bất biến, trên kinh Lăng Nghiêm nói “thường trụ trụ chân tâm”, từ trong
chân tâm phát tâm muốn cầu đạo, chân tâm sẽ không thay đổi, cho nên mới tinh
tấn
không ngừng.


Hai
chữ tinh tấn này quan trọng. Trên kinh điển Đại thừa, Phật thường nói: “Bồ
Tát thiện căn duy nhất tinh tấn”
. Thiện căn của Bồ Tát chỉ có một điều.
Trong thiện pháp thế gian chúng ta có ba điều, ba thiện căn là không tham,
không sân, không si. Cho nên các vị phải nên biết, tham sân si đoạn rồi, bạn
khởi tâm động niệm lời nói việc làm mới là thiện hạnh, không việc gì không
thiện. Chỉ cần tham sân si chưa đoạn, việc thiện của bạn làm đều không đáng tin,
chưa hẳn là chân thiện. Không có tham-sân-si thì cái thiện đó mới gọi là chân
thiện. Đạo lý này chỉ có Phật mới có thể nói ra được, người phàm làm gì biết
được? Người phàm là lấy giả làm thật.


Thiện
căn
của Bồ Tát chỉ có một điều là tinh tấn. Chúng ta phải đặc biệt chú ý, tinh
là thuần mà không tạp, tiến là cầu tiến bộ, phải tinh tấn không ngừng nghỉ.
Không ngừng nghỉ chính là không gián đoạn. Pháp môn vô lượng vô biên, tôi trong
lúc giảng kinh cũng đã từng nhiều lần đưa ra một thí dụ, hy vọng mọi người từ
ngay trong thí dụ mà thể hội. Vô lượng pháp môn cũng giống như một trái banh,
bất cứ một điểm nào ở trên quả banh đều đại biểu cho vô lượng pháp môn. Bất cứ
một pháp môn nào, chỉ cần cùng trên mặt quả banh thành góc thẳng, bạn hướng vào
bên trong quả banh mà thâm nhập, bạn nhất định có thể đến được cái tâm của quả
banh. Tôi dùng cái này để thí dụ tinh tấn. Ngay khi bạn đến được cái tâm thì
chính là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh mà nhà Phật thường nói. Cho nên,
bất cứ một pháp môn nào cũng đều được, chỉ cần công phu dùng được chính xác,
bạn quyết định có thể kiến tánh. Sau khi kiến tánh, trong cái tâm của bạn, bao
gồm
tất cả, bất cứ một điểm nào ở trên mặt đều cùng một cái tâm, chỉ cần bạn
nắm lấy được cái tâm thì tất cả pháp có trên mặt banh bạn đều thông đạt hết.
Đại đức xưa nói với chúng ta, một bộ kinh thông thì tất cả kinh đều quán thông.
Bạn từ bộ kinh này mà kiến tánh, bạn từ cái pháp môn này mà kiến tánh, bạn từ
một câu danh hiệu A Di Đà Phật này mà kiến tánh thì thế xuất thế gian bao gồm
tất cả pháp, không có pháp nào mà không thông đạt. Không nhất định chỉ hạn cuộc
tham Thiền mới có thể minh tâm kiến tánh, mà bất cứ pháp nào cũng đều được.
Ngoài pháp Thích Ca Mâu Ni Phật giảng ra, thế gian tất cả pháp cũng được. Vậy
chúng ta muốn hỏi, trong tất cả pháp thế gian, tại vì sao từ trước đến giờ chưa
có người minh tâm kiến tánh? Góc độ của họ không đúng, họ không phải hướng vào
vòng tròn tâm mà nỗ lực, lại thêm một điều chính là công phu nỗ lực không đủ,
vẫn chưa đạt đến được tâm điểm, nửa đường thì họ bỏ cuộc, không chịu làm, vậy
thì
không thể thành tựu. Hiện tượng này chúng ta xem thấy ở trên kinh Hoa
Nghiêm
.


Trên
kinh Hoa Nghiêm chính là nói rõ thế xuất thế gian tất cả pháp không có pháp nào
không phải do tự tánh biến hiện ra. Hay nói cách khác, không có pháp nào mà
không tương ưng với tự tánh, cho nên Phật mới nói với chúng ta là tất cả pháp
đều đệ nhất, không chỉ là nói pháp môn của nhà Phật, không có khác biệt. Trên
kinh Kim Cang nói pháp môn bình đẳng, không có khác biệt. Phật pháp cùng thế pháp
cũng bình đẳng, cũng không có khác biệt, vấn đề chỉ cần góc độ và phương hướng
của bạn đúng, kiên trì dài lâu, tinh tấn không ngừng thì đều sẽ có kết quả, đều
có thể thành tựu. Cái điểm này chúng ta phải suy ngẫm. Người thế gian cầu học,
tu tập, luôn luôn là tâm quá gấp, hy vọng may mắn mau thành. Với cái tâm lý này
liền phạm lỗi lầm rất lớn. Người xưa thường nói: “Dục tốc thì bất đạt”. Chăm
chỉ nỗ lực một thời gian vẫn chưa có thành tựu thì buông bỏ, lại đi tìm pháp
môn
khác. Thường hay thay đổi như vậy, đổi vài lần thì đã đến tuổi già rồi, kết
quả là không thành được việc nào, một môn cũng không thể thành tựu. Thế pháp
cũng giống như Phật pháp, bạn muốn làm ra thành tích thì nhất định phải là một
môn thâm nhập, tinh tấn không ngừng.


“Hội đương khắc quả, hà nguyện bất đắc”, câu nói này của Phật không chỉ là
an ủi mà còn là khích lệ họ, bạn nhất định sẽ có kết quả, nhất định có thể thỏa
nguyện
vọng của bạn. Nhất ở vào thời đại hiện tại này, không luận làm bất cứ
việc gì, không thể nào không có chướng ngại. Nếu như gặp phải chướng ngại
tâm liền thoái chuyển thì quyết định không thể có thành tựu.



Lý Mộc Nguyên đối với Thôn Di Đà, bạn xem thử, ông phát nguyện, sau khi
nguyện đã phát ra thì thiết thực mà làm, không có ngày nào không nghĩ đến, ngay
đến tối ngủ nằm mộng cũng nghĩ đến. Thôn Di Đà đã được ông nghĩ tưởng như vậy
thành công. Chướng ngại ngay trong đó thật là nhiều, nhưng ông quyết không
thoái chuyển, quyết không thay đổi, đây chính là chí tâm mà cầu, vì chúng sanh,
không phải vì chính mình. Chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay tạo tác vô số nhân
duyên
bất thiện, ngày nay tuy là có Bồ Tát, tuy là có người muốn giúp ông làm
việc tốt cũng không tránh khỏi được ma chướng. Ma chướng nhất định phải có
thiện tri thứcchúng ta làm tăng thượng duyên, Phật lực sẽ gia trì, thế
nhưng nếu như không có người chăm chỉ nỗ lực mà làm thì sức của Phật cũng không
thể giúp được. Luôn phải có người làm việc thay Phật thì Phật lực mới có thể
gia trì được. Không có người chịu làm, Phật Bồ Táttừ bi hơn, oai thần sức
mạnh
có lớn hơn cũng luống không. Cho nên, chúng ta đối với thiện tri thức như
vậy cảm ân đội đức. Hai ngày qua ông nói với tôi, việc của Dương Lịch Cảng đàm
phán
cũng khá tốt rồi, lớp học của Yamaha hiện tại cũng đã tìm nơi để dọn đi.
Lý hội trưởng hạn định thời gian cho họ là sáu tháng. Người của đối phương hỏi
tại vì sao ông hạn định thời gian sáu tháng? Cư sĩ Lý nói tôi vì học sinh của
trường mà lo nghĩ, sáu tháng thì học kỳ này của chúng kết thúc rồi, không nên
để cho việc học tập của học kỳ này có chướng ngại. Ông mỗi niệm vì người mà lo
nghĩ
, không hề vì chính mình mà lo nghĩ. Học sinh luôn là một học kỳ thì kết
thúc
một giai đoạn, đến học kỳ sau, đổi một trường học khác để tiếp tục học tập
thì không có chướng ngại đối với việc học tập của chúng. Tâm trạng của Bồ Tát!
Cho nên ông hiện tại ngày ngày đang nghĩ tưởng, sau khi tiếp nhận rồi làm thế
nào tu sửa chỉnh lý lại? Chúng ta dọn qua bên kia làm thế nào vận dụng cái đạo
tràng
này mà đồng thời Thôn Di Đà cũng có thể khởi công? Tôi nghĩ Thôn Di Đà
đại khái bảy đến tám tháng có thể khởi công. Chúng ta có được một thiện tri
thức
như vậy, đại biểu chư Phật Bồ Tát, thực tiễn đại từ đại bi của Phật Bồ
Tát
, mỗi giờ mỗi phút đang chăm sóc chúng ta. Đây chính là có nguyện ắt thành.
Phải có tín nguyện kiên định, thật tâm tinh tấn không ngừng, huống hồ là vì
nguyện vọng lợi ích của đại chúng, quyết định được Phật Bồ Tát hộ niệm, long
thiên
thiện thần ủng hộ.


Bên
dưới là Tự Tại Vương Như Lai cụ thể dạy bảo Ngài phương pháp.


Kinh
văn: “Nhữ tự tư duy, tu hà phương tiện, nhi năng thành tựu, Phật sát trang
nghiêm
. Như sở tu hành, nhữ tự đương tri, thanh tịnh Phật quốc, nhữ ưng tự
nhiếp
”.


Đoạn
khai thị này của Phật đã nói ra ba chữ “tự”, đó là nhữ tự tư duy, nhữ tự đương
tri, nhữ ưng tự nhiếp. Ba chữ “tự” này ý nghĩa rất sâu. Khai đạo của Phật đối
với Ngài, loại phương thức này gần như là hoàn toàn giống nhau với thiền tông,
thiền cơ. Vậy thì do đây có thể biết, Pháp Tạng không phải là người thông
thường. Theo lý mà nói, thì nghe khai thị này của Phật, Ngài liền hoát nhiên
đại ngộ. Thế nhưng Ngài rất từ bi, Ngài không đem cái cảm thọ của Ngài hiển lộ
ra, cho nên phía sau giảng “kỳ nghĩa hoằng thâm, phi ngã cảnh giới”, kỳ thật
đây là đang biểu diễn để cho chúng ta xem. Chúng ta đối với khai thị của Thế
Gian
Tự Tại Vương đích thực là không thể thể hội, chúng ta không biết được Ngài
nói ra là cái ý gì. Cổ đức nói với chúng ta, ba chữ “tự” là trực chỉ nhân tâm,
ý nghĩa chính là nói, nếu bạn muốn cầu vô thượng đạo, nếu bạn muốn cầu y
báo
, chánh báo, phương pháp giáo hóa chúng sanh, ba loại trang nghiêm siêu
thắng cõi nước chư Phật thì phải cầu ngay trong tự tánh
. Phật nói là lời
chân thật. Lìa khỏi tự tánh, không thể tương ưng với tự tánh thì bạn quyết định
không thể mãn nguyện. Trong Phật pháp đã nói là “Phật thị môn trung, hữu cầu
tất ứng”. Tại vì sao nói được khẳng định đến như vậy, có cầu ắt có ứng? Hướng
vào trong tự tánh mà cầu thì liền hữu cầu tất ứng, hướng ra bên ngoài mà cầu
chưa chắc sẽ có ứng. Ngạn ngữ thường nói thế gian có hai cái khó là cầu người
khó, lên trời khó. Hướng vào chính mình mà cầu thì dễ. Bạn hướng đến Tự Tại
Vương
mà cầu cũng không được, Ngài cũng không giúp được cho bạn, Ngài chỉ có
thể dạy bạn. Bạn nhất định phải cầu ở chính mình. Cho nên, ba chữ “tự” này là
nói tự tánh, tự tánh của chính mình.


Trong
Phật pháp thường nói là “Tất cả pháp không rời tự tánh”, trên kinh Quán
Vô Lượng Thọ
đã nói là “tâm tác tâm thị”. Nguyên lý niệm Phật thành Phật
chính là hai câu nói này trên Quán kinh: “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”,
căn cứ đạo lý này niệm Phật thành Phật. Bạn phải chân thật hiểu rõ đạo lý này.
Thị tâm là Bồ Tát, thị tâm làm Bồ Tát; thị tâm là người, thị tâm liền làm
người. Là người thế nào vậy? Năm giới mười thiện là người, bạn ở trong mười
pháp giới, cái tâm đó liền biến thành người, thì làm người. Thị tâm thị quỷ,
thị tâm liền làm ngạ quỷ. Quỷ là gì vậy? Lòng tham. Người lòng tham nặng, chúng
ta
đều nói người đó là đầu óc của quỷ. Cái tâm đã làm quỷ rồi, tương lai họ đến
cõi nào vậy? Sẽ đi đến cõi quỷ. Nếu như tâm này có sân hận, đố kỵ sân hận, thị
tâm thị địa ngục, thị tâm liền làm địa ngục. Tất cả vạn pháp không lìa tự tánh,
Phật nói ra đạo lý này với chúng ta.


Pháp
Tạng
phát ra là tâm gì? Phát ra là tâm Phật thì đi làm Phật, hơn nữa còn siêu
việt
hơn tất cả chư Phật. Cho nên, chỉ cần bạn phát ra là chân tâm, tinh tấn
không ngừng, bạn nhất định sẽ được thánh quả. Trên kinh Đại thừa thường nói,
kinh Đại thừa là nói lời chân thật, nói cảnh giới thân chứng trên quả địa Như
Lai
, nhân quả đồng thời, đó là thật. Cho nên, tâm chúng ta khởi lên một niệm
tham, nghiệp nhân của đường ngạ quỷ liền thành tựu rồi, trong A Lại Da Thức đã
trồng xuống hạt giống của cõi ngạ quỷ rồi. Một niệm tâm sân khởi lên thì hạt
giống
của địa ngục đã thành tựu. Cái ý niệm này là nhân, chủng tử kết nghiệp
tập trong A Lại Da Thức là quả. Chủng tử nghiệp tập, quả lại biến thành nhân,
gặp được duyên liền khởi hiện hành, liền lại biến thành quả. Chủng tử khởi hiện
hành
, hiện hành gieo chủng tử vĩnh viễn đang tuần hoàn không dứt, đây chính là
chúng ta thường nói “vạn pháp giai không, nhân quả bất không”, nhân quả tuần
hoàn
chuyển biến thì có. Đây là Phật nói ra chân tướng của vũ trụ nhân sanh.


Phật
lại nói: “Nhân cái quả hải, quả triệt nhân nguyên”. Ý nghĩa của câu nói
này cực sâu cực rộng, nói rõ khởi tâm động niệm của chúng ta châu biến pháp
giới
. Pháp giớiquả hải. Không nên nói chúng ta làm một sự việc, đừng cho
rằng sự việc của chúng ta làm là rất ẩn mật, không có người nào biết được, vậy
thì
bạn hoàn toàn sai lầm. Ẩn mật của bạn không có người biết là chỉ có thể che
đậy
người ngu si, phàm phu ngu si không biết, chư Phật Bồ Tát làm gì mà không
biết chứ? Bởi vì bất cứ một ý niệm nào, ý niệm vừa khởi liền châu biến pháp
giới
, đây là các nhà khoa học hiện tại gọi là sóng tư tưởng. Tốc độ của sóng
tưởng
quá lớn, không cách gì tưởng tượng được, chỗ này mới vừa động liền châu
biến pháp giới
. Không như sóng động của vật chất, sóng động của vật chất, chúng
ta
nói sóng động của ánh sáng, sóng động của điện, sóng động của âm thanh, tốc
độ thì rất là chậm. Lấy cái biết hiện tại của chúng ta như hệ ngân hà, khoa học
gia nói với chúng ta, bên cạnh hai đầu của hệ ngân hà, từ bên cạnh bên đây đến
bên cạnh phía bên kia, dùng tốc độ của ánh sáng phải đi hai mươi vạn năm. Hai
mươi vạn năm tốc độ ánh sáng đó mới đến nơi, bạn mới biết được tốc độ của ánh
sáng chậm đến mức nào, ở trong thái không tốc độ của ánh sáng rất chậm. Thế
nhưng sóng của tư tưởng không như vậy, vừa mới động thì châu biến pháp giới,
cho nên có thể lập tức tương thông với chư Phật Bồ Tát. Chúng ta khởi lên một
niệm thiện, cảm ứng tương thông với Phật Bồ Tát, thiện thần. Chúng ta khởi lên
niệm ác, cũng khởi lên cảm ứng với ma vương, yêu ma, họ đến để giúp cái ác của
bạn thêm lớn, đến gia trì bạn, giúp cho bạn nhanh vào ba đường ác, nhanh chóng
đọa địa ngục, đó là yêu ma quỷ quái. Xem bạn khởi lên ý niệm gì, dùng cái tâm
gì, điều này quan trọng hơn bất cứ thứ gì.


“Quả
triệt nhân nguyên” là từ ở trên nhân mà nói. Chư Phật Như Laiquả địa, chúng
sanh
mười pháp giới khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, các Ngài đều biết.
Chỗ này trên kinh nói rất rõ ràng, thế giới Tây Phương Cực Lạc không chỉ A Di
Đà Phật
, chư đại Bồ Tát, phàm là người vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc,
cho dù là người hạ hạ phẩm vãng sanh, trên kinh đều nói là thiên nhãn đồng thị,
thiên nhĩ triệt thính, tha tâm biến tri. Vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc
quả báo, quả triệt nhân nguyên. Cho nên sau khi đọc kinh văn này rồi, chân
thật
là dựng cả lông tóc, chúng ta làm sao dám khởi lên một ác niệm nào, làm
sao dám làm việc xấu? Có được năng lực gì có thể giấu được người? Bạn cho rằng
giấu được người, chẳng qua là tự gạt mình gạt người mà thôi, đây là việc không
thể nào. Đây đều là nói lời chân thật với bạn. Biết rõ chân tướng sự thật, phát
ra một thiện nguyện, chân tâm phát nguyện, tinh tấn không giải đãi thì làm gì
mà không thành tựu? Nhất định thành tựu, nên gọi là “tâm tưởng sự thành”, đều
chân thật.



chỗ này Phật nói ra ba chữ “tự”, thực tế mà nói là hết lời khuyên bảo, ý nghĩa
rất sâu rất rộng. Cổ đức giảng kinh nói đến chỗ này cũng tiết lộ ra cho chúng
ta
một tin tức. Các Ngài nói ở trong đây chí ít có ba ý nghĩa.


Ý
nghĩa
thứ nhất là Tỳ kheo Pháp Tạng thiện căn sâu dày. Phía trước chúng ta đọc
đến, Thế Tônchúng ta giới thiệu người này là “cao tài dũng triết, dữ thế
siêu dị”. Đây không phải là người thông thường, mà là người rất thông minh, có
trí tuệ, có tâm từ bi, có nghị lực. Đối với hạng người này làm thế nào thành
tựu
cõi Phật trang nghiêmcần phải nói hay không? Ông phải chính mình biết
làm thế nào, đó là một ý. Cũng chính là nói rõ, không cần Phật phải nói ra
nhiều, ông chính mình phải nên biết nghĩ ra được, huống hồ thời gian gần bên
Như Lai rất dài, thường thường nghe kinh thính pháp, đã huân tập thành chủng,
không cần Phật phải nói ra nhiều, đây là một ý.


Ý
nghĩa
thứ hai là nói nhiếp thủ Phật quốc. Phía trước Ngài có cái nguyện vọng
này, nếu muốn siêu việt cõi nước chư Phật, hay nói cách khác, bạn không thể
không
biết đối với tình hình trong cõi nước chư Phật, nghiệp nhân quả báo,
luận
sự thật, sau đó bạn mới hiểu được làm thế nào chọn lựa, biết được làm
thế nào để lấy bỏ thỏa đáng. Căn tánh chúng sanh mười phương thế giới không như
nhau, ưa thích cũng không như nhau, có một số cõi PhậtTịnh Độ, có một số
cõi Phậtuế độ, có một số cõi Phật chúng sanh trong đó rất phức tạp (như thế
giới
Ta Ba chúng ta thì rất phức tạp), có một số cõi nước thì rất đơn thuần.
Loại nhiếp thủ này tùy theo ý của bạn. Bạn ưa thích lấy bỏ thế nào, đó là việc
của chính bạn, người khác làm sao có thể miễn cưỡng bạn được? Tùy theo nhu cầu
của người, tùy theo sở thích của người, cái ý này chính là nói cũng không cần
Phật phải chỉ dạy cho bạn, bạn chính mình thông minh như vậy, có trí tuệ như
vậy, cho nên bạn đều có năng lực phân biệt thiện ác phải quấy, chân vọng lợi
hại
. Đây là ý thứ hai.


Ý
nghĩa
thứ ba là nói, phạm hễ ở Tịnh Độbáo độ, ở trong đây có tự có tha. Báo
độ
, chúng ta thường nói cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Cõi Thật Báo Trang Nghiêm
báo độ của Như Lai, Bồ Tát cũng không có phần. Chỗ này nói với chúng ta một
việc gì vậy? Đó là hoàn cảnh y báo của chúng ta, cũng chính là nói hoàn cảnh
sinh hoạt của chúng ta, hoàn cảnh sinh hoạt tốt xấu là từ nơi tâm chúng ta biến
hiện ra. Tâm của bạn tốt thì hoàn cảnh cư trụ của bạn liền tốt, tâm của bạn bất
thiện
thì hoàn cảnh cư trụ của bạn liền bất thiện, y báo tùy theo chánh báo
chuyển. Phật là đạt đến chí thiện cứu cánh viên mãn, cho nên báo độ của Ngài
trang nghiêm, chư đại Bồ Tát cũng không thể nào so sánh. Báo độ Như Lai trang
nghiêm
, Phật Bồ Tát có thể hưởng thụ hay không? Chưa hề thấy. Có thể hưởng thụ
mấy phần nhưng không thể nào hưởng thụ đến viên mãn, tại vì sao vậy? Không phải
cảnh giới chính mình. Cái ý này rất sâu.


Ngày
nay, thế giới này của chúng ta trược ác đến cùng tột, ở trên kinh Phật nói “đời
ác năm trược” không sai chút nào. Ba ngàn năm trước đã nói xã hội của ba ngàn
năm sau, dường như Thế Tôn chính mắt nhìn thấy, trược ác đến cùng tột. Tại vì
sao có thể biến thành ra như vậy? Biến thành ra như vầy là do tất cả chúng sanh
kiến
giải sai lầm, tư tưởng sai lầm, kiến giảitư tưởng hoàn toàn trái với
tự tánh. Do bởi tư tưởng cùng kiến giải sai lầm mới sanh khởi vô lượng vô biên
phiền não. Các vị phải nên biết, trong năm trược thì hai điều này là nhân tố
quan trọng nhất, sau đó mới có chúng sanh trược (vô số chúng sanh đại địa, động
vật
thực vật khoáng vật đều biến chất), mạng trược (đời sống rất gian nan, rất
đau khổ, thọ mạng ngắn ngủi, bệnh tật tăng nhiều, bệnh tật kỳ lạ đều xuất
hiện
ra), hợp lại nên gọi là kiếp trược. Thời đại này thật không tốt, là thời
đại
kiếp nạn. Chúng ta làm sao cứu vãn? Vẫn phải từ kiến giải, cứu vãn từ trên
tư tưởng. Nếu như chúng ta đem cách nhìn cách nghĩ sai lầm của chúng ta đều có
thể sửa đổi làm mới lại, người người đều có chánh tri chánh kiến, tư tưởng kiến
giải
gần giống với chư Phật Bồ Tát, hoàn cảnh y báo của chúng ta cũng sẽ chuyển
đổi
lại. Phật pháp có thể giúp đỡ tất cả chúng sanh, “độ tất cả khổ ách”, đạo
chính ngay chỗ này. Cho nên, trong ba ý nghĩa thì ý nghĩa này rất sâu.


Tự
Tại Vương
Như Lai giáo huấn Pháp Tạng là “thanh tịnh Phật quốc ông phải nên tự
nhiếp”. Ngài Pháp Tạng hiểu rõ những nguyên tắc nguyên lý này. Không hiểu rõ
vậy sao Phật phải nói với Ngài là ông hiểu rõ đạo lý này rồi, hiểu rõ những
nguyên tắc nguyên lý này, những vấn đề này cần phải hỏi nữa hay sao? Lời đáp
này của Phật gần như là đáp không cần hỏi, trên thực tế ý nghĩa rất sâu.


(Còn
tiếp …)


KINH
ĐẠI THỪA
VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC


Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG


Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ