Đường Đến Bình An Thật Sự (7)

0
39

ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ (7) 
Trích dẫn Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Trích dịchTuệ Uyển

dalialama-010231237dalialama-010231237
Tự chính chúng ta và tất cả những chúng sinh khác muốn hạnh phúchoàn toàn
thoát khỏi khổ đau. Trong điều này chúng
ta
thật sự bình đẳng. Tuy vậy, mỗi chúng
ta
chỉ là một cá thể, trong khi những chúng sinh khác là vô lượng.


Có hai thái độ để quan tâm: đó là vị kỷ
yêu mến chính chúng ta và đó là yêu mến những những người khác. Thái độ tự yêu mến một cách vị kỷ làm cho
chúng ta cứng nhắc, chúng ta nghĩ là chúng ta cực kỳ quan trọng và khao khát
căn bản của chúng ta là cho chính chúng ta được hạnh phúc và cho mọi thứ diễn
tiến
tốt đẹp cho chúng ta. Tuy vậy,
chúng ta không biết làm thế nào để đem đến điều này. Trên thực tế là hành động yêu mến vị kỷ không
bao giờ làm cho chúng ta hạnh phúc. Những ai đó có thái độ yêu mến người khác
nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đở người
khác trên tất cả những thứ khác, và, hành động trong cách này, ngẫu nhiên tự họ
trở nên rất hạnh phúc


Tạm thời bỏ qua một bên tôn giáo, đời sống tái sinhniết bàn, ngay cả trong
đời
sống hiện tại những người vị kỷ đem đến những phản ứng tiêu cực ngược lại
cho chính họ bởi những hành động của vị kỷ của họ. Người chân thành cống hiến cả
cuộc đờinăng lực vô vị lợi phục vụ cho những người nghèo túng, khốn cùng,
và neo đơn, luôn luôn được ghi nhớ bởi những hành động cao quý của họ, với sự
kính trọng; những người khác không có bất cứ điều gì tiêu cực để nói về họ. 


Đây là kết quả của sự yêu mến những kẻ khác: cho dù chúng ta có muốn hay không, ngay những kẻ không phải là người
thân cũng luôn luôn yêu thích chúng ta, cảm thấy vui vẻ với chúng ta và có một
cảm giác ấm áp đối với chúng ta. Nếu
chúng ta là loại người luôn luôn nói năng lich sự trước mặt những người khác những
lại nói xấu sau lưng họ, dĩ nhiên, không ai thích chúng ta.


Trong đời sống này, nếu chúng ta cố gắng giúp đở kẻ khác bằng nổ lực tối đa mà
chúng ta có thể làm và có ít nhất những tư tưởng ích kỷ, chúng ta sẽ có nhiều
kinh nghiệm của hạnh phúcĐời sống
chúng ta không quá dài; một trăm năm là tối đa. Nếu trãi qua đời sống này chúng ta cố gắng ân cần, với một trái tim ấm
áp, lưu tâm cho lợi ích của những người khác và ít vị kỷ cùng sân hận, điều ấy
sẽ thật tuyệt vời, xuất sắc, điều ấy thật sự là nguyên nhân của hạnh phúc


Đừng lo lắng về kiếp sống tới hay niết bàn; những việc này sẽ tiến đến dần dần. Nếu trong kiếp sống này chúng ta thể hiện
một người tốt, ấm áp, không ích kỷ, chúng ta sẽ là một công dân tốt của thế giới. Cho dù chúng ta là một Phật tử, một Ki tô hữu
hay là một người cộng sản không quan hệ; điều quan trọng là khi nào chúng ta vẫn
là một con người chúng ta nên là một con người tốt. Đấy là giáo nghĩa của Đạo Phật; đấy cũng là thông điệp của tất cả mọi tôn
giáo
trên thế giới.


Tâm thức chúng ta cực kỳ giảo quyệt và rất khó kiểm soát, nhưng nếu chúng ta tiến
hành những tác động ảnh hưởng liên tụckiên định, hành động không mệt mõi với
suy luận hợp lý và phân tích cẩn thận, chúng ta sẽ có thể kiểm soátchuyển
hoá
tốt hơn.


Nếu chúng ta nuôi dưỡng, ấp ủ những tâm tư phiền não tiêu cực như giận tức
chúng sẽ trở thành một thành phần của mỗi chúng ta; mỗi lần chúng ta biểu lộ giận dữ nó trở nên dễ
dàng để biểu lộ như thế một lần nữa. Chúng ta cứ làm như thế lần này rồi lần khác cho đến khi chúng ta đơn giản
chỉ là một người cuồng dại hoàn toàn không thể kiểm soátVì vậy, trong phạm trù của những vấn đề tinh
thần
, có những điều nào đấy thích đáng để bày tỏ còn những vấn đề khác thì
không nên.


Trước tiên chúng ta cảm thấy khó khăn trong việc cố gắng để kiểm soát những tâm
phiền não tiêu cực. Ngày đầu tiên, tuần
đầu tiên, tháng đầu tiên chúng ta không thể kiêm soát chúng tốt đẹp được. Nhưng với sự liên tục tác động những tiêu cực
của chúng ta sẽ dần dần giảm xuống. Tiến
trình trong sự tu dưỡng phát triển tâm không phải đến từ việc dùng thuốc uống
hay những thứ hóa chất khác; nó tùy thuộc vào việc kiểm soát tâm.


Chúng ta có thể thấy rằng nếu chúng ta muốn hoàn thành những nguyện ước của
chúng ta, là tạm bợ tức thời hay căn bản rốt ráo, chúng ta nên hướng thệ nguyện
đến những chúng sinh khác nhiều hơn cả là những viên ngọc ước và luôn luôn yêu
mến họ trên tất cả những thứ khác.


Nếu chúng ta không có động cơ trong sạch, bất cứ những gì
chúng ta làm có thể không hoàn thiện, không toàn hảo, không thỏa mãn. Vì vậy,
việc trước nhất chúng ta nên làm là phát triển động cơ trong sạch. Nhưng chúng
ta
không phải chờ cho đến khi động cơ ấy hoàn toàn phát triển trước khi thật sự
hành động giúp đở những kẻ khác. Dĩ nhiên, để giúp đở những kẻ khác trong những
phương thức hữu hiệu nhất có thể chúng ta phải hoàn toàn giác ngộ như những Đức
Phật
.


Giúp đở những người khác trong những phương thức rộng lớn
bao quát cùng khắp, chúng ta cần đạt đến những tầng bậc của một vị Bồ tát, đấy
là, phải có kinh nghiệm trực tiếp, nhận thức vô phân biệt thực tại của tính
không
và phải đạt đến những năng lực ngoài những giác quan cảm giác thông thường,
tức là thần thông. Tuy vậy, có nhiều trình độ khác nhau để giúp đở những người
khác. Ngay cả trước khi chúng ta đạt đến những phẩm chất này chúng ta có thể
hành động như những vị Bồ tát, nhưng thông thường những hành động của chúng ta
kém hiệu quả hơn những vị ấy.


Không phải đợi cho đến khi chúng ta đấy đủ hoàn toàn những
phẩm chất, mà
chúng ta có thể phát sinh những động cơ tốt đẹp, hảo tâm
thiện ý và với sự cố gắng đấy để giúp đở những kẻ khác trong những phương thức
tốt nhất mà chúng ta có thể hành động. Điều này là một sự tiếp cận cân bằng hơn
tốt hơn là chỉ đơn giản ẩn trú một nơi cô lập nào đấy để thiền địnhtụng
niệm
.
Dĩ nhiên, điều này tùy thuộc rất
nhiều trên từng cá nhân. Nếu chúng ta tin tưởng rằng an trú tại một nơi biệt lập
chúng tathể đạt được những sự thực chứng rõ rệt trong một thời điểm nào đấy,
đó lại là chuyện khác. Có lẻ tốt nhất nên dành phân nửa thời gian của chúng ta
để hoạt động và phân nửa kia để thực tập thiền định.


Không kể chúng ta là ai với chúng ta, chúng ta thường nghĩ những việc như, “Tôi
mạnh hơn người kia, “ tôi đẹp hơn người kia”, tôi thông minh hơn người kia,”
tôi giàu có hơn”, tôi xứng đáng hơn người kia rất nhiều”, v.v và v.v…- chúng ta phát sinh rất nhiều tự hào. Điều này không tốt. Thay vì vậy, chúng ta nên luôn luôn duy trì
khiêm tốn. Ngay cả khi chúng ta giúp đở
những kẻ khác và tham gia vào hoạt động từ thiện, chúng ta không nên xem chính mình trong cách kiêu căng như những
người hộ vệ vĩ đại lợi ích những kẻ yếu. Điều này cũng là kiêu ngạoTốt hơn, chúng ta nên liên hệ trong những
hành động như thế một cách thật khiêm tốn và nghĩ rằng chúng ta dâng hiến sự phụng
sự
của chúng ta đến mọi người.


Khi chúng ta so sánh chúng ta với những con thú, thí dụ, chúng ta có thể nghĩ,
“ta có thân thể một con người” hay “ta là người thọ giới” và cảm thấy cao hơn
những người khác. Cũng từ quan kiến ấy,
chúng ta có thể nói rằng chúng tathân thể con người và đang thực hành lời
Phật dạy
vì vậy chúng ta thật rất là hơn hẳn những côn trùng. Nhưng bằng cách khác, chúng ta có thể nói rằng
những côn trùng thì thật vô tội và chẳng
bao giờ lừa đảo, nhưng trái lại chúng ta thường dối trá , xuyên tạc, bóp méo
chính mình trong trong những cách không thành thật để đạt đến mục tiêu cuối
cùng
hay tự làm mình hơn những người khác. Từ quan kiến này chúng ta phải
nói là chúng ta thật tệ hơn những côn trùng, điều mà chúng chỉ tiến đến những
hành động của chúng mà không giả vờ bất cứ điều gì. Đây là một phương pháp rèn luyện trong khiêm
tốn nhún nhường.


Nếu khảo sát tâm chúng ta tại những thời điểm mà chúng ta thật ích kỷ và bận rộn
với chính mình để loại trừ những người khác, chúng ta sẽ thấy rằng tâm thức phiền
não
tiêu cực là gốc rể của thái độ này. Vì lẻ chúng quấy rầy tâm chúng ta cực độ, thời điểm chúng ta để ý rằng
chúng ta đang tiến đến gần sự ảnh hưởng của chúng, chúng ta nên áp dụng một số
biện pháp hóa giải chúng. Đối thủ phổ
thông
với tất cả những tâm thức phiền nãothiền định trên tính không, nhưng
cũng có thuốc giải đến từng loại đặc hữu
chúng ta những người mới bắt đầu có thể áp dụngVì vậy, đối với chấp ngã, thủ trước, dính mắc,
chúng ta thiền định trên tính xấu xí; với giận tức , trên yêu thương; với
quáng
si mê, trên duyên khởi; cho nhiều tư tưởng phiền não, trên hơi thở
năng lựơng của gió.


Mười hai nhân duyên, hay duyên khởi tùy
thuộc
tương liên. Chúng bắt đầu bằng
minh
và đi qua đến già và chết. Trên những trình độ vi tế hơn chúng ta có thể
dùng duyên khởi như một nhân để chứng minh rằng mọi sự, mọi vật thì trống rỗng trong sự hiện hữu thật sự.


Một loại yêu thương khác, sự ân cần tử tế, nó không căn cứ trên lý do rằng “những
người như vậy và như thế là xinh đẹp, vì vậy, tôi phải tôn trọng và tử tế.” Căn bản thiết yếu của lòng yêu thương tinh
khiết
 là, “Đây là một chúng sinh muốn
vui tươi hạnh phúc, không muốn phiền muộn khổ đau và có quyền để hạnh
phúc
Vì vậy, tôi nên cảm nhận yêu
thương
từ bi.” Loại yêu thương này
hoàn toàn khác biệt với loại yêu thương đầu tiên, điều căn cứ trên sự si mê
minh
vì vậy hoàn toàn không lành mạnh, không chính đáng. Đấy là những lý do của lòng yêu thương rộng lớn
hay từ bilành mạnh, chính đáng, đúng đắn


Chúng ta nên nghĩ, “người kia là một con người như tôi. Chắc chắn là tôi muốn hạnh phúc; vì vậy, người
ấy cũng phải muốn hạnh phúc. Như một chúng
sinh
tôi có quyền để hạnh phúc; cùng lý do ấy, người kia cũng thế, có quyền để
hạnh phúc an lạc. “Lý do chính đáng này
cho khởi lên một lòng yêu thươngtừ bi. Thế thì không cần biết quan niệm của chúng ta với sự thay đổi của người
kia là thế nào – từ tốt đến xấu đến vô cùng tệ hại – người kia luôn luôn căn bản là một chúng
sinh
Vì vậy, lý do chính để hiển lộ
lòng từ bi yêu thương là luôn luôn ở đấy, cảm nhận của chúng ta đối với người
kia là kiên định một cách toàn hảo.


Thuốc giải độc cho sân hận-giận tức là thiển định về yêu thương, bởi vì sân hận-giận
tức là một tâm thức rất thô lổ, sống sượng, cộc cằn vì thế cần được làm dịu
dàng
, mềm mỏng với tình yêu thương.

-Khi chúng ta vui thích với những đối tượng mà chúng ta nối kết, gắn bó, hay dính
mắc, chúng ta chắc chắn trải qua kinh nghiệm hân hoan, khoái lạc hay thú vị;
nhưng như Tổ Long Thọ đã từng nói, điều ấy như có một mụn ngứa và gảy ngứa; nó
cho chúng ta sự thích ý nhưng chúng ta sẽ khá hơn nếu trước tiên chúng ta đừng
có cái mụn ngứa ấy. Cũng giống như thế, khi chúng ta nhận được những thứ mà với
chúng, ta bị ám ảnh, mê thích chúng ta cảm thấy vui sướng, nhưng chúng ta sẽ
khá hơn nếu chúng được tự do với điều mà chúng ta bị dính mắc,vướng bận, mong mỏi và là nguyên nhân để chúng ta trở nên bị ám ảnh
với những thứ ấy.


Nếu có những người xỉ vả, ngược đãi hay bình phẩm, chỉ trích chúng ta, nói rằng
chúng ta kém cõi, bất tài, không đủ khả năng làm bất cứ việc gì, v.v…, chúng ta chắc là có thể rất giận dữ và phản
bác lại những gì người kia nói. Chúng ta
không nên hành động như vậy, thay vì thế, với sự khiêm tốn và bao dung, chúng
ta
nên chập nhận những gì đã được phát biểu.


Nơi mà nói rằng chúng ta nên chấp nhận thất bại và nhường sự thắng lợi cho người
khác, chúng phải phân làm hai loại khác
nhau của tình trạng. Nếu một mặt, chúng
ta
bị ám ảnh với lợi ích của chính chúng ta và động cơ rất là ích kỷ, chúng ta
nên chấp nhận thua cuộc và nhường chiến thắng cho kẻ khác, ngay cả có thể đời sống
chúng ta bị lâm nguy. Nhưng có thể về
phương diện khác, trường hợp tình trạng như vậy mà quyền lợi của những kẻ khác
bị lâm nguy, chúng ta phải hành động thật năng nổ và đấu tranh vì quyền lợi của những người khác, và không chấp nhận
thua cuộc với bất cứ giá nào.


Một trong bốn mươi sáu thệ nguyện của một vị Bồ tát liên hệ đến một trường hợp
khi mà ai đấy làm những hành vi rất là tai hạichúng ta phải dùng đến những
biện pháp vũ lực hay bất cứ cách nào khác cần thiết để chấm dứt những hành vi bạo
ngược của kẻ ấy lập tức – nếu chúng ta không hành động, chúng ta vi phạm lời thệ
nguyện
ấy. 


Thệ nguyện của một vị Bồ tát đáp ứng với một tình trạng mà điểm chính yếu là sự
quan tâm của một người đối với quyền lợi của những kẻ khác: nếu ai đấy đang làm
những hành vi cực kỳ tai hại và nguy hiểm thì thật là sai lầm nếu không có những
hành động mạnh mẻ để chấm dứt chúng, nếu cần thiết.


Ngày nay, ngay trong những xã hội tranh đua, những hành động tự vệ mạnh mẽ hay
tương tự như thế thì thường luôn luôn được đòi hỏi. Động lực như thế này không nên bị ích kỷ nhuốm màu nhưng là những cảm giác rộng
rãi
bao la của ân cầntừ bi yêu thương đối với kẻ khác. Nếu chúng ta hành động với những cảm nhận, ý
thức
như thế để hổ trợ, cứu giúp kẻ khác tránh khỏi tai họa do những nghiệp cảm
tiêu cực tạo ra, điều này hoàn toàn đúng đắn.


Tịch Thiên Tôn giả nói rằng những lợi ích của những hành động được làm với tâm
bồ đềtác dụng nhiều hơn là những tiêu cực đối với khi hành động không có động
cơ như thế. Mặc dù nó cực kỳ quan trọng,
những có thể đôi khi thật khó khăn để thấy lằn ranh giữa điều gì nên làm và điều
gì không nên làm, vì vậy, chúng ta nên học hỏi những kinh luận giải thích về những
điều như thế. Trong những luận giải thấp
hơn nó sẽ nói rằng những hành vi nào đấy là bị cấm đoán trong khi những luận giải
cao hơn nói với chúng ta rằng cũng cùng những hành vi ấy nhưng được cho
phép
. Càng thông hiểu hơn về tất cả những
điều này nó càng dễ dàng hơn, nó sẽ được quyết định điều gì nên làm trong bất cứ
mọi trạng huống.


Thông thường chúng ta dự tưởng rằng những ai đấy mà mình từng giúp đở những gì
to tát là phải rất biết ơn chúng ta và nếu họ lại hành động đến mình với sự
ơn
chắc là chúng ta phải giận dữ. Trong những trường hợp như thế, chúng ta
không nên khó chịu nhưng thay vì thế phải thực hành nhẫn nại. Hơn thế nữa,
chúng ta nên thấy những người như thế là những vị thầy thử thách sự nhẫn nhục của
chúng ta và vì thế nên đối xử với họ một cách tôn trọng. Đề mục này chứa đựng tất
cả trong “Hướng dẫn lối sống của Bồ tát” về nhẫn nhục.

– Chúng ta cũng có thể thấy rằng những hữu
tình
chúng sinh khác ngập tràn khổ đau nhưng không biết làm thế nào để lìa xa đau
khổ
Vì vậy, nên phát sinh ý niệm gánh
vác
tất cả những khổ đau và nghiệp báo tiêu cực và nguyện cầu cho nó chín muồi,
trổ quả trên chính chúng ta ngay lập tức. Giống như thế, rõ ràng những hữu tình chúng sinh trống vắng hạnh phúc, họ
tìm kiếm nhưng không biết làm thế nào để gặp được hạnh phúcVì vậy, không có chút gì bỏn xẻn xan lẫn,
chúng ta nên dâng hiến cho họ tất cả những hạnh phúc của chúng tathân thể,
phú quý và công đức – và cầu nguyện cho những điều này chin muồi, kết quả trên
họ ngay lập tức. Không chắc rằng chúng
ta
thật thực sự có thể gánh vác những khổ đau của kẻ khác và trao tặng hạnh
phúc
của chúng ta cho họ hay không. Nhưng khi những hoán chuyển như thế giữa những hữu tình chúng sinh thật
sự xảy ra, nó là kết quả của một số liên hệ nghiệp quả liên tục rất mạnh mẻ nào
đấy từ quá khứ kiếp. Tuy thế, sự thiền định
đề
mục này là rất mãnh liệt có ý nghĩa của việc xây dựng nên sự can đảm trong
tâm chúng ta và vì thế là một thực hànhlợi ích cao thượng.


Trong “Bảy điểm chuyển hóa tâm” nói rằng
chúng ta nên luân phiên thực hành “cho và nhận” và trang bị chúng trên từng hơi
thở
. Và ở đây, Langri Tangpa nói rằng những
điều này nên được hoàn thành một cách bí mật. Khi nó được giải thích trong “Hướng
dẫn lối sống của Bồ tát
”, điều thực
hành
này không thích hợp với tâm lý những Bồ tát sơ tâm – nó là những gì được
chọn lựa ở một số ít hành giả. Vì thế,
nó được gọi là bí mật.


Tôn Giả Tịch Thiên (Shantideva) đang nói rằng tại nhưng thời điểm khi những
tưởng
tự luyến ái khởi lên mảnh liệt chúng ta phải tranh luận rất mạnh mẻ với
chính mình và dùng những ý nghĩa sinh động đầy sức thuyết phục để chinh phục
hay làm dịu chúng xuống; trong ý nghĩa khác, chúng ta phải tự làm tổn hại hay
hao mòn tâm thức tự ngã ái luyến chính mình. Chúng ta phải phân biệt rõ ràng giữa cái “tôi” hoàn toàn bị ám
thị với những quyền lợi của chính nó và cái “tôi” sẽ trở nên giác ngộ: đấy là một sự khác biệt lớn lao. 


Nếu nó thật sự lợi ích cho người khác, nếu nó lợi ích ngay cả cho một chúng
sinh
, nó xứng đáng cho chúng ta đảm đương trên chính mình những khổ đau hiện hữu
trong tam giới hay đi đến một trong những địa ngục, và chúng ta nên có sự can đảm,
dõng cảm để làm điều này. Để đạt đến
giác ngộ vì lợi ích của chúng sinh chúng ta nên hoan hỉ, quyết tâm và tự nguyện
để sống ở địa ngục thấp nhất, ngục A tỳ, trong thời gian vô tận. Đây là ý nghĩa của việc đảm đương những tổn hại,
điều làm khổ sở, đớn đau,ưu phiền của kẻ khác trên chính chúng ta. Nếu chúng ta
phát triển một nguyện ước mãnh liệt, chân thành để tái sinh trong những cảnh giới
thấp
nhất vì lợi ích của những chúng sinh khác, chúng ta sẽ tích tập được một
công đức to lớn vô biên và điều ấy sẽ mang đến những kết quả ngược lại.


Tại sao chúng tôi nói rằng, nếu chúng ta ích kỷ thì chúng ta nên ích kỷ một
cách thông minh. Thực tế, hay hẹp hòi,
ích kỷ làm nguyên nhân chúng ta đi xuống; thông minh ích kỷ đưa chúng ta đến Phật
quả
. Điều ấy thật sự thông tuệ! Bất hạnh
thay, điều chúng ta thường làm trước nhất là đến với Phật quả. Theo kinh điển, chúng ta hiểu rằng để đạt đến
Phật quả chúng ta cần tâm bồ đềnếu không có nó chúng ta không thể trở nên
giác ngộ; vì vậy chúng ta nghĩ, “tôi
muốn quả Phật, vì thế tôi phải thực hành bồ đề tâm.” 
Chúng ta không quá quan tâm nhiều đến bồ
đềtâm cũng như Phật quả. Điều này là sai
lầm
một cách chắc chắnChúng ta phải
làm ngược lại; hãy quên động cơ ích kỷ và thật sự nghĩ làm thế nào để giúp kẻ
khác.


Nếu chúng ta đến địa ngục chúng ta không thể giúp đở cho người khác hay chính
mình. Chúng ta làm thế nào để giúp? Không phải chỉ bằng bố thí cho họ vài thứ gì
đấy hay thi thố thần thông, nhưng bằng diễn giảng giáo phápTuy nhiên, trước nhất chúng ta phải có đủ năng lực để giảng dạy.


Để có thể hổ trợ những người khác trong phương pháp rộng rãi nhất bằng sự hướng
dẫn họ theo toàn bộ con đường giác ngộ, trước hết chúng ta phải giác ngộ cho
chính mình. Vì lý do này chúng ta nên thực
hành
tâm bồ đề. Điều này hoàn toàn khác
biệt với cách suy nghĩ thông thường của chúng ta, khi mà chúng ta bị buộc phải
nghĩ về những người khác và dâng hiến trái tim của chúng ta cho họ do bởi sự
quan tâm ích kỷ về sự giác ngộ của chính chúng ta. Cách này hướng về những thứ hoàn toàn sai lạc,
một loại lừa phỉnh.


Chúng ta trì niệm mật ngôn OM MANI PADME HUM và dâng hiến công đức ấy cho sự
nhanh chóng đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinhChúng ta có thể nói rằng chỉ bằng sự trì niệm
mật ngôn chúng ta sẽ tốc chứng giác ngộ, nhưng chúng ta có thể nói rằng những sự
thọ trì như thế hành động như sự đóng góp cho NHÂN của giác ngộ. Giống như thế, trong khi sự thực hành giáo
pháp
của chúng ta sẽ không tự hổ trợ thân quyến của chúng ta không đến những sự
tái sinh thấp hơn, nhưng nó có thể hoạt động như một sự góp phần cho NHÂN này.


Nếu sự hành trì của chúng ta hoạt động như nguyên nhân chính yếu của một kết quả
được trải nghiệm bởi những người khác, nó sẽ mâu thuẩn với luật nghiệp báo, sự
liên hệ giữa nguyên nhânhiệu quả. Thế
thì chúng ta chỉ giản dị ngồi lại và nghĩ ngơi thoãi mái và để chư Phật cùng
các vị Bồ Tát làm mọi thứ cho chúng ta; chúng ta sẽ không phải nhận lấy một
trách nhiệm nào đối với lợi ích của chính mình. Tuy thế, Đấng giác ngộ hoàn toàn đã từng nói rằng tất cả những gì ngài
có thể làm là giảng dạy, chỉ dẫn chúng ta giáo pháp, con đường giải thoát khỏi
khổ đau, và thế là nó tuỳ thuộc vào chúng ta đặt mình vào sự thực hành – Ngài
đã rửa tay của Ngài đối với trách nhiệm ấy! Như đạo Phật đã dạy rằng không có đấng tạo hoá và rằng chúng ta tạo dựng
mọi thứ cho chính chúng ta, vì thế chúng tađạo sư của chính chúng ta – trong giới hạn của luật nhân quả


Và đây là luật nghiệp báo dạy rằng nếu chúng ta làm việc lành chúng ta sẽ trải
qua
kết quả kinh nghiệm lành và nếu chúng ta làm việc xấu chúng ta sẽ phải trải
qua
những kinh nghiệm của bất hạnh, khổ đau.


Chúng ta nhận thức rằng, “điều khổ
đau này tôi đang gánh chịu là lỗi lầm của tôi hoàn toàn, kết quả của những hành
động của chính tôi tạo nên trong quá khứ. Vì rằng tôi không thể tránh khỏi nó tôi phải sống với nó. Tuy vậy, nếu tôi muốn tránh khổ đau trong tương lai tôi cũng có thể hành động bằng
sự phát triển đạo đức như nhẫn nhục chẳng hạn. Tức tối hay giận dữ với khổ đau này sẽ chỉ tạo nên những nghiệp tiêu cực,
nguyên nhân của bất hạnh tương lai”
. Đây là một cách thực hành nhẫn nhục.


Một việc khác chúng ta có thể làm là thiền định trên sự khổ đau tự nhiên của
thân thể: “Thân thể và tâm thức này
là cơ sở của tất cả những khổ đau, nó là tự nhiên và không có cách nào trông
mong rằng khổ đau ơi, đừng khởi lên.” Loại nhận thức này hổ trợ rất hiệu quả cho việc phát triển nhẫn nhục.


Nếu có một phương pháp vượt thoát khổ đau hay một cơ hội để làm như thế, chúng ta
không phải lo lắng. Nếu thật sự không có
chúng ta có thể làm để thoát khổ, lo lắng cũng không giúp được gì cả. Điều này thật đơn giản và rất rõ ràng.


Những gì khác chúng ta có thể làm là suy tư sự bất lợi của tức giận và thuận lợi
của thực hành nhẫn nhụcChúng ta là những
con người – một trong những phẩm chất hơn hẳn của chúng ta là khã năng suy nghĩ
phán đoán của chúng ta. Nếu chúng ta
mất nhẫn nại và lại tức giận, chúng ta mất đi khã năng để thực hiện những phán
xét cụ thể và vì thế mất đi một trong những công cụ hiệu lực nhất mà chúng ta
có để giải quyết những vấn nạn: đấy là tuệ trí của con người. Đây là những gì mà thú vật không có. Nếu chúng ta mất đi nhẫn nhục, và lại cáu tức
chúng ta đang làm tổn hại đến công cụ quý giá này. Chúng ta nên nhớ điều này; nó càng tốt hơn
nhiều để có can đảmquyết địnhđối diện với khổ đau bằng nhẫn nhục.


Chúng ta phải phân biệt giữa sự tin tưởng vào những khã năng và lòng tự hào của
chúng taChúng ta phải nên tin tưởng
vào bất cứ những phẩm chất và khã năng thiện xảochúng ta có và sử dụng
chúng một cách quả cảm, can trường, nhưng chúng ta không nên có cảm xúc kiêu căng, ngạo mạn, tự mãn về
chúng. Hiện hữu khiêm tốn hay bình thường
không có nghĩa là cảm thấy hoàn toàn bất tài, kém cõi, và không tự lo liệu được. Sự khiêm tốn nhún nhường được phát triển như
sự đối lập với tự kiêu, nhưng chúng ta nên sử dụng bất cứ những phẩm chất tốt đẹp
nào mà chúng ta có đến sự trọn vẹn của nó.


Một cách lý tưởng, chúng ta nên có một sự đáp ứng rộng rãi của lòng can trường,
quả cảmnăng lực nhưng không phải là sự khoác lác, niềm kiêu hảnh hay làm một
sự phô trương lớn về nó. Rồi thì, những
khi cần, chúng ta nên vươn lên đến những trường hợp cụ thể và chiến đấu một
cách dõng mảnh cho những gì đúng. Điều
này là toàn hảo. Nếu chúng ta không có
những phẩm chất tốt đẹp này mà lại khoác lác mọi nơi rằng ta vĩ đại thế nào và
trong khi cần thiết lại co đầu rút cổ lại một cách hoàn toàn, chúng ta chỉ là
ngược lại. Người thứ nhất thì rất can đảm,quả
cảm
nhưng không tự hào; người kia thì rất tự kiêu nhưng không có can trường,
dũng cảm.


Tất cả những thực hành trước nhất không nên bị nhuốm bẩn bởi những vết nhơ của
mê tín, vướng mắc đối với tám pháp thế gian (Bát phong: khổ – vui, được – mất,
hơn – thua, khen – chê). Tám điều này có
thể liên hệ như trắng, đen lẫn lộn. Làm
thế nào một người có thể tránh bị nhuốm bẩn sự thực hành của mình trong cách
này? Bằng sự nhận thức tất cả sự hiện hữu
hay tồn tại như ảo tưởng và không liên hệ với sự tồn tại thật sự. Trong cách này, một người được giải thoát khỏi
trói buộc của loại liên hệ hay bám víu này.


Để giải thích ý nghĩa của “ảo tưởng” ở đây: sự tồn tại thật sự xuất hiện trong khía cạnh
của nhiều đối tượng khác nhau, bất cứ
nơi nào chúng là rõ ràng hiển nhiên, nhưng thực tế không có sự tồn tại thật sự ở
đó. Sự tồn tại thật sự xuất hiện, nhưng
không có gì- nó là một ảo tưởng. Mặc dù mọi thứ tồn tại xuất hiện như sự hiện
hữu
một cách thật sự, nhưng nó thì trống rỗng, một sự tồn tại trống rỗng. Thấy những đối tượng là trống rỗng của hiện hữu
– rằng ngay cả sự tồn tại thật sự xuất hiện, không có gì, nó là ảo ảnh, hảo huyền,
không thực có – một người phải nên định rõ sự hiểu biết về ý nghĩa của tính
không
: tính không xuất hiện rõ ràng, sự xuất hiện rõ ràng của tính không.


Trước nhất chúng ta nên chắc chắn rằng tất cả mọi hiện tượng là trống không của
sự tồn tại thật sự. Rồi thì về sau, khi
mà có điều thuần tuý tự nhiên xuất hiệntồn tại một cách thật sự, người ấy
phản bác lại sự tồn tại thật sự bằng sự nhắc lại điều hiểu biết chắc chắn của
mình trước đây là hoàn toàn vắng bóng của sự tồn tại thật sự. Khi chúng ta đặt hai điều này chung với nhau
– sự hiện hữu của sự tồn tại thật sự và tính không của nó như kinh nghiệm trước
đây – chúng ta khám phá sự ảo tưởng của mọi hiện tượng.


Trước nhất chúng ta phải phân tích hoặc là những thứ tồn tại thực sự hay là
không, thật sự có thể tìm thấy hay không: chúng ta không thể tìm thấy
chúng. Nhưng nếu chúng ta nói rằng chúng
thật không tồn tại gì cả, đây là một lỗi lầm, bởi vì chúng ta quả có kinh nghiệm
về chúng. Chúng ta không thể chứng minh
qua lý luận hợp lý (logic) rằng những sự kiện tồn tại một cách có thể tìm thấy,
nhưng chúng ta quả biết qua kinh nghiệm rằng chúng tồn tạiVì vậy, chúng ta có thể làm một kết luận
ràng
rằng những thứ ấy quả tồn tại. Bây
giờ, nếu những thứ ấy tồn tại chỉ có hai cách trong điều chúng có thể làm như
thế: hoặc là từ căn bản của chính chúng hoặc là bởi dưới sự kiểm soát của
những nhân tố khác, đấy là, hoàn toàn độc lập hoặc là một cách lệ thuộc. Vì lý luận hợp lý không thể chứng minh rằng
những thứ ấy tồn tại một cách độc lập, thì chỉ còn cách là chúng có thể tồn tại
một cách phụ thuộc.

————————————————–


Trên điều gì làm những thứ ấy tùy thuộc cho sự tồn tại cuả chúng? Chúng tùy thuộc trên căn bản được gắn nhãn hiệu
và sự tư duy những nhãn hiệu ấy. Nếu
chúng có thể tìm thấy được khi truy tầm, chúng phải tồn tại bởi tính tự nhiên của
chính chúng, và vì vậy Trung Quán Luận nói rằng, những thứ ấy không tồn tại bởi
tinh tự nhiên của chính chúng, sẽ là sai. Tuy nhiên, chúng ta không thể tìm thấy những thứ ấy khi truy tầm
chúng. Những gì chúng ta tìm thấy tồn tại
dưới sự khống chế của những nhân tố khác, vì vậy điều được nói là tồn tại chỉ
đơn thuần trong danh xưng. 


Từ ngữ “đơn thuần” ở đây chỉ cho biết
những thứ gì ấy đang bị cắt đứt: nhưng điều gì đang bị cắt đứt thì không phải
là danh xưng, nó cũng không là điều có một ý nghĩa và là đối tượng của một tâm
thức
có căn cứ. Chúng ta không nói rằng
không có ý nghĩa gì đến những thứ khác hơn là những danh xưng của chúng, hay là
ý nghĩa không phải là danh xưng không là đối tượng của một tâm thức có sở cứ. Điều gì bị cắt đứt là điều mà nó tồn tại bởi
những thứ khác hơn là năng lực của những danh xưng. 

-Những
thứ tồn tại đơn thuần bởi năng lực của danh xưng, nhưng chúng có ý nghĩa, và ý
nghĩa
ấy là đối tượng của một tâm thức có sở cứ. Nhưng tính tự nhiên của những thứ ấy là chúng
tồn tại thường là bởi năng lực của danh xưng.


Không có cách nào khác, chỉ là năng lực của danh xưng. Điều ấy không có nghĩa là bên cạnh danh xưng
không có gì. Có sự kiện, có một ý nghĩa
và có một danh xưng. Ý nghĩa là gì? Ý nghĩa cũng tồn tại đơn thuần trong danh xưng.
Theo trường phái Trung Quán Prasangika, quan điểm cơ bản, chính xác nhất, cũng
giống như thế cho dù nó là một đối tượng bên ngoài hay là nhận thức bên trong
hiểu rõ, thấy rõ, nhận thức thấu đáo nó: cả hai tồn tại bởi năng lực của danh
xưng; không có thứ nào thật sự tồn tạiTư duy tự nó tồn tại đơn thuần trong danh xưng; tính không, Phật, tốt, xấu,
trung tính cũng thế thôi. Mọi thứ tồn
tại
duy chỉ bởi năng lực của danh xưng.


Khi chúng ta nói “duy chỉ danh xưng” thì không có cách nào để hiểu nó có ý
nghĩa
gì khác hơn là nó cắt đứt những ý nghĩa mà những ý nghĩa không chỉ là
danh xưng. Thí dụ, nếu chúng ta lấy một
người thật sự và một người ảo tưởng, cả hai là giống nhau trong điều họ tồn tại
chỉ đơn thuần là danh xưng, nhưng có một sự khác nhau giữa họ. Bất cứ điều gì tồn tại hay không tồn tại chỉ
đơn thuần là nhãn hiệu gắn lên, nhưng trong danh xưng, có những thứ tồn tại
những thứ khác không tồn tại.


Theo trường phái Duy thức những hiện tượng bên ngoài xuất hiện vốn dĩ tồn tại,
nhưng thực tế là sự tồn tại bên ngoài vốn dĩ trống không, trong khi ấy tâm thức
là thật sự tồn tại (Thị chư thức chuyển biến, Phân biệt
sở phân biệt, Do thử bỉ giai vô, Cố nhất thiết duy thức). Đến đây, chúng tôi nghĩ rằng điều này cũng đủ
về giáo lý đạo Phật.


Khi chúng ta nói về tỉnh thức thì có tỉnh thức của tinh thầntỉnh thức của
giác quan, và trước đây có nhiều sự phân chia thành những trình độ của thô và
vi tế.

Trích
từ bài The Eight Verses
of Thought Transformation

Ẩn
Tâm Lộ ngày 14-3-2013

Xem bản PDF: ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ (7) PDF (có hình minh họa: 18.30 MB)


ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ (1)

ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ (2)

ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ (3)

ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ (4)

ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ (5)


ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ (6)


ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ (7)