Đường Đến Bình An Thật Sự (4)

0
35

ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ (4)
Trích dẫn Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Trích dịchTuệ Uyển

dalialama-010231237dalialama-010231237– Khi người ta đến
để nghe tôi giảng, nhiều người làm như thế với mục tiêu đón nhận một thông điệp
hay một kỷ năng cho việc bảo vệ niềm hòa bình nội tại và cho việc đạt đến một sự
thành công trong đời sống. Một số người
có thể đơn giản biểu lộ sự tò mò, nhưng điều quan trọng nên biết là tất cả
chúng ta giống nhau, tất cả là những con người. Tôi không có gì đặc biệt: tôi chỉ
là một ông thầy tu giản dị. Chỉ là một
con người


Tất cả chúng ta đều có khả năng cho những điều tốt đẹp cũng như những điều xấu
Cũng thế, tất cả chúng ta đều có quyền
để hướng đến những đời sống hạnh
phúc
. Điều này có nghĩa là những ngày và
những đêm vui vẻ; trong cách này, đời sống chúng ta trở nên hạnh phúc.


Sự khác biệt chính giữa con người và những chúng sinh không phải con người hay
những động vật có vú khác, tôi nghĩ, là
sự thông minh của con người. Những cảm
nhận về đớn đau và hạnh phúc, khao khát cho hòa bình và vui sướng, và mong ước
vượt thắng khổ đau là thông thường trong con người và trong con vật. Ngay cả những con côn trùng…những con côn
trùng nhỏ bé cũng có những khát vọng tương tự


Như những con người chúng ta có sự thông minhChúng ta cũng có những năng lực to lớn hơn của trí nhớ và viễn kiến về
những sự kiện. Vì thế, chúng ta có, như
những động vật có vú hay những con vật
khác, những kinh nghiệm vật lý của thân thể về tốt hay xấu, nhưng chúng ta
những cảm nhận phụ thêm nữa do bởi óc thông minh của chúng taTrí nhớ, cái thấy và những dự đoán của chúng
ta
cho những tương lai xa xôi đôi khi làm cho chúng ta băn khoăn và sợ hãi,
nghi ngờlo lắng ngay cả khi mọi thứ là tốt đẹp.


Do bởi khả năng của chúng ta về việc hình dung một tương lai xa, không chỉ cho
chính chúng tathế hệ của chúng ta, mà cũng là cho con cháu chúng ta và cho
con cái của con cháu chúng ta, cho những thế hệ tương lai và các thế kỷ vị lai,
thế nên sự đau khổlo lắng tinh thần
của chúng ta là tương xứng hơn. 

-Vì chúng tatrí thông minhnăng lực suy nghĩ rộng lớn hơn những động vật
có vú khác, chúng ta dễ tổn thương đối với những trải nghiệm khổ đau tinh thần
hơn chúng. Vì những khổ đau và băn khoăn
tinh thần là một sản phẩm của óc thông minh, nên phương cách duy nhất để giải
quyết
chúng là qua việc sử dụng trí thông minh của chúng ta. Không có phương pháp nào khác. 


Ngay những người có nhiều tài nguyên vật chất vô kểtùy ý sử dụng cũng có những
vấn nạn và khổ đau. Điều này cho thấy một
cách rõ ràng rằng khổ đau tinh thần là những sản phẩm của sự thông minh thế nên không thể giải quyết được bằng
những phương tiện vật chất.


Tôi cảm thấy rằng những kinh nghiệm tinh thầnáp đảo so với những trải nghiệm
thân thể. Nếu ai đấy có những rắc rối thân
thể
qua bệnh tật hay nghèo đói, nhưng nếu người ấy có tinh thần vui vẻ hạnh
phúc
, thì khổ não do những rắc rối vật chất có thể bị khuất phục và sẽ không quấy
rầy
quá đángTrái lại, nếu ai đấy bị quấy rầy tinh thần, ngay cả
một sự thoải mái vật chất vô kể cũng không làm nhẹ bớt khổ đau hay rối loạn tâm
tư. Trong khi chúng ta làm mọi nổ lực để
bảo đảm sự phát triển vật chất, thì điều quan trọng là nhìn vào bên trong. Chúng ta không được quên lãng những giá trị nội
tại.


Ngày nay, trong nhiều phần của thế giới, chúng ta đang đối diện một sự khủng hoảng
về đạo đức. Trong khoa học và kỷ thuật,
không có căn bản trong việc phân ranh giới giữa đạo đứcphi đạo đức. Những gì vật chất chỉ là vật chất, và tiền bạc
chỉ là tiền bạc. Không có căn bản cho đúng và sai ngoại trừ người ta thực hiện
một sự nối kết với những kinh nghiệm nội tại của chúng sinh. Căn bản cho việc
phán xét những gì đúng hay sai là mức độ của sự thỏa mãn hay khổ đau mà nó mang
đến
cho chúng sinh. Nếu điều đấy mang đến
thỏa mãn, chúng ta thường gọi nó là đúng bởi vì tất cả chúng ta muốn hạnh phúc
hài lòng. Như chúng ta không muốn khổ đau, tất cả mọi thứ làm cho chúng ta
không thoải mái hay những thứ nào đem đến khổ đau được xem là tệ hại xấu xí đối
với chúng ta


Khi chúng ta nói về đúng hay sai, sự phân ranh giới phải được thực hiện trong
việc nối kết với những cảm giác nội tại của con người. Ngoài những thứ ấy, chúng ta không thể nói về
đúng hay sai trong việc nối kết với những thứ vật chất ngoại tại. Trong thế giới ngày nay, chúng ta thường chỉ
cho điều quan trọng là những thứ vật chất. Từ quan điểm ấy, cho đến khi mà chúng
ta
kiếm thêm được tiền của hay quyền lực, mọi thứ là được cho là đúng. Những vấn đề khác không được quan tâm, và mọi
thứ căn cứ trên sự thỏa mãn của lòng tham.


Những sự kiện mới đây ở New York vào ngày 11 tháng Chín, 2001, dĩ nhiên là thảm họa. Một nhóm người sử dụng óc thông minh của họ để dự trù những sự kiện này
nếu không phải là hàng năm thì tồi thiểu cũng là vài tháng. Họ đã sử dụng máy bay đầy nhiên liệu như chất nổ và cũng đầy hành khách. Do thế, không chỉ có trí thông minh thành thạo
mà đấy cũng là sự thù hận mãnh liệt. Vấn
đề
là sự thông minh của con người, sự khôn ngoan của tâm thức con người được hướng
dẫn hay khống chế bởi bất cứ cảm xúc tiêu cực nào thì cũng là một thảm họa thật
sự. 


Tôi đã quán sát rằng những tu sĩ ở trong tu viện Swami Narayan[1] quán
chiếu
hạnh kiểm đạo đức thuần khiết, thệ nguyện và giới điều, và cũng hổ trợ
trong việc cải thiện điều kiện xã hội. Giám mục Tutu đã từng nói rằng những thể
chế
và tổ chức tôn giáo khác nhau nên tham gia trong lĩnh vực ấy nơi mà con người
đang đối diện những loại vấn nạn khác nhau. Không chỉ những vấn nạn của họ được
chú ý mà những nổ lực chung nhất cũng sẽ mang những tôn giáo khác nhau đến gần
lại với nhau. Chúng ta phải cố gắng thúc đẩy sự hòa hiệp trong những truyền thống
tôn giáo khác nhau. Điều quan trọng là
những thành viên của mỗi truyền thống
tôn giáo phải thực hành một cách chân thànhnghiêm chỉnh


Mỗi chúng ta là một bộ phận của nhân loại, và mỗi chúng tatrách nhiệm để cải
thiện
nhân loại và để đem thêm hạnh phúc nhằm để làm cho nhân loại hòa bình
hơn, thân hữu hơn, và từ bi hơn. Do thế,
nếu một cá nhân thực tập từ bitha thứ một cách chân thànhthường xuyên,
bất cứ nơi nào người ấy sống, nơi ấy sẽ phát sinh một không khí tích cực. Đấy là một cách để cống hiến cho sự cải thiện
nhân loại


Qua thực hành truyền thống của mình, người ta cuối cùng có thể có những kinh
nghiệm
tâm linh nội tại. Điều này có thể
làm cho người ấy thấy giá trị của những truyền thống khác. Do vậy, để thúc đẩy
sự hòa hiệp tôn giáo, chúng ta nên nhìn vào trong truyền thống của chính mình một
cách nghiêm chỉnhthực hiện tối đa như chúng ta có thể.


Nhằm để phát triển một cách nghiêm chỉnh truyền thống tín ngưỡng hay tôn giáo của
mình, chúng ta phải tìm điều gì đấy liên hệ đến đời sống hằng ngày của chúng
ta
. Nếu chúng ta đi theo một truyền thống
chỉ đơn thuần như một thói quen hay tập quán, sẽ không có tác động nhiều trong
việc chuyển hóa tâm thức của chúng ta


Một số người Tây Tạng, Ladakh, và Trung Hoa đã thực hành Phật Pháp từ thời tổ
tiên
ông bà của họ cho đấy là điều đương nhiên rằng Đạo Phật là một phần của
truyền thốngvăn hóa của họ. Họ không
phát triển một tính thành khẩn về những thông điệp vốn có trong giáo huấn của Đức
Phật
Trái lại, khi một số người vốn
không sinh ra như một Phật tử, lần đầu tiên đón nhận sự hấp dẫn trong Đạo Phật,
họ tiếp thu giáo huấn của Đức Phật với sự nhiệt tình và cảm kích. Quý vị có thể thấy sự chân thành của họ. 


Phương cách Đạo Phật để chuyển hóa cảm xúc của chúng ta hoạt động không phải
qua tin tưởng hay nguyện cầu mà qua việc sử dụng tối đa tính thông minh và
trí

– Đặt vấn đề là rất quan trọng. Không có đặt vấn đề, chúng ta không thể có những
câu trả lời thích đáng. Không có hoài
nghi
, không có ngờ vực, không có khảo sát, chúng ta sẽ không có những câu trả lời
toại nguyện. Do vậy, trong truyền thống
Đạo Phật, thông tuệ được sử dụng mở rộng tới mức tối đa của nó và nghiên cứu học
hỏi
cần yếu


Khi chúng ta nói về Bốn Chân Lý Cao Quý, hai chân lý đầu, đấy là, chân lý về khổ
đau và cội nguồn của khổ đau, là về phía thông thường này, và hai chân lý kia,
con đường chân thật và sự chấm dứt chân thật, là những con đường vượt thoát. Ở
đây, khi chúng ta sử dụng từ ngữ “vượt thoát “, chúng ta liên hệ đến
những loại giác ngộ chân thật. Khi chúng
ta
nói về từ ngữ “vượt thoát “, nó liên hệ đến sự tận diệt những cảm
xúc
phiền não, và khổ đau, và vì thế, là việc đạt đến giải thoát. Cũng thế, có
một hình thức giác ngộ rộng lớn hơn, đấy là Quả Phật. Ở đây, chúng ta chủ yếu
nói về ý nghĩa ấy khi chúng ta nói về “vượt thoát “. Từ ngữ
“giác ngộ” trong phạm vi này có hai ý nghĩa: nó có thể liên hệ đến
con đường đưa đến thể trạng kết quả của Quả Phật, hay nó có thể liên hệ thể trạng
kết quả của chính Quả Phật. Nên nó liên
hệ
cả con đườngthành quả


Mỗi hành vi tùy thuộc vào động cơ, cho dù hành viđạo đức hay không đạo đức,
và đối với một hành vi đạo đức, nó có thể trở thành một nguyên nhân cho giải
thoát
, hay nó có thể trở thành một nguyên nhân cho Phật Quả. Do vậy, nhằm để làm cho sự thực hành của
chúng ta là một trong các hoàn thiện rốt ráo ba la mật, chúng ta phải có một mục
tiêu
rõ ràng của giác ngộ, cùng với nguyện ước rằng sự giác ngộ của chúng ta phải
vượt khỏi sự giải thoát chỉ cho riêng chúng ta.


Khi chúng ta hướng để đạt tới đại giác ngộ, hay Quả Phật, phương diệnchúng
ta
cần để trau dồi là lòng vị tha, căn cứ trên nguyện ước để đạt đến giác ngộ
vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Động
liên hệ đến nhiều hành động và việc làm để làm lợi ích cho những chúng sinh
khác. 


Đại giác ngộ hay Phật Quả là đấy là một thể trạng tự tại khỏi tất cả những sự tạo
tác. Khi chúng ta nói về một thể trạng
như vậy, chúng ta có thể có những ý nghĩa khác nhau. Nó có thể có ý nghĩa rằng khi chúng ta đạt đến
thể trạng Phật Quả, nó không có những loại đa dạng của cấu uế, nhiễm ô, khổ đau
và những cảm xúc phiền nãoGiác ngộ như
vậy không chỉ tự tại khỏi những loại việc
này mà cũng tự do khỏi những hiện hữu nhị nguyên đa dạng. Khi chúng ta đạt đến một thể trạng như vậy, là
tháo gở mọi xiềng xích của tất cả mọi tạo
tác trong hình thức của nhị nguyên chủ thể – khách thể và những hiện hữu của thế
gian
tục đế.


Chúng ta không tự do bởi vì nhị nguyên chủ thể/khách thể hay những hiện tướng
thế gian của tục đế là những đối tượng của việc loại trừ trong ý nghĩa rằng
chúng là những cảm xúc tiêu cực. Đúng
hơn, chúng ta tự do bởi vì những sự tạo tác này chấm dứt hiện hữu khi chúng ta
đạt đến thể trạng giác ngộ. Trong một thể
trạng như thế, tâm giác ngộ hay toàn giác như thế hoàn toàn hòa nhập với tính
không
. Đối với một tâm như thế, không có
sự tạo tác [của vọng tưởng] tồn tại


Khi chúng ta đạt đến thể trạng giác ngộ có hai khía cạnh và đặc trưng. Một là sau khi đạt đến một thể trạng giác ngộ
như thế, hành giảnăng lực tự tại và không mệt mõi để hoàn thành nguyện ước
của chúng sinh. Loại khả năng ấy là kết quả của việc phát triển động
vị tha để đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh khi chúng ta
trong giai tầng tu tập. Một khía cạnh khác của thể trạng giác ngộ là nó tự do
khỏi tất cả những loại tạo tác, như chúng tôi đã giải thích, và nguyên nhân cho
việc đạt đến một thể trạng như vậy là sự phát triển tuệ trí thực chứng tính
không


Vì thể trạng toàn giác là một sản phẩm của những nguyên nhânđiều kiện, nên
nó ở trong tác động của luật nhân quả. Do vậy, hệ thống này, con đường của hiệu lựccon đường của thành quả
trong phạm vi của lý duyên khởi. Những
khổ đau mà chúng ta gặp phải sinh khởi từ những nguyên nhânđiều kiện tương ứngTương tự thế, hạnh phúcchúng ta trải nghiệm
cũng tùy thuộc trên những nhân duyên tương hợp.


Hình thức cao nhất của hạnh phúc, trong thể trạng giác ngộ, cũng sinh khởi từ
nguyên nhânđiều kiện . Những thứ này xảy ra trong phạm vi nhân quả. Bất cứ loại kết quả hay hoa trái nào xảy ra bởi
nhân duyên trên những nguyên nhânđiều kiện ấy có khả năng để sản sinh loại
kết quả đặc thù ấy. Đấy là do bởi điều
này trong một bộ kinh, Đức Phật đề cập rằng những sản phẩm và trái cây ngọt
ngào có thể sản sinh từ những hạt giống ngọt ngào. Tương tự thế, những sản phẩm và hoa trái chua
chát kết quả từ những hạt giống chua chát. Do thế, nhưng phẩm chất cao thượng đa dạng mà chúng ta thấy trong thể trạng
Quả Phật hay giác ngộ phải đến từ những khả năng hay tiềm năng mà chúng ta
có. Trong sự vắng bóng của chúng, không
thể đạt đến thể trạng của Quả Phật hay để phát triển những phẩm chất của Đức Phật.


Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể
và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thânSắc thân Phật là thân tự tại và dễ dàng xuất hiện trước chúng sinh để cứu độ họ. Pháp thân như chúng ta đã thảo luận phía trước,
một thể trạng tự do khỏi tất cả những loại tạo tác. Nguyên nhân của việc đạt đến sắc thân là việc
phát triển và thực hành tâm giác ngộ (bodhichitta), và nguyên nhân của việc
thân chứng pháp thântuệ trí thực chứng tính không.


Nếu chúng ta cố gắng để đơn giản hóa ý nghĩa của tuệ trí thực chứng tính không
và của tâm giác ngộ (bodhicitta), chúng ta có thể nói rằng tuệ trí thực chứng
tính khônghình thức tuyệt hảo nhất của thông minh, tột đỉnh của sự phát triển
của nó, và tâm giác ngộ là hình thức tuyệt vời nhất của cảm xúc loài ngườiChúng ta nhận ra rằng chúng ta đã có sẳn căn
bản
của hai tính chất này. 


Khi chúng ta phác thảo đại cương những giáo huấn của Đức Phật, chúng ta cũng
làm thế với ba điểm chính: 

1-
Chúng ta có sự trình bày về những phẩm chất nền tảng mà chúng ta liên hệ đến
quy luật tự nhiên.

 2- Chúng tatrình độ của con đường nơi
chúng ta dấn thân vào những sự thực hành lộ trình này phù hợp đến quy luật tự
nhiên

3-
Và qua những sự thực hành này, chúng ta hiện thực thành quả trong hình thức
giác ngộ; điều này cũng phù hợp với con đường

Do
vậy, chúng ta sử dụng thuật ngữ “hoàn thiện” hay “rốt ráo”
trong việc liên hệ đến những sự thực hành ấy trên tầng bậc tu tập rèn luyện tác động bởi tâm giác ngộ và tuệ trí thực
chứng
tính không.


Có thể có hai loại tuệ trí thực chứng tính không. Loại thứ nhất liên hệ đến việc không thể thấy
tính không một cách trực tiếp nhưng nhận ra tính không qua một loại ý niệm
chung. Loại thứ hai là nhận thức hay thấy
rõ và không lệ thuộc qua một giai đoạn trung gian hay sự hình dung chung chung (của phân tích). Vì thế, khi chúng ta nói về những sự thực
hành
được tác động bởi tuệ tríphương pháp, nó liên hệ đến những loại tuệ
trí
trực tiếp thấy rõ tính không


Khi chúng ta nói về nhu cầu phát triển tâm giác ngộ (bodhicitta), là điều mà
tâm thức yêu mến ấp ủ lợi ích của những chúng sinh khác, chúng ta thấy rằng có thể phát triển một loại
tâm thức như vậy bởi vì trong chúng ta, chúng tathái độ tự yêu mến
này. Chúng ta có thể phát triển một thái
độ
như vậy bởi vì chúng ta có một cảm giác gần gũi đến chính chúng ta


Chúng talòng tự ái, và căn cứ trên điều này, chúng ta phát triển một loại
thái độ tự yêu mến.Tương tự thế, nếu chúng ta phát triển một cảm giác gần gũi đến
những người khác, những chúng sinh khác, chúng ta có thể sử dụng điều ấy để
phát triển một nguyện ước mà nguyện ước ấy là yêu mến lợi ích của những người
khác, những chúng sinh khác.


Nên có một loại tự ái, một tâm thức yêu mến đối với chính chúng ta, bởi vì
trong sự vắng bóng của việc có thể nhận thức về chính mình, thì không thể, hay
khó khăn để phát triển một tâm tư yêu mến lợi ích của những chúng sinh
khác. Một cách căn bản, tất cả chúng ta
có một cảm giác gần gũi với chính mình. Ngay cả trong những trường hợp tự thù ghét mình biểu lộ ra bên ngoài,
thì một loại thái độ tự yêu mến nào đấy vẫn chất chứa sâu xa bên trong chúng
ta
.


Từ sự yêu mến chính mình mà con người có thể dần dần mở rộng một thái độ tương
tự
đến những người khác. Ngay cả thú vật
cũng có một lòng vị tha hạn chế, đặc biệt những con thú mà con cái của chúng lệ
thuộc
vào chúng trong một thời gian. Một
cách tự nhiên, sẽ có một sự ràng buộc về tình thương đặc biệt. Vì thế tình thương này, cảm giác tự nhiên về
cảm kích, đến từ một nhu cầu sinh học bởi vì cấu trúc, hình thành cơ thể, khiến
chúng ta phải tùy thuộc vào tình thương. Nhằm để sống còn, chúng ta cần chăm sóc nhau. Chúng ta đã có hạt giống của từ ái và bi mẫn
hay tình cảm cho kẻ khác bởi vì chúng tatình thương cho chính chúng
ta
. Đấy là hạt giống.


Câu hỏi phát sinh, làm thế nào để phát triển lòng vị tha vô hạn? Dường như là có thể phát triển lòng vị tha
hạn qua tuệ trí và óc thông minh. Một
cách thông thường, khi người ta nói về nhu cầu trau dồi từ ái và bi mẫn cho người
khác, người ta cảm thấy rằng điều này sẽ là lợi lạc và hổ trợ đến người khác,
mà không có giúp đở cho chính mình, hay không liên hệ đến chính mình. Đây là một quan điểm sai lầm bởi vì khi phát
triển từ ái và bi mẫn cho người khác, chúng ta có thể phát triển sự toại nguyện
can đảm sâu xa trong tinh thần. Như một
kết quả , chính chúng ta những hành giả được lợi lạcTinh thần chúng ta sẽ ít
sợ hãi hơn, nhiều năng lực ý chí hơn. Nhiều tự tin hơn. Một cách tự động, chúng ta trở nên tĩnh lặng
hơn. 


Đức Phậtmôn đệ của Ngài đã phát triển lòng vị tha vô hạn, từ ái và bi mẫn
vô biên rất năng động. Nhưng trong sự thực
hành
từ bi của chúng ta, chúng ta không chắc là nó sẽ lợi lạc cho người khác
hay không. Đôi khi, nếu chúng ta cố gắng
để mĩm cười với ai đấy hay thế nào đấy biểu lộ tình cảm chân thành, người ta trở
lại
nghi ngờ! Nhưng cho đến khi nào
chính hành giả quan tâm, ngay lập tức thái độ vị tha phát triển, thì sẽ có lợi
lạc
vô vàn.


Nghĩ rằng thực hành từ bi là điều gì chỉ tốt lành cho người khác là sai lầm. Tôi cảm thấy rằng khi chúng ta thực hành việc
quan tâm đến kẻ khác, một cách căn bản, tự chúng ta sẽ đón nhận tối đa lợi lạc


Nhiều sự khó khăn và rắc rối của chúng ta, tôi nghĩ là, liên hệ đến sự phóng
chiếu tinh thần hay vọng tưởng của chúng ta. Nếu thái độ của ai đấy là đúng đắn, ngay cả khi bị bao quanh bởi môi trường
không thân thiện, người ấy vẫn có thể an tịnhvui vẻ


Qua việc thực hành sáu hoàn thiện, có một sự nối kết trực tiếp với việc giúp đở người khác. Tuy thế, nếu chúng ta thẩm tra việc thực tập như tập trung (thiền định)
và phát triển tuệ trí thực chứng tính không (trí tuệ), chúng ta nhận thấy rằng
đây là những sự thiền quán và kỷ năng để cải thiện hay làm nổi bật tuệ trí và sự
thực chứng của chính chúng ta.


Liên quan đến việc thực hành ban cho bố thí, có ba cấp độ của việc ban cho, được
quyết định bởi phầm chất của nó. 

Thứ
nhất được gọi là “ban cho những phương tiện vật chất” hay tài thí.

Thứ
hai được gọi là “ban cho sự không sợ hãi” hay vô úy thí.

Thứ
ba được gọi là “ban cho những lời dạy của Đức Phật ” hay Pháp thí.

 Khi chúng ta thực hiện việc thực hành bố thí rộng
lượng
, điều quan trọng là phải phân tích và thẩm tra xem mọi thứ có đúng hoàn cảnh
hay không.


Chỗ mà việc thực tập đạo đức (trì giới ba la mật),) được quan tâm, đặc biệt
trong phạm vi của sự thực hành của bồ tát, có ba loại đạo đức (tam tụ tịnh giới). Thứ nhất gọi là “đạo đức kềm chế khỏi việc
tham gia vào những hành vi tiêu cực” (nhiếp luật nghi giới). Thứ hai là “đạo đức tích tập những phẩm
chất đạo hạnh” (nhiếp thiện pháp giới). Và thứ ba gọi là “đạo đức hoàn thành những mục tiêu của các chúng
sinh” (nhiêu ích hữu tình giới). Ba
loại đạo đức này liên kết với nhau. Nhằm
để phát triển đạo đức thứ ba, chúng ta cần phát triển đạo đức thứ hai. Ngoại trừ chúng ta có những phẩm chất đạo đức
cần thiết, bằng không thì không thể hổ trợ những kẻ khác. Nhằm để phát triển những phẩm chất này, chúng
ta
cần phát triển đạo đức thứ nhất. Ngoại
trừ chúng ta loại bỏ hay tránh khỏi những cảm xúc phiền não, bằng không chúng
ta
không thể phát triển những phẩm chất đạo đức.


Với việc quan tâm đến thực hành kiên trì (nhẫn nhục ba la mật),), có ba loại. Thứ nhất là “kiên trì để có thể chịu đựng
những thử thách khó khăn và khổ đau.” Thứ hai là “kiên trì tự nguyện
đón nhận những khổ đau và thử thách.” Và thứ ba là “kiên trì phát triển sự xác định đối với những thực
hành
Phật Pháp,”[2]
là những thứ liên hệ đến thiền tập về Tính Không.


Trong việc quan tâm đến tuệ trí (bát nhã ba la mật), chúng ta có nói có hai loại
tuệ trí chính yếu: một gọi là “tuệ
trí thực chứng những hiện tượng quy ước thế gian (tục đế),” và thứ kia gọi
là “tuệ trí thực chứng thực tại tối hậu, sự thật căn bản (chân đế)” Thiền tập nhất tâm bất loạn (chỉ) hay tuệ
giác
phân tích (quán) được phân biệt không phải bởi hoặc là đối tượng của tục đế
hay chân đế mà trên việc tâm thức tập trung trên đối tượng như thế nào.


Sự thực hành sáu hoàn thiện có thể tóm tắt dưới hai điều: phương pháp (cho việc
tích lũy phước đức) và tuệ trí (cho việc tích tập tuệ giác). Chúng ta phân loại sáu hoàn thiện thành những sự thực tập về phương pháptuệ
trí
bằng việc để những sự thực tập về tập trung (thiền định) và tuệ trí (bát
nhã
) dưới tập hợp tuệ trí; và sự thực tập bố thí, quán chiếu về đạo đức, và một
phần của sự thực tập kiên trì dưới tập họp của phước đức. Với việc quan tâm đến sự thực tập nổ lực, một
phần của nó bao gồm trong tích tập phước đức và phần khác trong tích tập tuệ
trí
.


Chúng ta có những loại khác nhau của hiện tướng, về một phía và về phía kia,
chúng ta có một thực tại, là điều khác biệt với những hiện tướng đó. Do thế, tôi cảm thấy rằng khi chúng ta định
tiếp nhận bất cứ một tiến trình học hỏi nào, những gì chúng ta cố gắng để làm
là để giảm thiểu sự bất tương xứng giữa hiện tướngthực tại. Chúng ta cố gắng
để biết thực tại qua học tập, đặc biệt qua năng lực phân tích, kể cả thẩm nghiệm. Chúng ta không hài lòng với những hiện tướngNghiên cứu học tập và khảo sát giúp để giảm
thiểu
khoảng cách giữa những hiện tướngthực tại


Khái niệm về hai sự thật là một sự hổ trợ
vô biên trong việc giảm thiểu khoảng cách này. Bởi vì nhiều cảm xúc phiền não phát triển trên căn bản của những hiện tướng
, việc nhận ra thực tại giảm thiểu những cảm xúc tiêu cực. Do thế đó là tại sao khái niệm về tính không là rất liên quan đến những
kinh nghiệm hàng ngày. Nếu những khái niệm
này chỉ duy trì trong cấp độ tri thức trí óc, như những thông tin đơn thuần,
chúng ta sẽ chỉ có những ảnh hưởng nhỏ nhoi.

***

Trích
từ bài Self-Develpment through the Six Perfections của quyển Many Way to Nirvana

Ẩn Tâm Lộ ngày 27/01/2013


[1] Một
trường phái Ấn Độ Giáo hiện đại được sáng lập bởi Swaminarayan (1781-1830), Swaminarayan được xem là hiện thân của Thượng Đế.

[2] a- “Nhẫn nhục là một trạng thái nhẫn nại tự chế khi đối diện với những hãm
hại trừng phạt của kẻ khác”. b-“Tự nguyện
gánh vác các khổ đau và ách nạn” .c- “Kham nhẫn mọi cực khổ khi dấn thân tu hành theo
giáo pháp của Phật.” (Tâm Hà Lê Công Đa dịch, “Vượt Khỏi Giáo Điều”, của Đức Đạt Lai Lạt Ma)