Cuộc Đời Của Tổ Sư Long Thọ

0
40

CUỘC ĐỜI CỦA TỔ SƯ LONG THỌ
Nguyên tác: Biography of Nagarjuna – Alexander Berzin
Tuệ Uyển chuyển ngữ

nagarjunanagarjunaLong
Thọ
cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của
truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao
truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không
từ Văn Thù Sư Lợi, trong khi Vô Trước (cùng với Thiên Thân)
truyền thừa những giáo nghĩa bao la của những sự thực hành
bồ tát từ Di Lặc.

Long
Thọ
– Nagajuna sinh ra trong một gia đình bà la môn chắc chắn
khoảng giữa đầu hay đầu thế kỷ thứ hai sau Tây lịch
ở miền Nam Ấn Độ, trong vương quốc Vidarbha, ngày nay là
vùng Maharashatra và Andhra Pradesh. Ngài đã được tiên
đoán trước trong nhiều kinh điển khác nhau, như Kinh Lăng
Già
. Lúc sinh ra, một vị tiên tri dự đoán ngài sẽ chỉ
sống trong bảy ngày, nhưng nếu cha mẹ ngài cúng dường đến
một trăm vị sa môn, ngài có thể sống đến bảy tuổi. Lo sợ cho sự sống của ngài, vào lúc bảy tuổi, cha mẹ Long
Thọ-Nagajuna đưa ngài đến Đại học Tu viện Na Lan Đà
miền Bắc Ấn, nơi ngài gặp vị đạoPhật giáo Saraha. Saraha nói với ngài rằng nếu trở thành một vị xuất gia
và trì tụng mật ngôn A Di Đà, ngài sẽ sống trường thọ. Long Thọ-Nagajuna làm như thế và rồi thì gia nhập tu viện,
nhận một tên là “Shrimanta.”

Tại
Na Lan Đà, Long Thọ-Nagajuna học kinh điển hiển giáomật
điển
tantra với Ratnamati – một hóa thân của Văn Thù Sư
Lợi
– và, với Saraha, đặc biệt Tantra Bí Mật. Thêm
nữa, ngài học thuật giả kim với một vị Bà la môn, và
đạt đến khả năng biến sắt thành vàng. Dùng khả
năng này, ngài có thể nuôi dưỡng những tu sĩ của Na Lan
Đà
trong nạn đói. Cuối cùng, Long Thọ-Nagajuna trở thành
Viện trưởng của Na Lan Đà. Ở đấy, ngài đã tống
xuất tám nghìn tu sĩ, những người không giữ gìn giới luật
xuất gia một cách thích đáng. Ngài cũng đánh bại năm
trăm người không phải Phật tử trong tranh luận.

Hai
người trai trẻ, là hóa thân của những đứa con của long
vương
, đến Na Lan Đà. Họ có trong họ những hương
thơm tự nhiên của trầm hương. Long Thọ-Nagajuna hỏi
làm thế nào như thế và họ thú nhận với ngài họ là ai. Long Thọ-Nagajuna rồi thì yêu cầu tinh dầu trầm hương cho
bức tượng của nữ Bồ Tát Tara và sự giúp đở của dòng
dõi
rồng để dựng chùa chiền. Họ trở lại thế giới
rồng và yêu cầu cha của họ, và ông nói rằng ông chỉ có
thể giúp nếu Long Thọ-Nagajuna đến thế giới của họ dưới
biển để giảng dạy cho họ. Long Thọ-Nagajuna đã đi,
tiến hành nhiều lễ cúng dường, và dạy cho loài rồng.

Long
Thọ-Nagajuna đã từng biết rằng loài rồng có bộ Kinh Một
Trăm Nghìn Bài Kệ Bát Nhã Ba La Mật Đathỉnh cầu cho
một bản. Khi Đức Phật thuyết giảng về Kinh Bát Nhã
Ba La Mật
Đa, tuệ trí toàn thiện, hay tỉnh thức phân biệt
sâu xa, loài rồng đã đem về long cung để bảo quản, chư
thiên
một bản khác, và những chúa dạ xoa của thịnh vượng
một bản nữa. Long Thọ-Nagajuna đem về bản một trăm
nghìn bài kệ, mặc dù long chúng giữ hai chương cuối cùng
để bảo đảm rằng ngài sẽ trở lại để giảng dạy cho
họ xa hơn. Sau này, hai chương cuối cùng được bổ xung
vào với hai chương cuối cùng của Kinh Một Trăm Nghìn Bài
Kệ
Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đây là tại sao hai chương
cuối cùng của hai văn kiện duyệt lại là giống nhau. Long Thọ-Nagajuna cũng đem về đất sét của rồng và xây dựng
nhiều chùa chiền và tháp miếu với nó.

Một
lần
, khi Long Thọ-Nagajuna đang giảng dạy Bát Nhã Ba La Mật
Đa
, sáu con rồng đã đến và làm thành một bảo cái phía
trên đầu ngài để che ngài khỏi nắng mặt trời. Do
bởi
điều này, ngài có tên là Long-Naga. Và từ sự kiện
khả năng thiện xảo của ngài trong giảng dạy Phật Pháp
đi thẳng tới trọng điểm của vấn đề, giống như những
mũi tên của nhà cung thủ nổi tiếng Arjuna (tên một anh hùng
của Ấn Độ cổ đại trong bộ kinh Ấn giáo Bhagavad Gita),
ngài có tên là Arjuna. Vì thế, ngài trở thành được
gọi là “Nagarjuna” hay Long Thọ.

Sau
này Long Thọ đi lên miền Bắc Hải đảo (Bắc Lục địa)
để giảng dạy. Trên đường, ngài đã gặp một số
trẻ con đang nô đùa trên đường. Ngài tiên tri rằng
một đứa trong chúng, tên là Jataka, sẽ trở thành một vị
vua. Khi Long Thọ trở lại từ Bắc Hải đảo, cậu bé
trong thực tế đã trưởng thànhtrở thành vị vua của
một vương quốc rộng lớn ở Nam Ấn. Long Thọ đã ở
lại với vị vua trong ba năm, dạy dỗ ông, và sau đó dành
những năm cuối cùng ở những nơi khác trong vương quốc ấy,
tại Shri Parvata, ngọn núi thiêng liêng trông xuống ngày nay
là Nagarjunakonda [1]. Long Thọ-Nagarjuna đã viết tác phẩm
Quốc vương một Tràng Hoa Quý BáuBảo Hành Vương Chính
Luận
(Ratnavati). Đây cũng là vị vua mà Long Thọ viết
tác phẩm Lá Thư Cho Một Người Bạn (Suhrllekha), vua tên là
Udayibhadra.

Một
số học giả phương Tây xác quyết Vua Udayibhadra với Vua Gautamiputra
Shatakarni (trị vì 106- 130 sau Tây lịch) của triều đại Shatavahana
(230 trước Tây lịch đến 199 sau Tây lịch), hiện nay là Andhra
Pradesh. Một số xác quyết ông với vị vua kế là Vashishtiputra
Pulumayi (130 – 158 sau Tây lịch). Thật khó khăn để xác
định vị vua này một cách chính xác. Những vị vua triều
đại
Shatavahana là những người bảo trợ bảo tháp ở Amaravati,
nơi Đức Phật thuyết Mật điển Thời Luân (Kalachakra Tantra)
lần đầu tiên và nó gần Shri Parata.

Quốc
vương
Udayibhadra có một người con trai, Kumara Shaktiman, người
muốn trở thành vua. Mẹ ông ta nói với ông rằng ông
ta sẽ chẳng bao giờ có thể lên ngôi cho đến khi Long Thọ
chết, vì Long ThọQuốc vương Udayibhadra có cùng tuổi
thọ. Mẹ ông ta nói hãy thỉnh cầu Long Thọ cho thủ
cấp của ngài và vì Long Thọ là người rất bi mẫn, không
nghi ngờ gì nữa ngài sẽ đồng ý ban cho ông. Long Thọ
thật sự đã đồng ý, nhưng Kumara không thể cắt đầu ngài
với một thanh gươm. Long Thọ nói rằng trong tiền kiếp,
ngài đã từng giết hại một con kiến trong khi cắt cỏ. Như một kết quả nghiệp báo, đầu của ngài chỉ có thể
cắt rời với lá của của cỏ kusha. Kumara làm như thế
Long Thọ lìa đời. Máu từ cái đầu bị cắt đứt
biến thành sửa và thủ cấp nói, “Bây giờ ta sẽ đi đến
Cực Lạc Tịnh Độ, nhưng ta sẽ nhập vào thân thể này lần
nữa.” Kumara đưa thủ cấp xa khỏi thân thể, nhưng
như được kể lại rằng thủ cấp và thân thể đang đi đến
gần
lại với nhau mỗi năm. Khi chúng hợp lại, Long Thọ
sẽ trở lại và giảng dạy lần nữa. Nói chung, Long
Thọ
đã sống sáu trăm năm.

Trong
nhiều tác phẩm trên chủ đề kinh điểnLong Thọ đã
viết là

– Tập
Họp Lý Luận, Collections of Reasoning – Nhập Trung Luận,
Madhyamakavata,


Tập Họp Những Bài Kệ Tán, Collections of Praises.


Tập Họp Những Giải Thích Mô Phạm, Collections of Explanations.

Sáu
Tập Họp của Lý Trí hay Nhập Trung Luận là:

– Những
Bài Kệ Căn Bản của Trung Quán Luận, Tỉnh Thức Phân Biệt

Discriminating Awareness – Prajna-nama- mulamadhyamaka-karika.

Tràng
Hoa
Quý Báu – Precious Galand – Ratnavati.


Hồi Tránh Luận ThíchBác Bỏ Chống Đối – Vigrahavyavarti.


Thất Thập KhôngTính Luận – Bảy Mươi Bài kệ Tánh Không
– Sunyatasaptati.


Quãng Phá Kinh Danh – Vaidalya sutra nama.


Lục Thập Tụng Như Ý Luận – Yuktishashtika.

Bao
gồm
Tán Dương Kệ Tập là:

Pháp
Giới Tán
– Dharmadhatu stava.


Chân Đế tán – Paramartha stava.


Siêu Thế Gian tán – Lokatita stava.

Bao
gồm
Mô Phạm Thích Tập là:

Giác
Ngộ Tâm
Luận – Bodhicittavana.


Tập Kinh Luận – Sutrasamuccaya.


Lá Thư cho Một Người Bạn – Suhrllekha.

Cũng
được cho là của Long Thọ là vài luận giải về mật điển
Tantra Bí Mật, bao gồm:

Phương
tiện
Thực chứng giản lược – Pindikrta sadhana.

Phương
pháp
Thiền quán trên Tầng bậc Đầu tiên của Đại toàn
thiện Bí mật tantra phối hợp với nguyên văn của nó – Shri-guhyasamaja-mahayogatantra-utpattikrama-sadhana-sutra-
melapaka

– Năm
Tầng bậc (Tầng bậc Hoàn tất) – Pancakrama.

Đệ
tử
nổi tiếng nhất của Long ThọThánh Thiên (Aryadeva)
tác giả của Bốn trăm Bài kệ Luận thuyết trên những Hành
vi
của Du già Bồ tát và vài luận giải của Tantra Bí mật.

[1]
Nagarjunakonda (skt): Địa danh Phật giáo ở vùng Nam Ấn Độ.
Theo Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, người
ta không được biết gì về ngôi tháp lớn ở Nagarjunakonda
hay đồi Nagarjunakonda cho đến khi tháp nầy được phát hiện
vào năm 1934. Tháp nằm trên mạn phía nam của sông Krishna trong
quận Guntur. Đây cũng là một đại tháp vì có cất giữ di
hài
của Đức Phật, và có lẽ được xây vào thời vua A
Dục
. Tháp được tân tạo và xây cất bổ sung bởi Santisiri
cùng các mệnh phụ khác trong hoàng tộc. Những người nầy
được xem là đã có công giúp cho Phật giáo phát triển
tại Andhra trong thế kỷ thứ 3. Tháp nầy ngày nay tuy đã đổ
nát nhưng trông còn đồ sộ hơn tháp ở Amaravati. Hàng
trăm công trình điêu khắc thực hiện theo phong cách Amaravati
đã được tìm thấy tại đây. Qua các dòng chữ khắc trên
các cây trụ Ayaga, người ta thấy rõ rằng Nagarjunakonda, thành
phố cổ của Vijayapuri, có tầm quan trọng to lớn của một
trung tâm Phật giáo đã có danh tiếng quốc tế. Nhiều tu viện
đã được xây cất tại nơi nầy để làm nơi trú ngụ cho
tu sĩ Phật giáo thuộc các tông phái khác từ nhiều nướcđến như Tích Lan, Kashmir, Gandhara, Trung Hoa, vân vân. Người
dân Andhra giao thương với cả trong nước và nước ngoài,
họ đã có sự tiếp xúc sâu xa với xã hội La Mã thời ấy.
Điều nầy được chứng minh qua sự phát hiện những bản
khắc và công trình điêu khắc mô tả một chàng lính
râu ria mặc áo chẽn, quần tây, và nhiều vật dụng khác
có nguồn gốc từ La Mã. Tại Andhra, các nơi như Guntapali,
cách ga xe lửa Ellore chừng 28 dặm, và Sankaram, cách Anakapalli
một dặm về phía Đông, là những địa điểm nổi tiếng
vì các công trình kiến trúc trong đá. Các địa điểm khác
trong vùng lân cận cũng được xem là có tầm quan trọng trong
thời đại của Phật giáo, điều nầy được xác nhận qua
sự hiện diện của các ngôi tháp cùng các di tích cổ tại
đây. Các địa điểm đáng chú ý nhất trong số nầy là Goli,
Chezarta, Gummatia, Bezwada, Garikapadu, Uraiyur, Kuvain, Chinve và Vidyadharpur.
(Từ điển Phật học Thiện Phúc)

Biography
of Nagarjuna


Alexander
Berzin


February
2006


Tuệ
Uyển
chuyển ngữ


08-03-2010

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/°