Cốt Lõi Của Cội Bồ Đề – Tánh Không Là Gì?

0
36

CỐT LÕI CỦA CỘI BỒ ĐỀ
TÁNH KHÔNG LÀ GÌ
Buddhadasa Bhikkhu
(Hoang Phong chuyển ngữ)

Lời giới thiệu của người dịch:

Tánh không là một
chủ đề thật quan trọng và chủ yếu trong giáo lý Phật Giáo, nhưng cũng phức tạp,
cao thâm và khó nắm bắt, bằng chứng là khái niệm về tánh không cũng đã được hiểu
khác nhau giữa Phật Giáo Theravada và các học phái Phật Giáo Đại Thừa.

Tánh
không
cũng là một khái niệm đặc thù và độc đáo nhất trong giáo lý Phật Giáo. Thật
vậy, không có một nền văn minh nào, một
hệ thống tư tưởng nào, một triết học nào, một tôn giáo nào, một khoa học nào nêu
lên khái niệm này ngoài Phật Giáo. Đấy là một khái niệm vượt lên trên tất cả
các tôn giáo, kể cả “Phật Giáo” dưới các hình thức “tín ngưỡng”
mang tính cách đại chúng. Ngày nay khái niệm về tánh không, cũng như một số các
khái niệm khác của Phật Giáo, vẫn còn tiếp tục làm các nhà tư tưởng, các triết
gia
, học giả, khoa học gia… thuộc mọi lãnh vực trên toàn thế giới kinh ngạc.

buddhadasa_bikkhubuddhadasa_bikkhuBuddhadasa
(1906-1993) là một vị đại sư Thái Lan đã được mời thuyết giảng trong ba ngày tại
bệnh viện Siriraj ở Bangkok (buổi thuyết giảng đầu tiên được tổ chức vào giữa
tháng chạp năm 1961, hai buổi thuyết giảng sau vào đầu và cuối tháng giêng năm
1962). Ngay sau đó ba bài thuyết giảng này đã được ghi lại và góp chung thành một
quyển sách nhỏ mang tựa đề là “Cốt lõi của cội Bồ-đề” xuất bản năm
1962 và đã được tái bản liên tục từ đó đến nay. Năm 1965, quyển sách này đã được
cơ quan UNESCO thừa nhận là một quyển sách thượng thặng.

Mãi
hơn 20 năm sau thì quyển sách này mới được dịch từ tiếng Thái sang tiếng Anh và
xuất bản lần đầu vào năm 1985, và sau đó lại được tiếp tục dịch sang nhiều ngôn
ngữ
khác. Đến năm 2006 thì quyển sách nhỏ này đã được cơ quan UNESCO chính thức
đưa vào danh sách các tác phẩm thuộc gia tài văn hóa của nhân loại.

Quyển
sách gồm ba phần, ghi lại nội dung của ba buổi thuyết giảng:

Phần
I: Những điểm chính yếu nhất trong giáo
huấn
của Đức Phật
(đã được chuyển ngữ)

Phần
II: Tánh Không là gì (được chuyển ngữ
dưới đây)

Phần
III: Phải luyện tập như thế nào để thường
trú trong tánh không
.

Người dịch mạn phép xin ghép thêm một
vài lời ghi chú nhỏ vào phần chuyển ngữ
với hy vọng có thể giúp người đọc dễ theo
dõi
nguyên bản hơn. Các lời ghi chú này được trình bày bằng chữ nghiêng và đặt
trong hai dấu ngoặc.

buddhadasa_bikkhucotloicuacoibode

Bìa quyển sách “Cốt
lõi của cội Bồ-đề”

Phần II

Tánh Không là gì


Trong
buổi nói chuyện trước đây tôi cũng đã nhắc đến tánh khôngcho biết đấy là một
chủ đề thật chủ yếu, thế nhưng tôi chưa kịp triển khai một cách đầy đủ và tương
xứng với tầm quan trọng của nó. Thiết nghĩ chúng ta cần phải thấu triệt khái niệm
này một cách sâu sắc hơn. Nhiều khía cạnh của chủ đề này quả thật là vẫn còn quá
mù mờ, do đó tôi sẽ dành trọn buổi nói chuyện hôm nay cho đề tài này.

Nhập đề

Trong toàn bộ giáo huấn Phật Giáo thì tánh
không
là một chủ đề khó thấu triệt nhất, bởi vì đấy chính là phần cốt lõi. Cũng
thật dễ hiểu, nếu đã là cốt lõi của Phật Giáo thì nhất định đấy cũng sẽ là một
chủ đề thật tinh tế và sâu sắc. Các cách phỏng đoánsuy nghĩ thông thường không
thể nào có thể giúp chúng ta hiểu được tánh không là gì, mà chính chúng ta phải
dày công nghiên cứu một cách kiên trì và tường tận.

Chữ
“nghiên cứu” trong trường hợp này phải hàm chứa đầy đủ ý nghĩa của nó:
tức là phải thường xuyên quan sát và phân tích tất cả những gì hiện ra trong tâm
thức
mình, dù đấy là một sự thích thú hay khó chịu. Chỉ có những ai đã từng theo
dõi
thật cẩn thận những diễn biến trong tâm thức mình thì mới có thể hiểu được Dhamma (Đạo Pháp)
là gì. Những người chỉ biết nghiên cứu bằng sách vở chẳng những sẽ không hiểu
được tánh không mà lại còn rất dễ bị sai lầm. Trái lại, những ai biết quan sát tất
cả những gì xảy ra trong tâm thức mình và tự nhận định được những điều nào là đúng
trong chính tâm thức mình thì mới không sợ bị lầm lẫn. Người này sẽ hiểu được dukkha (khổ đau) là gì, sự chấm dứt của dukkha là gì, và sau cùng sẽ hiểu được Dhamma là gì. Sau đó khi đọc sách về tánh
không
thì người ấy mới có thể hiểu được đúng đắn chủ đề này.

Từ
lúc bước vào cõi đời này cho đến khi lâm chung, lúc nào chúng ta cũng phải luôn
luyện tập theo cách sau đây: phải quán xét sự tiếp xúc giữa tâm thức mình với tất
cả các sự vật chung quanh và phải nhận biết được bản chất của các hậu quả mang
lại từ sự tiếp xúc đó. Trong quá trình của sự vận hành tự nhiên ấy, nhất định sự
thích thú hay là đớn đau sẽ phải xảy ra, thế nhưng nếu theo dõi và quán xét được
nó thì việc này cũng sẽ giúp cho tâm thức của chúng ta trở nên tỉnh táo và mạnh
mẽ hơn. Tiếp tục tìm hiểu bản chất của tư duy như trên đây sẽ giúp giải thoát
tâm thức khỏi dukkha – đấy là một sự hiểu
biết
lợi ích nhất trong số tất cả các sự hiểu biết, và đấy cũng là cách giúp chúng
ta
dần dần thực hiện được tánh không hay ý thức được nó là gì.


lẽ quý vị vẫn còn nhớ là trong buổi thuyết trình trước đây chúng ta cũng đã nói
đến là có nhiều người xem Đức Phật như một vị “Lương Y tâm thần”, và
chúng ta cũng đã nói đến là có hai loại bệnh: loại thứ nhất là các bệnh thuộc thân
xác và tâm thần, loại thứ hai là các bệnh thuộc lãnh vực tâm linh. Bệnh tâm
linh
là một căn bệnh không cho phép mình quán thấy được sự thật tối hậu của mọi
sự vật đúng thật với những gì là như thế. Do đó bệnh ấy là một thứ bệnh liên
quan đến
vô minh, hay là sự hiểu biết sai lầm, và nếu đã là một sự hiểu biết
sai lầm thì tất nhiên là nó sẽ đưa đến những hành động sai lầm và từ đó phát
sinh ra khổ đau.

Vậy
phải làm thế nào để có thể chữa lành được căn bệnh tâm linh ấy? Phương thuốc giúp
chữa khỏi chính là tánh không. Hơn nữa tánh không chẳng những là một phương thuốc
mà còn là cả một sự giải thoát có thể làm triệt tiêu tất cả mọi thứ bệnh tật, bởi
vì phía sau tánh không sẽ chẳng còn lại gì cả.

Phương
thuốc giúp chữa lành căn bệnh tâm linh chính là sự hiểu biết và phép luyện tập giúp
ý thức được tánh không. Khi tánh không hiện ra, nó sẽ chữa khỏi căn bệnh. Khi đã
khỏi bệnh thì ngoài tánh không ra sẽ chẳng còn lại bất cứ một thứ gì khác, đấy
một thể dạng đã hoàn toàn loại bỏ được khổ đau và mọi thứ u mê tâm thần, là nguyên
nhân
gây ra mọi khổ đau. Tánh không ấy mang một ý nghĩa vô cùng rộng lớn, tự nó
hàm chứa những phẩm tính như: không có gì có thể làm cho nó bị thoái hóa, cũng
không thể triển khai hay cải thiện thêm cho nó, bất cứ một tác động nào cũng đều
vô hiệu. Đấy là một thể dạng vượt ra khỏi thời gian, bởi vì nó không còn gánh
chịu sự sinh và cái chết nữa. Sự “hiện hữu” của nó hoàn toàn khác hẳn
với sự hiện hữu của các sự vật và cả các chúng sinh được sinh ra và phải chết. Bởi
vì không có một thuật ngữ nào có thể diễn tả được nó nên chúng ta cũng chỉ biết
mượn đặc tính “không hề biến đổi” của nó để gọi nó là “tánh
không bất biến” (vacuité immuable / immutable emptiness).

Nếu
một người đã thực hiện được điều ấy – nói một cách chính xác hơn là khi “tâm
thức” của người ấy đã thực hiện được tánh không một cách hoàn hảo – thì nó
sẽ trở thành phương thuốc giúp cho người ấy chữa lành căn bệnh của mình. Sự chữa
trị đó sẽ có hiệu quả tức khắc, và đấy cũng là một thể dạng vượt ra khỏi thời
gian
: một sức khoẻ đích thật (có nghĩa là không còn chết nữa).

Tôi
mong quý vị luôn ghi nhớ đến cách định nghĩa ấy của chữ “tánh không”
– tiếng Pa-li gọi là sunnatâ – để có
thể theo dõi dễ dàng những gì tôi sẽ trình bày chi tiết hơn dưới đây.

Tất cả đều là
tánh không

Trước
hết chúng ta không nên quên là chính Đức Phật đã từng nói rằng mỗi lời mà Ngài
thốt lên đều nhất thiết hướng vào chủ đề tánh không, Ngài không hề đề cập đến bất
cứ gì khác, dù là trực tiếp hay gián tiếp. Bất cứ một lời giáo huấn nào nếu
không
liên hệ gì với tánh không thì đấy không phải là lời nói nguyên thủy do
chính Ngài thốt ra, và đấy cũng có thể là do các vị đệ tử sau này của Ngài thêm
vào, vì ham thích biện luận dông dài, nên đã tìm cách phô trương sự uyên bác của
mình mà thôi.

Thật
thế người ta có thể ghép thêm nhiều thứ vào giáo huấn nguyên thủythí dụ như
chữ “trống không” ngày nay đã mang thêm nhiều cách ứng dụng khác nhau
(xin nhắc thêm
tánh không là một khái niệm được hiểu khá khác biệt nhau giữa các học phái.
Cách hiểu của Theravada rất “thực tế” và hướng thẳng vào tính cách
ngã
của một cá thể, việc ứng dụng do đó cũng “trực tiếp”, “thực
tế” và “giản dị” hơn
)
. Mặc dù sự “trống không”
mang đặc tính bền vữngbất biến, thế nhưng cách diễn đạt nó thì lại rất đa dạng.
Nói thế để hiểu rằng chúng ta sẽ chỉ khảo sát tánh không trong vòng giới hạn của
một số khía cạnh sau đây:


sự vắng mặt của dukkha (khổ đau)

– sự vắng mặt của những thứ u mê trong tâm thức khiến tạo ra dukkha


sự vắng mặt của cảm tính về “cái tôi” và cái “của tôi”

Đấy
là những gì biểu trưng cho thể dạng tánh khôngchúng ta sẽ dựa vào đấy để tu
tập
.

Nếu
chúng ta cố gắng tìm trong số các lời giảng huấn của Đức Phật về chủ đề này để
xem có những lời giảng huấn nào dễ hiểu nhất và thường được Đức Phật nói đến nhất
thì chúng ta sẽ thấy rằng đấy là những lời mà Ngài khuyên chúng ta hãy nhìn vào
thế giới này như là một sự trống không. Đấy là câu: “Sunnato lokam avekkhassu magharasa sada sato”, có nghĩa
là: “Hãy xem thế giới là trống không, và nếu đủ khả năng để luôn ý thức được
tánh không của thế giới thì cái chết cũng sẽ không còn nắm bắt được mình nữa”.

Lời
giảng trên đây khuyên chúng ta hãy nhìn vào thế giới như là một sự trống không cũng
chính là một phép tu tập cao siêu nhất. Bất cứ ai muốn tự giải thoát khỏi các khó
khăn gây ra bởi dukkha và cái chết
thì nhất thiết phải nhìn vào thế giới – có nghĩa là nhìn vào tất cả mọi sự vật
– đúng thật với nó, nếu nói cách khác thì nó trống không về “cái tôi”
và bất cứ gì thuộc vào “cái tôi”. Các câu tóm lược sau đây của Đức Phật
đã nói lên tất cả sự lợi ích của phép tu tập ấy: “Nibbâna (niết-bàn) chính là tánh không tối thượng”
và “Nibbâna là niềm phúc hạnh tối
thượng
nhất”. Những gì vừa trình bày cho thấy thật rõ ràngnibbâna, hay sự tắt nghỉ tuyệt đối của khổ đau, và “tánh không tối thượng”
có cùng một ý nghĩa như nhau. Thế nhưng nếu đã gọi đấy là một thứ tánh không “tối
thượng” thì cũng có thể hình dung ra một thứ tánh không khác, không mang
tính cách tối thượng và có thể xem như là một thứ tánh không còn khiếm khuyết hay
sai lầm. Khi nào khả năng nhận biết được sự thật đã trở nên hoàn hảotrong
sáng
, không còn vướng mắc bất cứ một chút bóng dáng nào của “cái tôi”
và cái “của tôi”, thì khi đó nó mới có thể giúp hình dung ra được “tánh
không tối thượng” là gì. Cái “tánh không tối thượng” đó chính là
nibbâna bởi vì nó có khả năng dập tắt
được ngọn lửa đang thiêu đốt chúng ta và làm cho cơn lốc của những hiện tượng
vô thường phải lắng xuống. Vì thế “tánh không tối thượng” và sự “tắt
nghỉ tối hậu của dukkha” cũng chỉ
là một thứ.

Khi
phát biểu rằng nibbâna là niềm phúc hạnh
tối thượng, thì đấy cũng chỉ là một cách nói thuộc lãnh vực của sự thật tương đối.
Thật ra thì đấy cũng chỉ là một cách phát biểu nhằm khuyến khích mọi người nên nghĩ
đến việc tu tập, chẳng qua cũng là vì đối với những người bình dị thì suốt đời họ
chỉ biết nuôi mộng tìm được hạnh phúc thế thôi. Do đó khi bảo rằng niết-bànhạnh phúc thì đấy chỉ là cách nói nhằm đáp ứng sự ước mong trong
lòng họ mà thôi, và tất nhiên đấy cũng chỉ là một cách nói mang tính cách thiết
thực
, bởi vì dù có giải thích và khẳng định với họ đấy là một thứ hạnh phúc tối
thượng
đi nữa thì trên thực tế niết-bàn
vẫn to lớn hơn và vượt cao hơn thể dạng hạnh phúc mà họ có thể hình dung ra được.
Bởi vì cái hạnh phúc ấy của niết-bàn chính thực là tánh không. Dù sao đi nữa thì
người ta cũng không thể nào bảo đấy là hạnh phúc hay là khổ đau được, bởi vì nó
vượt xa hơn khổ đau và cả những thứ hạnh phúc thường tình. Thế nhưng nếu cứ giải
thích
loanh quanh như thế thì mọi người sẽ chẳng hiểu gì cả, vì thế nên không
thể nào làm gì khác hơn là bắt buộc phải sử dụng cách nói thông thường và dễ hiểu
để gọi nibbâna là “phúc hạnh tối
thượng”. Do đó tôi cũng xin lưu ý quý vị là mỗi khi tôi nói đến chữ
“phúc hạnh” thì nên hiểu rằng chữ ấy không mang ý nghĩamọi người
thường hiểu. Đấy là một thể dạng trống không về tất cả những thứ được sinh ra và
lan tràn trong tâm thức (các tư duy và xúc cảm trong tâm thức) và tất cả
những hiện tượng vô thường (thế giới hiện tượng bên ngoài), bởi vì khi nào vẫn
còn sự biến động (của
đủ mọi thứ tư duy và xúc cảm trong nội tâm và của mọi hiện tượng chi phốitrói
buộc
một cá thể từ bối cảnh bên ngoài)
thì khi ấy sẽ không thể nào tìm
được hạnh phúc đích thật được. Cái thể dạng phúc hạnh của sự trống không thật
tuyệt vời, tươi mát và xứng đáng để chúng ta mong cầu.

Trước
hết phải hiểu rằng các sự cảm nhận thích thú hiện ra khi xảy ra sự tiếp xúc giữa
các cơ quan giác cảm với các đối tượng từ bên ngoài, đều là ảo giác, đấy không
phải là niềm phúc hạnh tối thượng. Niềm phúc hạnh của những người bình thường
không phải là niềm phúc hạnh tối thượng của nibbâna,
bởi vì niềm phúc hạnh này chỉ là tánh không. Vì thế mỗi khi quý vị nghe nói đến:
Nibbânaphúc hạnh tối thượng”
thì không được vội vã xem nibbâna đúng
với những gì mà quý vị hằng mong cầu, để rồi cứ nhìn vào đấy để mà ước mơ và để
quên bẵng đi là nibbâna đồng thời cũng
còn có nghĩa là tánh không tối thượng.

Không được bám
víu
vào bất cứ gì cả

Giáo huấn của Đức Phật liên quan đến việc tu tập
về tánh không chính là cốt lõi của toàn bộ giáo huấn Phật Giáo: “Không được
bám víu vào bất cứ một thứ dhamma nào
cả” (xin
chú ý chữ dhamma – số nhiều và viết không hoa – có nghĩa là các hiện tượng hiện
ra
trong sự hiện hữu của mình hay nói chung là tất cả các hiện tượng vô hình
hay hữu hình thuộc vào thế giới và cả trong tâm thức của chính mình, và chữ
Dhamma – số ít và viết hoa – thì có nghĩa là Đạo Pháp)
. Nếu suy rộng
ra thì câu trên đây cũng có nghĩa là: Dù bất cứ ai thì cũng không được nắm bắt
bám víu vào bất cứ thứ gì để xem đấy là “cái tôi” hay là cái
“của tôi”. Các chữ “dù bất cứ ai” có nghĩa là “tất cả
mọi người” không ngoại trừ một người nào cả. Các chữ “nắm bắt và bám
víu” thì có nghĩa là những gì sẽ làm phát sinh ra cảm tính về “cái tôi”.
Các chữ “xem là cái tôi” có
nghĩa là cảm thấy mình là một cá thể vững chắc, trường tồn, hay hàm chứa một
linh hồn. Các chữ “như là cái của tôi” thì có nghĩa là chiếm hữu một
hiện tượng liên hệ đến cảm tính của một “cái tôi”. Câu trên đây là cách
Đức Phật khuyên bảo chúng ta tuyệt đối không được phát động bất cứ một cảm
tính nào về “cái tôi” và cái “của tôi” bằng cách liên kết
nó với bất cứ một thứ gì khác (tức có nghĩa là không được xem một thứ gì đó – kể cả thân
xác mình – là “tôi”, hay là một thứ gì đó thuộc sở hữu “của
tôi
“)
, dù đấy chỉ là một hạt bụi hay là một viên ngọc quý, hay đơn
giản
chỉ là một đối tượng của sự thèm muốn giác cảm, kể cả sự viên mãn tức là thể
dạng cao nhất trong việc tu tập tâm linh. Không có bất cứ gì, nên nhớ là tuyệt
đối
không có bất cứ một thứ gì, có thể làm đối tượng cho sự bám víu, tức là để nắm
bắt lấy chúng và để xem đấy là “cái tôi” hay cái “của tôi”.
Đấy cũng chính là cốt lõi của giáo huấn Phật Giáo. Đức Phật cũng từng khẳng định
về điều đó.

Đức
Phật
bảo rằng khi nào được nghe câu nói ấy – tức “Không được bám víu vào bất
cứ một dhamma nào” – thì cũng có
nghĩa là được nghe tất cả giáo huấn; mang câu nói ấy ra để luyện tập có nghĩa
hoàn tất được tất cả mọi sự tu tập; tiếp nhận được kết quả từ sự tu tập đó
có nghĩa là tiếp nhận được tất cả quả mang lại từ toàn bộ giáo huấn. Tóm lại
quý vị chớ nên lo sợ khi thấy có quá nhiều thứ để học hỏi. Đức Phật có nói rằng
dù sự hiểu biết của Ngài nhiều như lá trong rừng thế nhưng những gì Ngài thuyết
giảng
nhằm giúp cho chúng ta tìm thấy nibbâna
thì cũng chỉ như một nắm lá trong tay. “Nắm giáo lý” ấy trong bàn tay
của Ngài biểu trưng cho nguyên tắc: không được nắm bắt hay bám víu vào bất cứ
gì và xem đấy là “cái tôi” hay cái “của tôi”.

Khi
nào được nghe lời thuyết giảng ấy thì cũng có nghĩa là được nghe toàn bộ giáo
huấn
, bởi vì riêng nó đã hàm chứa và bao gồm tất cả các chủ đề. Và cũng không hề
có bất cứ một chủ đề nào mà Đức Phật đã nêu lên lại không đề cập đến khổ đau và
phương cách giúp loại bỏ khổ đau. Sự nắm bắt và bám víu là hai nguyên nhân mang
lại khổ đau. Bất cứ nơi nào có sự nắm bắt và bám víu thì tất nơi đó sẽ phải có
khổ đau. Tu tập là cách chận đứng hoàn toànvĩnh viễn không cho sự nắm bắt
bám víu có thể xảy ra nhằm giúp cho tâm thức lúc nào cũng trống không. Vỏn vẹn
đơn giản đấy là những gì cần phải làm. Tất cả cũng chỉ có thế.

“Phép
tu tập ấy bao hàm toàn bộ tất cả các phép tu tập khác”. Vậy quý vị cũng
nên thử suy nghĩ xem còn có gì khác cần phải tu tập thêm hay không. Nếu một người
nào đó, dù đấy là bất cứ ai, nếu tâm thức họ đã loại bỏ được mọi sự nắm bắt và
bám víu, thì điều gì sẽ xảy ra trong tâm thức của người ấy? Quý vị thử suy nghĩ
thật kỹ xem! Để có thể hình dung những gì sẽ xảy ra thì chúng ta có thể căn cứ
vào
sự diễn tiến tuần tự theo từng giai đoạn một: khởi đầu là quy y Tam Bảo, giữ
gìn
giới luậtthiền định nhằm phát huy sự chú tâmtrí tuệ, sau đó là thực
hiện
được Con Đường, tiếp nhận được quả của Con Đườngcuối cùngniết-bàn. Vào giai đoạn cuối cùng tức là
niết-bàn khi tâm thức đã loại bỏ được
tất cả mọi thứ u mê (vô minh)dukkha
(khổ đau),
thì nhờ đó sẽ đạt được thể dạng của Phật, của Dhamma (Đạo Pháp) và của Tăng Đoàn
trở thành “một” với toàn bộ Tam Bảo. Việc ấy có thể thực hiện được
mà không cần phải cầu khẩn hay tụng niệm gì cả. Những thứ này chỉ là các hình
thức
lễ bái hay các nghi thức lễ lạc thuộc vào giai đoạn khởi đầu. Những hình
thức
ấy chỉ là những gì phụ thuộc bên ngoài, không giúp được mình hòa nhập sâu
xa
với Đức Phật, với DhammaTăng
Đoàn
, tức là những gì thuộc vào nội tâm. Trong khi đó đối với một người có một
tâm thức trống không về sự nắm bắt và bám víu vào “cái tôi” và cái
“của tôi”, dù là chỉ giữ được trong một khoảnh khắc ngắn, thì cũng có
thể xem tâm thức của người ấy đã thực hiện được tánh không vào đúng những khoảnh
khắc ấy. Tâm thức đó sẽ rất tinh khiết, rạng ngời và an bình, và sẽ hòa nhập để
trở thành một với Đức Phật, Dhamma
Tăng Đoàn. Tóm lại, mỗi khi tâm thức mình thực hiện được thể dạng giải thoát đó,
thì sự nương tựa của mình nơi Tam Bảo mới trở thành đích thật được.

Bố thí là một hành
động buông xả và cũng là một cách để buông bỏ chính mình

Đến
đây chúng ta hãy cùng bàn thảo về sự hào phóng (dâna / bố thí). Ý nghĩa hàm chứa
trong hành động bố thí và hiến dâng chính là sự buông xả, không nắm bắt và cũng
không bám víu vào “cái tôi” và cái “của tôi” nữa. Một người
bố thí mà còn nghĩ đến một sự hồi đáp to lớn hơn – thí dụ như bố thí để mong cầu
đạt được một lâu đài trên thiên đường – thì đấy không phải là một sự bố thí
chỉ là một sự mua bán. Đã bố thí thì không được chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào:
đấy là cách buông bỏ những thứ mà mình bám víu để xem đấy là “cái tôi”
hay cái “của tôi”. Khi tâm thức của một người nào đó không còn vướng
mắc
vào cảm tính về một “cái tôi” hay cái “của tôi” nữa thì
hành động bố thí của người ấy mới có thể mang tính cách tối thượng được, bởi vì
khi đã buông bỏ ngay cả “cái tôi” của chính mình thì nào có còn lại
nữa
đâu để cho mình bố thí? Khi cảm tính của “cái tôi” bắt đầu tan biến
thì cảm tính về cái “của tôi” (của cải vật chất và những bám víu tâm thần) cũng
sẽ tan biến theo. Vì thế, chỉ trong những lúc mà mình đã đạt được một tâm thức
thật sự trống không về cái ngã, tức có nghĩa là trong lúc đã buông bỏ được cái
ngã của chính mình, thì mình mới có thể thực hiện được một sự bố thí đúng nghĩa
của nó.

Đạo đức đích thật
hoàn toàn trống không

Đến
đây chúng ta cũng nên tìm hiểu thế nào là một thái độ hành xử đạo đức (sila). Nếu
một người có một tâm thức trống không, thoát khỏi mọi sự nắm bắt và bám víu vào
“cái tôi” và các sự vật để xem đấy là cái “của tôi” thì những
hành động, ngôn từ của người ấy mới có thể xem là đích thật và hoàn toàn đạo đức
được. Tất cả các hình thức khác của đạo đức chỉ toàn là trò hề. Chúng ta quyết
tâm
nguyện không vi phạm vào việc này hay việc nọ (khi quy y chẳng hạn), thế nhưng chúng
ta
cũng cứ vi phạm, thì đấy chẳng phải là một trò hề hay sao? Chẳng qua đấy là vì
ngay từ lúc đầu chúng ta đã không biết phải làm thế nào để dứt bỏ được “cái
tôi” và cái “của tôi”. Vì không thoát khỏi “cái tôi” và
cái “của tôi” nên chúng ta không thể nào hành xử một cách thật sự đạo
đức
được. Giả sửloại bỏ được “cái tôi” đi nữa thì cũng chỉ tạm thời
mà thôi. Đấy không phải là ariyakantasila
tức là cách hành xử đạo đức của các vị Thánh Nhân, mà đúng hơn chỉ là một thứ
luân lý thường tình, khi trồi khi sụt và không thể nào trở thành siêu nhiên được.
Trái lại trong trường hợp giữ được tâm thức trống không, dù chỉ giữ được trong chốc
lát hoặc suốt một ngày hay một đêm, thì đấy cũng đã là một điều đáng kể, bởi vì
trong những lúc ấy các hành động đạo đức của mình sẽ mang tính cách đích thật.

Tánh không
chính là thể dạng samadhi đích thật

Theo
phép luyện tập thiền định về sự tĩnh lặng hay sự tập trung gọi là samadhi thì một
tâm thức trống không sẽ là samadhi tối
thượng
, tức là một thể dạng tập trung bền vững và thăng bằng nhất mà tâm thức
có thể thực hiện được. Nếu thiền định mà còn phải cố gắng và phấn đấu thì việc
thiền định ấy chưa phải là thiền định, đấy cũng chẳng khác gì tập trung tâm thức
nhằm vào mục đích đạt được một thứ gì đó, dù cho đấy là thể dạng không bám víu
vào năm thứ cấu hợp là khandha (ngũ uẩn)
cũng vậy. Phải hiểu rằng có hai thứ thiền định: đúng và không đúng. Chỉ khi nào
tâm thức thực hiện được sự trống không về sự nắm bắt và bám víu vào “cái
tôi” và cái “của tôi” thì mới có thể đạt được thể dạng hoàn toàn
thăng bằng và đích thật của một sự tập trung đúng. Bất cứ ai có tâm thức trống
không thì cũng sẽ có được một sự tập trung đúng đắn.

Trí tuệ tối thượng
tánh không

Đếnđây chúng ta hãy tìm hiểu về trí tuệ (pannâ). Nên hiểu rằng sự hiểu biết, hay
thực hiện được tánh không, hay trở thành tánh không thì tất cả cũng đều có
nghĩa là trí tuệ tối thượng, bởi vì đúng vào lúc khi tâm thức đạt được sự trống
không thì nó cũng trở nên vô cùng tinh tế và bén nhạy. Trái lại khi vô minh
sự hiểu biết sai lầm về mọi sự vật thâm nhập vào tâm thức và bao phủ lấy nó thì
nhất định chúng sẽ làm phát sinh ra sự nắm bắt và bám víu vào “cái
tôi” và cái “của tôi”, và đấy chính là thể dạng tệ hại nhất của
sự đần độn. Nếu quý vị suy nghĩ và nhìn lại mình thì quý vị cũng có thể nhận thấy
một cách dễ dàng và minh bạch rằng mỗi khi thể dạng đần độn đó thoát ra khỏi tâm
thức
thì tâm thức tự nó cũng sẽ trở nên hết ngu đần (nhiều lúc chúng ta cảm thấy mình quá dại dột,
làm những chuyện thật ngu xuẩn không nên làm. Sự hối hận đó cho thấy rằng có những
lúc tâm thức cũng loại bỏ được thể dạng đần độn, thế nhưng đấy chỉ có tính cách
tạm thời vì sự đần độn cũng sẽ xâm chiếm trở lại tâm thức mình khi “cái
tôi” và cái “của tôi” phát lộ trở lại và xô mình vào bóng tối của
sự hoang mang và u mê
)
. Khi tâm thức đã loại bỏ được sự ngu đần để
trở nên trống không về “cái tôi” và cái “của tôi” thì nó sẽ
đạt được sự hiểu biết hoàn hảo hay là trí tuệ. Chính vì thế mà các vị hiền nhân
thường bảo rằng tánh khôngtrí tuệ – tức là khả năng chú tâm đúng (chánh định)
giúp nhận biết được một cách minh bạch bản thể đích thật của mọi sự vật – cũng
chỉ là một. Tuy nhiên không phải chỉ vì chúng giống nhau mà gọi đấy là một thứ
duy nhất. Trí tuệ đích thật và hoàn hảotánh không, trong cái tánh không ấy không
hề có sự bám víu dại dột nào vào các thứ ảo giác. Một tâm thức khi loại bỏ được
vô minh thì sẽ tìm thấy thể dạng nguyên sinh của nó, đấy là thể dạng tâm thức
nguyên thủy và đích thật, và chính cái thể dạng ấy mới gọi là trí tuệ, có nghĩa
là nó có khả năng nhận biết được sự thật của mọi sự vật đúng như thế (tâm thức trống
không tức là trí tuệ và đấy cũng chính là thể dạng nguyên sinh của nó – tức chưa
bị ô nhiễm bởi cảm tính của cái tôi và cái của tôi)
.

Chữ
“tâm thức” trình bày trên đây mang một ý nghĩa thật cá biệt, không nên
nhầm lẫn nó với 89 hay 129 loại “tâm thức” liệt kê trong A-tì-đạt-ma
luận (Abhidhamma). Chúng ta gọi “tâm thức đích thật và nguyên thủy” là
một thứ tâm thức đã trở thành một với trí tuệ. Đấy là một tâm thức trống không
về sự nắm bắt và bám víu vào “cái tôi” và cái “của tôi”, và
người ta sẽ không còn có thể gọi thể dạng ấy là “tâm thức” nữa, mà phải
gọi đấy là “tánh không”. Thế nhưng bởi vì “tánh không” ấy vẫn
còn hàm chứa khả năng hiểu biết vì thế nên chúng ta đành phải tạm gọi nó là “tâm
thức” thế thôi. Mỗi học phái gán cho nó một tên gọi khác nhau (Phật tính, bản thể
của Phật, thực tại, hiện thực, tâm thức nguyên thủy hay nguyên sinh
…)
,
và đối với chúng ta thì cũng chỉ biết cho rằng bản thể đích thật của tâm thức
chính là trí tuệ, tức là sự chú tâm giúp nhận biết được sự thật, không hàm chứa
một sự nắm bắt hay bám víu nào. Tóm lạitrí tuệ hoàn hảo luôn nằm bên trong
tánh không.

Con Đường, Quả
của Con Đường và Niết-bàn đều là Tánh Không

Đến đây chúng ta sẽ
đề cập đến việc thực hiện được Con Đường, Quả của Con Đường, và Nibbanâ (Niết-bàn).
Đấy là các cấp bậc thăng tiến tuần tự của tánh không để đạt đến cấp bậc cao nhất
của nó là nibbanâ hay còn gọi là tánh không tối thượng (paramasunnata hay
paramam sunnam
)
. Do đó quý vị cũng có thể nhận thấy rằng bắt đầu từ
lúc khởi sự quy y, bố thí, tuân thủ giới luật, thiền định cho đến khi đạt được
trí tuệ thì tuyệt nhiên chẳng có một thứ gì khác ngoài tánh không, tức là thể dạng
không-bám-víu vào cái ngã. Sự thực hiện Con Đường, Quả mang lại từ sự thực hiện
ấy và cả nibbanâ tất cả cũng chỉ là tánh
không
, điểm khác biệt duy nhấtnibbanâ
thuộc vào cấp bậc tối thượng thế thôi.

Do đó khi Đức
Phật
nói rằng nếu nghe được giáo huấn đó thì cũng có nghĩa là nghe được toàn bộ
giáo huấn; thực hiện được giáo huấn đó có nghĩa là hoàn tất được tất cả sự tu tập;
tiếp nhận được quả của sự tu tập đó có nghĩa là tiếp nhận được tất cả các kết
quả. Ý nghĩa ấy của chữ “tánh không” mang một tầm quan trọng thật lớn,
quý vị nên ghi nhớ điều này.

Tất cả đều là
dhamma

Đến đây chúng ta sẽ
tìm hiểu xem tại sao tất cả mọi hiện tượng đều được gọi là “dhamma”. Trước khi nói lên chữ này thì quý vị cũng phải
hiểu thật tường tận đấy là gì. Chữ dhamma
có nghĩa là tất cả những gì hiện hữu. Khi Đức Phật nói đến “tất cả dhamma” thì đấy có nghĩa là tất cả mọi hiện tượng,
không có một ngoại lệ nào cả, dù chúng thuộc lãnh vực vật chất, tinh thần hay
tâm linh. Nếu như có một thứ gì nằm ra bên ngoài cả ba thể loại ấy thì nó cũng
vẫn thuộc vào cách định nghĩa của thuật ngữ “tất
cả dhamma”
. Tôi mong rằng quý vị có thể nắm vững được cách định nghĩa
này: là mọi “thế giới” của những vật thể vật chất, có nghĩa là bao gồm
tất cả các “lãnh vực” của những vật thể vật chất, tất cả đều là dhamma. Một tâm thức ý thức được tất cả
các thế giới ấy thì tự nó cũng là một dhamma.
Nếu tâm thứcthế giới tiếp xúc với nhau thì sự tiếp xúc đó cũng là một dhamma. Nếu sự tiếp xúc đó làm phát sinh
ra các hậu quả chẳng hạn như tình thương yêu, hận thù, ghét bỏ, sợ hãi, kể cả trí
tuệ
sự quán thấy trong sáng về mọi sự vật đúng là như thế…, thì tất cả các
hình thức phản ứng ấy cũng đều là các dhamma.
Dù cho chúng đúng hay sai, tốt hay xấu, thì tất cả cũng đều là dhamma. Nếu trí tuệ làm phát sinh ra những
thứ hiểu biết khác nhau trong nội tâm thì những thứ ấy cũng gọi là dhamma. Nếu các thứ hiểu biết ấy đưa đến
việc giữ giới, thiền định, hay trí tuệ (tu giới, tu định và tu tuệ) hay bất cứ một phép
tu tập nào, thì việc tu tập ấy cũng là một dhamma.
Đối với các kết quả mang lại sự tu tập ấy – dù được biểu trưng bằng các thuật
ngữ
như “sự thực hiện được Con Đường (sự giác ngộ), quả mang lại từ Con Đường (sự giải thoát)
hay là nibbanâ (niết-bàn)
– thì tất cả cũng là các dhamma.

Tóm lại là tất
cả những thứ ấy đều là dhamma. Thuật
ngữ
này bao hàm tất cả, gồm từ thế giới của các vật thể vật chất cho đến các kết
quả mang lại từ sự tu tập Dhamma (Đạo Pháp),
sự thực hiện được Con Đường, quả mang lại từ Con Đường. Như đã nói đến trên
đây, nếu nhìn thấy được mỗi sự vật ấy một cách thật minh bạch thì cũng có nghĩa
là nhìn thấy “tất cả các sự vật” và cũng sẽ hiểu được rằng đối với bất
cứ gì dù là do chính Đức Phật giảng dạy thì cũng không được nắm bắt hay xem đấy
là các đối tượng của sự bám víu. Cái thân xác này không phải là một đối tượng để
nắm bắt hay bám víu, đối với tâm thức thì lại càng không nên nắm bắt và bám víu
bởi vì đấy là một thứ ảo giác khác to lớn hơn nhiều. Vì thế Đức Phật cũng đã từng
nói, nếu nhất định cứ một mực khăng khăng bám víu vào một thứ gì đó để xem đấy
là “cái tôi” thì tốt hơn nên bám víu vào thân xác bởi vì nó biến đổi
chậm chạp hơn, và nó cũng không lừa phỉnh mình tệ hại như tâm thức (nếu xem thân xác
là “cái tôi” thì có thể mình sẽ lo trau chuốt nó, tô điểm phấn son
cho nó, xức nước hoa cho nó, tập thể dục cho lồng ngực nở nang cân đối, đeo đồng
hồ đắt tiền, trang sức lấp lánh, sửa sang “sắc đẹp”, “cắt bớt”
chỗ này, “độn thêm” chỗ kia… Tất cả các thứ ấy không đến đỗi nguy
hiểm như khi xem tâm thức là “cái tôi”, bởi vì khi đã xem nó là “cái
tôi” thì sự ích kỷ sẽ bùng lên, hận thù phát sinh, tự ái dày vò, tham lam
xúi dục, trong lòng nuôi nấng đủ mọi thứ hy vọng, ước mơ, mưu mô, tiếc nuối,
yêu thương, ghét bỏ… khiến làm phát sinh ra đủ mọi thứ xúc cảm bấn loạn và
điên rồ, cũng như mọi thứ ảo giác và tưởng tượng bệnh hoạn, đưa đến những hành
động hung bạo, phá phách, tự tử, sát sinh…, hoặc dưới một thể dạng rộng lớn hơn
tức là chiến tranh khi cho rằng đây là gian nhà “của tôi”, đất nước “của
tôi”, tôn giáo “của tôi”, sự tự do “của tôi”…)
.

Chữ “tâm
thức” trong trường hợp trên đây không mang cùng một ý nghĩa với chữ “tâm
thức” khi được dùng để chỉ định “tâm thức” là một với “tánh
không” (tâm
thức
chỉ có thể trở thành một với tánh không khi nào nó đã tìm thấy trí tuệ hay
là thể dạng nguyên sinh của nó
)
. Chữ “tâm thức” trên chỉ có
nghĩa là “tâm thần”, tức là “tâm thức” hiểu theo cách thông
thường. Sự tiếp xúc giữa thể dạng tâm thức ấy và thế giới sẽ làm phát sinh ra mọi
thứ cảm tính như yêu thương, hận thù, giận dữ, v.v…. Đấy là các thể loại dhamma càng không nên bám víu hơn so với
các thứ dhamma thuộc thân xác, bởi vì
chúng là những thứ ảo giác phát sinh từ sự mù quáng của một tâm thức u mê (các cảm tính hay ảo
giác
ấy luôn biến động khó theo dõi để có thể chủ động được chúng. Chúng không
hiện ra lù lù như thân xác
)
. Nắm bắt và bám víu vào những thứ ấy thật
vô cùng nguy hiểm.

Đức Phật
nói rằng ngay cả sự chú tâm giúp quán thấy được sự thật của mọi sự vật cũng không
được xem là căn nguyên của sự nắm bắt và bám víu, bởi vì đấy cũng chỉ là một thành
phần
của thiên nhiên. Bám víu vào đấy cũng chỉ là cách tạo ra thêm những ý nghĩ
sai lầm: người ta có thể sẽ tưởng tượng ra một con người nào đó có thể đạt được
một khả năng trí tuệ như thế, và để tin rằng đấy là cái trí tuệ “của tôi”.
Sự bám víu sẽ làm cho tâm thức trở nên nặng nề và chao đảo dưới sự chi phối của
mọi biến động xảy ra, và từ đó sẽ sinh ra dukkha
(khổ đau).
Chỉ nên đơn giản xem sự hiểu biết là sự hiểu biết. Nếu dại dột bám víu vào đấy
để xem là cái “của tôi”, thì nó sẽ lôi kéo theo nhiều thứ bám víu khác,
chẳng hạn như các thứ “nghi thức lễ bái và các hình thức lễ lạc”, khiến
cho chúng ta càng thêm khổ sở mà cũng chẳng biết là tại sao (đoạn này khá khúc
triết và cô đọng, do đó xin mạn phép được giải thích thêm với tất cả sự dè dặt.
Bám víu vào sự hiểu biết và xem đấy là “cái tôi” sẽ đưa đến sự kiêu
ngạo
và đấy cũng là chướng ngại “thứ ba” trong số “mười thứ
chướng ngại” (entraves, empêchements / obstacles) buộc chặt con người vào
vòng sinh tử. Khái niệm về “mười thứ chướng ngại” gọi là samyojana
(tiếng Phạn và Pa-li), kinh sách tiếng Việt gốc Hán ngữ gọi là “Thập Sử”
hay “Thập Đại” hay “Thập Căn Phiền Não”. Trên đường tu tập
nếu bám víu vào sự hiểu biết của mình – phiền não thứ ba trong số mười thứ phiền
não
– thì có thể sẽ bày ra mọi thứ hình thức nghi lễ trói buộc, khiến cho mình
thêm khổ sở chăng ?)
.

Tu tập Dhamma cũng thế: chỉ cần biết đơn giản
tu tập thế thôi. Kết quả tự nó sẽ tương
xứng với mức độ tu tập của mình – đấy cũng chỉ là một sự thật của thiên nhiên.
Nếu nắm bắt và bám víu vào sự tu tập ấy để xem là “cái tôi” hay cái
“của tôi” thì lại càng dễ khiến mình rơi vào sự sai lầm nặng nề hơn,
tức là tạo ra thêm cho mình một “cái tôi” hoàn toàn vô căn cứ, và do đó
sẽ mang lại khổ đau không kém gì như khi bám víu vào những thứ thật thô thiển
khác như sự thèm khát tính dục chẳng hạn.

Đối với việc thực hiện
được Con Đường, tiếp nhận được quả của Con Đườngniết-bàn, thì tất cả cũng chỉ là dhamma, là thành phần của thiên nhiên. Chúng là như thế thì cứ xem
chúng là như thế. Ngay cả tánh không cũng chỉ là thành phần của thiên nhiên. Nếu
nắm bắt nó và bám víu vào nó, thì đấy sẽ là một thứ nibbanâ không đích thật, một thứ tánh không sai lầm, bởi vì đối với
nibbanâ đích thật tức tánh không đích
thật thì không thể nào nắm bắt được nó. Chính vì thế nên mỗi khi nắm bắt nibbanâ hay tánh không và xem đấy như là
“cái tôi” hay cái “của tôi” thì tức khắc và đồng thời cũng
sẽ tự tách rời mình ra khỏi những thứ ấy.

Tất cả những gì trình bày
trên đây cho thấy tuyệt đối không có bất cứ gì khác hơn là dhamma. Thuật ngữ dhamma đồng
nghĩa với
chữ “thiên nhiên”. Cách giải thích này khá phù hợp với nghĩa
từ chương của chữ dhamma, bởi vì ý
nghĩa
nguyên thủy của chữ này là “một sự vật có thể tự duy trì lấy nó
“. Các dhamma được phân chia thành
hai thể loại khác nhau: một thể loại luôn chuyển động và một thể loại thì không.
Thể loại gồm các dhamma thường xuyên chuyển
động hàm chứa một động lực thúc đẩy chúng nhằm để duy trì chúng trong chính sự
chuyển động đó của chúng, nói cách khác thì chính chúng là dòng chảy của sự đổi
thay (vô thường).
Thể loại gồm các dhamma không chuyển
động thì không hàm chứa các yếu tố gây ra sự chuyển động đó, đấy là nibbanâ hay là tánh không.

Tóm lại, có hai thể loại
dhamma : một thể loại gồm các sự vật luôn
chuyển động và một thể loại thì không, cả hai đều đơn giản chỉ là dhamma, tức là các sự vật tự duy trì được
trong một thể dạng nào đó (tự duy trì được trong thể dạng biến động hay tự duy trì được
trong thể dạng không biến động – chẳng hạn như tánh không
)
. Tất cả đều
thiên nhiên (hay
tự nhiên
)
, đơn giản chỉ là các thành phần của thiên nhiên. Do đó nếu
đấy chỉ đơn giản là các dhamma (thành phần của
thiên nhiên lôi kéo trong một sự vận hành tự nhiên
)
thì làm thế nào
mà chúng có thể trở thành “cái tôi” hay là cái “của tôi” được?
Trong bối cảnh đó dhamma cũng sẽ chỉ có
nghĩa là “thiên nhiên”, đương nhiên là như thế. Người ta cũng có thể
gọi dhammatathatâ (có nghĩa là như thế
/ ainsité / suchness, và chính Đức Phật cũng tự gọi mình là “Như Lai”
tức có nghĩa là “Như Thế”)
: dhamma là như thế thì cứ là như thế, không thể khác hơn được. Chỉ
toàn là dhamma. “Tất cả mọi thứ”
đều có nghĩa là dhamma: không có một
thứ dhamma nào lại không hàm chứa
trong “tất cả mọi sự vật”.

Trái lại Dhamma đích thật (tức là Đạo Pháp, viết chữ hoa và thuộc số ít)
thì dù thuộc vào lãnh vực nào, cấp bậc nào hay thể loại nào thì cũng đều nhất
thiết
tánh không, hoàn toàn trống không về “cái ngã” (Đạo Pháp
ngã
)
. Tóm lại chúng ta phải nhìn thấy tánh không hàm chứa trong tất
cả mọi sự vật, hoặc nói một cách đơn giản hơn là trong tất cả các dhamma (xin ghi chú thêm là khi Buddhadasa nêu lên
quan điểm về tánh không nơi tất cả mọi hiện tượng như trên đây thì một cách
gián tiếp ông đã đến gần với “cách hiểu” của Đại Thừa về khái niệm
này)
. Theo phép suy luận lô-gic (dựa vào sự hợp lý) thì chúng ta sẽ có các phương
trình như sau:

Tất cả mọi sự vật = đều
dhamma

Tất cả mọi sự vật = đều là tánh không

Các dhamma = đều là tánh không

(trên đây là ba vế
của tam đoạn luận – syllogism -: tất cả mọi người đều chết, Aristoteles là người,
Aristoteles cũng sẽ chết)

Người ta có thể trình bày
khái niệm trên đây bằng nhiều cách khác nhau (nhiều cách giải thích khác nhau về tánh
không
)
thế nhưng điều thật sự quan trọng và cần phải hiểu thì cũng
không có gì khác hơn là chính bản chất của sự trống không. Chúng ta không được
bám víu vào bất cứ thứ gì để xem đấy là “cái tôi” và cái “của tôi”.
Đấy là cách giúp chúng ta nhận thấy một cách minh bạch tánh khôngbản chất của
tất cả mọi sự vật. Chỉ khi nào loại bỏ được tất cả mọi thứ tư duy sai lầm (cho rằng có
“cái tôi” và cái “của tôi
“)
thì khi đó chúng ta
mới có thể nhận thấy được cái bản chất ấy. Nếu muốn quán thấy được tánh không
thì cần phảipannâ (hay nana, jnana, tức
trí tuệ hay bát-nhã
)
, là một thể dạng hiểu biết tinh khiết đã loại
bỏ
được mọi thứ u mê tâm thần.

Các thứ dhamma của
minh

Ngoài ra cũng có thêm một
thứ dhamma nữa gọi là dhamma của vô minh hay của sự hiểu biết
sai lầm, tức là những phản ứng phát sinh từ sự tiếp xúc giữa tâm thứcthế giới
vật chất. Như đã được trình bày trên đây, khi dhamma tâm thức tiếp xúc với dhamma
mang tính cách vật chất (matérialité / materiality / tức là những gì mang tính cách
cụ thể hay thực thể
)
thì tức khắc một phản ứng sẽ phát sinh dưới
hình thức giác cảm, và từ giác cảm đó sẽ đưa đến hoặc là không đưa đến một xúc
cảm (cảm tính).
Tiếp theo đó, người ta có thể sẽ ngả theo hoặc con đường của sự u mê (vô minh)
hoặc con đường của sự quán thấy sáng suốt, tất cả đều do sự tác động của các điều
kiện bên ngoài
(bối
cảnh
)
bản chất thuộc vào thể loại dhamma đó (tức sự hiểu biết hay ô nhiễm tâm thần). Dhamma của vô minh thì cũng chẳng phải là
gì khác hơn là dhamma của sự nắm bắt
bám víu vào “cái tôi” và cái “của tôi”, là những thứ hoàn
toàn
mang tính cách ảo giác. Vì thế cũng nên hiểu đấy cũng chỉ là một thứ dhamma (như tất cả các dhamma khác). Bản chất đích thật của nó cũng chỉ là tánh không.

Vô minhtánh không, sự
quán
thấy minh bạch hay nibbanâ cũng là
tánh không; tất cả cũng chỉ là dhamma.
Nếu nhìn những thứ ấy đúng như thế thì chúng ta cũng sẽ hiểu được rằng chúng
hoàn toàn trống không về cái ngã. Tuy rằng các dhamma trong lãnh vực của vô minh vẫn là “một” với tánh
không
, thế nhưng chúng vẫn còn tiếp tục làm phát sinh ra ảo giác về “cái
tôi”. Do đó chúng ta phải thật cảnh giác đối với các dhamma của sự nắm bắt và bám víu cũng như của sự quán thấy sai lầm
về mọi sự vật – tất cả đều gồm chung trong thuật ngữ “tất cả mọi sự vật”.

Nếu chúng ta quán thấy
được một cách minh bạch tất cả mọi sự vật thì sự bám víu mang đầy u mê sẽ không
thể phát sinh ra được. Ngược lại nếu sự quán thấy của chúng ta thiếu minh bạch
chúng ta chỉ biết nhắm mắt chạy theo các bản năng thú tính của mình một cách dại
dột
sai lầm, thì đấy cũng chẳng khác gì như tự mở cửa ngày càng rộng hơn để
đón rước các thứ dhamma của vô minh.

Nắm bắt và bám víu là một
thứ di sản lưu truyền trong con người chúng ta từ muôn thuở (có thể hiểu như một
thứ bản năng sinh tồn chung cho tất cả mọi sinh vật, thế nhưng đối với con người
thì bản năng đó ảnh hưởng bởi giáo dụctrí thông minh đã trở thành những thứ
xung năng mang tính cách chủ động – nắm bắt và bám víu – vượt xa bản năng sinh tồn nguyên thủy. Thí dụ
như con người không còn “kiếm ăn” nữa mà biết tích lũy của cải, gởi
tiền trong ngân hàng, mưu mô, lường gạt, đưa đến bạo độngcuối cùng là chiến
tranh
)
. Nếu quan sát và phân tích thật kỹ thì chúng ta cũng sẽ thấy
rằng những người chung quanh chúng ta chẳng những luôn tìm cách khuyên dạy chúng
ta
bắt chước theo họ – dù vô tình hay cố ý – để cùng bước với họ vào con đường
vô minh mà hơn nữa họ còn chỉ dạy cho chúng ta cách thức phải bám víu vào
“cái tôi” và cái “của tôi” như thế nào (một sự nhận xét thật sâu sắc, tuy nhiên cũng
có thể mở rộng hơn cách nhìn đó: không phải những sự “chỉ dạy” ấy chỉ
giới hạn trong lãnh vực giữa các cá nhân với nhau mà thật ra thì các thứ giáo
thuyết, chủ nghĩa, tuyên truyền, quảng cáo, báo chí cũng như các phương tiện
truyền thông… trong đó kể cả mạng lưới internet, chẳng phải là những phương
tiện
nhằm để khích động chúng ta, xui dục chúng ta bước theo những người khác
trên con đường “vô minh” và “bám víu” vào “cái tôi”
và cái “của tôi” dưới đủ mọi hình thức hay sao? Đâu phải chỉ có cha mẹ,
anh em, bạn bè, thân thuộc, xóm giềng, thầy cô… mới là những người làm gương
và dạy cho chúng ta những thứ ấy. Vì thế một người tu hànhtại gia hay nơi chùa chiền – nếu muốn thoát
khỏi
mạng lưới vô minh dầy đặc đang bao phủ, giam hãm và siết chặt lấy mình, xui
dục mình bám víu vào cái ngã của mình thì phải cần đến một sự quán thấy minh bạch
và một nghị lực phi thường)
. Họ không bao giờ tập cho chúng ta biết nhìn
vào bản chất vô ngã của mọi sự vật. Trẻ con chẳng những không bao giờ được chỉ
dạy về những thứ ấy, mà hơn thế nữa người lớn còn luôn tìm cách đối thoại với
chúng dưới tư cách là những cá thể hoàn toàn biệt lập (có nghĩa là một cá thể độc lập tách rời ra khỏi
những đứa trẻ như là một chủ thể cách biệt nhằm để chỉ dạy cho chúng, và những
sự chỉ dạy ấy cũng chỉ là các cách củng cố thêm cảm tính về “cái tôi”
và cái “của tôi” của chúng và của chính mình
)
. Một đứa bé
mới sinh ra đời chưa có cảm tính về một “cái tôi” biệt lập trong tâm
thức
của nó, sau đó thì nó mới dần dần nhận biết được cảm tính ấy xuyên qua môi
trường chung quanh nó. Khi mới mở mắt chào đời và bắt đầu ý thức được một thứ
gì đó thì người lớn tập cho nó bám víu vào đấy: đây là cha “của nó”,
mẹ “của nó”, gian nhà “của nó”, thức ăn “của nó”;
kể cả cái đĩa đựng thức ăn cũng là “của nó” và không ai được sử dụng
cái đĩa ấy “của nó”! (thí dụ khi nó va đầu vào góc bàn chẳng hạn thì nó tự ý thức
được là góc bàn không phải là nó, tức không phải “cái tôi” của nó, hoặc
người lớn khi trông thấy nó bị va đầu thì dạy nó phải cẩn thận tránh xa góc bàn,
hoặc lấy tay đánh góc bàn để trừng trị một thứ gì đó khác với nó và đã gây ra
đau đớn cho nó. Đấy là cách gián tiếp củng cố “cái tôi” bên trong tâm
thức
của nó. Tóm lại giáo dục, môi trường và sự sống thường xuyên tạo ra cảm tính
về “cái tôi” bên trong tâm thức của đứa bé. Cái tôi” ấy lại tiếp
tục
biến đổi dưới tác động của những điều “học hỏi” mới và các “kinh
nghiệm” mới, và cả các biến đổi mới trên thân xác của nó, để tạo ra một “cái
tôi” mới khác hơn với “cái tôi” mà nó đã có trong những giây phút
trước đó, trong những ngày hay những năm trước đó và để dần dần chuyển thành
“cái tôi” của một người trưởng thành, của một người cha, một người mẹ,
của một người già đang hấp hối. “Cái tôi” đang tuần tự biến đổi trong
kiếp sống này của mỗi cá thể qua những “thể dạng” khác nhau – trẻ
thơ, trưởng thành, già nua – như vừa thấy và sau cùng thì sẽ nhờ vào cái chết để
trở thành “cái tôi” của một đứa bé khác dưới một tên gọi khác và mang
theo
với nó các thứ hiểu biết và các kinh nghiệm từ trước dưới hình thức những
vết hằn ghi đậm trên dòng tri thức liên tục của nó. Trong kiếp sống mới nó có
thể sẽ bị va đầu vào một góc bàn để ý thức được một “cái tôi” mới. Đấy
là quá trình vận hành của “cái tôi” trong kiếp sống hiện tại và cả trong
tương lai. Bám víu vào “cái tôi” để tạo ra cho mình những sự lầm lẫn
và những xúc cảm bấn loạn là một sự sai lầm, và nắm bắt lấy “cái tôi”
ấy để xem nó là một thứ linh hồn trường tồn bất biến cũng sẽ là một thứ sai lầm
khác nữa
)
. Quá trình vận hành vượt khỏi sự ý thức của mình – hay sự hình
thành của một “cái tôi” trong tri thức và sự phát triển của nó – là một
sự diễn tiến theo đúng với các quy luật chi phối(quy luật tương liên, nguyên nhân hậu quả…).
Trái lại, cảm tính về sự vắng mặt của “cái tôi” thì lại không bao giờ
hiển hiện lên, do đó suốt trong khoảng thời gian từ khi còn bé cho đến lúc trưởng
thành
, một cá thể tiếp tục chất chứa đầy những sự bám víu và những thứ u mê tâm
thần
do chính những sự bám víu ấy gây ra. Đối với cá thể ấy “cái tôi”
chính là sự sống và sự sống cũng chính là “cái tôi”. Thế nhưng khi mà
bản năng của sự bám víu vào “cái tôi” bắt đầu được xem như là một sự
sống bình thường với tất cả ý nghĩa của nó, thì sự sống đó cũng sẽ bị buộc chặt
vào dukkha (khổ đau). Cái tôi đó trở nên thật
nặng nề và ngột ngạt, bế tắc, rát bỏng và thật đớn đau (đôi khi chúng ta ngồi khóc hay cười một mình,
lo buồn hay hớn hở, hối tiếc hay hy vọng, giận dữ hay yêu thương…, thì đấy là
một vài hình thức bế tắc thật nặng nề mà Buddhadasa muốn nêu lên)

tóm lại là một cuộc sống hàm chứa mọi triệu chứng của dukkha.

Tóm lại, mỗi khi xảy ra
sự nắm bắt và bám víu vào bất cứ gì, kể cả những thứ tốt đẹp nhất thì tức khắc
sẽ sinh ra khổ đau. Nếu nhìn theo cách đó thì những gì mà thiên hạ cho là tốt
thì thật ra cũng chỉ là một sự sai lầm hay là mang tính cách tệ hại bởi vì
“cái tốt” cũng là một hình thức của “dukkha” – một thứ dukkha
đã được thuần hóa, thế nhưng đấy vẫn là dukkha,
chẳng qua bởi vì tâm thức không trống không và luôn bị bấn loạn. Chỉ khi nào
tâm thức trống không và vượt lên trên cái tốt cũng như cái xấu thì khi đó mới
loại bỏ được dukkha.

Thật vậy, khái niệm quan
trọng nhất trong giáo huấn Phật Giáo có thể tóm lược thật chính xác bằng câu
sau đây: “Tuyệt đối không được bám víu vào bất cứ gì cả” (“sabbe dhamma nalam abhinivesaya”). Câu này cũng có
nghĩa là phải loại bỏ hoàn toàn mọi sự nắm bắt và bám víu vào mọi sự vật để xem
đấy là “cái tôi” và cái “của tôi”. Thật ra cũng chỉ có thế,
nào có gì khó hiểu đâu!

Khi nào chúng ta vẫn còn
nhận diện mình qua những sự bám víu, và khi những sự bám víu ấy đã trở thành một
với chính mình, thì khi đó chúng ta cũng sẽ không còn làm được bất cứ gì nữa. Vậy
khi tâm thức mình đã rơi vào tình trạng đó thì ai sẽ có thể giúp mình được? Câu
trả lời sẽ là: (chẳng
có ai cả
)
chỉ có tâm thức mình mới có thể giúp được mình mà thôi.
Như đã trình bày trên đây là không có bất cứ thứ gì không phải là dhamma: sự sai lầm là một dhamma, sự thật cũng là một dhamma, dukkha (khổ đau) là một dhamma, sự đình chỉ của dukkha
(sự giải thoát)
là một dhamma, phương tiện làm đình
chỉ
dukkha (Đạo Pháp) cũng là dhamma, tâm thứcdhamma, thân xác là dhamma.
Vì thế khi tất cả chỉ là dhamma thì
giải pháp nhất thiết cũng sẽ phải nằm trong chính tâm thức (tất cả đều là tâm thức), dựa vào một
cách vận hành thích nghi với nó.

Xứng đáng (merite / phù hợp với
đạo đức / tiếng Pa-li là punna
)
hay không xứng đáng (demerit / thiếu đạo
đức
/ tiếng Pa-li là papa
)
thì cũng đều tùy thuộc vào chính chúng
ta
. Nếu sự tiếp xúc với thế giới mang lại trí tuệ thì đấy là điều xứng đáng. Nếu
sự tiếp xúc với thế giới mang lại sự đần độn và các ý nghĩ sai lầm thì đấy là
điều không xứng đáng.

Nếu quan sát mọi sự vật
thật cẩn thận thì chúng ta sẽ nhận thấy là tất cả mọi con người khi sinh ra đều
ngang hàng nhau: ấy là mỗi người đều có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác và tâm thức,
mỗi người đều cảm nhận được hình tướng, âm thanh, mùi, vị, các sự nhận biết của
xúc giác và các đối tượng tâm thần (tức là các thứ tư duy, ảo giác, sự tưởng tượng, các ước vọng,
ý đồ, các thứ xúc cảm
…)
. Mỗi người trong chúng ta đều có dịp tiếp
xúc
với các thứ ấy, và sự tiếp xúc đó xảy ra giống nhau đối với tất cả mọi người.
Vậy thì tại sao lại có sự phân cách giữa những người bước theo con đường đần độn,
không xứng đáng, xấu xa và những người bước theo con đường của trí tuệ, của sự
xứng đáng và những điều tốt lành?

Các dhamma xấu vẫn có một khía cạnh tích cực (lợi ích). Thật thế chúng là một sự
che chở đích thật cho mọi người nếu nhìn theo một khía cạnh nào đó, chẳng hạn
như khi đau khổ thì đấy là một dịp để rút tỉa thêm cho mình một bài học (tức là những
“kinh nghiệm” sống
)
. Một đứa trẻ bị bỏng khi đưa tay vào lửa
thì nó sẽ hiểu rằng phải cẩn thận hơn. Đối với các vật thể vật chất thì tương đối
dễ buông bỏ, thế nhưng đối với sự nắm bắt, bám víu, thèm muốn, ghét bỏ và những
thứ tư duy sai lầm thì trong số hầu hết chúng ta không mấy ai ý thức được là
mình đang đút tay vào cái đống than hồng ấy. Chẳng những thế, chúng ta lại còn
xem đấy là những gì thật tuyệt hảo và đáng để cho mình thèm muốn. Đấy cũng có
nghĩa là mình chẳng hề rút tỉa được một bài học nào cả.

Chỉ có một phương thuốc chữa
trị duy nhất là phải làm thế nào để có thể ý thức được bản chất đích thật của
những thứ dhamma ấy để hiểu rằng chúng
chỉ là một đống than hồng mà chúng ta không được nắm bắt và bám víu vào đấy (có thể đây là ý
rút ra từ bài kinh Adittapariyaya-sutta trong Samyutta-Nikaya IV, tức là bài Kinh:
“Tất cả đều bốc cháy
” –
có thể xem phần chuyển ngữ của bài kinh này
trên Thư Viên Hoa Sen)
. Đấy chính là con đường của trí tuệ, của sự học
hỏi
kinh nghiệm, để hiểu rằng mỗi khi nắm bắt bất cứ một thứ gì và xem đấy là
“cái tôi” hay cái “của tôi”, thì ngọn lửa sẽ bùng lên ngay.
Không phải đơn giản là một ngọn lửa làm cho bỏng tay mà đúng hơn là một ngọn lửa
thiêu rụi cả con tim lẫn tâm thức của mình. Đôi khi nó đã ngún sâu đến độ khiến
chúng ta không ý thức được đấy là một ngọn lửa đang bùng cháy và chúng ta cứ thế
tiếp tục lao mình vào đống than hồng của vòng luân chuyển giữa sự sinh và
cái chết. Đấy là ngọn lửa thuộc loại nóng bỏng nhất, nóng hơn cả một cái lò điện.
Đấy là trường hợp có thể xảy ra cho chúng ta, nếu chúng ta không học được bài học
của một đứa bé bị bỏng là không nên đưa tay vào lửa.

Đức Phật đã từng giảng rằng
chỉ khi nào tâm thức quán thấy được hậu quả của khổ đau do sự nắm bắt và bám víu
mang lại thì khi đó nó mới hiểu rằng phải nên buông bỏ. Vì thế vấn đề then chốt
sẽ là: chúng ta có nhìn thấy được hậu quả khổ đau do sự nắm bắt và bám víu mang
lại hay không? Nếu không thì chúng ta chưa hề biết buông bỏ là gì, và nếu chưa
buông bỏ thì chúng ta sẽ không trống không. Trong một lần thuyết giảng khác Đức
Phật
có nói rằng mỗi khi quán thấy được tánh không thì người ta sẽ tìm thấy sự
toại nguyện trong thế giới của nibbanâ.
Chỉ khi nào người ta bắt đầu quán thấy được sự phi-hiện-hữu của cái ngã thì khi
đó tâm thức mới có thể hiểu được rằng chỉ nên tìm sự toại nguyện trong thể dạng
của nibbanâ mà thôi. Tất cả những gì
nhận biết được qua trung gian của các giác quantâm thức thì đều được gọi
chung là “lãnh vực” giác cảm (ayatana /sphère des sens / sphere of senses / “thế
giới” giác cảm
).
Có lẽ cũng nên mượn dịp này để nêu lên rằng nibbanâ cũng chỉ là một thứ “lãnh vực”
(sphere / thế giới,
cõi
)
bởi vì nó cũng chỉ đơn giản là một đối tượng của sự hiểu biết.
Phải thật hết sức đần độn mới không nhận ra được điều này! (nibbanâ, thiên đường hay cõi cực lạc… thì
cũng đều là các “đối tượng nhận biết” của tâm thức – nôm na là tưởng
tượng – bởi vì chưa hề có ai trông thấy được các dhamma ấy bên ngoài tâm thức của
chính mình cả
)
. Chúng ta sẽ chỉ có thể nhận biết được nó khi nào chính
mình đã cảm nhận được sự trống không của mình, bởi vì khi đã buông bỏ được sự nắm
bắt và bám víu thì khi đó chúng ta mới sẽ tìm thấy sự toại nguyện trong
“thế giới” (sphere / cõi, lãnh vực) của nibbanâ. Thế nhưng như tôi đã nói đến trên đây, điều ấy thật hết sức
khó bởi vì cuộc sống của chúng ta luôn bị tràn ngập bởi mọi sự bám víu vào các sự
vật, và cho đến khi nào sự bám víu ấy không giảm xuống thì cũng sẽ không có sự
trống không, và nếu không có sự trống không thì cũng sẽ không thể nào có sự toại
nguyện
trong thế giới của nibbanâ (hay
trong cõi niết-bàn
)
được.

Chúng
ta
có thể kiểm chứng sự kiện này khi nhìn vào các tôn giáo khác. Thật vậy khái
niệm về thể dạng không-bám-víu vào “cái tôi” và cái “của tôi”
không hề có trong các tôn giáo khác – tại sao lại như thế? Bởi vì các tôn giáo ấy
đều nêu lên một “cái tôi” và nhất thiết phải bám víu vào đấy. Vì nhận
thấy
chẳng có gì tỏ ra sai lầm nên người ta xem đấy là đúng, do đó việc đạt được
Cái Ngã (hay là
Linh Hồn, nói cách khác và dưới một hình thức khác thì đấy là mong muốn làm thoả
mãn được sự thèm khátthực hiện được ước vọng của mình)
sẽ trở thành
mục đích của tôn giáo (nói chung). Đối với giáo huấn Phật Giáo thì hoàn
toàn
ngược lại, sự bám víu vào “cái tôi” nhất thiết phải được xem như
là một sự quán nhận sai lầm về mọi sự vật, một sự lầm lẫn hoàn toàn đần độn của
sự nhận thức, do đó chủ đích tu tập của Phật Giáo là phải loại bỏ bất cứ một khái
niệm nào đại loại như thế. Thật vậy, giáo huấn về vô-ngã chỉ có trong Phật Giáo.
Khác với các tín ngưỡng chủ trương có một cái ngã hầu để bám víu vào đấy hoặc là
phải đạt được nó, chúng ta (những người Phật Giáo) chủ trương phải loại bỏ
hoàn toàn ý nghĩ về sự hiện hữu của cái ngã hầu để có thể cảm nhận được thể dạng
vô-ngã, một thể dạng hoàn toàn trống không về cái ngã của tất cả mọi sự vật.

Tóm lại chỉ có Phật Giáo
là nói đến vô-ngã. Sự hiểu biếtnhận thức về khái niệm đó chỉ có thể phát hiện
nơi những người đã được học hỏi rằng: tất cả mọi sự vật (dhamma) đều vô-ngã và nhất thiết không
được bám víu vào bất cứ gì. Nếu đã được học hỏi rằng cái ngã thật sự hiện hữu
phải bám víu vào đấy thì sau này quả thật sẽ không còn phương cách nào có thể
giúp thực hiện được thể dạng phi-hiện-hữu của cái ngã ấy nữa.

Thật vậy, khi nào đã nhận
biết
được là lửa có thể làm bỏng tay thì chúng ta mới ý thức được một cách thật
minh bạch sự nguy hiểm của mọi sự vật làm nguyên-nhân-cội-rễ khiến ngọn lửa
bùng lên – đấy là các ngọn lửa của sự thèm muốn, ghét bỏ và vô minh, của sự nắm
bắt và bám víu, nhờ đó dần dần chúng ta sẽ chán ngấy những thứ ấy và mong cầu
loại bỏ được chúng, hầu có thể giúp mình đủ sức để buông bỏ và không còn muốn làm
cho các ngọn lửa bùng lên nữa.

Chẳng có gì là tôi và
cũng chẳng có gì là của tôi cả

Đến đây chúng ta hãy bàn
luận
về ý nghĩa của chữ “tánh không”. Trên đây chúng ta đã khẳng định rằng khi nào cảm nhận được nó
thì khi ấy chúng ta cũng sẽ tìm thấy được sự toại nguyện của nibbanâ. Chúng ta phải ý thức thật rõ ràng
rằng tánh không ở cấp bậc tiên khởi chỉ biểu trưng cho một sự vắng mặt của cảm
tính về “cái tôi” và cái “của tôi”. Khi nào cảm tính ấy vẫn
còn hiện diện trong tâm thức thì nó sẽ không thể nào trống không được, nó vẫn còn
tiếp tục bị xao động bởi sự nắm bắt và bám víu. Nhằm mục đích thống nhất cách
trình bày, nên mỗi khi nói đến chữ “trống không” thì đấy có nghĩa là
thể dạng thoát khỏi mọi cảm tính về cái ngã và những gì thuộc vào cái ngã; mỗi
khi nói đến sự “xao lãng” thì đấy có nghĩa là sự hoang mang, hay thể
dạng bấn loạn tâm thần liên quan đến cảm tính cho rằng mình là một “cái tôi”
và có được các sự vật mà mình xem đấy là “của tôi”.

Vậy thể dạng thoát khỏi
cảm tính cho rằng mình là một “cái tôi” sẽ hàm chứa những đặc tính như
thế nào? Kinh Sách có ghi chép một bài thuyết giảng của Đức Phật nêu lên bốn điểm
lên quan đến vấn đề này. Hai điểm đầu tiên là:

1- Cảm tính nhận biết chẳng
có thứ gì là “tôi” cả – (na aham kavacini).

2- Không một chút lo lắng
nghi ngờ nào về bất cứ một thứ gì có thể là “tôi” cả – (na kassaci
kincanam kisminci).

Hai điểm kế tiếp là:

3- Cảm tính nhận biết
không có gì là “của tôi” cả – (na mama kavacini).

4- Không một chút lo lắng
nghi ngờ nào về bất cứ một thứ gì là “của tôi” cả – (kisminci kincanam natthi).

(đây
bài kinh Ananjasappaya Sutta, thuộc Majjhima Nikaya / Trung Bộ Kinh – MN, 106
).

chúng ta ý thức được
rằng không có gì có thể là “tôi” cả, thế nhưng đôi khi cũng có thể có
một sự nghi ngờ nào đó là biết đâu cũng có một thứ gì đấy có thể “là tôi”.
Chúng ta cảm thấy không có bất cứ thứ gì có thể là “của tôi”, thế nhưng
chúng ta cũng không thể ngăn cản được sự nghi ngờ cho rằng biết đâu còn có một
cái gì đó (
mình không biết được
)
cũng có thể là “của tôi”. Phải thật minh
bạch
dứt khoát, phải đạt được một sự hiểu biết vững chắc không thể lay chuyển
rằng không có gì là cái ngã cả, không có bất cứ gì có thể làm cho chúng ta phải
lo ngại về sự hiện hữu của một cái ngã; không có gì thuộc vào một cái ngã cả, và
cũng không có bất cứ một thứ gì có thể bào chữa hay biện minh cho sự lo ngại về
một cái gì đó biết đâu cũng có thể là của cái ngã.

Đức Phật bảo rằng khi nào tâm thức thoát ra khỏi
bốn thứ ấy thì người ta mới có thể trở thành trống không được. Các lời bình giải
(trong các kinh
sách
)
mô tả sự kiện này một cách thật ngắn gọn và chính xác bằng một
câu như sau: “Không được xem bất cứ gì là cái ngã và cũng không được xem bất
cứ gì thuộc cái ngã cả” – thiết nghĩ giải thích như thế cũng đã quá đủ.

Hãy thử hình dung ra một
thể
dạng không nắm bắt các vật thể nhằm bám víu vào đấy, để thử tìm hiểu xem là
nó sẽ như thế nào? Đấy là một thể dạng mà người ta quán nhìn vào tất cả mọi thứ
và hiểu rằng thật sự ra thì không có bất cứ thứ gì đã, đang và sẽ mang một tiềm
năng để trở thành cái ngã hay là một thứ gì thuộc vào cái ngã cả. Không có cái ngã trong hiện tại vì thế cũng
không có lý do gì để e ngại là có một cái ngã trong quá khứ, hay trong tương
lai. Đấy là cách tâm thức thực hiện được tánh không nhờ vào sự quán thấy minh bạch
rằng tuyệt đối không có bất cứ thứ gì có thể biện minh cho ý nghĩa hàm chứa
trong các thuật ngữ “cái tôi” và cái “của tôi” cả (nói đơn giản hơn
là “cái tôi” và cái “của tôi” không hàm chứa một ý nghĩa
nào cả hay nói cách khác là hoàn toàn vô nghĩa
)
. Tất cả đều là dhamma, tức là các các yếu tố thiên nhiên.
Một thể dạng tâm thức như thế chính là tánh không. Nếu chúng ta bảo rằng tâm thức
thực hiện được hay đạt được tánh không, thì một số người cũng có thể sẽ hiểu lầm
tâm thứctánh không là hai thứ khác nhau, và nếu đúng như thế thì sẽ không
còn cách nào giúp mình có thể hiểu được tánh không là gì. Tâm thức trong thể dạng
tự nhiên của nó là tánh không. Sự đần độn chi phối nó và ngăn chận sự quán thấy
tánh không của nó chỉ là những gì từ bên ngoài thâm nhập vào nó. Vì thế khi nào
sự đần độn đã bị loại bỏ ra khỏi tâm thức thì tâm thứctánh không cũng sẽ trở
thành
một. Vào chính lúc đó tâm thức sẽ nhận ra chính nó. Không cần phải đi đâu
xa để nhận biết được các đối tượng mà nó đang tìm kiếm: tự nó đã hàm chứa sẵn sự
hiểu biết về tánh không, nó chỉ cần đơn giản ý thức được là nó phải thoát ra khỏi
sự chi phối của “cái tôi” và những gì có thể trở thành những cái
“của tôi” (để nhìn thấy tánh không hay là chính nó).

Tánh khônggiáo huấn
của Đức Phật, không có một lời thuyết giảng nào của Ngài lại không liên quan đến
tánh không. Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) Đức Phật có nói rằng giáo
huấn
sâu xa nhất là những lời thuyết giảng về tánh không, tất cả các chủ đề khác
đều là thứ yếu. Ngài còn nói thêm là chủ đề nói về tánh không sâu sắc đến độ phải
cần đến một Sinh Linh Giác Ngộ để có thể giảng dạy trong thế giới này (chúng ta cũng có
thể nhìn vào các sách vở “Phật Giáo” và những bài viết về “Phật
Giáo” lan tràn khắp nơi và cả trên mạng internet, để thấy rằng phần lớn chỉ
là các sách vở và bài viết thuộc loại “chạy vòng ngoài” phản ảnh xu
hướng
và xung năng của người viết hơn là giáo lý của Đức Phật. Đã gọi là “chạy
vòng ngoài” thì nếu càng chạy nhanh thì sức “ly tâm” cũng sẽ
càng mạnh và càng khiến cho tất cả mọi thứ – bài viết, người viết cũng như người
đọc – càng bị bắn ra xa hơn với Đạo Pháp và sự giác ngộ)
.

Tánh không nằm trong tầm
tay của tất cả mọi người

Trong một phân đoạn khác
của bộ kinh này Đức Phật có nói rằng tánh không lúc nào cũng là một nguồn lợi ích
hay một niềm an ủi và khích lệ lớn lao cho những người thế tục tức là tất cả những
người thật bình dị trong thế giới này. Đoạn kinh trên đây có nêu lên một giai
thoại
kể lại một nhóm người thế tục tìm gặp Đức Phật. Họ thỉnh cầu Ngài hãy ban
cho
họ một bài giảng huấn có thể mang lại một sự lợi ích lâu dài và một niềm an
vui cho những người thế tục như họ, tức có nghĩa là cho “những người có
gia đình, còn bận bịu vợ con, còn bôi dầu đàn hương
và xức nước hoa”. Đức Phật bèn giảng cho họ bài kinh nói về tánh không trên
đây. Nhóm người thế tục nói với Đức Phật rằng bài giảng này
quá khó và họ không hiểu gì cả. Đức Phật bèn giảm xuống một bậc và giảng cho họ
một phương pháp tu tập khác, ấy là cách giúp họ bước vào dòng chảy (bước vào dòng chảy
có nghĩa là hòa mình với dòng suối đưa đến niết-bàn, và trên thực tế thì có nghĩa
là phải quy y, đấy là cách giúp mình bước theo vết chân của Đức Phật
)
,
tức có nghĩa là thực hiện tinh thần đích thực của Phật, Dhamma (Đạo Pháp)Sangha
(Tăng Đoàn)
, và tuân thủ đạo đức (tu giới)
khiến cho các vị Thánh Nhân khi trông thấy cũng phải toại nguyện. Thực ra thì đấy
cũng chỉ là cách mà Đức Phật đã hướng họ vào một chủ đích khác (mang tính cách thực
tế
cụ thể hơn và cũng dễ thực hiện hơn, tức là chỉ cần quy ytích lũy đạo
đức
)
. Theo cách hiểu ngày nay thì có thể bảo đấy là một cách đánh lừa!
Khi nhóm người thế tục bảo rằng họ không thích tánh không (chẳng những họ không hiểu đấy là gì mà cũng
không biết phải làm thế nào để thực hiện được tánh không, bởi vì đối với họ đấy
là một thứ gì quá trừu tượng, mơ hồ và không hiểu nổi)
Đức Phật đành
phải thay vào đấy bằng một thứ gì khác giúp họ không cần phải dựa vào tánh
không
. Thế nhưng thật ra thì họ cũng không thể tránh khỏi được tánh không, bởi
Đức Phật đã ném về phía họ một sợi dây để kéo họ trở về với con đường thẳng.
Thật vậy chỉ có một con đường duy nhất và đích thật để thực hiện tinh thần của Phật, DhammaSanghatuân
thủ
đạo đức khiến cho các vị Thánh Nhân cũng phải toại nguyện: đấy là con đường
giúp mình lúc nào cũng nhìn thấy tính cách vô nghĩa của các hành động nắm bắt
bám víu của mình.

Quý
vị có nghĩ rằng Đức Phật đã sai lầm khi cho rằng tánh không cũng liên quan đến
người thế tục hay không? Nếu Đức Phật có lý (tức cho rằng tánh không cũng liên hệ đến người thế tục)
thì chúng ta cũng có thể sẽ phải phát điên lên được và cảm thấy mình hoàn toàn
sai lầm, bởi vì ngày nay chúng ta vẫn nghĩ rằng tánh không nào có phải là để nêu
lên cho những người thường tình sống trong thế giới đâu (tức là những người thế tục), mà chỉ
để dành riêng cho những ai hướng tất cả đời mình vào sự thực hiện cảnh giới của
nibbanâ (tức là những người xuất gia) – dù cho
họ không biết đích xác đấy là gì đi nữa.

Người ta vẫn thường nghĩ
như vậy, thế nhưng Đức Phật thì lại nhìn mọi sự một cách khác hơn. Ngài dạy rằng
tánh không là một sự lợi ích trước mặt tức là có thể mang lại niềm an vui cho
người thế tục. Vậy thì ai có lý? Đức Phật hay là chúng ta? Nếu Đức Phật có lý
thì chúng ta (Buddhadasa
muốn nói đến những người thế tục đang ngồi nghe giảng
)
phải lo tìm
hiểu
sự thật trong những lời thuyết giảng của Ngài. Để thực hiện điều đó thì chúng
ta
cũng nên tự hỏi xem ai là những người khổ đau nhiều nhất, ai là những người
tâm thức bị thiêu đốt bởi trận hỏa hoạn và những đống than hồng? Nhất định đấy
là những người thế tục! Nếu những ai bị bủa vây bởi trận hỏa hoạn thì phải lo tìm
cách
làm cho nó phải tắt đi, tức là phải triệt tiêu dukkha dưới tất cả mọi thể dạng của nó, phải xông pha trong chốn lửa
bỏng, bởi vì không có bất cứ nơi nào an toàn để có thể giúp họ lẩn trốn: tất cả
đều bốc cháy. Họ phải tìm cho mình giữa chốn lửa bỏng một nơi hoàn toàn mát mẻ.
Cái nơi ấy chính là tánh không, một nơi không có cái ngã cũng không có bất cứ gì
thuộc vào cái ngã cả.

Người thế tục phải biết khám
phá
ra cái tánh không đó để sống trong bầu không gian tỏa rộng của nó. Nếu không
đủ sức để tạo cho mình một cuộc sống tại trung tâm của khung cảnh đó (của tánh không)
thì ít ra cũng phải sống bên trong chu vi của khung cảnh đó với một sự hiểu biết
đúng đắn (về
tánh không
)
– đấy cũng là một cách mang lại sự an lành lâu bền cho
người thế tục.

Nhóm người thế tục trên đây
thỉnh cầu Đức Phật hãy giảng cho họ phải làm thế nào để tìm thấy một sự lợi ích
lâu bền, Đức Phật trả lời rằng: “sunnatapppatysamyutta lokuttara dhamma”
– tức có nghĩa là “dhamma được ghép thêm tánh không sẽ vượt lên trên thế giới”.
Vượt lên trên thế giới có nghĩa là vượt lên trên ngọn lửa. Thực hiện được tánh
không
có nghĩa là thoát khỏi mọi sự bám víu vào các sự vật để xem đấy là
“cái tôi” hay cái “của tôi”. Những lời giáo huấn ấy có thể
xem như là một món quà mà Đức Phật ban tặng cho những ai đang sống trong thế giới
này. Cũng chính vì thế mà tôi mong rằng quý vị hãy xét lại xem tại sao lại phải
quan tâm đến tánh không đến thế, và cũng nên tự hỏi xem đấy có đúng là chủ đề
duy nhất xứng đáng để đem ra học hỏi hay không? Trong Tương Ưng Bộ Kinh
(Samyutta Nikaya), Đức Phật khẳng định rằng tánh không chính là niết-bàn, và niết-bàn thì cũng là tánh không, và tánh không thì có nghĩa là thoát
khỏi
mọi thứ ô nhiễm (những thứ u mê tâm thần) và khổ đau. Tóm lạinibbanâ (niết-bàn) cũng nhất thiết liên
quan đến
người thế tục (có nghĩa là người thế tục cũng có thể tu tập để đạt được niết-bàn).
Nếu những người thế tục chưa đủ sức để hiểu được nibbanâ là gì và cũng chưa đủ sức để hội nhập cuộc sống của mình vào
khung cảnh của tánh không, thì đấy có nghĩa là họ vẫn còn sống trong lửa bỏng của
hỏa hoạn và phải gánh chịu hiểm nguy nhiều hơn những người khác.

Niết-bàn ngay trong những
giây phút này

Ý nghĩa của chữ nibbanâ tất nhiên là sẽ mở rộng và bao hàm
cả cấp bậc hoàn toàn vắng mặt mọi thứ ô nhiễm tâm thầnnguyên nhân mang lại
khổ đau. Vì thế mỗi khi tâm thức trống không về “cái tôi” và cái
“của tôi” thì đấy chính là nibbanâ.
Hãy đưa ra một thí dụ, ngay lúc này và trong khi quý vị còn đang ngồi đây, thì tôi
có thể bảo rằng tất cả hay ít nhất thì cũng gần như tất cả đều có một tâm thức
vượt thoát tất cả các khái niệm về “cái tôi” và cái “của
tôi”, bởi vì không có bất cứ gì hiện đang xen vào để làm phát lộ ra cảm
tính ấy. Khi chăm chú nghe tôi nói thì quý vị sẽ không còn để ra một khoảng trống
nào cho cảm tính về “cái tôi” có thể hiện ra. Quý vị thử nhìn lại xem
tâm thức mình ngay trong lúc này có thật sự trống không về “cái tôi”
và cái “của tôi” hay không? Nếu như có một tánh không nào đó (tôi xin
nhấn mạnh đến chữ “nào đó” bởi vì dù đấy không phải là một tánh không
“đúng nghĩa” của nó mà thật ra chỉ là một thể dạng bất định của tánh
không
) thì cũng có nghĩa là quý vị đang ở trong khung cảnh (cõi, hay thế giới) nibbanâ (niết-bàn).
Dù rằng đấy chưa phải là nibbanâ tuyệt
đối
hoàn hảo, thế nhưng đấy cũng vẫn là nibbanâ.

Mỗi sự vật đều mang một ý
nghĩa
với ít nhiều sắc thái khác nhau, với các mức độ khác nhau và thuộc các
trường hợp khác nhau. Nibbanâ trong
tâm thức của từng quý vị ngay trong lúc này tương ứng với mức độ mà quý vị loại
bỏ
được cảm tính về “cái tôi” và cái “của tôi”. Do đó tôi
cũng mong rằng quý vị ý thức được sự vắng
mặt
đó của “cái tôi”, luôn nhớ đến nó, tiếp tục giữ được nó khi quý vị
trở về nhà. Khi về đến nhà thì biết đâu quý vị cũng có thể cảm thấy rằng mình
bước chân vào gian nhà của một người nào khác, hoặc trong lúc làm một việc gì
đó trong nhà thì mình có cảm giác là mình đang làm thay cho một người nào khác (không còn nhận ra
“cái tôi” của mình nữa và có cảm tưởng như là một người khác đang làm
không phải là mình
)
nhằm để hoàn tất công việc của người ấy. Cảm
tính ấy tiếp tục ngày càng trở nên rõ rệt hơn và các thứ dukkha do gian nhà và các công việc trong nhà từng gây ra cho mình trước
đây cũng sẽ theo đó mà biến mất. Lúc nào quý vị cũng giữ được thể dạng vượt
thoát khỏi “cái tôi” và cái “của tôi”. Đấy cũng tương tự
như quý vị đeo lên ngực một lá bùa hộ mệnh gọi là nibbanâ hay tánh không (người dân Thái Lan thường đeo ở ngực một lá bùa hay thường
hơn là một tượng phật nhỏ, quý nhất là những tượng Phật thật xưa, và xem đấy
như là một thứ “bùa hộ mệnh”)
. Đấy là một cách giúp mình tránh
khỏi
mọi sự hiểm nguy và những điều bất hạnh. Đấy là lá bùa đích thật (tánh không hay niết-bàn
trong tâm thức mình
)
Đức Phật đã ban cho chúng ta, tất cả những
thứ khác đều là dị đoan (chỉ có tánh không dưới thể dạng niết-bàn thường trú trong
tâm thức mình mới có thể giúp mình được mà thôi, tất cả các thứ bùa chú, nghi
thức
lễ lạc hoặc các sinh hoạt màu mè… chỉ là dị đoan hay nhiều lắm thì cũng
chỉ là những gì phụ thuộc – upaya – mà thôi)
.

Nếu tôi cứ tiếp tục nói
theo cách này thì quý vị cũng có thể sẽ nghĩ rằng tôi muốn rao bán món hàng của
tôi, thế nhưng xin quý vị không nên xem tôi như là một người phô trương giá trị
(thiêng liêng)
của Đức Phật ở một nơi công cộng. Quý vị chỉ nên xem tất cả chúng ta chỉ là những
người đồng hành khốn khổ đang bước trên con đường của sinh lão bệnh tử , thế nhưng
toàn thể chúng ta cũng đều là đệ tử của Đức Phật. Nếu có những điều đã được nói
lên nhằm giúp quý vị ý thức được những gì có thể mang lại lợi ích cho quý vị thì
đấy là những điều đã được nói lên với tất cả thiện tâm của tôi. Những ai đã phát
huy được trí tuệ của mình thì cũng sẽ tự động thấu triệt được những gì được trình
bày trên đây, không cần phải tin vào lời tôi nói. Thật thế sự quán thấy về mọi
sự vật sẽ mở ra cho chúng ta cánh cửa đưa đến một sự hiểu biết sâu xa hướng vào
một sự thật tối thượng. Vậy đến đây chúng ta hãy đề cập đến chủ đề liên quan đến
các thành phần (tiếng
Pa-li là dhâtu, có thể dịch là thành phần, yếu tố…, kinh sách tiếng Việt gọi
cảnh giới, không gian hay yếu tố…)
.

Các loại thành phần
(dhâtu)

Chữ dhâtu và chữ dhamma có cùng
một gốc là chữ “dhr” và chữ
này thì có nghĩa là “nắm giữ”, “duy trì”…, tóm lại “thành
phần” có nghĩa là một thứ gì đó có thể tự nó duy trì được nó – cũng tương
tự
như cách định nghĩa của chữ dhamma.
Cũng giống như đối với dhamma, các thành
phần
gọi là biến đổi thì tự chúng duy trì được chính chúng ngay bên trong sự biến
đổi
của chúng, các thành phần không biến đổi thì tự chúng duy trì được chính chúng
bên trong sự không-biến-đổi của chúng.

Vậy thành phần nào mà quý
vị thấy rằng có thể liên kết nó với tánh không? Các nhà nghiên cứu về vật lý
hóa học chỉ biết đến các thành phần vật chất, tức là các thành phần tinh khiết (éléménts chimiques
/ chemical elements / các nguyên tố hóa học, thí dụ như carbon, oxy…
)
,
tất cả gồm khoảng hơn một trăm thứ và người ta còn tiếp tục khám phá ra thêm. Các
thành phần này không thể nào trống không được – hay ít ra phải định nghĩa nó một
cách thật sâu xa để có thể nhìn thấy nó trống không, bởi vì đấy chỉ là những thành
phần
vật chất (đây
cũng chính là cách “hiểu” hay “giải thích” khác nhau về chữ
tánh không giữa Theravada và các học phái triết học xưa như sravaka và
pratyekabudha và Phật Giáo Đại Thừa. Các học phái “nguyên thủy” –
theravada, sravaka, pratyekabudha – chủ trương sự vắng mặt của sự hiện hữu về một
“cái tôi” mang tính cách cá thể, trong khi đó thì Phật Giáo Đại Thừa
nói chung chủ trương sự vắng mặt của cái ngã đối với tất cả mọi hiện tượng
dhamma. Tuy nhiên cách giải thích về tánh không của Buddhadasa đôi khi cũng cho
thấy khá gần với cách hiểu về chữ này trong các học phái Đại Thừa. Sự kiện này
cho thấy tư tưởng của Buddhadasa “vượt xa” hơn giới hạn của một số
khái niệm sẵn có của Theravada)
. Ngoài ra cũng có những thành phần
phi-vật-chất, các thành phần thuộc tâm thần hay là tri thức, các thành phần này
nằm bên ngoài các lãnh vực vật lý và hóa học. Phải học hỏinghiên cứu ngành
khoa học do Đức Phật đưa ra mới có thể hiểu được các thành phần phi-vật-chất và
phi-hình-tướng, là những gì phát xuất từ con tim và tâm thức. Tóm lại thì ít ra
cũng có hai nhóm thành phần khác nhau như đã được trình bày trên đây (xin lưu ý đến chữ
“ít ra”, vì Buddhadasa sẽ còn nói đến một loại thành phần khác quan
trọng hơn nhiều trong đoạn dưới đây)
.

Vậy người ta có thể quy định
“tánh không” thuộc vào thành phần nào? Nếu có ai bảo rằng tánh không
là một thành phần vật chất, thì tức khắc bạn bè chung quanh sẽ cười người này
ngay. Một số những người khác thì bảo rằng đấy là một thành phần phi-vật-chất và
phi-hình-tướng, thế nhưng trong trường hợp này thì lại đến lượt các vị Thánh Nhân
đã đạt được giác ngộ (“Noble Ones” / “Nobles Êtres éveillés”,
nói chung đấy là các vị tu hành đắc đạouyên bác)
sẽ cười họ. Thật
vậy, tánh không là một thành phần không phải là vật-chất mà cũng không phải là
phi-vật-chất, do đó phải có một thể loại thứ ba: đấy là một thứ thành phần
những người bình thường không thể quán thấy được. Thành phần này được Đức Phật
gọi là nirodhadhâtu – “thành phần
của sự tắt nghỉ” (hay đình chỉ) – đây là thành phần làm cho tất cả
các thành phần khác phải chấm dứt – hoặc còn gọi đấy là “thành phần không
bao giờ chết”. Tất cả các thành phần khác đều chết, bởi vì chúng mang bản
chất
phải gánh chịu cái chết (mọi hiện tượng hiện ra và biến mất như những ảo giác).
Trái lại thành phần tắt nghỉ không liên quan gì đến sự sinh cũng như cái chết, hơn
thế nữa nó còn biểu trưng cho sự tắt nghỉ hoàn toàn của tất cả các thành phần
khác. Tánh không sống bên trong thành phần đó, chính vì thế mà người ta cũng có
thể gọi thành phần tắt nghỉ là “thành phần của tánh không”, và đấy cũng
thành phần đưa tất cả các thành phần khác trở về với tánh không (định nghĩa gián tiếp
niết-bàn, tức là sự tắt nghỉ, và thể dạng liên đới với nó là tánh không một
cách thật khéo léo và tuyệt vời)
.

Nếu quý vị muốn hiểu được
là các thành phần nào khả dĩ khá thích hợp nhằm giúp mình hiểu được Dhamma (Đạo Pháp) thì trên đây là những gì
mà quý vị cần phải thấu triệt. Không nên tin rằng chỉ cần hiểu được các thành
phần
đất, nước, khí và lửa là gì thì cũng đủ – đấy chỉ là những chuyện để giảng
cho trẻ con nghe. Các thứ này đã được nói đến ngay cả trước thời kỳ của Đức Phật.
Phải đẩy sự hiểu biết xa hơn nữa đến thành phần tri thức phi-vật-chất, thành phần
không gian và sau hết là thành phần tánh không, tức là sự tắt nghỉ hoàn toàn của
đất, nước, khí và lửa, kể cả tri thứckhông gian. Thành phần tánh không
thành phần tuyệt vời nhất đã được nêu lên trong giáo huấn Phật Giáo.

Tóm lại: đất, nước, khí
và lửa thuộc vào các thành phần vật chất. Tâm thức (spirit, mind), tri thức (consciousness,
mental proceses
)
thuộc các thành phần phi-vật-chất. Nibbanâ (niết-bàn) tức là thành phần của tánh
không
thì thuộc vào các thành phần của sự tắt nghỉ (nirodhadhâtu). Quý vị cũng nên
dành thì giờ để suy tư cẩn thận hơn về tất cả các thể loại thành phần cho đến
khi nào hiểu được một cách thật minh bạch những gì vừa được tóm lược trên đây.
Đấy sẽ là cách giúp quý vị khám phá ra thành phần nibbanâ và để hiểu được thấu đáo hơn các khái niệm về vô-ngã và
tánh khôngchúng ta đang bàn thảo.

Tóm lại
chúng ta có thể đưa ra một nguyên tắc như sau: trong sự nắm bắt và bám víu vào
“cái tôi” và cái “của tôi” có cả hai thành phần vật-chất và
phi-vật-chất, và trong sự vắng mặt của chúng thì lại có thêm thành phần tắt nghỉ.
Nói một cách ngược lại thì người ta có thể bảo rằng nếu thành phần tắt nghỉ
thâm nhập vào tâm thức thì người ta chỉ thấy toàn là tánh không: thể dạng thoát
khỏi
“cái tôi” và cái “của tôi” ấy sẽ phát lộ một cách thật
rõ rệt. Nếu một thành phần khác (tức khác hơn với sự tắt nghỉ) thâm nhập vào tâm
thức
thì người ta sẽ nhìn thấy nó dưới các thể dạng như hình tướng, danh xưng,
một vật thể trông thấy được, âm thanh, mùi, vị, một vật thể sờ mó được, hoặc là
các giác cảm (thích
thú
, khó chịu)
, các thứ kỷ niệm, tư duy, tri thức, v.v… – tất cả đám
hỗn tạp đó tham gia vào sự hiển hiện và biến mất của các hiện tượng (xin hiểu là quá
trình hiển hiện và biến mất của mọi hiện tượng là một sự cảm nhận của tâm thức,
do đó khiến chúng ta cũng có thể liên tưởng đến quan điểm về hiện tượng học của
học phái duy thức
)
, và dựa vào đó người ta sẽ phát lộ ra sự thích thú
hay là ghét bỏ (sự
minh bạch trong tâm thức của Buddhadasa và cách trình bày chính xác của ông đã
đạt đến một mức độ khiến cho chúng ta phải bàng hoàng)
.

Thật
vậy, chúng ta có hai thể dạng tâm thần nắm giữ một vai trò ưu thế hơn cả: đấy là
sự toại-nguyện và bất-toại-nguyện. Đấy là hai cách phản ứng đã trở nên quá quen
thuộc
với chúng ta (thật thế không mấy khi chúng ta giữ được một thể dạng trung
hòa
, khi một giác cảm xảy ra – nhìn thấy một hình tướng, nghe thấy một âm thanh,
ngửi thấy một mùi… – thì tức khắc chúng ta đánh giá ngay những thứ ấy bằng sự
thích thú hay khó chịu và không thể giữ được một thể dạng “vô tư”)
.
Người khác dạy chúng ta cách phải làm thế nào để chiếm hữu những gì mà mình thèm
muốn
(dạy mình
phải cố gắng học hành để kiếm được nhiều tiền chẳng hạn, thế nhưng mình thì lại
chỉ thích… lười biếng
)
, hay là để loại bỏ hoặc lẩn tránh những gì mà
mình cảm thấy khó chịu (thí dụ như mình lo buồn thì người khác dạy mình đừng nghĩ đến
quá khứ, thế nhưng mình thì lại cứ quay về quá khứ hoặc hướng vào tương lai và
không thể nào “cột” tâm thức vào hiện tại được
)
. Đấy là một
sự xao động thường xuyên, nó không để cho tâm thức có thể tìm thấy được sự trống
không. Nếu muốn cho tâm thức trống không thì chúng ta phải vượt xa hơn những gì
vừa trình bày trên đây, tức có nghĩa là phải vượt thoát khỏi những thành phần gây
ra sự bấn loạn, hầu giúp mình hòa nhập vào tâm điểm của tánh không.

Ba
thành phần giúp đưa đến niết-bàn

Nhằm để
nêu lên các đặc tính của các thành phần khác nhau, Đức Phật đã phân chia chúng ra
thành ba thể loại. Trước hết Ngài nêu lên thể loại gọi là nekkhamadhâtu“thành
phần của sự từ bỏ”
như là một nguyên nhân đưa đến sự rút lui ra khỏi
thế giới tham dục (sensuality – tức là rút lui ra khỏi thế giới dục tính hay là bối cảnh
gia đình)
; sau đó là thành phần arupadhâtu
“thành phần phi-vật-chất”
– như là một nguyên nhân đưa đến sự rút
lui ra khỏi thế giới vật chất; thành phần thứ ba là nirodhadhâtu“thành phần
của sự tắt nghỉ”
– tức là sự rút lui khỏi thế giới trói buộc (monde conditionné
/ conditioned world / thế giới hiện tượng sinh khởi qua sự trói buộcchi phối
của quy luật nguyên nhânhậu quả)
.

Nếu đủ
sức
nhìn thấy được thành phần của sự từ bỏ thì cũng có nghĩa là đã đủ sức rút
lui khỏi thế giới tham dục, bởi vì đấy là thể dạng đối nghịch với nó. Thường trú
trong thành phần của sự từ bỏ là cách không để cho mình bị thiêu rụi bởi ngọn lửa
tham dục (sensuality
/ dục tính. Một người “tại gia” không xem phim ảnh nhảm nhí, không để
cho tâm thức mình bị xâm chiếm bởi những thứ tưởng tượng bệnh hoạn kích động bởi
bản năng dục tính, không bị thu hút bởi hình ảnh của người khác phái – hay đôi
khi cũng có thể là đồng tính – thì cũng có thể thực hiện được khía cạnh nào đó
của một người “xuất gia”)
. Một tâm thức khi đã loại bỏ được
thế giới của sự thèm muốn giác cảm tất sẽ hàm chứa được thành phần của sự từ bỏ.

Những
người từ bỏ được những sự thèm muốn thô thiển nhất của dục tính sẽ biết hướng vào
những thứ khác cao đẹp và thú vị hơn. Tuy nhiên những thứ ấy dù mang tính cách thanh
tao
hơn thế nhưng vẫn còn thuộc vào thế giới vật chất. Chẳng hạn như trường hợp
của những người luyện tập du-già (yogi) thành thạo, họ luôn tìm cách thường trú
trong một thể dạng bám víu vào những thứ thích thú do phép thiền định sâu xa
mang lại cho họ (chúng
ta
cũng nên ghi nhớ là tìm kiếm thể dạng thanh thản, phẳng lặng và an vui bằng
thiền định không có gì là Phật Giáo cả. Thiền định Phật Giáo là cách giúp mình quán
nhận được bản chất đích thật của hiện thực là gì và để hoà nhập với nó
)
.
Ở một cấp bậc thấp hơn, chúng ta thường thấy các người lớn tuổi hay say mê đồ cổ
hoặc thích sưu tập các loại cây kiểng hiếm có. Tuy các thứ ấy không dính dáng
gì đến vấn đề tính dục thô thiển, thế nhưng thật ra thì chúng là một cái bẫy
nguy hiểm hơn tính dục rất nhiều, bởi vì khi đã rơi vào cái bẫy ấy thì khó lòng
mà ra khỏi – tức có nghĩa là rất khó để từ bỏ những hình thức thích thú vật chất.

Vậy
thì
ngoài sự bám víu vào thế giới vật chất ra thì người ta sẽ còn dễ bị khích động
để bám víu vào những thứ gì khác nữa? Người ta sẽ bám víu vào những sự vật hình
thành tùy thuộc vào các điều kiện tác tạo ra chúng (choses conditinnées /conditioned things)
ở một cấp bậc cao hơn, tức có nghĩa là mang tính cách tích cực hơn (thí dụ như những
điều tốt lành, đạo hạnh, nhân ái, từ bi, lý tưởng vị tha..
.)
. Trong
lãnh vực này sẽ có nghĩa là tốt hơn không nên nói đến những gì mang lại sự xấu
xa
– chẳng ai muốn nghe nói đến những thứ ấy! Tốt nhất chúng ta chỉ nên nêu lên
cách trau dồi những phẩm tính tốt và thực thi những hành động đạo hạnhmọi
người
thường hay cho rằng nhờ đấy sẽ được tái sinh trong cảnh giới thiên đường.
Chẳng phải là mọi người vẫn thường xuyên mơ tưởng đến chuyện ấy hay sao! Thế
nhưng thật ra thì đấy cũng chỉ là sankhata – tức cũng chỉ là một thể dạng trói
buộc
(état
conditionné / conditioned state. Chúng ta hãy thử tưởng tượng ra là nếu mình được
sống trong một cõi đầy hoa thơm cỏ lạ cùng âm nhạc và tiếng hát vang lừng, thế
nhưng nếu đấy chỉ là… hoa giả và các bài hát thì lại quá xưa, lỗi thời và chỉ
toàn một điệu, thử hỏi mình có chịu đựng nổi một tháng hay chăng? Tưởng tượng
như thế tức là cách giúp để hiểu được chữ sankhata mà Buddhadasa nêu lên là gì,
một thể dạng tâm thức không loại bỏ được cái tôi sẽ như thế nào
)
.
Chúng ta thường xuyên bị giam hãm trong các ý nghĩ như muốn được trở thành thế
này hay thế kia và chiếm hữu vật này hay vật nọ! Trở thành “cái tôi”
của một con thú thì quả là một điều không ai thích, vậy thì ai cũng muốn được
là cái tôi của một con người. Khi nhận thấy rằng làm người cũng chẳng khá gì lắm
thì lại muốn được làm một thiên nhân (celestial being / être céleste). Được làm thiên
nhân
cũng chưa vừa lòng nên lại muốn được làm một vị thánh (brahma-god / divinité). Nếu được làm
một vị thánh vẫn chưa phải là hay, thì lại thích làm vua của các vị thánh (mahabrahma-god /
roi des divinités
)
! Thế nhưng trong tất cả những thứ ấy đều có một
“cái tôi”, hay tất cả cũng chỉ là các thành phần trói buộc (sankhata).
Chỉ duy nhất khi nào khám phá ra được thành phần tắt nghỉ (nirodhadhâtu) thì
khi đó mới có thể giúp mình thoát khỏi thế giới trói buộc được.

Thành
phần
tắt nghỉ do đó chính là thành phần tối thượng. Đấy là sự tắt nghỉ hoàn toàn
của “cái tôi” và cái “của tôi”. Nếu sự tắt nghỉ ấy mang tính
cách
vĩnh viễntuyệt đối thì sẽ trở thành một vị A-la-hán, một sinh linh đã
được giải thoát, một sinh linh giác ngộ. Nếu sự tắt nghỉ ấy không hoàn hảo, thì
chỉ sẽ đạt được sự Giác Ngộ ở một cấp bậc thấp hơn, bởi vì vẫn còn dấu vết của
“cái tôi”, và đấy chưa phải là tánh không tối hậu.

Tóm lại
chúng ta phải thấu triệt được các thành phần, tức các yếu tố cấu hợp đích thật
của tất cả mọi hiện tượng. Tôi xin quý vị nên tìm hiểu những thứ này dựa vào một
nguyên tắc căn bản như sau: có các thứ thành phần mang hình tướng tức là các thứ
thành phần vật chất, các thứ thành phần không mang hình tướng tức là các thành
phần
phi-vật-chất, và sau hết là các thành phần làm tắt nghỉ tất cả các thành
phần
khác, dù chúng mang hình tướng hay không hình hình tướng. Chúng ta có thể
khẳng định một cách chắc chắn không có bất cứ gì khác ngoài ba thứ ấy ra.

Trên đây
là những gì mà chúng ta học được từ ngành khoa học do chính Đức Phật đưa ra, một
ngành khoa học bao gồm nhiều lãnh vực, từ vật lý học, tâm thần học và tâm linh
học. Ngành khoa học đó mang lại cho chúng ta một sự hiểu biết đầy đủ và toàn vẹn
về tất cả mọi hiện tượng, đầy đủ đến độ mà chúng ta chẳng còn muốn nghĩ đến việc
nắm bắt chúng nữa. Và đấy cũng chính là ý nghĩa của tánh không (nhờ học hỏi từ những
khám phá khoa học của Đức Phật chúng ta nhìn thấy tính cách ảo giác, biến động,
không thực và lừa phỉnh của mọi hiện tượng, khiến chúng ta không còn muốn chạy
theo
chúng nữa, đấy chỉ là những thứ vô nghĩa, không thực, trống rỗng, và nếu lỡ
tay
mà chạm vào chúng thì sẽ bị bỏng, chỉ có thế thôi
)
.

Tánh
không
hay là cõi thường trú của các Chúng Sinh Thượng Thặng

Nhằm
đưa sự hiểu biết về tánh không đi xa hơn, tôi sẽ triển khai thêm một vài điểm nữa.
Trong một bài thuyết giảng (kinh Uppannasaka-Sutta trong Majjhima Nikaya) Đức
Phật
có nói rằng tánh không là nơi thường trú của các Chúng Sinh Thượng Thặng (mahipurisavihara).
Các Chúng Sinh Thượng Thặng không bao giờ để cho tâm thức mình lang thang và
xao động, xoay hết hướng này sang hướng khác tương tự như tâm thức của những
người bình dị. Tâm thức của các Vị Thượng Thặng an trú trong tánh không, hoà nhập
với tánh không, và trở thành chính tánh không. Đấy cũng là cách mà tánh không
trở thành nơi an trú hay là tòa lâu đài của các Chúng Sinh Thượng Thặng, tức cũng
có nghĩa là của Đức Phật và của các Chúng Sinh đã đạt được Giác Ngộ. Khi nói rằng
tánh không là nơi thường trú của các Vị ấy thì cũng có nghĩa là các Vị ấy sống ở
nơi ấy và hít thở bầu không gian của nơi ấy.

Chính Đức Phật cũng đã cho biết là Ngài
đã từng sống trong cõi tánh không. Trong khi thuyết giảng Dhamma thì tâm thức của Ngài trống không về “cái tôi” và
cái “của tôi”. Trong khi Ngài đang đi khất thực hay trong những lúc phải
làm những công việc thường nhật, thì tâm thức của Ngài cũng trống không. Trong những
lúc nghỉ ngơi hay tìm sự thư giãn thì Ngài vẫn luôn giữ thể dạng trống không về
“cái tôi” và cái “của tôi”. Chính vì thế mà Ngài đã từng nói
với người đệ tửXá lợi Phất (Sariputta) rằng Ngài đã trải qua cuộc đời mình
trong cõi tánh không.

Con
người
chúng ta đang đề cập không phải là một con người bình dị chưa giác ngộ
mà đúng hơn đấy là một Sinh Linh Thượng Thặng, là Đức Phật: Ngài đã sống như thế
nào và thường trú trong một nơi như thế nào? Nếu quý vị muốn trông thấy được nơi
thường trú của Đức Phật, thì nhất định quý vị không nên tưởng tượng ra một kiến
trúc nào đó ở Ấn Độ, được xây cất bằng gạch và xi-măng, mà quý vị chỉ nên hình
dung
ra một cõi thường trú gọi là tánh không. Cái cõi đó trống không một cách
thật tuyệt vời.

Tánh
không
tối thượng không phải là một cảm tính thoáng qua mà quý vị cảm nhận được
khi còn đang ngồi ở đây và rồi nó sẽ biến mất đi trước khi quý vị về đến nhà. Cõi
thường trú của tánh không chính là tánh không tối thượng, vì thế mà người ta đã
đặt thêm cho nó một cái tên khác nữa bằng tiếng Pa-li, một cái tên khá dài: paramanuttara-sunnata
– có nghĩa là “tánh không tối thượng
không có gì vượt hơn được”
(parama:
tối thượng, anuttara: không có gì vượt
hơn được, sunnata: tánh không
). Nơi đó
tâm thức sẽ tỏa rộng và hòa nhập vào một bầu không gian thật tinh khiết bởi vì trong
nó các thứ ô nhiễm tâm thần đã bị loại bỏ, và đấy cũng chỉ là thể dạng vận hành
tự nhiên và không gượng ép của một vị A-la-hán.

Tuy
nhiên
cũng có một thể dạng trung gian. Trong thể dạng này tâm thức tuy đã phát
huy được một sự chú tâm thật mạnh và loại bỏ được mọi thứ ảo ảnh tâm thần, đạt
được
sự tinh khiết như trên đây, tức không còn mang một dấu vết nào của những
thứ nọc độc tâm thần nữa, thế nhưng sự tinh khiết ấy chưa mang tính cách vĩnh
viễn
, nó có thể bị thoái lùi hoặc chuyển ngược về thể dạng tối thượng (tức bị mất đi phẩm
tính “không có gì vượt hơn được” hay “anuttara”)
.

Nếu
muốn trở thành một người đệ tử đích thật của Đức Phật thì quý vị phải hội đủ khả
năng
đạt được thể dạng trên đây. Dù chưa đủ sức loại bỏ hẳn các thứ nọc độc tâm
thần thì cũng vẫn có thể tạm thời vượt thoát khỏi sự chi phối của chúng. Đấy là
một tầm nhìn bao quát về cảnh giới của Đức Phật và của các vị A-la-hán. Tầm nhìn
đó nhất định sẽ giúp mang lại cho chúng ta một nghị lực phong phú hơn trên đường
tu tập. Bởi vì những gì mà người ta gọi là tánh không, sự Giác Ngộ hay niết-bàn thì tất cả đều có thể đạt được,
hoặc toàn vẹnvĩnh viễn hoặc cũng có thể chỉ đạt được với tính cách tạm thời
và với một thể dạng chưa được hoàn toàn ổn định, và đấy cũng là thể dạng nằm
trong tầm tay của những người bình dị như chúng ta. Tuy nhiên cũng vẫn còn có một
thể
loại thứ ba có thể xảy đến nhờ vào sự trùng hợp của một số điều kiện (coinsidences / bối
cảnh, cơ duyên)
. Đôi khi có những trường hợp mà các điều kiện (cơ duyên) xảy
đến một cách thuận lợi giúp tâm thức an trú trong tánh không được khoảng một
hay hai giờ liên tiếp. Tuy nhiên điều quan trọng là chúng ta phải quyết tâm tu
tập
với tất cả khả năng của mình nhằm để giải thoát cho tâm thức của chính mình.

Các
cấp bậc của tánh không

Thuật
ngữ
“tánh không tối thượng không có gì vượt hơn được”
(paramanuttarasunnata) do Đức Phật nêu lên có nghĩa là sự thèm muốn, ghét bỏ và
những ý nghĩ sai lầm về thực thể của mọi sự vật tất cả đều đã bị loại bỏ, kể cả
sự nắm bắt và bám víu vào “cái tôi” và cái “của tôi” cũng đã
bị trừ khử. Tóm lạithuật ngữ trên đây mang ý nghĩa của một sự xả bỏ toàn diện.

Khi nhìn
vào cấp bậc cao nhất của tánh không như trên đây thì chúng ta cũng sẽ hiểu rằng
có các cấp bậc thấp hơn. Bên dưới cấp bậc tột đỉnh paramanuttarasunnata sẽ có các
cấp bậc thấp hơn, xếp theo thứ tự như sau:


nevasannanasannayatana: cảm nhận không cảm
nhận

– akincannayatana: cảm nhận sự trống
không tuyệt đối

– vinnancayatana: cảm nhận tri thức
biên

– akasanancayatana: cảm nhận không gian
vô tận

– pathavisanna: cảm nhận đất.

– arannasann: cảm nhận rừng

Cấp bậc
thấp nhất là arannasanna có nghĩa là
cách “cảm nhận sự hoang dã” (perception of forest). Nếu chúng ta đang sống
trong một môi trường ồn ào và đầy hoang mang thì chúng ta hãy tưởng tượng là mình
đang bước vào một khu rừng hoang dã thật yên lặng. Chúng ta cảm thấy nơi ấy thật
an bình, không một tiếng động. Chỉ cần tưởng tượng ra như thế cũng đã là một hình
thức
cảm nhận nào đó về tánh không rồi – thế nhưng cách tưởng tượng ấy chỉ là một
trò chơi trẻ con.

Trên
cấp bậc này là cấp bậc pathavisanna
có nghĩa là cách “cảm nhận đất”. Chúng ta hình dung tất cả mọi hiện
tượng
đều toàn là đất (không có giá trị gì cả). Sự cảm nhận đó sẽ giúp
xóa bỏ mọi sự thèm muốn các lạc thú giác cảm phát sinh từ hình tướng, âm thanh,
nước hoa, vị và sự đụng chạm. Đấy là cách cảm nhận mà những người còn trẻ nên cố
gắng
thực hiện.

Đến
đây chúng ta sẽ chuyển sang một cấp bậc cao hơn nữa là akasanancayatana, đấy là cách tạo ra cho mình sự “cảm nhận
không gian vô tận”. Chúng ta cảm thấy không có một thứ gì cả ngoài một
không gian bao lavô tận. Không gian cũng là một biểu trương nào đó của tánh
không
thế nhưng không phải là tánh không đích thật. Tánh không đích thật thuộc
vào một cấp bậc cao hơn không gian trống rỗng.


sao thì cũng không nên cảm thấy sợ hãi trước sự trống rỗng đó của tánh không
hãy cố gắng hướng vào một cấp bậc tinh tế hơn nữa là vinnancayatana, hay sự “cảm nhận tri thức vô biên”. Chúng
ta
tạo ra cho mình một tri thức vô tậnchúng ta sẽ không còn cảm thấy bất cứ
một thứ gì khác ngoài cái tri thức thật rộng lớn ấy.

Ở một
cấp bậc cao hơn nữa là akincannayatana,
có nghĩa là “cảm nhận sự trống không tuyệt đối”. Chúng ta hình dung ra
một thể dạng tâm thần hoàn toàn trống không, tức không để cho tâm thức hướng vào
hay trụ vào bất cứ một thứ gì cả. Tuy nhiên trong thể dạng đó vẫn còn tồn tại cảm
tính về sự trống không.

Một cấp
bậc khác cao hơn nữa là nevasannanasannayatana,
có nghĩa là sự “cảm nhận không cảm nhận”. Trong thể dạng này người ta
không cảm thấy là mình đang sống hay đã chết. Nếu bảo đấy là một sự cảm nhận thì
hoàn toàn sai, thế nhưng nếu nói rằng không có sự cảm nhận thì cũng sai nốt.
Người ta không thể nào gán cho kinh nghiệm cảm nhận ấy bất cứ một thứ nhãn hiệu
nào cả. Đấy là một “tri thức không nhận thức” (perception sans perception / awareness
without perception
)
. Sự tinh tế đạt đến một mức độ thật cao, cao đến
độ nếu cho rằng một người trong thể dạng ấy còn đang sống là sai, thế nhưng bảo
rằng người ấy đã chết thì cũng là sai. Trạng thái ấy cũng là một hình thức của
tánh không (mô tả
tri thức của một người cận kề sự Giác Ngộ tối thượng – paramanuttarasunnata – một
cách cực kỳ giản dị và tuyệt vời đến độ có thể khiến cho chúng phải bàng hoàng
kinh sợ)
.

Sáu cấp
bậc của tánh không trên đây hoàn toàn không phải là cùng một thứ với “tánh
không tối thượng và không có gì vượt hơn được” (paramanuttarasunnata). Đức
Phật
nêu lên các thể dạng trống không trên đây là chỉ nhằm mục đích cho thấy các
cấp bậc khác nhau của tánh không, và trong số này không có một cấp bậc nào có
thể làm nơi thường trú của các Sinh Linh Thượng Thặng được. Đấy chỉ là những thể
dạng tánh không mà những người du-già đã từng luyện tập trước cả thời kỳ của Đức
Phật
. Dù họ có khám phá ra rất sớm các thể dạng đó thế nhưng họ đã bị chận đứng
lại ở các cấp bậc ấy và không thể vượt xa hơn được. Riêng chỉ có Đức Phật đã khám
phá
ra tánh không đích thật như là một nơi thường trú cho những Sinh Linh Thượng
Thặng. Đấy là “tánh không không có gì có thể vượt hơn được” mà tôi vừa
trình bày trên đây.

Tiếp
xúc
với tánh không

Các tập
Luận Giải thuộc Kinh Sách Phật Giáo gọi các kinh nghiệm cảm nhận về tánh không
là sunnataphassa – “tiếp xúc với tánh không”. Chúng ta hiểu rõ về sự
tiếp xúc giác cảm xảy ra giữa mắt và các vật thể trông thấy được, giữa tai và các
âm thanh nghe thấy được, v.v…, thế nhưng chúng ta chưa hề có một kinh nghiệm
nào về sự tiếp xúc với tánh không, bởi vì chúng ta chỉ vỏn vẹn biết được các thành
phần
vật-chất và phi-vật-chất, chúng ta tuyệt nhiên chưa hề được biết gì về thành
phần
của sự tắt nghỉ hay nirodhadhâtu.

Khi nào
chúng ta bắt đầu nhận thấy được thành phần của sự tắt nghỉ thì chúng ta cũng sẽ
cảm nhận được một thứ gì đó mới lạ hơn, đấy là gì mà các vị thầy bình giải gọi
là “sự tiếp xúc với tánh không”. Và đấy cũng là tên gọi của Con Đường
Cao Cả (Noble
Sentier / Noble Path / Con Đường của Tám Sự Đúng Đắn hay còn gọi là Bát Chính Đạo.
Xin ghi chú thêm là gần đây cũng có một số học giả Tây Phương cho rằng chữ “đúng
đắn” – “chánh” – mang ý nghĩa tương đối giới hạn không biểu trưng
được ý nghĩa của Con Đường Cao Cả nên đã đề nghị thay chữ “đúng đắn”
bằng chữ “hoàn hảo
“)
bắt đầu từ giai đoạn mà nó đã loại bỏ
được tất cả các thứ nọc độc tâm thần. Nếu luyện tập theo con đường đó cho đến khi
nào loại bỏ được tất cả các thứ u mê tâm thần thì sự tiếp xúc với tánh không sẽ
hiện ra. Tâm thức tiếp xúc với tánh không cũng khá tương tự như dùng bàn tay để
chạm vào sự trống không.

Đối với
những ai quán nhận ngày càng minh bạch hơn rằng không hề có “cái tôi”
và cái “của tôi” mà tất cả chỉ toàn là dhamma và các chuyển động tự nhiên (anattânupassanâ) thì sự
trống không dưới hình thức một sự tiếp xúc sẽ phản ảnh được Con Đường của Tám Sự
Đúng Đắn. Khi đã mang bản chất ấy (tất cả chỉ là dhamma) thì Con Đường của Tám Sự Đúng
Đắn
cũng có thể được xem là tánh không, và mọi sự tiếp xúc xảy đến trên Con Đường
ấy cũng sẽ gọi là sự “tiếp xúc với tánh không” (sunnataphassa). Sự quán
thấy minh bạch không hề có “cái tôi” và cái “của tôi” là
nguyên nhân mang lại sự tiếp xúc đó, và đồng thời cũng là hậu quả của sự quán
thấy minh bạch về khổ đau (dukkhânupassanâ). Quán thấy minh bạch được khổ đau cũng
tương tự như đưa tay vào lửa và nhận ra rằng đấy là một việc không nên làm; hoặc
tương tự như khi đã hiểu rằng không nên nắm bắt bất cứ một dhamma nào, và cũng không nên bám víu vào chúng, bởi vì nếu cứ nắm
bắt lấy chúng thì chúng sẽ hóa thành ngọn lửa. Trên phương diện tâm linh, khi đã
quán thấy được một cách minh bạch rằng lửa có thể thiêu đốt, hủy diệt, làm cho
ngạt thở, gây ra thương tích, bủa vây và giam hãm con người thì khi đó chúng ta
cũng sẽ quán thấy được một cách minh bạch dukkha
là gì (dukkhânupassanâ).

Ở cấp
bậc này chúng ta phải nghĩ đến sự kiện là có một số người cho rằng nếu không thể
tự mình đạt được nibbanâ thì không thể
nào hiểu được nó là gì, tương tự như nếu không thăm viếng một nước nào đó thì
không thể nói được là đã trông thấy quốc gia ấy. Thế nhưng nibbanâ không phải là một thứ gì thuộc lãnh vực vật chất, đấy là những
liên quan đến tâm thức và con tim của mình. Như tôi đã nêu lên trên đây, ngay
đang trong giây phút này tâm thức của hầu hết quý vị là tánh không, và đấy đã cũng
đã là một chút tiền vị của tánh không (đích thật) rồi. Quý vị hãy triển khai sự quán thấy
ấy về (tánh
không
của
)
mọi sự vật.

Kinh
Sách có nêu lên các Nền Móng của sự Chú Tâm (căn bản luyện tập về sự tỉnh thức) trong phần trình
bày về cách quan sát các hiện tượng (cittânupassanâ) tức là cách tập trung nhìn
vào tâm thức mình: “Nếu tâm thức bị tràn ngập bởi sự thèm muốn dục tính,
thì mình cũng phải ý thức được sự kiện đó; nếu tâm thức bị chi phối bởi sự ghét
bỏ, thì mình cũng phải ý thức được sự kiện đó; nếu tâm thức rơi vào tình trạng
hoang mang tâm thần thì mình cũng phải ý thức được sự kiện đó; nếu tâm thức rơi
vào tình trạng kiệt quệ và mất hết nghị lực, thì mình cũng phải ý thức được sự
kiện
đó; nếu tâm thức không kiệt quệ thì cũng phải ý thức được là nó không kiệt
quệ
; nếu tâm thức ý thức được sự Giải Thoát, thì mình cũng phải ý thức được sự
kiện
đó; nếu tâm thức chưa được giải thoát, thì cũng phải ý thức được là nó chưa
được giải thoát”.

Nếu tâm
thức
đã được giải thoát thì nó sẽ trống không; nếu nó chưa được giải thoát thì
nó sẽ không trống không. Vậy thì chúng ta hãy nhìn vào tâm thức mình xem sao:
hoặc tâm thức mình đã được giải thoát thì tức có nghĩa là nó sẽ trống không vềtất cả mọi thứ, hoặc là tâm thức mình còn bám víu vào một thứ gì đó thì tất nó
còn vướng mắc trong sự nắm bắt. Đức Phật giảng rằng ngay từ lúc mới khởi sự tu
tập
phải cố gắng ý thức được thế nào là một thể dạng tâm thần trống không tức là
đã được giải thoát. Đấy là những gì chỉ có thể nhìn thấy từ bên trong, không phải
là cách nhờ vào sự suy luậnhọc hỏi trong sách.

Nibbanâ hay sự trống không đang ở nơi
này, trước mắt của chúng ta, dù cho chúng ta chưa đạt được giác ngộ cũng vậy. Tánh
không
thể hiện ra một cách đột ngột, thí dụ như ngay trong lúc này, nếu các
duyên
hội đủ. Nếu tập trung tâm thức thật đúng đắn nhằm giúp nó đạt được thể dạng
hoàn toàn thư giãn và an bình (nếu nói phóng đại thêm thì thể dạng ấy cũng có
thể so sánh với thể dạng khi tâm thức cảm nhận được một sự thích thú thông thường).
Tuy nhiên thể dạng này cũng đã là một khía cạnh nào đó của “sự giải thoát
bằng cách ngăn chận” (vikkambhanavimutti / release by suppression). Vì thế
ngay cả trường hợp chưa đạt được sự Giải Thoát tối hậu của một vị A-la-hán đi nữa
thì chúng ta vẫn có thể nhận biết được tánh không để khảo sát nó – như là một
món hàng làm mẫu do Đức Phật ban tặng! Nếu muốn nhận được món hàng mẫu ấy thì quý
vị cũng có thể tìm thấy nơi nội tâm của chính mình.

Tóm lại
là quý vị phải luyện tập về Bốn Nền Móng căn bản của sự Chú Tâm theo từng giai
đoạn một: trước hết là phát huy sự suy tư về thân xác, sau đó đến các giác cảm,
tiếp theotâm thức và sau cùng là các đối tượng của tâm thức. Sự luyện tập
này sẽ mang lại cho quý vị “hương vị” của tánh không suốt trong thời gian
ngay từ khi mới khởi sự tập luyện cho đến lúc hoàn tất. Vào giai đoạn cuối cùng
khi đã quán thấy được các hậu quả khổ đau do sự nắm bắt và bám víu mang lại thì
quý vị cũng sẽ hiểu được tánh không là gì. Vào chính thời điểm ấy, tâm thức
cũng sẽ tức khắc hướng vào bầu không gian của nibbanâ để tìm lấy sự toại nguyện cho mình.

Đấy
là cách giúp chúng ta thường xuyên trông thấy được tánh không (và để hưởng
“hương vị” của nó)
trong khi chờ đợi đạt được nó ở cấp bậc
tột đỉnh. Quá trình đó là một sự thăng tiến tự nhiênphù hợp với một thứ quy
luật
riêng chi phối nó, tuy nhiên cũng có thể cho đấy chỉ là một thứ quy luật của
thiên nhiên. Khi tự mình quán nhận được thật minh bạch một điều gì đó thì sự hiểu
biết
ấy sẽ rất vững chắc. Nó sẽ không biến đổi giống như trường hợp của một sự
hiểu biết sai lầm hay là một sự hiểu biết học hỏi được từ một người khác.

Sự
chấm dứt của nghiệp

Chúng
ta
cũng chẳng cần phải cố gắng quá đáng mới có thể mang lại hạnh phúc cho mình.
Thật vậy, chẳng có gì là phức tạp lắm. Tất cả những gì cần phải làm là giải thoát
cho tâm thức mình khỏi sự thèm muốn, ghét bỏ và các ý nghĩ sai lầm, hoặc nếu nói
cách khác là phải trút bỏ mọi sự nắm bắt và bám víu vào “cái tôi” và
cái “của tôi”. Khi nào tâm thức đã loại bỏ được sự thèm muốn, ghét bỏ
và các ý nghĩ sai lầm thì nó sẽ trở nên trống không và mọi thứ khổ đau cũng sẽ
chấm dứt.

Trong
Tăng Nhất Bộ Kinh (Anguttara Nikaya) có nói rằng khi nào tâm thức đã loại bỏ được
sự thèm muốn, ghét bỏ và các ý nghĩ sai lầm, trút bỏ hết “cái tôi” và
cái “của tôi”, thì tự nhiên kamma
(nghiệp)
cũng sẽ tự nó chấm dứt. Điều đó có
nghĩa là kamma, quả của nó và các sự u
tâm thần làm nguyên nhân tạo ra nghiệp cũng sẽ tự động theo đó mà chấm dứt.
Chúng ta không nên sợ hãi kamma, tức không
nên lo sợ phải gánh chịu tác động của nó. Không cần phải quan tâm đến kamma một cách quá đáng, tốt hơn nên nghĩ
đến tánh không. Nếu chúng có thể tạo ra tánh không cho “cái tôi” và cái
“của tôi” thì kamma theo đó
cũng sẽ tan biến hết và chúng ta cũng sẽ tránh được mọi tác động của nó.

Chính vì lý do đó mà một người mang tên là Angulimala có thể trở thành một
vị A-la-hán. Không nên hiểu sai như nhiều người khác về câu trả lời của Đức Phật
cho Angulimala : “Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính con vẫn chưa dừng lại đấy
thôi” (nhằm
giúp người đọc theo dõi dễ dàng hơn ý của Buddhadasa trình bày trong đoạn này
nên cũng xin mạn phép nhắc lại câu chuyện về Angulimala như sau:… Một hôm Đức
Phật
đi đến một nơi có tiếng là nguy hiểm vì nơi này có một tên sát nhân là
Angulimala vô cùng hung dữ và lại đang tìm giết người thứ một ngàn. Chủ nhân
một quán trọ thiết tha xin Đức Phật hãy dừng chân lại và đừng đi đâu cả. Đức
Phật
không nghe và vẫn lẳng lặng lên đường. Thị trấn vắng tanh, nhà nhà đóng
cửa
. Angulimala thấy một nhà sư đang đi một mình trong một con phố vắng, hắn bèn
rút thanh kiếm và đi theo. Đức Phật thấy có kẻ lạ đến gần và biết ngay đấy là
tên sát nhân mà mọi người sợ hãi, tuy nhiên Ngài vẫn thản nhiên bước một cách
thanh thản. Angulimala rất ngạc nhiên trước thái độ bình thản đó, hắn đưa cao
thanh kiếm đứng chắn trước mặt Đức Phật và thét lên ra lịnh cho Đức Phật phải
dừng lại. Đấng Như Lai không tỏ vẻ sợ hãi một chút nào và cất lời nói với
Angulimala một cách thật dịu dàng: “Này
Angulimala, con có biết không, ta đã dừng
lại
từ lâu lắm rồi. Chính con vẫn còn đang múa may trong lửa đỏ của hận
thù
, của giận dữdục vọng điên cuồng”. Angulimala hết sức bất
ngờ trước câu nói đó liền ngước nhìn để dò xét gương mặt của Phật. Trước vẻ mặt
tràn đầy lòng từ binhân ái của Đức Phật, Angulamala bỗng cảm thấy trơ trụi cô đơn, và bất thần hắn nhận thấy mình đang bước trên con đường
của khổ đau và bất hạnh. Hắn bèn ném bỏ thanh kiếm và quỳ xuống dưới chân của
Đấng Giác Ngộ và xin nguyện sẽ từ bỏ cuộc sống hung ác (kinh Angulimala-sutta, trong Trung Bộ Kinh – Majjhima-Nikaya. Đoạn
trên đây trích từ một bài viết mang tựa đề Khái niệm về ba cửa ngõ trong
Phật Giáo
– có thể xem trên Thư Viện
Hoa Sen)
. Câu trả lời ấy không có nghĩa là Angulimala trước
đây là một tên sát nhân, thế nhưng nay thì đã dừng lại và không còn giết người
nữa và nhờ đó mà Angulimala đã trở thành một vị A-la-hán. Cách hiểu như thế là hoàn
toàn
sai. Đức Phật dùng chữ “dừng
lại
” với dụng ý là không còn nắm bắt và bám víu vào “cái tôi”
và cái “của tôi” nữa, nói cách khác thì sự dừng lại ấy chính là tánh không.
Tánh không là một sự ngưng nghỉ, và đấy cũng chính là một hình thức dừng lại duy
nhất
có thể giúp cho tên cướp Angulimala trở thành một vị A-la-hán cao cả. Nếu chỉ
nhờ vào sự kiện không còn sát nhân nữa mà Angulimala đã trở thành một vị A-la-hán
thì tại sao bao nhiêu người khác không sát nhân mà nào họ có đạt được giác ngộ đâu?
Bởi vì sự đình chỉ hay sự dừng lại đích thật, mới đúng là tánh không. Khi nào
không còn có “cái tôi” để trú ngụ ở nơi này, để đi đến nơi kia hay quay
về
từ một nơi khác, thì khi ấy mới có thể gọi là một sự dừng lại đích thật. Khi
nào vẫn còn một “cái tôi” thì sẽ không có cách gì để dừng lại được.

Quý vị
cũng nên hiểu rằng chữ “tánh không” mang cùng một ý nghĩa với chữ
“dừng lại” và đấy cũng là chữ mà Đức Phật đã sử dụng để làm cho
Angulimala phải thức tỉnh, trong khi mà hai tay của hắn vẫn còn vấy máu và trên
cổ vẫn còn đeo một xâu chuỗi với 999 đốt xương lấy từ các ngón tay của các nạn
nhân mà hắn đã giết. Nếu muốn cho kamma
tự nó phải chấm dứt và để đạt đến điểm “dừng lại” thì chúng ta phải
luôn tâm niệm câu sau đây: “Phải thực hiện được sự trống không về cái tôi
và cái của tôi” – và nhất là không được nắm bắt các sự vật, cũng không bám
víu
vào chúng.

Sở dĩ
phải giải thích dông dài như trên đây đấy nhằm vào mục đích làm sáng tỏ ý nghĩa
của chữ “tánh không”. Thoát khỏi những thứ u mê tâm thần tức có nghĩa
là trống không về cảm tính của “cái tôi” và cái “của tôi”. Nhờ
đó người ta sẽ đạt được tánh khôngloại bỏ được dukkha. Tóm lại là thể dạng trống không về các thứ u mê tâm thần cũng
là thể dạng trống không về mọi thứ khổ đau. Chỉ cần đơn giản thực hiện được sự
trống không của “cái tôi” và cái “của tôi” thì cũng đủ để đạt
được
sự trống không của tất cả mọi sự vật. Thể dạng trống không đó không thuộc
vào thành phần đất, thành phần nước, thành phần lửa, thành phần khí hay thành
phần
không gian, v.v… (xin ghi chú thêm là ngoài tứ đại gồm đất, nước, lửa và khí,
Đức Đạt-lai Lạt-ma và một số kinh sách còn nêu thêm một thành phần thứ năm là
không gian, tức là thành phần cần thiết để chuyển tải tứ đại)
. Chính
Đức Phật đã nói rõ là thành phần trống không đó không thuộc vào những thứ như vừa
kể. Trống không là thành phần của sự tắt nghỉ, là sự vắng mặt của “cái tôi”
và cái “của tôi”, là sự đình chỉ của kamma, là sự loại bỏ của các thứ u mê tâm thần và của khổ đau.

Thực
hiện
thể dạng thanh thản

Điểm
sau cùng cần phải bàn luận và cũng đã được nêu lên ngay từ lúc đầu, đấy là sự
liên hệ giữa tánh không và tất cả mọi sự vật. Quý vị cũng nên ghi nhớ một điều
là “tất cả mọi sự vật” đều là dhamma,
dhamma thì cũng chẳng phải là gì
khác hơn là thiên nhiên hay những gì “tự chúng là như thế”; chúng hoàn
toàn
trống không về “cái ngã” và về những gì thuộc vào “của chúng”.
Sở dĩ các thứ dhamma của sự đần độn,
của các ý nghĩ sai lầmu mê thường xuyên hiện lên đấy là vì văn hóa (chữ này trong
nguyên bản là “culture”, có thể hiểu là giáo dục, truyền thống, tập
quán
…)
đời sống xã hội (trong nguyên bản là “la façon dont nous vivons” /
“the way that we live
“)
đều nhằm vào chủ đích củng cố các dhamma liên quan đến “ego” (“cái
tôi
“)
và các thể dạng của sự thiếu-hiểu-biết (unknowing)
không hề quan tâm đến các dhamma của
sự hiểu biết thật sự. Vì thế chúng ta phải thường xuyên và tự động gánh chịu sự
trừng phạt vì cái “tội tổ tông” ấy (trong nguyên bản là péché originel / original
sin, đấy là ngụ ý nói đến quan điểm về “khổ đau” của một số các tín
ngưỡng
khác, khi các tín ngưỡng này cho rằng tất cả chúng ta đều phải gánh chịu
lỗi lầm của tổ tiên mình đã vi phạm. Buddhadasa xem cái tội tổ tông ấy chính là
các truyền thống, tập quán, giáo dục và các hình thức sinh hoạt xã hội, tất cả những
thứ này đã dự phần củng cố “cái tôi” của mỗi cá thể con người trong
hội
)
của mình từ khi chúng mới phát sinh, đấy là cái tội hành động
thiếu ý thức của mình (bị chi phối và điểu khiển bởi “cái tôi” và cái
“của tôi” mà không hay biết
)
và không hề ý thức kịp thời để
rút tỉa một bài học cho mình (tương tự như đứa bé đưa tay vào lửa). Thế hệ trẻ
không ý thức được việc đó; người trung niên cũng không, và hầu hết những người
trọng tuổi cũng thế (có nghĩa là chẳng có ai biết rút tỉa cho mình một bài học nào
cả từ sự trừng phạt vì sự “phạm tội tổ tông” đó
)
. Ít ra thì
khi đã trưởng thành hay vào lúc tuổi già chúng ta cũng phải ý thức được sự kiện
ấy nếu muốn tránh khỏi sự trừng phạt và vượt thoát khỏi cái lưới của sự sinh và
cái chết đang giam giữ mình hầu có thể bay bổng lên bầu không gian trong sáng
vô tận.

Khi
giáo huấn Phật Giáo được truyền bá sang Trung Quốc thì những người Trung Quốc vào
thời bấy giờ cũng đã chứng tỏ cho thấy là họ khá thông minhsáng suốt khi biết
tiếp nhận giáo huấn ấy. Sau đó tại Trung Quốc cũng đã hình thành nhiều học phái
do các vị thầy thuộc tầm cỡ lớn như Hui Neng (Huệ Năng) và Hoang Po (Hoàng Bá Hy Vân) chủ
xướng
. Trong các học phái này người ta nhận thấy cách giải thích về tâm thức, Dhamma, Đức Phật, Con Đườngtánh không
đều rất chính xác (Phật Giáo Theravada khen Thiền Học), và nổi bật hẳn là một câu
thật then chốt như sau: “tâm thức, Đức Phật, Dhamma, Con Đườngtánh không
cũng chỉ là một thứ” (tuyệt vời thay sự hiểu biết thâm sâu của Buddhadhasa, chỉ cần
vài chữ cũng đủ để tóm lược cốt tủy của Thiền Tông. Dù sao thì chúng ta cũng có
thể thêm vào đấy “hiện thực” hay “thực tại”, bởi vì tất cả những
gì vừa kể ra trên đây đều hòa nhập với nhau để trở thành một tức là “hiện
thực” và để tỏa rộng trong bầu không gian vô tận và trống không xuyên qua tâm
thức
của mỗi cá thể con người ngay trong “thực tại
“)
. Câu
nói ấy cũng đã thừa đủ, không cần phải dông dài gì nữa cả. Nó có thể thay cho tất
cả kinh sách. Thế nhưng đấy lại là một câu mà những người tu tập theo lối cổ điển
(lễ bái, tụng niệm,
cầu xin, chuông mõ vang rền
…)
không thể nào hiểu nổi. Chúng ta phải
cảm thấy hổ thẹn về chuyện ấy. Người Trung Quốc còn nói thêm rằng “tánh không
từ bản chất của nó lúc nào cũng đang hiện hữu, thế nhưng chỉ vì chúng ta không
nhìn thấy mà thôi”. Tôi có thể chứng minh được điều ấy bằng cách lập lại
thêm một lần nữa là ngay trong giây phút này những ai đang ngồi đây, từ bản chất
đều có một tâm thức trống không, thế nhưng quý vị chẳng những không nhìn thấy nó
mà lại còn khăng khăng không chấp nhận đấy đúng thật là tánh không.

Hoang
Po (Hoàng Bá)
luôn cảnh giác các đệ tử của mình bằng cách đưa ra hình ảnh một người có một viên
kim cương dính trên trán mà không hề hay biết, và cứ chạy đôn đáo khắp cả địa cầu
và cả các thế giới khác để tìm cách hiến dâng một xu hầu mong cầu mua được cõi
thiên đường và các phương tiện giúp làm thỏa mãn tất cả những gì mà mình khao
khát. Thật vậy, chỉ vì không nhìn thấy viên kim cương đang dính trên trán mình
nên chúng ta đành phải chạy khắp nơi trong thế giới này và cả bên ngoài địa cầu
(cõi cực lạc
chốn thiên đường
)
để tìm kiếm
nó. Vì thế tôi mong rằng quý vị hãy cố nhìn thấy, dù chỉ trong một thoáng thật
ngắn ngủi, xem có gì dính trên trán mình hay không, và để hiểu rằng phải đặt bàn
tay mình lên đấy.

Các lời
chỉ dẫn giúp khám phá ra viên kim cương của các vị thầy Trung Quốc còn ẩn chứa
một sự sâu sắc khác nữa, ấy là: “Chẳng cần phải làm gì cả, cứ đơn giản giữ
lấy sự thanh thản (be still / être tranquille / bình thản… – cũng có nghĩa là giữ sự yên
lặng trong tư thế bất động của phép ngồi thiền
)
thì tâm thức tự nó cũng
sẽ trút bỏ tất cả để trở thành trống không”. Câu phát biểu: “Cứ đơn
giản
giữ lấy sự thanh thản và chẳng cần phải làm gì cả” trên đây mang nhiều
ý nghĩa khác nhau. Tâm thức chúng ta thích nghịch ngợmham vui đùa (naughty and
playful
)
. Tâm thức chỉ muốn thoát ra bằng các cửa ngõ như mắt, tai,
mũi, lưỡi và thân xác. Tâm thức thu góp các đối tượng giác cảm và cất chứa bên
trong nó. Thế nhưng sau đó thì tâm thức lại tỏ ra quá sức đần độn vì nó cứ để mặc
cho các dhamma của vô minh (sự u mê tâm thần)
lèo lái nó, hậu quả mang lại sẽ toàn là các hình thức nắm bắt và bám víu vào
“cái tôi” và cái “của tôi”. Tình trạng đó gọi là ham thích
nghịch ngợm và không thích sự thanh thản.

“Giữ
sự thanh thản” có nghĩa là cứ để cho các đối tượng giác cảm thâm nhập vào
tâm thức mình, thế nhưng cứ mặc kệ để cho chúng chết, tương tự như những gợn
sóng đập vào bờ. Hãy lấy một thí dụ, khi mắt trông thấy một hình tướng, nếu đấy
chỉ là một “sự thấy”, thì cũng sẽ có nghĩa là không cho phép các thứ “hình
tướng trông thấy được” thâm nhập vào tâm thức – đối với các giác quan khác
cũng vậy. Nếu không làm được như thế và các thứ cảm tính như toại nguyện và bất
toại nguyện hiện ra sau đó, thì quý vị cũng nên cố gắng dừng lại ở đấy! Không được
để cho các thứ cảm tính ấy chuyển thành sự thèm muốn. Nếu mọi sự dừng lại ở đấy
thì vẫn có thể giữ được sự thanh thản. Trái lại nếu chúng ta cứ để cho chúng tiếp
tục
phát triển để biến thành cảm tính toại nguyện, thì tức khắc ngay vào lúc ấy
“cái tôi” và cái “của tôi” sẽ hiện ra. Hoặc nếu phản ứng ấy
là một cảm tính bất toại nguyện thì khổ đau sẽ hiện ra. Và đấy có nghĩa là
không giữ được sự thanh thản.

Tóm lại
ý nghĩa trong câu “giữ được sự thanh thản” do Huệ Năng đưa ra rất phù
hợp
với tinh thần tu tập do Đức Phật đã giảng dạy, tức là không được bám víu
vào bất cứ thứ gì để xem đấy là “cái tôi” và cái “của tôi”.
Nếu chúng ta không bám víu vào bất cứ thứ gì cả thì lấy gì để có thể làm xao động
và mang lại sự hoang mang cho chúng ta được. Thay vì chỉ biết chạy theo các sự
vật tạo ra sự bấn loạn cho mình thì chúng ta nên giữ lấy sự thanh thản.

Chúng
ta
phải cố gắng tạo ra cho mình tánh không vì đấy là một thứ gì thật xứng đáng cho
chúng ta hoài vọng. Nếu nói rằng có một thứ tánh không có thể mang lại sự đình
chỉ
, sự tinh khiết, sự minh bạch và sự an bình thì đấy cũng vẫn còn là một cách
nói sử dụng các thuật ngữ quy ước. Bởi vì nếu đã thực sự là tánh không thì chỉ
toàn là tánh không, chỉ có một thứ duy nhất ấy mà thôi và nhất thiết nó không
phải là một thứ nguyên nhân nào cả nhằm để mang lại bất cứ một thứ gì cả. Cái
tánh không ấy là Đức Phật, là Dhamma,
là Sangha, là sự tinh khiết, minh bạch, là sự an bìnhniết-bàn… tất cả đều hiện hữu chính trong cái thể dạng bất biến ấy.
Nếu cứ tiếp tục bảo rằng tánh khôngnguyên nhân tạo ra cái này hay cái kia
thì đấy sẽ là bằng chứng cho thấy chúng ta chưa đạt đến chỗ tối thượng, bởi vì
nếu đã đạt được cấp bậc ấy thì sẽ chẳng còn có gì để mà làm nữa (nếu đã đạt được
tánh không đích thật thì sẽ không còn có gì khác để mà đạt được nữa, nếu giả sử
còn có một cái gì khác để đạt được thì nhất định đấy phải là một sự thụt lùi và
sẽ không còn phải là tánh không nữa)
. Giữ được sự thanh thản thì Đức
Phật
, Dhamma, Sangha, sự tinh khiết,
sự minh bạch, sự an bình, nibbanâ,…tất
cả sẽ hiện hữu trong thể dạng bất biến ấy.

Hoang
Po (Hoàng Bá)
sử dụng một phương pháp thật đơn giản để giúp những người gặp quá nhiều khó khăn
trong việc tìm hiểu tánh không: Ông đưa ra một câu đố như sau: “Hãy thử nhìn
vào một hài nhi trước khi nó được hình thành”. Tôi cũng rất muốn lập lại câu
đố ấy với tất cả quý vị đang ngồi đây. Quý vị thử nhìn vào tâm thức của một hài
nhi trước khi nó được hình thành để xem cái tâm thức ấy của nó đang ở đâu? (trước khi hiện hữu
tức là trước khi ngũ uẩn kết hợp để tạo ra một cá thể thì cá thể ấy chưa có cái
tâm thức để có thể hàm chứa “cái tôi”, cũng chưa có năm thứ cấu hợp –
ngũ uẩn – để cho nó có thể gọi đấy là cái “của tôi”, do đó cái “tâm
thức” trong thể dạng nguyên sinh trước khi một cá thể được cấu tạo sẽ phải
trống không về những thứ ấy tức về “cái tôi” và cái “của tôi”
)
.
Nếu quý vị giải đáp được câu hỏi trên đây thì nhất định quý vị cũng sẽ tìm thấy
tánh không thật dễ dàng, chẳng khác gì như quý vị lấy tay sờ vào viên kim cương
trên trán mình.

Kết
luận

Tóm lại, chủ đề về tánh không bao hàm
tất cả giáo huấn Phật Giáo bởi vì chính Đức Phật hít thở bằng tánh không (hiện hữu, trường tồn
và sống trong tánh không
)
. Tánh không vừa là một sự hiểu biết
thuyết
, vừa là một sự luyện tập và cũng lại vừa là quả mang lại từ sự luyện tập
ấy. Dù học hỏi bất cứ thứ gì (tông phái nào, học phái nào, kinh sách nào...) thì
cũng đều phải học hỏi tánh không; nếu luyện tập thì đấy cũng là phương tiện nhằm
giúp mang lại quả tạo ra bởi tánh không; nếu tiếp nhận được quả thì đấy cũng sẽ
tánh không, tóm lại là sau cùng người ta sẽ đạt được một thứ gì đó vô cùng xứng
đáng. Thật vậy, không có gì có thể vượt hơn tánh không được. Khi đã thực hiện
được nó, tất cả các khó khăn đều chấm dứt. Tánh không không ở trên, không ở dưới
cũng không ở bất cứ một nơi nào cả. Tôi cũng chẳng biết phải nói gì hơn, vì thế
tốt nhất là tôi xin câm miệng lại! Đơn giản chúng ta chỉ cần biết rằng tánh không
là niềm phúc hạnh tối thượng (Buddhadasa trở lại cách nói thường tình và quy ước của những
người thế tục để nói với những người thế tục nhằm khuyến khích họ “mạnh dạn”
bước vào Con Đường. Thế nhưng trong các câu kết luận sau cùng dưới đây Buddhadhasa
sẽ ném về phía họ một chiếc dây thòng lọng để lôi họ trở vể con đường thẳng đưa
đến tánh không hay niết-bàn đích thật)
.


sao thì quý vị cũng cần phải cố gắng hiểu được một cách đúng đắn các câu sau đây:
Nibbanâ (niết-bàn) là niềm phúc hạnh tối
thượng”, “Nibbanâtánh
không
tối thượng”. Không nên lầm lẫn chữ “phúc hạnh” trên đây với
niềm hạnh phúc mà quý vị có thể đã từng cảm nhận được – có một học phái mang hình
thức
tôn giáo phát triển trước cả thời kỳ của Đức Phật, đã từng tin rằng nibbanâ là điểm tột đỉnh của khoái lạc dục
tính, tương tự như trường hợp của một số học phái khác (du-già) tin rằng các thể dạng tinh
tế
của thiền định chính là một niềm hạnh phúc tối thượng. Đức Phật mong muốn chúng
ta
phải ý thức được là phải tuyệt đối lánh xa những thứ ấy dù bằng bất cứ phương
tiện
nào: dù đấy là cách chọn thành phần của sự từ bỏ (nekkhamadhâtu) (xuất gia)
như một phương tiện để tránh khỏi dục tính, dù đấy là cách chọn thành phần mang
tính cách phi-vật-chất (arupadhâtu / immateriality) như một phương tiện để tránh
khỏi
phép lắng sâu vào thiền định để tìm thấy các thể dạng vật-chất-tinh-tế (fine-material
plane / các loại cảm giác thanh thoát, lâng lâng và an bình tạo ra bởi thiền định
)
,
và sau hết dù đấy là cách chọn thành phần của sự tắt nghỉ (nirodhadhâtu) như là
phương tiện để tránh khỏi tất cả mọi thứ mang tính cách trói buộc (conditionné /
conditioned / có lẽ nên dùng chữ conditionnant hay conditioning thì thích nghi hơn,
bởi vì tất cả các hiện tượng trong vũ trụ – trong đó gồm có cả chúng ta – vừa
“tự trói buộc” lẫn nhau và cũng vừa làm nguyên nhân để “tạo tác”
ra những hiện tượng khác – thí dụ như chúng ta có thể tạo ra đủ mọi thứ chuyện.
Do đó thế giới của mọi hiện tượng không nhất thiết mang tính cách thụ động
thật ra cũng rất tích cực và chủ động, tuy rằng luôn bị chi phối bởi các quy luật
tương-liên và nguyên-nhân-hậu-quả. Chọn thành phần tắt nghĩ là cách thoát ra khỏi
tính cách vừa “trói buộc” lại vừa “tạo tác” của thế giới hiện
tượng
)
. Đấy chính là cách khiến cho tất cả mọi thể loại hoang mang tâm
thần
đều phải hội tụ (tan biến) vào tánh không.


cho quý vị có thấu triệt được những gì vừa trình bày hay không, và dù cho quý vị
có đem những thứ ấy ra để luyện tập hay không, thì đấy cũng là chuyện của quý vị.
Bổn phận của tôi là giải thích mọi sự vật đúng là như thế, còn về sự hiểu biết
và lĩnh hội, cũng như việc luyện tập thì đấy là trọng trách của từng quý vị.

Hôm
nay tôi xin chấm dứt ở đây.

Bures-Sur-Yvette, 31.08.12

Hoang Phong chuyển ngữ

(SÁCH CÙNG TÁC GỈA / DỊCH GIẢ)

e&